Tải bản đầy đủ (.doc) (33 trang)

LỊCH SỬ NGÀNH THUẾ VIỆT NAM pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (217.2 KB, 33 trang )

TRẦN QUANG HUY-10K4051035
LỊCH SỬ NGÀNH THUẾ VIỆT NAM
1. Sơ lược lịch sử ngành thuế Việt Nam
Ngày 13/01/2011
Những nội dung cơ bản của quyết định số 218/2003/QĐ-TTg
Tổ chức bộ máy ngành thuế được tổ chức lại theo nguyên tắc:
Xác định đầy đủ nhiệm vụ quản lý thuế; đề cao trách nhiệm, nghĩa vụ của đối tượng nộp
thuế trong việc thực hiện tự tính, tự khai tiến tới tự nộp thuế và chịu trách nhiệm trước
pháp luật.
Tăng cường quyền hạn của cơ quan thuế; tăng cường chức năng quản lý nhà nước về thuế
để thực thi tốt pháp luật; bổ sung thêm các quyền hạn cho cơ quan thuế; trên cơ sở tăng
cường tuyên truyền hỗ trợ đối tượng nộp thuế; tăng cường thanh tra, kiểm tra.
Tổ chức bộ máy hợp lý theo hướng cải cách hành chính và hiện đại hoá công tác quản lý
thuế.
1. Về nhiệm vụ:
Theo QĐ 218, nhiệm vụ cơ bản của Tổng cục Thuế là tổ chức quản lý thu thuế, phí, lệ
phí và các khoản thu khác của NSNN, còn nhiệm vụ nghiên cứu xây dựng chính sách
thuế, phí, lệ phí không phải là nhiệm vụ chính của Tổng cục Thuế, mà với tư cách là
người quản lý, tổ chức thực hiện chính sách, Tổng cục Thuế có nhiệm vụ đề xuất và tham
gia (với Vụ Chính sách thuế- Bộ Tài chính) xây dựng, bổ sung, sửa đổi các văn bản qui
phạm pháp luật về thuế.
Nhiều nhiệm vụ của quản lý thuế chưa được quy định tại NĐ 281-HĐBT nay được quy
định rõ trong QĐ 218 và trở thành các nhiệm vụ trọng tâm của quản lý thuế, đó là:
Chiến lược phát triển qui hoạch, kế hoạch dài hạn, năm năm và hàng năm của ngành
Thuế để xác định mục tiêu, định hướng và các bước đi trong tiến trình cải cách quản lý
thuế ở nước ta. (khoản 1 điều 2)
Nhiệm vụ tuyên truyền, giáo dục pháp luật về thuế, cung cấp các dịch vụ hỗ trợ đối tượng
nộp thuế nhằm làm cho mọi tổ chức, cá nhân hiểu rõ chính sách thuế, nâng cao tính tuân
thủ tự giác trong việc chấp hành các nghĩa vụ thuế. Hạn chế các sai sót, các vi phạm do
sự thiếu hiểu biết gây ra
1


