Nguyễn Bỉnh Khiêm- Vầng mây trắng thanh cao
Nguyễn bỉnh Khiêm chào đời vào những năm thịnh đạt cuối cùng của
triều Vua Lê Thánh Tông. Sau đó là thời suy sụp của nhà Hậu Lê, với
những vị vua yếu đuối ăn chơi, hoặc bất tài, hung bạo. Trong triều,
quyền lực đã lần lượt rơi vào tay các dũng tướng như Trịnh duy Sản,
Trịnh Tuy, Trần Chân, Nguyễn Hoằng Du Ngoài xã hội thì giặc giã nổi
lên, dân chúng khổ sở, lầm than. Cho tới năm 1527, Mạc đặng Dung đã
thanh toán hầu hết các thế lực bên ngoài, ép Vua Lê nhường ngôi, lập ra
triều đại mới: nhà Mạc.
Người đời thường biết đến Nguyễn Bỉnh Khiêm dưới danh hiệu Trạng Trình
(1), có những bài "sấm" trứ danh đoán những việc xảy ra tới hằng trăm
năm sau khi ông mất, hoặc là một nhà thơ ẩn dật cầu nhàn sau khi chán
nản trước công danh. Tuy là một người tinh thông dịch số, nhưng Bạch
Vân cư sĩ (Người ẩn sĩ ở am Mây Trắng) không phải chỉ là một tiên tri
như nhiều người lầm tưởng, ông cũng chẳng phải là một người bi quan
hưởng nhàn của Đạo gia. Thực ra, ông là một kẻ sĩ với lòng yêu nước
thương nòi, cả đời bận tâm đến sự an nguy hạnh phúc của dân hơn cả
chính bản thân. Nơi ông, văn cũng như người, đã biểu lộ một tâm hồn
trong sáng thanh cao, với đạo lý rạng ngời của Nho gia kết hợp cùng vẻ
đẹp của truyền thống Việt. Qua cuộc đời và tác phẩm, chúng ta cùng tìm
hiểu một con người mà "bóng mát đạo đức" đã trùm lên gần cả 1 thế kỷ
đau thương của quê hương và dân tộc: Thời Nam Bắc triều, sẽ mở màn cho
cuộc Trịnh Nguyễn phân tranh.
I. ƯỚC MỘT TÔI HIỀN, CHÚA THÁNH MINH (2)
Nguyễn bỉnh Khiêm chào đời vào những năm thịnh đạt cuối cùng của
triều Vua Lê Thánh Tông. Sau đó là thời suy sụp của nhà Hậu Lê, với
những vị vua yếu đuối ăn chơi, hoặc bất tài, hung bạo. Trong triều,
quyền lực đã lần lượt rơi vào tay các dũng tướng như Trịnh duy Sản,
Trịnh Tuy, Trần Chân, Nguyễn Hoằng Du Ngoài xã hội thì giặc giã nổi
lên, dân chúng khổ sở, lầm than. Cho tới năm 1527, Mạc đặng Dung đã
thanh toán hầu hết các thế lực bên ngoài, ép Vua Lê nhường ngôi, lập ra
triều đại mới: nhà Mạc.
Kẻ sĩ Nguyễn Bỉnh Khiêm đã chào đời và lớn lên trong hoàn cảnh đó.
Năm 1534, ông ứng thi và đậu giải nguyên dưới triều vị vua xuất sắc
nhất của nhà Mạc: Mạc đặng Doanh. Những người không hiểu rõ chữ Trung
của Nho giáo, câu nệ theo học thuyết Tống Nho của Trình, Chu (3); đã
cho rằng việc ông phò nhà Mạc là một lầm lẫn: vì họ Mạc là phản thần
tiếm vị vua Lê, phò tá kẻ "soán ngụy" thì còn đâu là trung nghĩa ? Nhất
là khi ông là người tinh thông lý số, biết luật thiên địa tuần hoàn và
mệnh Trời sẽ trở lại với nhà Lê, sao vì chút công danh mà không giữ
tròn tiết tháo ?
