PHẦN 1
ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1 Giới thiệu
Sản lượng khai thác thuỷ sản trên thế giới đã và đang suy giảm (FAO,
2000 trích dẫn bởi Dương Nhựt Long, 2003), trong khi đó nhu cầu thực phẩm
ngày một gia tăng. Chính vì thế ngành nuôi thủy sản được quan tâm và phát
triển để đáp ứng phần nào nhu cầu của con người. Sản lượng nuôi thuỷ sản trên
thế giới đã gia tăng đáng kể khoảng 30,6 triệu tấn vào năm 2000, 37,8 triệu tấn
năm 2001, và 41,9 triệu tấn năm 2003 (Trần Ngọc Hải, 2006 trích dẫn bỡi Đoàn
Bá Nghiệp, 2008). Việt Nam là một nước có mạng lưới sông ngòi chằng chịt kéo
dài từ Lạng Sơn tới mũi Cà Mau, có tiềm năng lớn cho nuôi trồng thủy sản.
Thực tế cho thấy, nuôi thủy sản là một trong những ngành mũi nhọn của nước ta
nói chung và Đồng Bằng Sông Cửu Long nói riêng. Diện tích nuôi thủy sản
không ngừng gia tăng từ 626.500 ha năm 1998 lên 879500 ha năm 2001, năm
2002 là 955.101 ha. trong đó diện tích nuôi thủy sản nước ngọt là 335.900 ha
năm 1998 và năm 2001 là 408.700 ha, năm 2002 là 425.100 ha (Dương Nhựt
Long, 2003). Đồng Bằng Sông Cửu Long là vùng nuôi trồng thủy sản lớn nhất
cả nước, sản lượng thuỷ sản của vùng chiếm khoảng 50%, diện tích nuôi trồng
chiếm khoảng 60%, sản lượng nuôi trồng thủy sản chiếm khoảng 65% và giá trị
xuất khẩu thủy sản chiếm đến 51% của cả nước (Dương Nhựt Long, 2003). Năm
2003 kim ngạch xuất khẩu của ngành thủy sản đạt 2,24 tỷ USD (thời báo kinh
tế, 2004 trích dẫn bởi Dương Nhựt Long, 2005). Năm 2004, cả nước có 110.832
trang trại và năm 2005 tăng lên 119.586 trang trại. bên canh đó, diện tích nuôi
trồng thủy sản cũng tăng lên qua các năm, năm 2004 cả nước có 920.100 ha diện
tích mặt nước dùng cho nuôi trồng thủy sản, năm 2005 tăng lên 959.900 ha
(Niên giám thống kê, 2005, trích dẫn bởi Lê Văn Liêm, 2007).
Nuôi thủy sản đã góp phần phát triển kinh tế, tăng thu nhập cho người lao
động, ổn định an ninh xã hội thông qua việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật
nuôi và chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Trong những năm gần đây, nghề nuôi thuỷ sản đã được nhân rộng trong
các tỉnh Đồng Bằng Sông Cửu Long trong đó có tỉnh Hậu Giang, với nhiều đối
tượng nuôi như: cá tra, ba sa, lóc, rô đồng, sặc rằn, rô phi, cá trê vàng, trê lai,
tôm càng xanh, tôm sú, tôm thẻ… Được nuôi với nhiều hình thức khác nhau
như: nuôi trong ao đất, nuôi bè, nuôi kết hơp, nuôi trên ruộng lúa, nuôi trên bể…
Ở các mức độ khác nhau như: quảng canh, quảng canh cải tiến, bán thâm canh,
thâm canh…Trong đó có mô hình nuôi cá trê lai thâm canh trong ao đã và đang
được nhân rộng tại các tỉnh Đồng Bằng Sông Cửu Long. Trong đó, lợi ích từ mô
1
hình nuôi cá trê lai thâm canh rất lớn, gớp phần phát triển kinh tế, cải thiện đời
sống, thu nhập của người dân. Do đó, để tận dụng diện tích quanh nhà, những hộ
không có diện tích lớn, ít chi phí đầu tư cho đào ao nuôi cá trê và thời gian nông
nhàn, nên mô hình lót bạt nuôi thâm canh được đề xuất. Vì thế, đề tài “Thử
nghiệm nuôi cá trê lai (Clarias gariepinus x Clarias macrocephalus) thâm
canh trong bể lót bạt ở Hậu Giang” được thực hiện.
1.2 Mục tiêu đề tài
Thử nghiệm mô hình nuôi cá trê lai thâm canh trong bể lót bạt ở hai mật
độ thả nhằm tận dụng diện tích nhỏ của nông hộ, tận dụng lao động nhàn rỗi của
nông hộ để nuôi thủy sản và đánh giá hiệu quả kỹ thuật và kinh tế từ mô hình
này.
1.3 Nội dung đề tài
Theo dõi một số yếu tố môi trường nuôi cá trê lai trong bể lót bạt.
Theo dõi sinh trưởng và tỷ lệ sống của cá trê lai trong bể lót bạt ở các mật
độ khác nhau.
Phân tích hiệu quả kinh tế của mô hình nuôi ở hai mật độ khác nhau.
1.4 Thời gian thực hiện đề tài
Từ tháng 1/2009 đến tháng 6/2009.
2
PHẦN 2
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1 Tổng quan tình hình nghiên cứu
2.1.1 Đặc điểm sinh học
Cá trê thuộc họ Clariidae nằm trong bộ Siluriformes, là một trong những
bộ có số lượng phong phú chủ yếu sống ở nước ngọt. Họ Clariidae gồm nhiều
loài có giá trị kinh tế đang được nuôi ở nhiều nước trên thế giới như cá trê vàng,
trê phi, trê trắng… Cá trê lai là kết quả lai giống nhân tạo giữa cá đực châu Phi
(gọi tắt là cá trê phi: Clarias gariepinus, được nhập vào Việt Nam năm 1975) và
cá trê vàng cái (Clarias macrocephalus).
2.1.1.1 Vị trí phân loại và phân bố
Theo Trương Thủ Khoa và Trần Thị Thu Hương (2003). Định loại cá
nước ngọt ở vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long, 1993 - 2003 thì cá trê thuộc.
Bộ: Siluriformes
Họ: Clariidae
Giống: Clarias
Hình 2.1 Cá trê lai
Giống Clarias phân bố rất rộng, người ta đã tìm thấy chúng ở Bắc, Trung,
Nam Châu Phi, Mỹ, Âu và các nước Đông Nam Á. Chúng sống chủ yếu ở nước
ngọt có khả năng chịu đựng tốt với môi trường khắc nghiệt.
2.1.1.2 Hình dạng và tập tính sống
Cá trê vàng lai (Clarias gariepinus x Clarias macrocephalus) có ngoại
hình tương tự như cá trê vàng, da trơn nhẵn, đầu dẹp, thân hình trụ, dẹp phía
đuôi. Thân có màu vàng xám hoặc nâu vàng xám, phần bụng có màu vàng nhạt,
trên thân lốm đốm bông cẩm thạch và nhiều đốm trắng nhỏ theo chiều đứng
(thẳng gốc với thân cá). U lồi xương chẩm có hìmh gần tương tự như chữ M với
3
các cạnh tròn trong khi ở cá trê vàng là hình chữ V còn ở cá trê phi là chữ M rất
nhọn, rõ nét.
Cá trê là một loài sống đáy, các loài cá trê đều có tính chịu đựng cao với
môi trường khắc nghiệt, chúng có khả năng lấy oxy từ không khí nhờ cơ quan
hô hấp phụ hình hoa khế ở mang và ở da. Nên cá trê sống được môi trường chật
hẹp, có hàm lượng oxy thấp (1 – 2 mg/l). Chúng chịu được phạm vi nhiệt độ 11
đến 39
o
C, pH từ 3,5 đến 10,5 (Đoàn Khắc Độ, 2008).
2.1.1.3 Đặc điểm dinh dưỡng
Cá trê lai (Clarias gariepinus x Clarias macrocephalus) có tính ăn tương
tự như cá trê vàng, trê phi tức là ăn tạp thiên về thức ăn có nguồn gốc động vật.
