Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

Lí thuyết trò chơi Maurice Allais ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (214.45 KB, 14 trang )

Lí thuyết trò chơi
Maurice Allais (1988) Năm 1943, trong thời kỳ đen tối dưới sự
chiếm đóng của phát xít Đức, một công trình xuất sắc trong lĩnh
vực lý thuyết kinh tế đã được xuất bản tại nước Pháp. Tiêu đề
của công trình này là Tìm hiểu về một trường phái kinh tế và tác
giả là một kỹ sư 32 tuổi, Maurice Allais, tốt nghiệp Trường Đại
học Bách khoa và Trường Đại học Mỏ, tiến sĩ - kỹ sư khoa học
Trường Đại học Tổng hợp Paris 1949; tiến sĩ danh dự Trường
Đại học Tổng hợp Groningen 1964.

Maurice Felix Charles Allais , sinh tại Paris, ngày 31 tháng 5 năm
1911. Ông là giáo sư kinh tế học tại Trường Ecđại học Mỏ Paris
từ năm 1944; Giám đốc Trung tâm Phân tích kinh tế từ năm 1946
(Trung tâm Nghiên cứu khoa học quốc gia và Trường Đại học M
Paris); kỹ sư trưởng danh dự của Tổng Công ty Mỏ quốc gia.

Ngoài ra, ông đã từng là Giám đốc Cơ quan dịch vụ về mỏ tại
Nantes và phụ trách kiểm soát đường sắt, (1937 – 1943); thiếu úy
(pháo binh), Quân đội Pháp tại Anpơ, tháng 9 năm 1939 đến
tháng 7 năm 1940; giám đốc Cục Tư liệu và Thống kê mỏ, Paris,
1943 – 1948; Giám đốc ban nghiên cứu, Trung tâm Nghiên cứu
khoa học quốc gia 1946 – 1980; giáo sư kinh tế học lý thuyết tại
Viện Thống kê Trường Đại học Tổng hợp Paris 1947 – 1968;
giám đốc Nhóm Nghiên cứu kinh tế và xã hội, Paris 1944 – 1970;
giáo sư thỉnh giảng cao cấp, Trung tâm Thomas Jefferson
Trường Đại học Tổng hợp Virginia, 1958 – 1959; giáo sư kinh tế
Viện Sau Đại học về Nghiên cứu quốc tế, Geneva, 1967 – 1970;
giám đốc các cuộc hội thảo phân tích tiền tệ tại Trường Đại học
Tổng hợp Paris-X, 1970 – 1985; là Ủy viên Ủy ban quốc gia thuộc
Trung tâm Nghiên cứu khoa học quốc gia. 1947 – 1980; thành
viên Tiểu ban Năng lượng của Hội đồng Kinh tế và Xã hội Pháp,


1960 – 1961; chủ tịch Tiểu ban các chuyên gia về nghiên cứu các
giải pháp về chính sách cước phí giao thông,Cộng đồng Kinh tế
châu âu, 1963 – 1964.

Ông là thành viên của nhiều hiệp hội khoa học như Hội viên Hội
Kinh tế lượng quốc tế, 1949; thành viên Viện Thống kê quốc tế,
1951; thành viên Ban Biên tập Tạp chí Chính sách kinh tế (Revue
d’Economie Politique), 1952 – 1984; thành viên Học viện Khoa
học New York, 1966; hội viên Hội Vận trù học Hoa kỳ, 1958;
thành viên Ban Biên tập Tạp chí quốc tế Econometrica (cùng với
Ragnar Frisch, Milton Friedman, Tjalling Koopmans, Wassily
Leontief và Richard Stone), 1959 – 1969; ủy viên Hội đồng Hội
Kinh tế lượng, 1960-1965; chủ tịch Hiệp hội khoa học kinh tế
Pháp, tháng 7 năm 1972,(từ chức tháng 10 năm 1972 vì lý do
sức khỏe); thành viên danh dự Hiệp hội Kinh tế Hoa kỳ, 1976.