Thật ra quan niệm "Tôi trung không thờ hai chủ" bắt ngờ uồn từ học
thuyết Tống Nho nghiệt ngã, đã được các vua Chúa của ta vào thời Lê
Nguyễn ca ngợi, tiếng là để giữ vững đạo lý kỷ cương, nhưng thực ra là
để củng cố ngôi vị của mình và của dòng họ. Phù trợ một dòng họ chính
thống để dân chúng chịu khổ vì sưu cao thuế nặng, đất nước loạn ly vì
binh đao giặc cướp. Hay làm l cuộc đổi đời như Hồ quý Ly đời Trần, Mạc
đặng Dung đời Hậu Lê, hầu đem lại thái bình, no ấm cho dân ? Chữ
"Trung", nếu hiểu theo đúng nghĩa của Khổng học lúc ban đầu, hẳn phải
trở về với thuyết "Chính Danh" của Khổng Tử, để các tầng lớp xã hội
được" định phận". Áp dụng vào cuộc đời của Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng vậy,
ông thật có lý lúc ra giúp nước khi gặp vua hiền, hơn là vào Nam theo
mấy ông tướng như Trịnh Duy Sản, Nguyễn Hoằng Dụ để phò Vua Lê trên
hư
vị, sau đó là tranh chấp quyền hành. Hơn nữa, nào ông đã nhận gì bỗng
lộc của nhà Lê mà bắt ông phải trung trinh giữ tròn tiết tháo ? Vả lại,
ông là người đã quan sát thời cuộc và suy nghĩ kỹ càng trước khi dấn
thân vào hoạn lộ. Oâng đã bỏ qua sáu khoa thi thời nhà Lê suy đồi (18
năm). Sau này, dù nhà Mạc đã có những cải cách quan trọng lúc ban đầu,
nhưng ông cũng bỏ thêm 2 khoa thi nữa để chờ đợi và suy nghĩ, 6 năm là
1 thời gian dài để những người lên án ông là bộp chộp hoặc say "mộng
công hầu", phải làm thinh. Chúng ta cùng giở lại "Đại Việt Sử Ký" của
nhà Lê, tuy đối địch với nhà Mạc, nhưng cũng thành tâm ca ngợi những
năm thịnh trị của thời Đại Chính (4): "Nhà Mạc xuống lệnh cấm các xứ
trong ngoài dân chúng không được cầm giáo mác, dao nhọn, binh khí đi
đường, ai trái lệnh thì bị bắt. Từ đó kẻ buôn bán hành nhân đều đi lại
tay không. Đêm không trộm cướp. Người ta đuổi trâu bò ra đồng chẳng cần
lùa về, 1 tháng kiểm điểm 1 lần, có khi đẻ con ra thêm thì chẳng biết
súc vật nhà nào nữa. Trong mười năm liền đi đường không lượm đồ rơi,
cửa ngoài không cần đóng kín" (5) Đủ thấy sự hợp lý của Nguyễn bỉnh
Khiêm khi ra hợp tác với Tân triều. "Ước một tôi hiền Chúa thánh minh",
tưởng như rồng đã gặp mây, hoạn lộ thênh thang, ông dấn thân vào triều
đình để giúp dân giúp nước.
II. CÔNG DANH HAI CHỮ ĐÃ NHƯỜNG NGƯỜI
Năm Đại Chính thứ sáu, ông đỗ trạng nguyên và được bổ làm Đông Các
hiệu thư, chuyên soạn thảo, sửa chữa các văn thư triều đình. Ông đã
sung sướng khi thấy vua nghe lời mình và các quan đồng liêu, sửa lại
Quốc tử Giám và nhà Thái Học, củng cố việc học, ban hành giáo hoá; nhất
là chấn chỉnh nhân tâm và đào tạo hiền tài, đó là cái gốc của quốc gia
trong mọi thời đại. Dần dần, ông được bổ vào chức Hình Bộ Tả Thị Lang
coi về hình luật; Ở đây, ông bắt đầu vấp phải những tranh danh đoạt lợi
của người đời, không được hoàn toàn hành xử theo phép nước cho ích quốc
lợi dân. Thấy vậy, nhà Vua đưa ông sang làm Lại Bộ Tả Thị Lang, đây là
nơi bổ nhiệm các quan lại, một chỗ ngồi béo bở cho những người kiếm lợi
lộc, nhưng cũng là nơi làm đau lòng những con người chân chính đầy
trách nhiệm nhưng lại không đủ quyền hành như ông. Đang lúc đó, thì Vua
Mạc đặng Doanh lại qua đời khi tuổi vừa 41 (năm 1540), người "tôi
trung" thật bàng hoàng khi mất chỗ dựa để thực thi hoài bão của mình.