TRẦN QUANG HUY-10K4051035
Nhiệm vụ hợp tác quốc tế trong lĩnh vực thuế nhằm tăng cường quản lý thuế giữa Việt
Nam với các nước trên thế giới, quản lý thực hiện Hiệp định thuế; trao đổi học tập kinh
nghiệm giữa các quốc gia trong lĩnh vực quản lý thuế và hội nhập Quốc tế trong lĩnh vực
thuế. Nâng cao hiệu quả công tác quản lý thuế đối với các hoạt động kinh doanh mang
tính chất khu vực và toàn cầu.
Nhiệm vụ phát triển hệ thống công nghệ thông tin quản lý thuế, nhằm nâng cao hiệu quả
trong công tác quản lý thuế, nhanh chóng hiện đại hoá ngành thuế.
2- Về quyền hạn của cơ quan thuế:
Bổ sung thêm các quyền:
Thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng về các đối tượng nộp thuế vi phạm
nghiêm trọng các chính sách thuế.
Được yêu cầu các tổ chức tín dụng, các tổ chức và cá nhân khác có liên quan cung cấp tài
liệu và có trách nhiệm phối hợp với cơ quan thuế để thu thuế.
Xử lý theo thẩm quyền hoặc đề nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý các tổ chức, cá nhân
không thực hiện nghĩa vụ, trách nhiệm cung cấp tài liệu hoặc không phối hợp với cơ quan
thuế để thu thuế.
Thực hiện các biện pháp cưỡng chế thi hành pháp luật về thuế
Quyết định việc uỷ nhiệm cho các cơ quan, tổ chức thu một số khoản thuế. (mở rộng hơn
so với qui định trong NĐ281).Đây cũng là một trong những nội dung cải cách hành chính
về quản lý thuế.
Ngoài ra, Quyết định 218 còn quy định tại mục 18, điều 2: “thực hiện những nhiệm vụ
khác do Bộ trưởng Bộ Tài chính giao” tạo cơ sở pháp lý cho Bộ trưởng Bộ Tài chính giao
thêm những nhiệm vụ khác cho Tổng cục Thuế.
3- Về cơ cấu tổ chức:
Nguyên tắc cơ cấu tổ chức của cơ quan thuế:
Thu gọn đầu mối, nhưng bao quát hết các nhiệm vụ.
Cơ cấu tổ chức chủ yếu theo chức năng và theo đối tượng kết hợp theo sắc thuế nhằm
chuyên môn hoá, áp dụng tin học, giảm tiêu cực, giảm phiền hà cho ĐTNT;
2

TRẦN QUANG HUY-10K4051035
Phát triển các tổ chức để thực hiện và đảm đương những nhiệm vụ trọng tâm trong thời
gian tới, đó là: dịch vụ hỗ trợ ĐTNT, thanh tra kiểm tra, bồi dưỡng đào tạo cán bộ, tin
học hoá, quản lý ĐTNT; thu gọn các tổ chức mang tính chất phục vụ.
Nâng cao vị thế chỉ huy của Tổng cục- phụ cấp trách nhiệm tăng lên.
a/ Bộ máy giúp việc Tổng cục trưởng TCT:
Bộ máy giúp việc Tổng cục trưởng TcT được tổ chức thành các Ban.
Số đầu mối giảm từ 22 phòng còn 14 Ban và 3 đv sự nghiệp.
Thu hẹp việc tổ chức theo sắc thuế, mở rộng tổ chức theo chức năng và đối tượng
Thành lập Ban Ban Tuyên truyền, hỗ trợ đối tượng nộp thuế.
3 Đơn vị sự nghiệp trực thuộc Tổng cục:
Trung tâm tin học - thống kê
Trung tâm Bồi dưỡng cán bộ Thuế
Tạp chí Thuế.
Đại diện Tổng cục Thuế tại tpHCM tương đương cấp Ban.
b/ Cơ cấu tổ chức Cục Thuế và Chi cục
Cơ cấu tổ chức Cục Thuế lần này đã giảm đáng kể số đầu mối: Cấp Cục thuế tổng số
giảm khoảng hơn 100. Nếu tính cả cấp Chi cục thì tổng số đầu mối (kể cả các tổ, đội)
toàn ngành giảm khoảng gần 1000
Giải thể Phòng Nghiệp vụ thuế: Nhiệm vụ của Phòng này trước đây nay được chuyển
giao cho 2 Phòng đảm nhiệm là Phòng Tổng hợp và dự toán và Phòng Tuyên truyền hỗ
trợ ĐTNT.
Xoá bỏ Phòng Thu lệ phí trước bạ và thu khác.
Cơ cấu Chi cục Thuế: số tổ, đội cũng được sắp xếp lại và giảm so với trước đây, đồng
thời cũng phân công lại một số nhiệm vụ giữa các tổ, đội thuộc Chi cục.
Quyết định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục Thuế trực thuộc
Tổng cục Thuế, Chi cục Thuế trực thuộc Cục Thuế lần này đã thể hiện một bước thực
hiện cải cách thủ tục hành chính, sắp xếp lại tổ chức, tinh gọn đầu mối khá cơ bản tạo
điều kiện thực hiện cải cách quản lý thuế.
4- Về con dấu, kinh phí và mối quan hệ của cơ quan thuế với UBND các cấp:

3
TRẦN QUANG HUY-10K4051035
Về con dấu
Tổng cục Thuế được sử dụng con dấu hình quốc huy, nhằm thể hiện tính chất cơ quan
công quyền quan trọng của Nhà nước, cũng như tạo thuận lợi trong các giao dịch Quốc
tế.