Nhờ công lao đóng góp, ông đã đạt nhiều giải thưởng khoa học
như giải Laplace năm 1933 và giải thưởng Rivot năm 1933 của
Học viện Khoa học vì tốt nghiệp thủ khoa Trường Đại học Bách
khoa; giải thưởng Charles Dupin năm 1954 của Viện Nghiên cứu
Đạo đức và Chính trị cho cuốn sách Tìm hiểu một trường phái
kinh tế năm 1943; giải thưởng Lanchester năm 1958 của trường
Đại học John Hopkins và Hội Vận trù học Hoa kỳ cho các công
trình xuất sắc về vận trù học xuất bản năm 1957, Phương pháp
đánh giá triển vọng kinh tế khai mỏ trong phạm vi vùng rộng lớn
trường hợp Sahara – Agerie; giải thưởng Joseph Duntens 1959,
Viện Nghiên cứu Đạo đức và Chính trị cho công trình Điều hành
mỏ than quốc hữu hóa và học thuyết kinh tế, năm 1953; giải
thưởng Galabert năm 1959 của Hội Vũ trụ học Pháp dành cho
nghiên cứu về lực hấp dẫn và chuyển động của con lắc

Paraconical; giải thưởng lớn cuẩ Cộng đồng Đại Tây Dương ( la
Commumaute Atlantique) năm 1960 cho cuốn sách “Liên minh
châu âu và con đường thịnh vượng”, năm 1959; giải thưởng lớn
Andre Arnoux năm 1968 của Hiệp hội Tự do kinh tế và phát triển
xã hội cho các công trình nghiên cứu của ông; Huy chương vàng
năm 1970 của Trung tâm Nghiên cứu khoa học quốc gia cho các
công trình nghiên cứu của ông; Giải thưởng Robert Blanche năm
1983 của Viện Nghiên cứu Đạo đức và Chính trị cho ký sự “Thói
quen, khả năng và vận hội”, 1982; giải thưởng lớn Zerilli Marimo
năm 1984 của Viện Nghiên cứu Đạo đức và Chính trị; giải thưởng
đặc biệt “Prix Dupuit – de – Leseps, 1987” cho các công trình
nghiên cứu kinh tế kết cấu hạ tầng.

Năm 1988, ông nhận được giải thưởng Nobel kinh tế học về
những đóng góp trong lý thuyết thị trường và phân bổ có hiệu quả
nguồn lực.

Sau khi tốt nghiệp và sau một thời gian ngắn phục vụ quân đội,
Maurice Allais được đề bạt vào vị trí quản lý hành chính vùng đối
với các doanh nghiệp nhà nước tại Nantes. Song song với công
việc hành chính, ông đã bắt đầu nghiên cứu các lý thuyết kinh tế
với mục đích sử dụng lý thuyết này để làm tăng hiệu quả kinh tế.

Tuy nhiên, là một kỹ sư và là một nhà khoa học, ông cảm thấy
không thõa mãn với các lý thuyết ông đã và đang nghiên cứu. Về
nguyên tắc, lý thuyết kinh tế cần được xây dựng một cách chặt
chẽ trên cơ sở các mô hình toán học toán học như trong các
ngành khoa học tự nhiên. Sự chặt chẽ đó sẽ làm cho việc tiến
hành các phép đo thực nghiệm và thống kê thêm ý nghĩa. Người
kỹ sư trẻ đó đã hạ quyết tâm tiến hành một chương trình nghiên

cứu đầy tham vọng. Đó chính là điểm khởi đầu của một sự
nghiệp nghiên cứu suốt đời – và sự nghiệp đó vẫn đang tiếp tục –
một lao động nghiên cứu đem lại nhiều kết quả quan trọng và độc
đáo.

Điểm xuất phát của Allais là một cảm giác trực quan quan trọng
về cách thức hoạt động của thị trường, mà nguyên thủy là do
Adam Smiths nêu lên trong cuốn "Của cải của các dân tộc" vào
năm 1776. Theo Smith, việc người tiêu dùng và các hãng hành
động theo lợi ích của riêng họ không có gì mâu thuẫn với nhau,
và tất cả các quyết định kinh tế đều được phối hợp lại. Một bàn
tay vô hình sẽ tạo ra điểm cân bằng thông qua các công cụ của
một hệ thống giá vận hành hoàn hảo. Một thế kỷ sau, trực giác
của Smith vốn trước đây được trình bày bằng ngôn ngữ văn
chương, nay được xây dựng lại bằng ngon ngữ toán học do công
của một nhà kinh tế học người Pháp là Leon Walras. Ông đã
miêu tả hệ thống thị trường như một hệ thống phương trình khác
nhau miêu tả cung và cầu cho từng loại hàng hóa. Đáp số của hệ
phương trình này có thể được giải thích như là một tập hợp các
mức giá cân bằng. Công trình của Leon Walras sau đó được nhà
kinh tế học người Italy là Vilfredo Pareto kế thừa. Tuy nhiên,
Allais còn chịu ảnh hưởng rất lớn như từ các nhà kinh tế học vĩ
đại người Pháp như Augustin Cournot và Jules Dupuit. Ngay từ
giữa thế kỷ XIX, Dupuit đã phát triển một lý thuyết về định giá và
đầu tư trong các doanh nghiệp công có hiệu suất theo quy mô.