Trong tự nhiên cá trê ăn côn trùng, giun, ốc, tôm, cua, cá… Ngoài ra trong điều
kiện ao nuôi cá trê còn có thể ăn các phụ phẩm từ trại chăn nuôi, trồng trọt, nhà
máy chế biến thuỷ sản, chất thải từ lò mỗ.
Giai đoạn cá con
Dinh dưỡng của cá trê thay đổi theo ngày tuổi và kích thước cơ thể. Giai
đoạn cá bột (1- 3 ngày tuổi) cá dinh dưỡng bằng noãn hoàng. Sau giai đoạn dinh
dưỡng bằng noãn hoàn cá bắt đầu ăn thức ăn bên ngoài. Giai đoạn này, cá ăn chủ
yếu là động vật cỡ nhỏ như trứng nước (Moina), Rotifera, giáp xác nhỏ,
Phytoplankton, ấu trùng muỗi… Sau vài ngày, cá có thể ăn được trùn chỉ. Khi
đạt kích cỡ từ 4 – 6 cm trở lên, cá ăn được thức ăn công nghiệp cỡ nhỏ và các
loại thức ăn chế biến, tôm nhỏ, tép, cá nhỏ và các phụ phế phẩm như đầu tôm,
đầu cá…
Giai đoạn trưởng thành
Cá trê là loài ăn tạp thiên về động vật, thức ăn của cá trê bao gồm thức ăn
có nguồn gốc đạm động vật như: cua, ốc, cá tạp, phụ phế phẩm từ các lò giết mổ
gia súc gia cầm… Thức ăn có nguồn gốc từ thực vật như: phụ phẩm nông
nghiệp, bã đậu, cám, gạo… Là loại thức ăn rẻ tiền, dễ kiếm, phù hợp với nuôi
theo qui mô gia đình ở nông thôn Việt Nam (Phạm Báu và ctv, 1994 trích từ Mã
Đình Thái, 2001).
Nhu cầu dinh dưỡng của cá trê cũng rất khác nhau tuỳ theo loài, tuỳ theo
giai đoạn phát triển của cơ thể. Nghiên cứu về nhu cầu Protein của cá trê tiền
trưởng thành cá có nhu cầu là 30 - 35% tối đa là 40% trong đó nhu cầu acid tự do
mà chủ yếu là Lysin là 2,08% và ở giai đoạn trưởng thành 2,8% (Balagun, 1994;
Aruna Chalam, 1994 trích dẫn bỡi Cao Châu Minh Thư, 1999).
2.1.1.4 Đặc điểm sinh trưởng
4
Cá trê phi là loài có tốc độ tăng trưởng nhanh, cá đực sau một năm tuổi
đạt 480 – 900 g/con, cá cái từ 378 – 762 g/con (trại thực nghiệm Thủ Đức trích
từ Mã Đình Thái, 2001), ở Đại Học Quân Y con đực 568 – 1220 g/con, con cái
550 – 930 g/con (Nguyễn Tuần và ctv, 1992 trích từ Mã Đình Thái, 2001). Một
tháng cá trê vàng có khả năng tăng trọng 8 – 8,3 g/con với mật độ nuôi 50
con/m
2
, sau một năm cá đạt 180 – 200 g/con (Phạm Cao Hoạt và Đặng Đình
Viên, 1969 trích Mã Đình Thái, 2001).
Sự tăng trưởng của cá trê vàng phụ thuộc vào rất nhiều vào mật độ thả và
loại thức ăn có hàm lượng dinh dưỡng khác nhau.
Giai đoạn từ 1 - 15 ngày tuổi, cho ăn bằng trùng chỉ, cá tăng trọng lượng
trung bình 36,85mg/ngày, thức ăn cám, bột cá tăng trọng lượng trung bình 22,3
mg/ngày (Mã Đình Thái, 2001)
Cá trê vàng lai thể hiện tính trạng trung gian về tốc độ tăng trưởng của hai
loài cá trê vàng thuần và trê phi thuần (Nguyễn Văn Kiểm. 2003). Vì thế cá trê
vàng lai lớn nhanh, nếu nuôi trong môi trường bằng các loại thức ăn rẻ tiền và
sẵn có tại địa phương sau 4 - 5 tháng nuôi cá có thể đạt 300 - 400 g/con (Dương
Nhựt Long. 2003).
2.1.1.5 Đặc điểm sinh sản
Mùa vụ sinh sản của cá trê bắt đầu vào mùa mưa từ tháng 4 - 9 như tập
trung chủ yếu vào tháng 5 – 7. Trong điều kiện nuôi cá có thể sinh sản nhiều lần
trong năm (4 – 6 lần). Nhiệt độ cho cá sinh sản từ 25 – 32
o
C. Sau khi cá sinh sản
xong ta nuôi vỗ tái phát dục khoảng 30 ngày thì cá có thể tham gia sinh sản trở
lại (Dương Nhựt Long, 2003).
2.1.2 Tình hình phát triển cá da trơn thế giới và trong nước
2.1.2.1 Thế giới
Nguồn lợi và sản phẩm thủy sản mang lại từ các hoạt động nuôi trồng,
bảo vệ và khai thác hợp lý từ con người đa đóng góp tích cực vào sự an toàn thực
phẩm cho con người trên khắp các châu lục. Tổng sản phảm thủy sản trên thế
giới năm 2001 ướt đạt 128,8 triệu tấn trong đó nuôi trồng là 37,5 triệu tấn. Năm
2002 tổng sản lượng thủy sản thế giới là 133 triệu tấn trong đó lượng nuôi trồng
là 51,4 triệu tấn (Lowther, 2004, trích bởi Lê Văn Liêm, 2007).
Trong số các loài cá nuôi nước ngọt và nước lợ trên thế giới, các loài cá
da trơn (tiếng Anh gọi chung là catfish) đứng thứ 5 về sản lượng hàng năm,
khoảng 350.000 tấn, với nhiều hình thức nuôi khác nhau như nuôi đơn, nuôi
ghép hoặc nuôi xen với trồng lúa và các vật nuôi khác. Mặc dù có tới hơn 2.600
loài cá da trơn nhưng chỉ có 3 họ hiện đang được nuôi với só lượng lớn, đó là họ
5
cá nheo Mỹ Ictaluridae, họ cá trê Clariidae và họ cá tra Pangasidae (Tạp chí
Thuỷ Sản, 2001).
Ở châu Á – Thái Bình Dương, họ cá trê chiếm ưu thế hơn cả trong sản
lương nuôi các loài cá da trơn. Ba loài được nuôi nhiều nhất là cá trê trắng
Clarias batrachus, cá trê vàng Clarias macrocephalus và cá trê phi Clarias
gariepinus. Cá trê trắng là loài được nuôi rộng rãi nhất, đặc biệt ở Thái Lan do cá
tăng trưởng nhanh, dễ sinh sản và thịt không quá mềm. Các nghiên cứu về công
nghệ nuôi (bao gồm cả sản xuất giống, nuôi, chăm sóc sức khỏe, quản lý ao
nuôi), công thức thức ăn, sản xuất thức ăn đã và đang được quan tâm. Nghề nuôi
cá trê được phát triển mạnh mẽ và rộng rãi đặc biệt là các nước trong vùng Đông
Nam Á.
Nhình chung, cá da trơn sản xuất ở châu Á dành cho tiêu thụ nội địa, mặc
dù một số nước sản xuất nhiều như Thái Lan và Việt Nam có tham gia xuất
khẩu. Thực tế, nghề nuôi cá còn mới mẻ và đang phát triển nhưng phải đối mặt
với các vấn đề như hiệu quả nuôi giảm sút, tăng giá cá tạp, giá thức ăn tăng, việc
quản lý thức ăn trôi nổi trên thị trường, vấn đề dịch bệnh và thị trường đầu ra
không ổn định.