Về kinh phí
Tổng cục Thuế được thực hiện cơ chế khoán kinh phí do Thủ tướng Chính phủ quy định.
Về quan hệ với chính quyền địa phương
Theo quy định tại Nghị định 281- HĐBT thì cơ quan thuế chịu sự lãnh đạo song trùng
của cơ quan thuế cấp trên và UBND cùng cấp. Trong quá trình thực hiện đã bộc lộ một số
điểm hạn chế.
Nay Quyết định 218 quy định trách nhiệm phối hợp của cơ quan thuế ở địa phương với
UBND các cấp và tổ chức, cá nhân. Đây chính là điều kiện để cơ quan thuế chủ động hơn
trong việc quản lý thuế. Đồng thời cũng quy định trách nhiệm của UBND các cấp trong
việc phối hợp chỉ đạo, kiểm tra cơ quan thuế.
2. Giai đoạn trước cách mạng tháng 8/1945
Ngày 06/01/2011
Những hình thức đóng góp thời kỳ đầu dựng nước và thời Bắc thuộc (Từ cuối thời
kỳ Hùng Vương đến giữa thế kỷ thứ X)
1- Thời kỳ đầu dựng nước:
Trải qua nhiều thiên niên kỷ tồn tại và phát triển, người dân Việt ngày càng đông, sống
trải rộng suốt từ biên giới Việt - Trung đến Quảng Bình ngày nay. Đầu thiên niên kỷ thứ
II trước Công nguyên (TCN) họ đã phát minh ra kỹ thuật luyện kim và phát triển dần lên,
tạo cơ sở cho một nền văn hoá đồng thau rực rỡ: Văn hoá Đông sơn. Đây cũng là thời kỳ
mà người Việt biết chăn nuôi gia súc, gia cầm, trồng lúa nước, dùng sức kéo trâu bò
4
TRẦN QUANG HUY-10K4051035

Từ sự phân công lao động xã hội, phân hoá giai cấp và với nhiều yêu cầu khác nhau, 15
khu vực lớn - lúc bấy giờ được gọi là "bộ lạc" - đã tập hợp nhau lại trong một quốc gia
thống nhất: nước Văn Lang - Nhà nước đầu tiên của người Việt ra đời.
Dưới thời Vua Hùng Vương, ruộng đất thuộc quyền sở hữu tối cao của nhà Vua, bao gồm
nhiều loại ruộng đất công ở các làng xã. Theo Các Mác, "nơi nào mà một bộ phận xã hội
chiếm độc quyền về tư liệu sản xuất thì nơi đó, người lao động tự do hay không tự do,
đều phải buộc thêm vào thời gian lao động tất yếu để nuôi sống mình, một số thời gian
trội ra để sản xuất ra tư liệu sinh hoạt cho người chiếm hữu tư liệu sản xuất". (Các Mác -
tư bản. Quyển I. Tập I - NXB Sự Thật - Hà nội - 1963. trang 321). Đối với Việt Nam, quy
luật đó cũng không thể là ngoại lệ.
Cùng với sự xuất hiện quyền chiếm hữu ruộng đất của một số tù trưởng ở nước ta thời đó,
quan hệ bóc lột đã bắt đầu phát sinh. Những thành viên trong các công xã phải nộp cho tù
trưởng của họ một phần sản phẩm làm ra hoặc một số ngày lao dịch không công. Hơn
nữa, Nhà nước của vua Hùng muốn tồn tại và phát triển , tất nhiên phải thu một số vật
phẩm của dân, bao gồm lương thực, thú vật săn bắt, sản phẩm thủ công , những mầm
mống đầu tiên của hình thức thuế. Trong thời kỳ ấy, khoản thu của Nhà nước Văn Lang ở
Trung ương là một bộ phận tài sản, vật phẩm của các địa phương, do các Lạc tướng trích
nộp lên trên.
Cuối thế kỷ thứ II TCN, nước Âu Lạc ra đời thay thế nước Văn Lang. Vua An Dương
Vương được thừa hưởng những tài sản mà Nhà nước của vua Hùng để lại và tìm cách gia
tăng thêm. Chế độ cống nạp, đóng góp được thực hiện đều đặn, ngày càng phong phú,
cho phép nhà vua xây dựng quân đội hùng mạnh, có nhiều thuyền chiến, giáo mác, cung
tên, xây dựng lâu đài ở trung tâm thành Cổ Loa.
Tuy nhiên, ở thời kỳ đầu dựng nước, các hình thức đóng góp của dân chỉ dừng lại ở trạng
thái "mầm mống thuế", cống phẩm là những hiện vật trong đó lương thực, thực phẩm, thú
vật săn bắt là chủ yếu.
2- Thời Bắc thuộc:
5
TRẦN QUANG HUY-10K4051035
Cuộc xâm lược của Triệu Đà năm 180 - 179 TCN, qua câu chuyện Mỵ Châu - Trọng