Năm sau, tới lượt Thượng hoàng Mạc đặng Dung cũng lìa cõi thế. Mạc phúc
Hải lên ngôi, lại rơi vào vết xe của triều đại cũ: bất tài, nhu nhược,
trọng đãi gian thần. Triều Mạc bắt đầu có dấu hiệu suy vong.
Ở đây, chúng ta thấy tâm trạng day dứt của Nguyễn bỉnh Khiêm. Một
đàng "Nghĩa cả luống quên ơn Chúa cũ", muốn ở lại triều đình để giúp
dân giúp nước; đàng khác lại bất lực trước bè lũ gian thần,"Thề xưa nỡ
phụ nước non xanh",không làm được gì để "tế thế an dân". Ông muốn về
quy ẩn để lòng không vướng bợn nhơ, giáo hoá dân chúng, nêu cao đạo lý
thánh hiền. Trách ông không làm được gì khi còn tại vị ư ? Thật ra
trong suốt 8 năm làm quan,ông chưa bao giờ có đủ thực quyền để làm 1
việc gì to lớn cả, chức Tả Bộ Lại Thị Lang chỉ là phụ tá cho 1 Thượng
Thư đứng đầu 1 bộ. Nếu là người an phận cầu nhàn, thì ông đã "mũ ni che
tai", mượn câu "minh triết bảo thân" để yên lặng hưởng nhàn; nhưng như
thế thì còn gì là khí tiết của Nho gia,còn gì là trách nhiệm của sĩ phu
vì dân vì nước. Và ông đã can đảm viết sớ tâu Vua xin chém đầu 18 nịnh
thần. Tuy trọng nể ông là người ngay thẳng, nhưng Vua không nghe, vì
những người ông đòi chém là những sủng thần trong triều. Thế là:
Quân tử ngẫm xem nơi xuất xứ
Aét là khôn hết cả hoà hai.
Khi Xuất (ở triều đình) thì ông lập công danh, lo việc chính sự.
Khi Xử (về ở ẩn) thì giữ tròn khí tiết, làm việc nghĩa cho đời, không
lo lắng bon chen, lấy thiên nhiên làm bạn, dân chúng làm người thân, an
vui trong hiện tại. Khi làm quan cũng như làm dân, ông luôn có tư cách
trong sạch, thái độ phân minh, luôn lo lắng cho đời và cho người.
III. HÃY ĐEM BÓNG MÁT CHE DÂN CHÚNG
Về quê, ông đã nghĩ ngay đến dân làng: dân là "gốc" của quốc gia,
phải làm cho gốc ấy được luôn vững bền. Ông đã lập ta "Trung Tân Quán"
để dạy dỗ dân, và dựng Am Bạch Vân làm nơi ở, cũng là nơi sáng tác
những bài thơ giáo huấn, răn đời. Tuy vui thú với "Một mai, một cuốc,
một cần câu", "thản nhiên vô sự lòng không vướng", nhưng lại "Tân Quán
ngày đêm mở cửa hoài" để sống gần và sống có ích cho dân. Những người
mà càng gần gũi thì ông càng yêu mến; vì ông đã thấy rõ rằng: những
tranh giành danh lợi, suy đồi phong hoá, chỉ có ở tầng lớp quan quyền
giàu có, còn đa số dân chúng thì vẫn sống lành mạnh với truyền thống
tốt đẹp của dân tộc. Tuy nhiên, ông vẫn khuyên dân đừng bắt chước những
người quyền thế, không biết nghĩa nhân, chỉ ưa điều lợi, là điều dễ đưa
đến sự hỗn loạn. Ông giảng dạy, làm thơ, nói về đạo lý, mà chính là
phản đối những phe phái đang tranh giành lợi lộc trong triều, đưa quốc
gia đến suy vong. Điểm đặc sắc của Nguyễn Bỉnh Khiêm là những bài thơ
về nhân tình thế thái, đề cao đạo lý Thánh hiền, có tính giáo huấn rất
cao:
Ông khuyên con người, dù giàu dù nghèo, nên sống khiêm tốn:
Dầu sang trọng, cũng do Trời
Ta có chi, kiêu với ai ?