Theo Tạp Chí Thuỷ Sản (Nuôi cá da trơn ở Đông Nam Á, Lê Hà, 2001)
nuôi cá trê ở Thái Lan bắt đầu vào cuối năm những năm 1950, lúc đầu ở khu vực
Bangkok và sau đó phát triển nhiều ở miền trung Thái Lan. Hầu hết các loài cá
thuộc họ cá trê được nuôi trong ao, chỉ khoảng 5% sản lượng cá trê nuôi trong
ruộng lúa và kênh mương. Nuôi tăng sản cá trê ở Thái Lan được coi là mô hình
nuôi mẫu cho các nước Đông Nam Á. Nuôi cá trê cho thu nhập hàng năm cao
hon so với các dạng canh tác khác trong nông nghiệp. Tuy nhiên, do quá trình
công nghiệp hoá nên môi trường sống tự nhiên của chúng bị phá huỷ và hiệu quả
nuôi giảm sút nhanh chóng.
Năm 1987, cá trê phi được đưa từ Lào sang nuôi ở Thái Lan. Cục nghề cá
Thái Lan đã khuyến cáo nông dân nuôi loài này vì chất lượng tốt hơn, lớn nhanh
hơn và khả năng chống đỡ với bệnh tật cao hơn. Khi lai tạo cá trê phi và trê vàng
thành công, Thái Lan đã chuyển hướng nuôi con lai giữa hai loài này. Năm 1997,
sản lượng đạt 52.680 tấn, trị giá 43.615.000 USD, đua Thái Lan thành nước sản
xuất cá trê lớn nhất Đông Nam Á. Hầu hết cá bán trên thị trường là cá sống.
Indonesia là nước đứng đầu Đông Nam Á về sản xuất cá nước ngọt (0,3
triệu tấn năm 1995) và cá trê là một số đối tượng được nuôi. Cá trê trắng có
nguồn gốc từ Sumatra, Java, Kalimantan, hiện đã được nuôi cả ở Sulawesi và
Irian Jaya.
6
Các cơ quan chính phủ đã hỗ trợ tích cực cho việc ứng dụng kỹ thuật sinh
sản nhân tạo và nuôi ao tăng sản cá trê từ đầu những năm 1980 nhưng cho đến
tận nửa sau của thập kỷ đó, sản xuất cá trê ở Indonesia vẫn ở mức thấp, 1.000 tấn
hoặc 0,5% sản lượng cá nuôi nước ngọt. Trở ngại chính là nguồn cung cấp còn
nhiều hạn chế và công nghệ nuôi truyền thống đem lại lợi nhuận thấp (Tạp chí
Thuỷ sản, 2001).
Giữa những năm 1980, cá trê phi nhập vào Indonesia và con lai giữa cá
trê phi và cá trê trắng được phát triển nuôi rộng rãi, sản lượng đạt 4.000 tấn năm
1991. Năm 1997, sản lượng Clarias spp đạt tới 12.900 tấn.
Nuôi cá trê ở Malaysia bắt đầu từ những năm 1960 ở quy mô nhỏ với loài
cá trê trắng. Sản lượng đạt đỉnh cao vào đầu những năm 1970, nhưng sang đầu
những năm 1980, sản xuất bị giảm do bị dịch bệnh, sau đó phục hồi vào giữa
những năm 1980 khi sản xuất giống cá trê vàng thành công tại trung tâm nghiên
cứu cá nước ngọt ở Batu Berendam. Cùng lúc đó, cá trê phi cũng trở nên phổ
biến, nhanh chóng được người dân địa phương chấp nhận, tuy nhu cầu và giá cả
không cao bằng các loài cá bản địa. Hầu hết cá trê nuôi hiện nay ở Malaysia là
con lai giữa cá trê vàng và trê phi. Tương tự như các loài cá bản địa, cá trê lai
nhanh chóng được ưa chuộng và có giá tốt hơn. Sản lượng năm 1988 đạt 183 tấn,
nhưng đến năm 1997 đã đạt 4.117 tấn. Sự gia tăng này là nhờ cải thiện công
nghệ và sử dụng thức ăn viên nổi. Phần lớn cá trê tiêu thụ sống ở thị trường nội
địa, tuy số lượng đáng kể cũng được xuất khẩu sang Singapore, Hồng Kông và
Đài Loan (Tạp chí Thuỷ sản, 2001).
2.1.2.2 Việt Nam
Ở Việt Nam hiện nay có 4 loài cá trê; 3 loài phân bố tự nhiên là cá trê
trắng (Clarias batrachus), trê đen (Clarias focus), và cá trê vàng (Clarias
macrocephalus); loài thứ tư là cá trê phi (Clarias gariepinus), trước đây còn có
tên khoa học là C. lazera, được De Kimpe một nhà nghiên cứu nuôi cá người
Pháp nhập vào nước ta từ đầu năm 1975 và được nuôi khá nhiều do tăng trưởng
nhanh, kích cỡ lớn và dễ nuôi. Ngày nay cá trê vàng lai đã và đang là đối tượng
được nuôi phổ biến ở Đồng Bằng Sông Cửu Long do chúng thích nghi điều kiện
thời tiết khí hậu, tốc độ tăng trưởng nhanh, đặc biệt là nguồn giống cá trê vàng
lai rất phong phú do việc sinh sản cá trê lai có thể thực hiện dễ dàng (Nguyễn
Gia Báu, 1990; Lê Thanh Hùng, 1992; Nguyễn Văn Kiểm, 1992 trích từ Lê
Tuyết Minh, 1997).
Cá trê vàng lai ở Việt Nam được tiêu thụ trong và ngoài nước. Trong
nước thường ưa chuộng là cá kích cỡ lớn. Ngoài nước chủ yếu là Campuchia
thường ưa chuộng cá có kích cỡ nhỏ.
7
2.1.2.3 Một số kết quả sinh sản và lai tạo giữa các loài cá trê ở Đồng Bằng
Sông Cửu Long.
Từ khoảng năm 1982 – 1986 cá trê phi là đối tượng được nhiều người
nuôi ưa thích. Phong trào nuôi cá trê phi ỏ một số khu vực thuộc thành phố Hồ
Chí Minh và đã đem lại nguồn thu nhập đang kể cho một số người làm sản xuất
và dicgj vụ cá trê phi giống. Thành phố Hồ Chí Minh thực sự trở thành địa
phương duy nhất cung cấp giống cá trê phi thuần cho các tỉnh khác trong khu
vực. Trong khoảng thời gian này lượng cá trê phi bột và giống sản xuất tại thành
phố Hồ Chí Minh khoảng 250 – 300 triệu con/năm. Tất nhiên số cá trê giống
này đều có chung một cặp trê phi ban đầu (Nguyễn Tường Anh và ctv., 1980,
trích dẫn bởi Nguyễn Văn Kiểm, 2004). Việc sản xuất giống cũng như nuôi cá
trê phát triển mạnh khoảng từ 1982 -1987, đặt biệt là thành phố Hồ Chí Minh.
Sau đó vấn đề nuôi thương phẩm đối tượng này cũng gặp một số trở ngại như tỷ
lệ sống trong quá trình nuôi thương phẩm, sự phân dàn của cá quá lớn và quan
trọng hơn là việc tiêu thụ cá thịt trên thị trường khó khăn. Trong khi đó cá trê
vàng (Clarias macrocephalus) một loài cá nội địa được người tiêu dùng ưa
chuộng hơn (Nguyễn Thanh Hùng và ctv., 1994. trích Nguyễn Văn Kiểm, 2004).
Do đó phong trào nuôi cá trê phi ở thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh lân cận
giảm một cánh nhanh chóng. Sau thành phố Hồ Chí Minh, phong trào nuôi cá
trê phi ở Cần Thơ phát triển mạnh vào khoảng năm 1984 – 1985 và cũng tương
tự như thành phố Hồ Chí Minh chúng cũng đem lại nguồn thu nhập đáng kể cho
người làm dịch vụ cá trê phi giống (Nguyễn Thanh Hùng, 1997, trích dẫn bởi
Nguyễn Văn Kiểm, 2004).
Việc thử lai tạo giữa cá trê phi và cá trê vàng có thể được bắt đầu vào
năm 1985 – 1986 và cũng mang tính chất tự phát. Sau 1 – 2 năm thử nghiệm cho
kết quả tốt từ đó vấn đề sản xuất bột cá trê lai mới thật sự phất triển nhanh và
mạnh. Cuối những năm 80 và đầu những năm 90 của thế kỷ XX, mỗi năm thành
phố Hồ Chí Minh sản xuất khoảng 200 – 300 triệu cá bột và sản lượng cá bột
cao nhất khoảng nửa tỷ con vào năm 1998 – 1999 (Nguyễn Thanh Hùng và ctv.,
1994, trích dẫn bởi Nguyễn Văn Kiểm, 2004). Sau đây là một số kết quả nghiên
cứu về cá trê phi, trê vàng, trê lai.