Thuỷ đã đưa Âu Lạc vào ách đô hộ của đế chế phương Bắc: thời Bắc thuộc, qua các triều
đại nhà Triệu, nhà Tây Hán, Đông Hán, nhà Ngô, nhà Tuỳ, nhà Đường.
2.1 Thời nhà Triệu, Tây Hán thống trị (từ thế kỷ thứ II TCN đến đầu thế kỷ thứ I
SCN):
Lúc đầu, thế lực thống trị phong kiến phương Bắc chưa trực tiếp nắm ngay được toàn bộ
nước ta. Chúng bắt buộc phải để cho các Lạc tướng được quyền trị dân và bóc lột như cũ,
với điều kiện là các Lạc tướng đó phải thường xuyên vơ vét những sản phẩm quý của dân
(như vàng, bạc, ngọc trai, sừng tê giác, ngà voi, đồi mồi ) để cống nạp lên cho chúng.
Nói cách khác, vua chúa phương Bắc đã dựa trên sự khống chế bằng bạo lực, uy quyền
để vơ vét cống phẩm, vừa có tính chất cướp bóc, vừa có tính chất sơ khai địa tô, với mức
áp đặt tuỳ thích, không theo phép tắc, luật lệ cố định.
2.2 Thời nhà Đông Hán, nhà Ngô, nhà Tuỳ thống trị (từ dầu thế kỷ thứ I đến dầu thế
kỷ thứ VII):
Nhà Đông Hán đã bỏ chế độ Lạc tướng "cha truyền con nối", thay thế bằng chế độ
"huyện lệnh" (đặt những viên cai trị ở các huyện) tuyển dụng từ giai cấp quý tộc ở địa
phương, nhưng ở một số vùng quan trọng, thì có các quan lại người Trung quốc trực tiếp
cai trị.
Đặc điểm của sự thống trị "lưỡng hợp" đó đã quyết định sự tồn tại song song của hai
phương thức bóc lột trong thời kỳ này là cống nạp và tô thuế. Nhìn chung cả nước,
phương thức bằng cống nạp lúc này vẫn là phổ biến.
Về cống nạp, dân ta phải nộp hạt châu, hương dược, ngà voi, sừng tê giác, đồi mồi, san
hô, chim vẹt, chim chả, chim công, cùng các vật lạ Về tô thuế, chính quyền phương Bắc
đã thi hành chính sách bóc lột bằng địa tô.
Xét về bản chất kinh tế, cần phân biệt hai khái niệm giữa "tô" và "thuế". Tô là sản phẩm
thặng dư mà nông dân phải nộp cho chủ đất khi sử dụng ruộng đất của họ. Thuế là những
khoản đóng góp của mỗi người dân đối với Nhà nước để giai cấp thống trị duy trì quyền
lực công cộng. Trong thời kỳ ấy, kẻ thống trị tự coi mình là chủ đất, vừa là người đứng
đầu Nhà nước phong kiến. Người nông dân vừa là người cày ruộng của vua, vừa là thần
6
TRẦN QUANG HUY-10K4051035