Đừng quá quan trọng cái được cái mất ở đời:
Có chẳng giữ giàng, không chẳng lụy
Được không háo hức, mất không lo
Và cũng không nên quá tham lam
Đủ no hay vậy, xin thong thả
Sục sạo làm chi, luống nhọc nhằn
Nếu đã tham hơn thì phải thiệt
Hãy ghi lời ấy để mà răn.
Trong xã hội, người mua kẻ bán, người giàu kẻ nghèo, nên nương nhau mà
sống:
Kẻ khó thường làm ích kẻ giầu
Ở thì phải gẫm, biết nhường nhau
Bán kia chẳn nỡ mua cho rẻ
Vay nọ, xin đừng lấy lãi đau
Hàng xóm láng giềng, nên ở với nhau cho thân thiện, đạo nghĩa:
Hào hoa tụ hội, nhà liền vách
Nhân hậu theo lề tục tốt lành
Nhờ vậy, sẽ có được tình xóm làng đẹp đẽ:
Chọn được lòng nhân tình đẹp tốt
Hướng về xóm đức cảnh vui vầy
Hằng năm bô lão vui hương ẩm
Cười nói tình quê, tay nắm tay
Ngoài xã hội đã vậy, trong gia đình thì phải kính trên nhường dưới,
mới mong có được cuộc sống hạnh phúc vui tươi. Đối với cha mẹ thì:
Hay khi ấm mát, trọn cung dưỡng
Siêng năng sớm tối, việc hỏi han
Dẫu có giận hờn, càng kính thuận
Vâng lời sai khiến, dám phàn nàn
Và nàng dâu thì phải
Yêu nể, càng giữ gìn lễ phép
Bị giận hờn, cũng chớ thẫn thờ
Về phần cha mẹ nên
Quét cửa Nho, chờ khách đến
Trồng cây đức, để con ăn
Còn anh em thì phải nhường nhịn nhau
Chân tay gẫm lại, ai hơn nữa
Tranh cạnh làm chi, lỗi phép nhà
Chồng đối với vợ thì
Lỗi nhỏ, thứ cho đừng nên giận
Tình thân, nghĩ đến cũng nên thương
Ngay với đầy tớ, ông cũng có lời khuyên
Đạo làm đầy tớ, ở cho ngay
Mấy tơ hào cũng chẳng riêng tây
Tóm lại, trên cũng như dưới, trong gia đình cũng như ngoài xã hội, mỗi
người phải giữ danh phận của mình:
Tôi hết lòng chầu chực Chúa
Con hằng thảo, kính thờ cha
Anh em chớ nỡ điều hơn thiệt
Bầu bạn cho hay nết thực thà.
IV. THIÊN HẠ CHẲNG TƯ, ẤY CỦA CHUNG
Một điểm son trong cuộc đời của Trạng Trình, là nghĩ tới tiền đồ
đất nước khi đào tại 1 thế hệ tương lai. Học trò của ông là những văn
thần võ tướng nổi tiếng thời bấy giờ: Trạng nguyên Giáp Hải, trạng Bùng
Phùng khắc Khoan, danh tướng Nguyễn Quyện, rồi Lương hữu Khánh,
Nguyễn
Dữ, Đinh thì Trung. Và ở đây, khi đào tạo nhân tài cho đất nước, chúng
ta thấy "cái hay" trong sự giáo dục của Nguyễn bỉnh Khiêm: Tuy ông làm
quan với nhà Mạc, nhưng Phùng khắc Khoan và Lương hữu Khánh thì vào
Nam
theo vua Lê, Nguyễn Dữ lại ở ẩn như thầy và viết ra bộ "Truyền kỳ mạn
lục" nổi tiếng. Đành rằng ông là người thầy luôn tôn trọng chí hướng
của học trò, nhưng ông còn có cái nhìn xa và rộng của 1 người yêu dân
yêu nước, đôi khi vượt trên cả cái nhìn của Nho gia.