8
Bảng 2.1 Kết quả của một số phép lai tạo giữa cá trê phi và trê vàng.
Nghiêm
thức
Tỷ lệ thụ
tinh (%)
Tỷ lệ
nở (%)
Tỷ lệ dị
hình (%)
Ghi chú
NT 1
NT 2
NT 3
NT 4
NT 5
NT 6
NT 7
NT 8
NT 9
75,32
81,3
84,23
45,4
1,34
5,41
3,15
2,3
2,7
81,41
89,1
81,13
52,17
1,21
2,1
-
1,6
1,36
2,54
1,35
3,42
64,61
-
-
-
-
-
Trê phi x trê phi
Trê vàng x trê vàng
Đực trê phi x cái trê vàng
Đực trê vàng x cái trê phi
Đực NT 3 x cái NT 3
Đực NT 3 x cái NT 1
Đực NT 3 x cái NT 2
Đực NT 2 x cái lai NT 3
Đực NT1 x cái NT 3
Nguồn: Lê Thanh Hùng và Ngô Văn Ngọc, 1994, trích bởi Nguyễn Văn Kiểm, 2004.
Bảng 2.2 Mức sinh trưởng của cá trê lai nghiệm thức 1, 2, 3, 4 (g/ngày)
của bảng 2.1
Ngày tuổi NT 1 NT 2 NT 3 NT 4
Cá bột
3-15
16-30
31-45
46-60
0.15
1,46±0,4
1,51±0,1
3,51±0,2
3,8±0,12
0,15
0,82±0,12
1,2±0,2
2,44±0,3
2,86±0,2
0,15
1,37±0,2
1,45±0,3
2,82±0,1
3,48±0,2
0,14
0,54±0,4
0,41±0,5
0,53±0,7
0,72±0,1
NT: nghiệm thức
Nguồn: Nguyễn văn Kiểm 1993, trích bởi Nguyễn Văn Kiểm, 2004.
2.1.3 Các yếu tố môi trường
2.1.3.1 Nhiệt độ
Nhiệt độ của nước ao nuôi thay đổi theo vị trí địa lý của thủy vực, theo
mùa, theo thời tiết và theo ngày đêm. Trong thuỷ vực nhiệt độ thấp nhất vào
buổi sáng lúc 2-5 giờ, cao nhất vào buổi chiều 14-16 giờ; lúc 10 giờ nhiệt độ
nước trong thủy vực gần đạt tới nhiệt độ trung bình ngày đêm. Nhiệt độ là yếu tố
môi trường có ảnh hưởng mạnh mẽ đến các hoạt động sống như: sinh trưởng,
9
dinh dưỡng, sinh sản và di cư của thuỷ sinh vật đặc biệt đối với cá thì cá là động
vật biến nhiệt (Nour, 1994 trích dẫn bởi Đoàn Bá Nghiệp, 2008). Khi nhiệt độ
môi trường gia tăng, cá sẽ tăng cường trao đổi chất, tăng cường hô hấp, tuyến
sinh dục chín nhanh, phôi phát triển nhanh và gây nhiều dị hình (Nguyễn Văn
Bé, 1995). Mỗi loài cá có khả năng thích ứng với khoảng nhiệt độ khác nhau,
đối với cá trê có khả năng thích ứng với sự biến đổi rộng của nhiệt độ. Ở giai
đoạn cá giống có thể sống trong khoảng nhiệt độ 10,5 – 39
o
C, ngưỡng chịu
nhiệt cao của cá trê vàng là 39
o
C (Nguyễn Tuần và Trần Huỳnh Gia Tâm, 1990
trích dẫn bởi Lê Tuyết Minh, 1997). Nhiệt độ tối ưu để nuôi cá trê từ 29 – 32
o
C
(Nguyễn Duy Quỳnh Trâm, 2004 trích dẫn bởi Đoàn Bá Nghiệp, 2008).
2.1.3.2 pH
pH là một trong những yếu tố môi trường có ảnh hưởng đến đời sống
sinh vật. Tác dụng chủ yếu của pH khi quá cao hay quá thấp là làm ảnh hưởng
đến sự thẩm thấu của màng tế bào, làm rối loạn quá trình trao đổi muối – nước
giữa cơ thể và môi trường ngoài. Do đó pH là yếu tố giới hạn phân bố của các
loài thủy sinh vật. pH có ảnh hưởng rất lớn đến quá trình phát triển phôi, quá
trình dinh dưỡng, sinh trương và sinh sản của cá. Theo Trương Quốc Phú (2005)
cá sống trong môi trường có pH thấp hoặc quá cao sẽ chậm phát dục; nếu pH
quá thấp gây đẻ ít và không đẻ.
pH trong các ao nuối cá thường biến động không lớn khoảng 7 – 7,6
(Nguyễn Duy Khoát, 1997 trích dẫn bởi Đoàn Bá Nghiệp, 2008). Tuỳ theo mỗi
loài cá khác nhau mà thích ứng với một khoảng pH khác nhau, pH lý tưởng cho
các ao cá nước ngọt 6,5 – 7,5. Đối với cá trê phi giống có thể chịu đựng khoảng
pH từ 4,5 – 10; cá trê lai ở giai đoạn cá giống chịu đựng được pH từ 4 – 9, ở gia
đoạn cá thịt từ 3,5 – 10,5 (Phạm Báu, 1992; Nguyễn Tuần, 1993 trích dẫn bởi Lê
Tuyết Minh, 1997).
2.1.3.3 Hàm lượng oxy hoà tan trong nước
Oxy là một chất khí quan trọng đối với đời sống sinh vật đặc biệt là đối
với thủy sinh vật vì hệ số khuếch tán của oxy trong nước nhỏ hơn rất nhiều so
với hệ số khuyếch tán của không khí. Oxy thấp nhất vào lúc sáng sớm (6 giờ) và
cao nhất vào lúc buổi chiều (14 giờ) (Trương Quốc Phú, 2005). Những ao quá
giàu dinh dưỡng, hàm lượng oxy vào lúc sáng sớm có thể giảm đến 0 mg/l và đạt
mức bão hoà 200% vào giữa trưa (Trương Quốc Phú, 2005). Nồng độ ôxy thích
hợp cho nuôi cá từ 6 – 8 mg/l; ôxy hoà tan có hàm lượng từ 1 – 5 mg/l cá sống
nhưng phát triển chậm, từ 0,3 – 1 mg/l cá có thể chết nếu nhiệt độ cao (Trương
Quốc Phú, 2005). Đối với cá trê chúng có thể sống trong điều kiện ôxy rất thấp
thậm chí bằng 0, nhưng chúng có thể chết nhanh khi cơ quan hô hấp phụ của cá
10
không phát huy được tác dụng (Trần Thanh Xuân, 1977 trích dẫn bởi Lê Tuyết
Minh, 1997).
2.1.3.4 Hàm lượng đạm tổng
Đạm trong nước là nguồn dinh dưỡng cho thực vật, là một trong những
chất dinh dưỡng quang trọng đối với đời sống thủy sinh vật. Trong các thủy vực
đạm được liên kết trong các protein. Nếu nồng độ đạm trong thủy vực cao, gây
ảnh hưởng đến động vật thủy sinh.
Ammonia (NH
3
)là yếu tố qua trọng có ảnh hưởng lớn đến tỷ lệ sống, sinh
trưởng của thủy sinh vật. NH
3
là khí độc đối với đời sống tủy sinh vật còn
ammonium (NH
4
+
) không độc và nộng độ N-NH
3
gây độc đối với cá là 0,6 – 2
mg/l (Dowing và Markins, 1975 trích dẫn bởi Trương Quốc Phú, 2005). NH
4
+
trong nước rất cần thiết cho sự phát triển của thủy sinh vât làm thức ăn tự nhiên,
nhưng nếu hàm lương NH
4
+
quá cao sẽ làm thực vật phù du phát triển quá mức
không có lợi cho cá. Theo Boyd (1990) (trích dẫn bởi Trương Quốc Phú, 2005)
hàm lượng NH
4
+
thích hợp cho ao nuôi thủy sản là 0,2 – 2 mg/l.