Các công trình nghiên cứu trước đó của Allais đã cống hiến rất
nhiều cho lĩnh vực nghiên cứu kinh tế cơ bản và lý thuyết. Hệ
thống thị trường là một phần không thể tách rời của tất cả các
nền kinh tế phát triển cao, trong khi tại nhiều quốc gia khác vẫn

còn diễn ra cuộc tranh luận về việc lựa chọn hệ thống kinh tế.
Bằng việc xây dựng nên những mô hình toán học chặt chẽ, có
thể khảo sát các điều kiện theo đó một nền kinh tế đạt được hiệu
quả xã hội, cân bằng và ổn định với các quyết định phi tập trung
do những người tiêu dùng và các nhà sản xuất độc lập đưa ra.
Không phải ngẫu nhiên mà trong nhiều thập kỷ qua, rất nhiều giải
thưởng về khoa học kinh tế đã được trao cho các nhà nghiên cứu
tiên phong trong lĩnh vực nghiên cứu cơ bản này.

Một điều thú vị khác cần thấy rõ là khoa học kinh tế chưa từng
tạo ra được một mô hình toán học rành mạch và chặt chẽ cho bất
cứ một loại hệ thống kinh tế nào. Tuy nhiên, trường phái toán học
trong nghiên cứu này cần phải được bổ sung bằng các cách phân
tích khác như nghiên cứu kinh tế so sánh hoặc thực nghiệm, mà
các phương pháp này thùy thuộc vào hệ thống kinh tế khác nhau.
Một phương án khác là cách tiếp cận dựa trên lịch sử kinh tế và
tập trung vào sự xuất hiện của các thể chế quan trọng trong hệ
thống kinh tế thị trường, ví dụ như các tập đoàn công ty hiện đại
hay là các tổ chức của thị trường tài chính.

Cùng với một nghiên cứu chuyên sâu mới được xuất bản vào
năm 1947, nhan đề "Nền kinh tế

và lãi suất", các công trình của ông từ năm 1943 đã đưa ra được
một cách mô tả toán học hoàn chỉnh, chặt chẽ và khái quát về
nền kinh tế thị trường, hơn hẳn so với tất cả các công trình được
nhiều nhà kinh tế học xuất bản trước hoặc cùng thời gian đó,
ngoại trừ các công trình độc lập của nhà kinh tế học Anh, John
Hicks và của nhà kinh tế học Mỹ Paul Samuelson.


Trong các bài viết trước đó, Allais đã phát hiện nhiều kết quả
quan trọng, có ảnh hưởng rất lớn tới cái mà ngày nay là lý thuyết
kinh tế được đông đão mọi người chấp nhận. Một trong những
kết quả như thế, do Allais nêu lên, chặt chẽ hơn các phân tích
trước đó, là mỗi điểm cân bằng của thị trường đều đạt hiệu quả
xã hội theo nghĩa không ai có thể được lợi hơn mà không phải
làm cho ai đó bị thiệt đi. Thêm vào đó, bất cứ một giải pháp có
hiệu quả xã hội nào đều có thể đạt được như là một trạng thái
cân bằng thị trường thông qua việc phân phối lại các nguồn lực
ban đầu.