Theo Nguyễn bỉnh Khiêm, sự loạn lạc binh đao đã làm cho dân chúng
khổ sở lầm than, nhà tan cửa nát. Những cảnh vợ xa chồng, con mất cha,
với "núi xương sông máu", chắc đã tạo nhiều ấn tượng và suy nghĩ nơi
tâm hồn nhạy cảm của ông, từ đó phát sinh một quan niệm quốc gia chân
chính: đất nước không là của riêng ai, hay của một dòng họ nào, mà là
của toàn dân. Tại sao cứ phải hẹp hòi với những chữ "trung quân",
"chính thống", để gây cảnh "binh đao đầy mắt khổ chưa thôi" cho dân
chúng. Đã đành rằng "Sự thế cuộc cờ đâu miễn được", nhưng rõ ràng như
ông thấy" lòng người: sông biển cạn mà sâu", chiến tranh trước tiên bắt
ngờ uồn ở tự lòng người, những người muốn ngôi cao quyền trọng. Chính
vì vậy, ông đã để cho các học trò của mình tự do tìm chí hướng: phù trợ
"nhà" nào cũng được, miễn là ích quốc lợi dân, dùng tài kinh bang tế
thế mà đem thái bình thịnh vượng cho trăm họ. Điều chính yếu là dân,
như Mạnh Tử nói: "Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh" (6). Đó là
đạo lý thánh hiền và cũng là nguyên tắc xử thế cho những người vì dân
vì nước. Ngay bản thân ông, tuy đã từng làm quan với nhà Mạc, nhưng
Chúa Trịnh và Chúa Nguyễn cũng cho người đến hỏi ý kiến ông những
chuyện quan trọng (xem phụ lục). Có thể ông là người tinh thông dịch số
biết chút ít về hậu vận mai sau, nhưng cũng có thể ông là người giỏi
tiên đoán thời cuộc dựa vào những biến cố, và nhất là dựa vào tình yêu
nước thương nòi. Câu nói "Giữ chùa thờ Phật thì ăn xôi ăn oản" với
Trịnh Kiểm, phải chăng phát xuất từ quan niệm hiếu trung của Nho giáo,
và muốn tránh cho nước nhà khỏi thêm nạn binh đao, vì giả như Trịnh
Kiểm lật vua Lê để chiếm ngôi thì biết đâu lại có "những Trịnh Kiểm"
khác sẽ phò vua Lê mà chống lại, tạo thêm hỗn loạn cho nước, đau khổ
cho dân ? Còn câu khuyên nhủ Nguyễn Hoàng vào Nam dung thân, biết đâu
cũng phát sinh từ quan niệm vì dân vì nước: đất Thuận Hoá cùng phương
Nam bao la nghìn dặm, sao không đưa dân vào khai khẩn, tạo cuộc sống an
lành, mở mang bờ cõi; lại cứ tranh giành miền đất Thanh Nghệ và Bắc hà
với Vua Mạc, Vua Lê ? Gây cảnh "nồi da xáo thịt" cho quê hương, trong
nhà lại mang tiếng anh em bất nghĩa! "Một lời yên ba họ, sau trước việc
đều thông", lời ca ngợi của La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp (đời Vua Quang
Trung ) cả trăm năm sau còn cho thấy tấm lòng của 1 người muốn đất nước
khỏi binh đao, dân được sống ấm no, thanh bình. Ông chẳng ngại dư luận
người đời, góp ý cho Mạc, Trịnh, Nguyễn, "nhà" nào cũng được, vì ông
không nghĩ tới ngôi nhà của 1 dòng họ, mà là cả" ngôi nhà" tổ quốc,
trong đó dân tộc Việt nam được cư ngụ thanh bình
Bốn biển vui theo người đạo đức
Khắp nơi lại thấy cảnh thanh bình
Xưa nay nhân giả là vô địch
Lọ phải khư khư thích chiến tranh.