2.1.3.5 Nitrite (NO
2
-
)
Nitrite có trong thủy vực là sản phẩm của quá trình nitrat hóa, hay phản
nitrat hóa, là dạng đạm ảnh hưởng độc đối với thủy sinh vật. Tác dụng độc của
nó đối với cá là chú kết hợp với Hemoglobine của máu hình thành
Methemoglobine (làm cho máu cá có màu chocolate) ngăn cản việc oxy kết hợp
với Hemoglobine hình thành Oxyhemoglobine, làm cá chết ngạt (Trương Quốc
Phú, 2005). Theo Schwedler et al. (1985) (trích dẫn bởi Trương Quốc Phú, 2005)
những nhân tố sau đây có ảnh hưởng đến độ độc của nitrite: hàm lượng chloride,
pH, kích cỡ cá, tình trạng dinh dưỡng, sự nhiễm bệnh, hàm lượng oxy hòa tan…
do đó, không thể xác định được nồng độ gây chết, nồng độ an toàn của nitrite
trong nuôi trồng thủy sản.
2.1.4 Kỹ thuật nuôi cá trê
2.1.4.1 Nuôi cá trê trong ao đất
Diện tích ao có thể lỏn hay nhỏ điều được. Mực nước từ 1,2 – 1,6 m. Ao
nuôi gần nơi cung cấp cũng như dễ thay nước khi cần thay nước và thu hoạch.
Đáy ao ít bùn, bờ ao cống bọng vững chắt, nếu có đều kiện thì nên kè và rào
chắn xung quanh ao. Ao cần tẩy dọn thật kỷ,tác cạn, diệt cá dữ bằng dây thuốc cá
với liều lượng 0,5 – 1 kg/100m
3
, lấp các hang hốc và lỗ mọi. Bón vôi với liều
lượng 7 – 15 kg/100m
2
để kể tạo ao (Dương Nhựt Long, 2003).
2.1.4.2 Mật độ thả
11
Cá giống có kích cỡ đồng đều, kích thước từ 5 – 10 cm, không xây xát, dị
hình. Mật độ cá thả từ 20 – 40 con (Dương Nhựt Long, 2003). Theo Đoàn Bá
Nghiệp (2008) thì thực tế người dân nuôi với mật độ từ 100 – 180 con/m
2
. Nên
thả cá lúc trời mát. Trước khi thả cá cần cân bang nhiệt độ nước trong dụng cụ
vận chuyển và nước trong ao nuôi.
2.1.4.3 Thức ăn
Thức ăn thường tận dung phụ phế phẩm nông nghiệp như cám, tấm, rau,
bèo,… phụ phế phẩm nhà máy chế biến thủy sản, phế phẩm từ lò mỗ gia súc, các
loại tôm tép, cua, ốc, cá tạp. Lượng thức ăn hằng ngày cho cá khoảng 3 – 10 %
khối lượng cá trong ao. Hàm lượng đam cần thiết dể cá phát triển tốt ở tháng thứ
1 là 20 – 30 %, tháng thứ 2 là 15 – 20 %, tháng thứ 3 là 10 -15 % (Dương Nhựt
Long, 2003). Mỗi ngày cho cá ăn từ 2 – 4 lần/ngày. Nên dùng sàng và lập nhiều
điểm cho ăn trong ao cá phát triển tốt hơn.
2.1.4.4 Chăm sóc và quản lý ao nuôi
Cần duy trì mực nước ổn định, khi nước quá dơ, có mùi hôi thì phải thay
nước ngay cho đến khi nước tốt trở lại và mỗi lần thay khoảng 1/3 nước trong ao
nuôi sau đó cấp nước vào cho đủ, tốt nhất là định kỳ thay nước ao nuôi 1
lân/tuần và càng về cuối chu kỳ nuôi thì tuần suất thay càng nhiều.
Theo dõi hoạt động của cá hằng ngày để điều chỉnh lượng thức ăn cho
phù hợp sau cho vừa đủ thông thường khẩu phần ăn dao động từ 5 – 7 % khối
lượng cá nuôi/ ngày.
Định kỳ trộn thêm vitamin C (60 – 100 mg/kg thức ăn) và chất khoáng
vào thức ăn để tăng cường sức đề kháng cũng như cho cá tăng trưởng tốt hơn.
Thường xuyên theo dõi hoạt đông của cá và phòng ngừa bệnh cho cá.
Thường xuyên kiểm tra bờ, cống, rào chắn cẩn thận để phòng sự thất thoát
nhất là vào mùa lũ.
2.1.4.5 Thu hoạch
Sau thời gian nuôi từ 3 – 3,5 tháng nuôi cá trê sẽ đạt kích cỡ thương phẩm. Có
thể thu tỉa những cá lớn, cá nhỏ để nuôi tiếp hoặc thu hoạch toàn bộ. năng suất cá
trê nuôi thường đạt 5 – 15 kg/m
2
(Dương Nhựt Long, 2003). Ngoài ra cá trê cá
thể nuôi ghép với một số loài cá khác. Một số mô hình nuôi kết hợp với heo, gà,
vit, ruộng lúa, mương vườn,… cũng mang lại hiệu quả kinh tế. Bên cạnh đó hình
thức nuôi cá trê trong lồng cũng mang lại hiệu quả cao.
12
PHẦN 3
VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1 Vật liệu nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Cá Trê lai (Clarias gariepinus x Clarias
macrocephalus). Cá giống cỡ 122 con/kg được mua tại trại giống Thảnh Mập
Cái Răng, Cần Thơ.
Hình 3.1 Cá trê lai giống
- Nguồn nước: Nguồn nước sử dụng được lấy từ sông ở tỉnh Hậu Giang.
- Dụng cụ cân đo: Cân, thước kẻ ô ly (d = 1 mm).
- Dụng cụ kiểm tra môi trường: Nhiệt kế đo nhiệt độ, test pH, test NO
2
-
,
test NH
4
+
, test Oxy.
- Bể thí nghiêm: 4 bể diện tích 10 m
2
(2 m x 5 m x 0.8 m)
- Các dụng cụ phụ trợ khác: Máy bơm, ống PVC, ống nhựa, xô, vợt,
thau…
- Thuốc, hóa chất: Vitamin C, men tiêu hóa, thuốc tiếm, BKC, đồng sun
phát (CuSO
4
)…
3.2 Phương pháp nghiên cứu
3.2.1 Bố trí thí nghiệm
Thí nghiệm nuôi cá trê lai thâm canh trong bể lót bạt được bố trí thực hiện
nuôi trong 4 bể lót bạt có cùng kích cỡ 10 m
2
(2 m x 5 m x 1 m), mực nước trong
bể là 0,7 m, thí nghiệm gồm hai nghiệm thức (NT) mật độ thả khác nhau, mỗi
NT lặp lại hai lần, thời gian nuôi thí nghiệm 3 tháng.
NTI: mật độ 80 con/m
2
.
NTII: mật độ 120 con/m
2
.
13
Bảng 3.1 Hộ nuôi thâm canh trong bể lót bạt và mật độ thả nuôi.
Bể Hộ Mật đô thả (con/m
2
)
1 Trần Minh Giàu 80
2 Lê Văn Đệm 80
3 Nguyễn Văn Hùng 120
4 Nguyễn Văn Biển 120
Bể có kích thước 10 m
2
, khung làm bằng cây hay tre với 8 trụ cây chắc
chắn, xung quanh được phủ mê bồ và bạt với chất lượng tốt nhằm có thể khai
thác ít nhất 2 vụ nuôi.
Hình 3.2 Quy trình làm bể lót bạt
Cá giống bố trí cho thí nghiệm là cá khỏe mạnh, cùng kích thước, đồng
đều, không dị hình, không mang mầm bệnh.
Thức ăn cung cấp cho cá nuôi là thức ăn công nghiệp cho cá ăn 10 ngày
đầu sau khi thả cá, buổi sáng, buổi chiều trộn với cá tạp, ốc bươu vàng tỷ lệ
(1/10).