dân của vua. Bởi vậy, họ phải nộp cho vua cả tô lẫn thuế. Đúng như Các Mác đã
viết:"nếu đối lập với những người sản xuất trực tiếp không phải là những kẻ sở hữu ruộng
đất tư nhân, mà là của Nhà nước, như ở Châu á, với tư cách là một kẻ sở hữu ruộng đất,
đồng thời là vua chúa thì địa tô kết hợp làm một với thuế. Nói đúng hơn, trong trường
hợp đó, không có thuế khoá nào khác phân biệt với hình thái địa tô" (Các Mác. Tư bản.
Quyển III, tập III trang 243-244).
2.3 Thời nhà Đường thống trị (Thế kỷ VII đến đầu thế kỷ X)
Dưới thời thống trị của nhà Đường, chính quyền đã với tay tới cơ sở làng, xã. Nhà Đường
đã đặt ra "tiểu xã", "đại xã", "tiểu hương", "đại hương" với quy mô: tiểu xã gồm từ 10
đến 30 hộ; đại xã từ 40 đến 60 hộ; tiểu hương từ 70 đến 150 hộ; đại hương từ 160 hộ trở
lên. Đặc điểm đó đã quyết định phương thức bóc lột trong thời kỳ này, chủ yếu là tô,
thuế. Nhà Đường đã thi hành chế độ Tô, Dung, Điệu ở nước ta: Đối với tô, nhân đinh cày
ruộng phải nộp cho Nhà nước 2 thạch lúa; với dung, nhân đinh phải đi lao động công ích
1 năm từ 20 đến 50 ngày; với điệu, thợ thủ công phải nộp sản phẩm do mình làm ra (Lịch
sử Việt nam - tập I - trang 121). Theo nguyên tắc chung, tuỳ kết quả sản xuất được nhiều
hay ít để quy định mức thu sản phẩm, không thành quy tắc cố định, rõ ràng. Dân cư miền
núi cũng phải nộp tô thuế bằng nửa suất của dân cư miền xuôi. Ngoài ra, ở các vùng
trung tâm, các hộ được chia thành "thượng hộ" (phải nộp 1 thạch, 2 đấu thóc/hộ), "thứ
hộ" (8 đấu thóc/hộ) và "hạ hộ" (6 đấu thóc/hộ). (Nghiên cứu lịch sử số 16-trang 33).
Nhân đinh có vị trí quan trọng cho việc thu tô, thuế, lao dịch, bắt lính. Vì vậy, để thực
hiện triệt để chủ trương bóc lột, chính quyền đô hộ rất chú ý đến việc kiểm kê, kiểm soát,
nắm chắc hộ khẩu của dân.
2.4 Khái quát chính sách thuế dưới thời Bắc thuộc
Nhìn chung, trong thời Bắc thuộc, vấn đề tô thuế nổi lên một số điểm cơ bản sau đây:
- Từ thời Tây Hán (Thế kỷ thứ II TCN) đến hết thời nhà Tuỳ (đầu thế kỷ thứ VII) thống
trị nước ta, nhà nước phong kiến phương Bắc không trực tiếp quản lý và kinh doanh
ruộng đất, không cần sử dụng nhiều lao động sống (trừ một số nhu cầu đắp đê, xây
dựng ). Phương thức bóc lột cống nạp là chủ yếu. Lúc này, kinh tế tự nhiên ở nước ta
7
TRẦN QUANG HUY-10K4051035