V. VẰNG VẶC SOI ĐƯỜNG, BẮC ĐẨU KIA
Là 1 con người quang minh lỗi lạc: khi gặp Minh Quân thì ra cứu
nước an dân, khi hoàn cảnh không cho phép thì lui về ẩn dật giúp đời; ở
triều đình can đảm nói lời trung thực, không kể an nguy bản thân, về
quê thì dạy dỗ dân lành, nêu gương đạo đức; làm quan hay dân, giàu hay
nghèo, vẫn 1 lòng thanh thản, an bình. Sở dĩ được như vậy, là vì Nguyễn
bỉnh Khiêm đã thấm nhuần tư tưởng Nho giáo, đã nghiền ngẫm và hoà nhập
tư tưởng đó với truyền thống Việt, 1 truyền thống chuộng hoà bình, yêu
lễ nghĩa, trọng điều phải, thương đồng bào. Nhờ đó, ông có thể đứng
vững trước sóng gió thời cuộc; được dân chúng, và Vua Chúa quan quyền
kính trọng yêu thương. Đến nỗi khi ông mất, Vua nhà Mạc đã cho lập Từ
đường để thờ và đích tay viết hoành phi trước cổng: "Mạc Triều Trạng
Nguyên Tể Tướng Từ", dù trong cuộc đời, ông chưa bao giờ làm tể tướng.
Đối với ông, "đạo chẳng ngoài thân", "đạo chẳng xa người", nó nằm
ngay ở chữ "Nhân". Trước tiên, con người phải biết sông nhân ái với
chính mình: tu thân tích đức, giữ mình trong điều thiện. "Tu thân, tề
gia, trị quốc, bình thiên hạ", là trật tự mà kẻ sĩ cần phải theo, trong
đó "tu thân" đứng hàng đầu. Còn việc giúp người, giúp đời, thì tuy rằng
thế thái nhân tình "nhạt như nước ốc bạc như vôi", nhưng kẻ sĩ nếu có
lòng nhân ái thì sẽ sống gần gũi yêu thương mọi người, sẽ vượt trên
vinh hoa phú quý để có thể sống "an bần lạc đạo", sẽ không coi trọng
lợi lộc để yêu điều nhân nghĩa, sẽ không câu nệ tiểu tiết để luôn sống
phóng khoáng, có thể hi sinh danh dự cá nhân để vì "đại nghĩa diệt
thân".
Nguyễn bỉnh Khiêm mãi mãi thanh khiết như "Vầng mây trắng", nhưng
lại không ở trên cao xa xôi, mà lại luôn gần gũi bao bọc dân chúng, yêu
mến quê hương. Dù ngay trong thời gian ở ẩn, "sống thung dung ưu nhàn
trên 40 năm, mà tâm địa chưa từng ngày nào quên đời, lòng lo đời và
thương người thế tục thể hiện ra văn thơ". Ông vẫn lo duy trì đạo đức
cho dân, và đào tạo cho đất nước 1 thế hệ tương lai ưu tú. Quả thật Ông
là 1 người "công tuy không trùm thiên hạ nhưng đức có thể sánh với
trăng sao". Chúng ta có thể dùng chính câu thơ của ông để nói về ông
rằng:
Chon von đức trọng lâu dài mãi
Vằng vặc soi đường, Bắc Đẩu kia.
"Đạo của thánh nhân từ tiên sinh mà truyền ra, bờ cõi thánh nhân
duy tiên sinh là thấu đáo", lời văn bi thiết của học trò Đinh thì Trung
trong đám tang của ông đã nói lên sự trân trọng đối với 1 bậc thầy,
không chỉ là của đám môn sinh thời bấy giờ hay của dân làng Trung Am,
nhưng còn là bậc thầy của mai sau trong đường xử thế. Và ông sẽ mãi mãi
là tấm gương trung hậu cho những ai yêu mến quê hương, dân tộc Việt
Nam.