Quản lý và chăm sóc bể nuôi
Liều lượng và cách cho cá ăn: Lượng tức ăn từ ngày 1 – 30 ngày cho ăn
10% trọng lượng thân/ngày của cá trong bể nuôi, 30 – 45 ngày cho ăn 8% và từ
45 ngày trở về sau cho cá ăn từ 5 – 7%, cho cá ăn 2 lần/ngày (lúc cá còn nhỏ cho
ăn 3 – 4 lần/ngày), thời gian cho cá ăn là 8 giờ và 16 giờ hàng ngày. Cho ăn tập
trung ở điểm cho cá ăn, thức ăn công nghiệp thì được rải đều trong bể nhằm tăng
cơ hội bắt mồi và giảm sự cạnh tranh thức ăn của cá để hạng chế phân cỡ của cá.
Tần suất thay nước và lượng nước thay: giữ cho mực nước ở mức 0,7 m
và duy trì mực nước ổn định và về gần cuối chu kỳ nân lên 0,8 m. Khi nước dơ,
có mùi hôi thối phải tiến hành thay nước để nước tốt trở lại. 10 ngày đầu thay 1
14
lần 30% lượng nước trong bể, từ 10 – 30 ngày ta tiến hành thay nước 5 ngày ta
thay một lần 40%, 30 – 60 ngày nuôi thay 3 ngày một lần 40 – 50%, 60 ngày trở
về sau thay 60 -70%. Định kỳ 2 tuần vệ sinh bể nuôi 1 lần, dùng ống siphon rút
bớt các chất bẩn do thức ăn và phân cá trê lai tạo nên để tránh ô nhiễm, môi
trường sống tốt cho cá và dọn cỏ quanh bể.
Phòng và trị bệnh
Theo dõi khả năng bắt mồi, lượng thức ăn cá ăn được để điều chỉnh thức
ăn cho phù hợp, tránh trường hợp thiếu hoặt thừa thức ăn. Thức ăn cho cá đảm
bảo vệ sinh, không bị thối (thức ăn tươi), mốc (thức ăn công nghiệp). Định kỳ bổ
sung vitamin C và khoáng chất vào thức ăn để kích thích tăng trưởng và sức đề
kháng cho cá.
3.2.2 Phương pháp theo dõi các chỉ tiêu môi trường
3.2.2.1 Nhiệt độ
Nhiệt độ nước của bể nuôi được đo hằng ngày bằng nhiệt kế, lúc 6 giờ, 14
giờ. Vị trí đo có thể tại một địa điểm bất kỳ nào trên bể nuôi, thường là giữa bể.
Nhiệt kế được thả trực tiếp xuống lòng bể với độ sâu tương đương độ 0,5 m. Giữ
nhiệt kế trong vài phút rồi kéo lên mặt nước và xem chỉ số vạch chia rồi ghi
nhận.
3.2.2.2 pH
Độ pH của bể nuôi đựơc đo bằng test kit Sera, lúc 8 giờ, 14 giờ, 2 tuần đo
1 lần. Mẫu nước dùng đo pH được thu mẫu ngẫu nhiên trong bể có độ sâu 0,5 m
và sử dụng bộ test đo nhanh trực tiếp tại chỗ và đọc số liệu.
3.2.2.3 Oxy
Oxy hòa tan trong bể cũng được đo bằng test kit Sera, lúc 8giờ, 14 giờ, 2
tuần đo 1 lần. Mẫu nước dùng đo oxy được thu mẫu ngẫu nhiên ở gần đáy bể và
sử dụng bộ test đo nhanh trực tiếp tại chỗ và ghi chép số liệu.
3.2.2.4.NH
4
+
và NO
2
-
Hàm lượng ammonia tổng số (N-NH
4
+
) nitrite (NO
2
-
) và được đo bằng test
kit Sera, lúc 8 giờ 2 tuần đo 1 lần .
Mẫu nước dùng phân tích N-NH
4
+
, NO
2
-
được thu mẫu ngẫu nhiên trong bể có độ
sâu 0.5m và sử dụng bộ test đo nhanh trực tiếp tại chỗ và ghi chép số liệu.
Cách tính NH
3
: NH
3
được tính dựa trên NH
4
và pH của bể nuôi thông qua bảng
hướng dẫn của bộ test kit Sera.
3.2.3 Phương pháp thu mẫu và xác định tốc độ tăng trưởng
15
Theo dõi định kỳ 14 ngày/lần, tiến hành cân trọng lượng và đo chiều dài
từng cá thể trong tổng số mẫu lấy ngẫu nhiên mỗi nghiệm thức từ 20 - 30 con.
Chiều dài tổng cộng: là khoảng cách được xác định theo đường thẳng từ mút đầu
(miệng cá) đến cuối của vi đuôi.
Các chỉ tiêu về sinh trưởng được tính theo công thức sau:
Tốc độ tăng trưởng trọng lượng theo ngày (Daily Weight Gain)
( )
t
WW
ngàygDWG
∆
−
=
01
/
Trong đó:
W
1
: trọng lượng cuối (g)
W
0
: trọng lượng ban đầu (g)
∆t : thời gian giữa 2 lần cân (ngày)
Tốc độ tăng trưởng chiều dài theo ngày (Daily Length Gain)
( )
t
LL
ngàycmDLG
∆
−
=
01
/
Trong đó:
L
1
: chiều dài cuối (cm)
L
0
: chiều dài ban đầu (cm)
∆t: thời gian (ngày)
2.2.4 Tỷ lệ sống và năng suất
2.2.4.1 Tỷ lệ sống
Tiến hành đếm số lượng cá thể lúc ban đầu và số lượng cá thể thu hoạch
được. Sau đó tính toán tỷ lệ sống bằng công thức:
2.2.4.2 Năng suất nuôi
Năng suất nuôi (kg/m
2
) = Tổng trọng lượng cá thu hoach/ Tổng diện tích
nuôi
3.2.5 Phương pháp tính lượng nước sử dụng trong quá tình nuôi
Tổng số cá thả ban đầu
Số cá còn sống tại thời điểm thu hoạch
TLS (%) =
x 100
16
LN (m
3
) = Lượng nước đầu trong bể + Tổng lượng nước mỗi lần trao đổi
LN: lượng nước sử dụng cho quá trình nuôi
3.2.6 Hệ số tiêu tốn thức ăn (Feed Conversion Ratio – FCR)
FCR = Thức ăn sử dụng/Trọng lượng cá gia tăng
3.2.7 Tính hiệu quả kinh tế
Tổng chi
- Con giống
- Thức ăn
- Năng lượng (điện, nhiên liệu)
- Thuốc và hóa chất
- Khấu hao dụng cụ và thiết bị sử dụng
- Các khoản chi khác
Tổng thu = sản lượng cá (kg) x giá cá (VNĐ)
Lợi nhuận = tổng thu – tổng chi
Tỷ suất lợi nhuận (%) = (lợi nhuận/tổng chi) * 100
3.3 Phương pháp thu thập, tính toán và xử lý số liệu
Sử dụng phần mềm Excel.
Trọng lượng, chiều dài, tăng trưởng và tỷ lệ sống được so sánh thống kê
sử dụng phần mềm SPSS.