Một cống hiến khác của Allais là đã đưa khái niệm lợi suất theo
quy mô (return on scale), hay có thể giải thích như là đầu tư
vào hạ tầng cơ sở, vào mô hình cân bằng tổng quát. Ông cũng
đưa ra một công thức có thể dùng để nghiên cứu một nèn kinh tế
qua thời gian, và do đó có thể lồng ghép lý thuyết vốn và đầu tư
với lý thuyết cân bằng tổng thể. Các nghiên cứu của ông từ năm
1947 cũng là những cống hiến đi đầu cho lý thuyết tăng trưởng
kinh tế và lý thuyết về các thế hệ nối tiếp nhau.

Allais đã tiến hành từ rất sớm việc phân tích về các yếu tố quyết
định trên lý thuyết đối với cầu về tiền. Các phân tích này báo
trước sự ra đời của những lý thuyết do nhà kinh tế học Mỹ
William Baumol đưa ra. Tuy nhiên, Allais đã không giới hạn các
nghiên cứu của mình trong trạng thái cân bằng tĩnh; ông đã phân
tích về cách thức đạt tới trạng thái cân bằng thông qua một quá
trình định giá tương tự như một cuộc đấu giá, và đưa ra các điều
kiện để làm cho quá trình định giá này ổn định. Sau này, nhiều
vấn đề trong số các phát kiến này đã được các nhà kinh tế Anglo
– Saxon xuất bản.


Tuy các cống hiến của Allais đã không được các nhà kinh tế khác
bên ngoài nước Pháp biết đến ngay lập tức, nhưng ông đã có
ảnh hưởng đáng kể đến sự phát triển của nước Pháp. Trên thực
tế, có thể gọi là đã có một Trường phái Pháp, thành lập dựa trên
các phương pháp chặt chẽ của Allais và các yêu cầu về nghiên
cứu thực nghiệm của ông. Allais không chỉ duy trì mối liên hệ
khăng khít với các truyền thống lâu đời của nước Pháp, mà ông
còn là nhà kinh tế học có uy tín nhất trong lĩnh vực phát triển
nghiên cứu kinh tế tại Pháp sau chiến tranh.

Ngoài việc tiên phong trong lý thuyết về thị trường và sự phân bố
có hiệu quả các nguồn lực, Allais đã tiếp tục tiến hành các nghiên
cứu đặc sắc và cực kỳ độc đáo trong các lĩnh vực khác của khoa
học kinh tế. Thông qua các nghiên cứu lý thuyết và thực nghiệm
của ông trong việc xác định cầu về tiền, ông đã trở thành một nhà
khai phá tiên phong cho cái mà ngày nay có thể gọi là động thái
học tiền tệ vĩ mô.

Ngoài chuyên ngành kinh tế, Allais còn nghiên cứu về việc ra
quyết định trong điều kiện nhiều rủi ro và mọi người đều biết đến
với cái tên nghịch lý Allais. Ông đã dùng nghịch lý này để chứng
minh rằng, lý thuyết tối đa hóa độ thỏa dụng dự kiến được phát
triển bởi John von Neumann và Oscar Morgenstern, một lý thuyết
được các nhà kinh tế chấp nhận trong các năm qua, là mâu thuẫn
với các quan sát thực tế về hành vi của con người khi ra quyết
định quan trọng trong điều kiện nhiều rủi ro. Dựa trên các quan
sát này, Allais đã xây dựng nên một lý thuyết tổng quát hơn.

Allais đã có cố gắng tìm ra cách đi mới để mô tả đặc điểm cơ bản

của một nền kinh tế thị trường, hay đúng hơn là một nền kinh tế
đa thị trường, theo ngôn ngữ cuẩ ông, để nhấn mạnh tới tính chất
số nhiều. Động lực đứng đằng sau hành vi của người tiêu dùng
và người sản xuất trong các thị trường là nhằm tận dụng bất cứ
sự dư thừa nào có thể có, thông qua các cơ hội trao đổi mà vẫn
chauw được tận dụng triệt để. Sẽ không còn một trạng thái cân
bằng duy nhất và các trao đổi đưa đến trạng thái cân bằng sẽ kế
tiếp nhau diễn ra tại các mức giá khác nhau. Công trình chính của
ông trong lĩnh vực này là Lý thuyết thặng dư xuất bản vào năm
1981, dựa trên khái niệm thặng dư được nêu lên vào năm 1943.
Đây là một biểu hiện nữa của sự phong phú và độc đáo trong các
công trình ban đầu và các công trình đoạt giải của ông.

×