PHẦN 4
17
KẾT QUẢ THẢO LUẬN
4.1 Theo dõi một số chỉ tiêu môi trường trong quá trình nuôi cá trê lai
thương phẩm
Bảng 4.1. Biến động các yếu tố môi trường trong thời gian thí nghiệm
Nhiệt độ (
0
C) Oxy hòa tan(mg/l) pH
sáng Chiều sáng Chiều sáng Chiều
NTI 27,2±0,6 28,6±0,8 1,6±1,2 2,6±1,5 6,7±0,3 6,9±0,4 0,05±0,02 0,39±0,1
4
NTII 27,1±0,5 28,5±0,8 1,8±1,1 2,4±1,0 6,8±0,3 7,0±0,2 0,03±0,02 0,39±0,16
Ghi chú: Giá trị thể hiện là số trung bình ± độ lệch chuẩn, NT: nghiệm thức
4.1.1 Biến động nhiệt độ
Qua Bảng 4.1 cho thấy NTI dao động 27,2 – 28,6
o
C còn ở NTII thì dao
động 27,1 – 28,5
o
C. Trong các bể nuôi cá trê lai ở hai nghiệm thức thì dao động
từ 27,1– 28,6
o
C. Đây là khoảng nhiệt độ rất thích hợp cho sự sinh trưởng và phát
triển của cá nuôi. Nhiệt độ trong các bể nuôi biến động không có sự khác biệt
giữa hai nghiệm thức. Nhiệt độ trong nước của bể nuôi phụ thuộc chủ yếu vào
hai yếu tố là cường độ chiếu sáng của mặt trời và nhiệt độ của nguồn nước thay
lấy từ sông vào. Nhiệt độ ở NTII (mật độ 120 con/m
2
) thấp hơn NTI (mật độ 80
con/m
2
). Nhiệt độ ở NTII thấp hơn NTI là do bể nuôi của NTII nằm ở xác bên
nhà và có nhiều cây cối che quanh hơn NTI nên điều kiện chiếu sáng không tốt
bằng NTI. Theo Trương Quốc Phú (2007), nhiệt độ trong nước thích hợp cho cá
vùng nhiệt đới nằm trong khoảng 25 - 32
o
C. Nhiệt độ tối ưu cho nuôi cá trê là 29
- 32
o
C (Nguyễn Duy Quỳnh Trâm, 2004 trích dẫn bởi Đoàn Bá Nghiêp, 2008).
Do đó nhiệt độ trong nước của các bể nuôi thích hợp cho việc nuôi cá.
4.1.2 Biến động pH
18
Hình 4.1 Biến động pH buổi sáng trong nước các bể nuôi cá trê lai thâm
canh qua các đợt thu mẫu.
Hình 4.2 Biến động pH buổi chiều trong nước các bể nuôi cá trê lai thâm
canh qua các đợt thu mẫu.
Qua bảng 4.1 ta thấy giá trị pH của nước trong bể nuôi dao động từ 6,7 –
7,0 và pH của các bể nuôi ít có biến động. pH ở hai nghiệm thức đều thấp, NTI
(sáng 6,7, chiều 6,9) thấp hơn NTII (sáng 6,8, chiều 7,0) là do lúc thu mẫu NTII
gần thời điểm thay nước hơn NTI và NTII ít bị ảnh hưởng mưa hơn NTI. pH của
toàn bộ quá trình nuôi tương đối thấp là do trong qua trình nuôi vào mùa mưa và
thời gian thu mẫu gặp lúc trời mưa liên tiếp nhiều ngày liền nên pH của bể nuôi
thấp. Theo Trương Quốc Phú (2006), pH thích hợp cho sự phát triển của cá nằm
trong khoảng 6.5 – 9. Nên pH ở hai nghiệm thức đều thích hợp cho sự sinh
trưởng và phát triển của cá trê lai. Chúng tôi thấy kết quả này giống nhau về giá
trị pH của ao nuôi thâm canh cá trê lai ở Giai Xuân, Phong Điền, Cần Thơ, giá trị
pH trong các ao nuôi cá trê lai dao động từ 6,6 – 7,8 (Đoàn Bá Nghiệp, 2008) và
ao nuôi cá tra thâm canh ở An Giang, giá trị pH dao động từ 6,5 – 7,0 (Nguyễn
Thị Dung, 2001 trích dẫn bởi Đoàn Bá Nghiệp, 2008).
19
4.1.3 Biến động Hàm lượng Oxygen hòa tan (mg/l)
Từ Bảng 4.1 Hàm lượng oxy hòa tan ở hai nghiệm thức có chênh lệch
nhưng không đáng kể (NTI dao động từ 1,6 – 2,6 mg/l, NTII dao động từ 1,8 –
2,4 mg/l). Mức độ do động hàm lượng oxy ở hai nghiệm thức giữa sáng và chiều
không lớn lắm, cụ thể hàm lượng oxy dao động từ 1,6 – 1,8 mg/l vào buổi sáng
và từ 2,4 – 2,6 mg/l vào buổi chiều. Sự chênh lệch hàm lượng oxy hòa tan giữa
sáng và chiều khoảng 1 mg/l cả ở hai nghiệm thức. Trong suốt quá trình nuôi
hàm lượng oxy hòa tan tương đối thấp từ 1,6 – 2,6 ở NTI và 1,8 - 2,4 ở NTII.
Lượng oxy hòa tan trong bể ở buổi sáng thấplà phù hợp với quy luật tự nhiên do
trong bể nuôi có tảo cá nuôi hô hấp vào ban đêm. Theo Swingle (1969) thì nồng
độ oxygen hòa tan từ 1 – 5 mg/l cá sống được nhưng chậm lớn và lý tưởng cho
tôm cá là trên 5 mg/l (trích từ Trương Quốc Phú, 2006).
Hình 4.3 Biến động hàm lượng oxy hòa tan buổi sáng ở hai nghiệm thứcqua các
đợt thu mẫu
20
Hình 4.4 Biến động hàm lượng oxy hòa tan buổi chiều ở hai nghiệm thức
qua các đợt thu mẫu
Từ Hình 4.3 và 4.4 ta thấy oxygen hòa tan ở hai nghiệm thức càng về cuối
chu kỳ nuôi càng giảm là do càng về cuối chu kỳ nuôi nhu cầu sử dụng oxy của
cá trong bể càng tăng và lượng chất thải từ cá nuôi càng nhiều làm tiêu hao oxy
cho quá trình oxy hóa vật chất. Hàm lượng oxy hòa tan trong bể nuôi không nằm
ở mức lý tưởng cho cá (Swingle, 1969 trích từ Trương Quốc Phú, 2006). Nhưng
do đây là loài cá có cơ quan hô hấp phụ nên oxy hòa tan trong bể thấp cũng ít
ảnh hưởng nhiều tới cá nuôi.
Hàm lượng oxy hòa tan ở cuối chu kỳ nuôi gần như ít chênh lệch giữa
sáng và chiều ở hai nghiệm thức. Kết quả này phù hợp với nghiên cứu của Đoàn
Bá Nghiệp (2008), FAO (2003) (trích từ Đoàn Bá Nghiệp, 2008), nồng độ oxy
hòa tan trong ao nuôi cá trê lai ở cuối chu kỳ nuôi thường xuyên nằm trong
khoảng từ 0 – 0,3 mg/l.
4.1.4 Biến động hàm lượng N-NH
3
21
Hình 4.5 Biến động của NH
4
+
trong bể nuôi cá trê lai thâm canh qua các
đợt thu mẫu.
Qua hình 4.5 ta thấy hàm lượng NH
4
+
trong bể nuôi lót bạt ở hai mật độ
nuôi dao động từ (0,5 – 10 mg/l), tăng lên đến 28 ngày nuôi,rồi giảm xuống, đến
cuối chu kỳ nuôi lại tăng lên. Hàm lượng NH
4
+
tăng là do lượng thức ăn cung cấp
cho quá trình nuôi ngày càng nhiều, lượng chất thải ra ngày càng nhiều do cá
tăng trưởng và có giảm ở giũa chu kỳ nuôi là do quá trình thay nước. Theo Boyd
(1990) (trích dẫn bởi Trương Quốc Phú, 2005) hàm lượng NH
4
+
thích hợp cho ao
nuôi thủy sản là 0,2 – 2 mg/l. Hàm lượng NH
4
+
ở thí nghiệm này không nằm
trong khoảng thích hợp cho cá sinh trưởng và phát triển của cá nuôi.
Hình 4.6 Biến động của NH
3
trong bể nuôi cá trê lai thâm canh qua các
đợt thu mẫu.
Kết quả từ Bảng 4.1 Hàm lượng NH
3
trung bình của hai nghiệm thức từ
0,03 – 0,05 ppm, các giá trị này còn nằm trong khoảng thích hợp cho sự sinh
trưởng và phát triển của cá nuôi. Điều này được giải thích là do chế độ thay nước
thường xuyên của các bể nuôi cá trê lai thâm canh. Ta thấy hàm lượng NH
3
ở
NTI cao hơn NTII (Hình 4.6). Hàm lượng NH
3
của hai nghiệm thức biến động
22
gần như giống nhau và càng về cuối chu kỳ thì càng tăng nhưng nằm trong
khoảng thích hợp cho cá nuôi là do càng về cuối chu kỳ nuôi lương thức ăn cung
cấp cho cá nuôi càng tăng, lượng chất thải càng nhiều do cá lớn. Kết quả này phù
hơp với nghiên cứu của Quách Sĩ Quý (2006) của ao nuôi cá tra thâm canh ở
Cần Thơ. Theo Nguyễn Văn Bé (1995), hàm lượng NH
3
thích hợp cho ao nuôi
cá dao động trong khoảng 1ppm, do đó hàm lượng NH
3
ở hai nghiệm thức thích
hợp cho nuôi cá trê lai.
4.1.5 Biến động nồng độ NO
2
Hình 4.7. Biến động NO
2
trong bể nuôi cá trê lai thâm canh.
Từ kết quả Bảng 4.1 ta thấy hàm lượng NO
2
của các bể nuôi dao động
khoảng 0,39 mg/l cả ở hai nghiệm thức và tăng dần về cuối chu kỳ nuôi. Theo
Schwedler et al (1985) (trích dẫn bởi Trương Quốc Phú, 2005) những nhân tố
sau đây có ảnh hưởng đến độ độc của nitrite: hàm lượng chloride, pH, kích cỡ cá,
tình trạng dinh dưỡng, sự nhiễm bệnh, hàm lượng oxy hòa tan… do đó, không
thể xác định được nồng độ gây chết, nồng độ an toàn của nitrite trong nuôi trồng
thủy sản, nhưng theo khuyến cáo nồng độ thích hợp cho nuôi cá nên nhỏ hơn 0.1
mg/l. Giá trị này đã vượt ra khỏi giá trị thích hợp cho cá, ảnh hưởng đến sinh
trưởng và phát triển của cá. Tuy nhiên, đối với bể nuôi cá trê lai thâm canh thì
việc quả lý hàm lượng NO
2
của dạng đạm này nhỏ hơn 0,1 mg/l thực sự là một
vấn đề rất khó khăn vì lượng chất thải và thức ăn cung cấp cho bể nuôi tăng lên
từng ngày thêm vào đó sự oxy hóa những sản phẩm này sẽ sinh ra nitrite. Nồng
độ như trên thì chỉ ảnh hưởng đến sinh trưởng và phát triển nhưng chưa đến độ
độc tác động gây chết đối với cá trê lai nuôi mặt khác cá trê lai là loài cá có khả
năng chịu đựng môi trường ô nhiểm rất tốt nên nồng độ nitrite cũng không ảnh
hưởng nhiều tới cá nuôi.
4.2 Tăng trưởng
23
4.2.1 Tăng trưởng về trọng lượng của cá trê lai nuôi thâm canh trong bể lót
bạt
Bảng 4.2 Tăng trưởng khối lượng của cá nuôi trong bể lót bạt ở hai mật độ.
Đợt thu
Khối lượng trung bình của cá (g/con) NTI (g/con) NTII (g/con)
Ban đầu thả
Sau 2 tuần
Sau 4 tuần
Sau 6 tuần
Sau 8 tuần
Sau 10 tuần
Sau 12 tuần
8,20±1,53
20,00±8,13
29,00±11,46
56,50±26,51
72,70±26,52
102,07±27,73
131,44±29,28
8,20±1,53
11,83±1,31
22,35±1,09
32,75±2,05
52,2011,88
65,.21±16,5
78.21±21,14
Tăng trưởng về khối lượng (g/con/đợt)
Sau 2 tuần
Sau 4 tuần
Sau 6 tuần
Sau 8 tuần
Sau 10 tuần
Sau 12 tuần
11,80
20,80
48,30
64,50
93,87
123,24
3,63
14,15
24,55
44,00
55,01
70,01
Tốc độ tăng trưởng về khối lượng (g/ngày) (DWG)
Sau 2 tuần
Sau 4 tuần
Sau 6 tuần
Sau 8 tuần
Sau 10 tuần
Sau 12 tuần
0,84
0,74
1,15
1,15
1,34
1,47
0,26
0,51
0,58
0,79
0,79
0,83
Cá trê lai sau 12 tuần nuôi trọng lượng trung bình lúc thu hoạch ở NTI là
131,44 g/con, tăng trưởng là 123,24 g/con, tốc độ tăng trưởng trên ngày là 1,47
24
g/con, NTII trọng lượng lúc thu hoạch là 78,21 g/con, tăng trưởng là 70,01
g/con và tốc đọ tăng trưởng trên ngày là 0,83 g/con (Bảng 4.2). Qua kết quả trên
ta thấy ở NTI cá lúc thu hoạch có trọng lượng, tăng trưởng trọng lượng, tốc độ
tăng trưởng trên ngày ở các đợt nhanh hơn NTII nhưng không có ý nghĩa thống
kê (p>0,05). NTI (80 con/m
2
)có mật độ nuôi thấp hơn NTII (120 con/m
2
) nên cá
tăng trưởng tốt hơn. Theo Nguyễn Thanh Long và Yang Yi (2003) nuôi cá trê
thâm canh trong bể xi măng ở Thái Lan ở mật độ 20 con/m
2
và cá thả ban đầu có
trọng lương 25 g/con bằng thức ăn công nghiệp CP (protein thô 30%) thì sau 15
ngày, 29 ngày, 43 ngày, 57 ngày, 71 ngày, 85 ngày nuôi cá đạt trọng lượng lần
lược là 39,54 g/con, 63,02 g/con, 79,21 g/con, 105,83 g/con, 147 g/con và 165,7
g/con. Với kết quả này ta thấy trọng lượng của cá ở các đợt thu của thí nghiêm
nhỏ hơn nhưng do trọng lượng thả ban đầu nhỏ hơn của Nguyễn Thanh Long và
Yang Yi (2003), nhưng mật độ thả của thí nghiệm nhiều hơn từ 4 đến 6 lần.
Từ kết quả bảng 4.2 ta thấy tốc độ tăng trưởng trọng lượng trên ngày của
cá tăng theo thời gian nuôi là do cá càng lớn thì càng tăng trọng nhanh. Ở 28
ngày nuôi ở NTI tốc độ tăng trọng của cá có chậm lại là do ngay thời điểm này
mưa nhiều nhiệt độ thấp và lấy mẫu ngẫu nhiên có nhiều con nhỏ và ở giai đoạn
từ 42 ngày đến 56 ngày tăng bằng nhau. Ở NTII thì ta thấy tốc độ tăng trưởng
trên ngày của cá từ 56 ngày đến 84 ngày nuôi gần tương đương nhau là do gần
cuối chu kỳ nuôi mật độ ảnh hưởng đến tăng trưởng của cá. Sau 12 tuần nuôi thì
cá có tốc độ tăng trưởng trên ngày ở NTI là 1,47 g/con/ngày cao hơn NTII là
0,83 g/con/ngày. Theo Nguyễn Thanh Long và Yang Yi (2003) nuôi cá trê thâm
canh trong bể xi măng ở Thái Lan ở mật độ 20 con/m
2
và cá thả ban đầu có trọng
lương 25 g/con bằng thức ăn công nghiệp thì sau 90 ngày nuôi cá có tốc độ tăng
trưởng trên ngày là 1,88 g/con/ngày. Với kết quả này của thí nghiêm thì cá có tốc
độ tăng khối lượng trên ngày nhỏ hơn Nguyễn Thanh Long và Yang Yi (2003),
nhưng do khối lượng thả ban đầu nhỏ hơn và mật độ thả của thí nghiệm nhiều
hơn từ 4 đến 6 lần. Theo Quách Sĩ Quý (2006) cá tra nuôi thâm canh trong ao đất
mật độ 30 con/m
2
và cá thả ban đầu có trọng lương 22 g/con ở Cấn Thơ bằng
thức ăn công nghiệp (hiệu Cargill, độ đạm từ 22-26%) thì sau 3 thang nuôi cá đạt
trọng lượng là 441 g/con và tốc độ tăng trưởng trên ngày là 4,1 g/con/ngày. Với
kết quả của thí nghiệm thì ta thấy cá trê lai có tốc độ tăng trưởng châm hơn cá
tra.
25