gần như hoàn toàn bao trùm, kinh tế hàng hoá còn rất yếu. Có hai hình thức tô, thuế cùng
tồn tại bằng hiện vật và bằng lao dịch nhưng tô hiện vật chiếm vai trò chủ yếu.
- Từ thời Đông Hán (thế kỷ thứ I) phương thức bóc lột tô thuế đã xuất hiện nhưng đến
thời nhà Đường (từ thế kỷ thứ VII đến đầu thế kỷ thứ X) mới chiếm vị trí chủ yếu. Quá
trình chuyển biến từ phương thức cống nạp sang phương thức bóc lột bằng tô thuế cũng
là quá trình hình thành chế độ phong kiến, địa chủ ở nước ta.
Dưới thời kỳ bị phong kiến phương Bắc thống trị, một lớp địa chủ người Việt dần dần
xuất hiện. Đó là những tù trưởng các bộ lạc cũ đã đầu hàng phong kiến phương Bắc,
được phong hầu tước, cấp đất hoặc là những quý tộc, hào trưởng địa phương, lợi dụng uy
quyền của mình, dần dần xâm chiếm ruộng đất công. Tầng lớp địa chủ mới đã tiếp tục
bóc lột nông dân bằng hình thức địa tô hoặc lao dịch một số ngày lao động không công
- Tổ chức phụ trách thu các loại cống nạp, tô, thuế dưới thời Bắc thuộc được gọi chung là
"công tào", chủ yếu là: Diêm quan, phụ trách thu thuế muối; Thiết quan thu thuế khoáng
sản, đặc biệt là sắt; Thuỷ quan, thu thuế thuỷ sản; các huyện lệnh, trưởng hương, trưởng
xã chịu trách nhiệm thu các loại sản phẩm, tô thuế trong địa bàn được phụ trách. Sản
phẩm cống nạp phải tập trung chuyển về kho chính tại Trung quốc.
- Chế độ cống nạp, tô thuế rất nặng nề, một phần để nuôi dưỡng bộ máy quan lại và đội
quân chiếm đóng. Nhưng trên thực tế, bọn quan lại đô hộ sống chủ yếu bằng vơ vét, cướp
bóc tài sản của nhân dân ta. Trời rét căm căm, dân phải xuống biển mò ngọc trai, đồi mồi,
lên rừng tìm sừng tê giác, ngà voi Nếu không đủ số lượng thì bị đòn roi, chém giết dã
man Đó là một trong những nguyên nhân chủ yếu làm bùng nổ hàng loạt các cuộc khởi
nghĩa lớn nhỏ, đấu tranh quyết giành độc lập, tự do cho đất nước.
3.Giai đoạn 1945 - 1955 - Thời kỳ đầu chưa có chính sách thuế chính thức dưới
chính quyền cách mạng
Ngày 05/01/2011
Bối cảnh lịch sử thời kỳ đầu của Cách mạng tháng 8 và chính sách động viên đóng
góp chủ yếu theo hình thức tự nguyện
Sau cách mạng tháng 8 thắng lợi, nhu cầu chi tiêu cho công tác an ninh-quốc phòng và
bảo vệ đất nước trên nhiều mặt ngày càng lớn. Trong lúc đó, quỹ ngân khố Trung ương
8

TRẦN QUANG HUY-10K4051035
mà Nhà nước ta nắm được chỉ có 1.250.000 đồng Đông Dương (Một triệu hai trăm năm
mươi ngàn đồng) kể cả 580.000 đồng tiền hào rách chờ ngày tiêu huỷ. Tuy vậy, chủ
trương của Hồ Chủ Tịch và Chính Phủ cách mạng lâm thời là không thể đơn thuần giải
quyết vấn đề tài chính Nhà nước Việt nam chỉ biết bắt buộc nhân dân nộp thuế như chế
độ cũ.
Với phương châm "lấy dân làm gốc", dựa vào dân, vì lợi ích của nhân dân, ngày 4-9-
1945, Chính Phủ đã ban hành sắc lệnh số 4 thành lập "Quỹ độc lập" để thu nhận các món
tiền và đồ vật mà nhân dân sẵn lòng quyên góp ủng hộ nền độc lập quốc gia. Trong
khuôn khổ của Quỹ độc lập, từ ngày 19-9-1945 Tuần lễ vàng đã được phát động long
trọng trong cả nước. Nhân dịp này, trong bức thư gửi đồng bào cả nước, Hồ Chủ Tịch đã
nhấn mạnh "Tuần lễ vàng sẽ thu góp số vàng trong nhân dân, nhất là của các nhà giầu có
để dùng vào việc cần cấp và quan trọng nhất của chúng ta lúc này là quốc phòng. Tuần lễ
vàng sẽ tỏ cho toàn quốc đồng bào và cho toàn thế giới biết rằng trong lúc chiến sĩ Việt
minh trên các mặt trận quyết hy sinh giọt máu cuối cùng để giữ vững nền tự do độc lập
của nước nhà thì đồng bào ở hậu phương, nhất là những nhà giàu có cũng có thể hy sinh
được chút vàng để phụng sự tổ quốc. Như thế, Tuần lễ vàng không những có ý nghĩa
đóng góp vào nền tài chính, quốc phòng mà còn có ý nghĩa chính trị quan trọng Tôi tin
rằng toàn quốc đồng bào, nhất là các nhà giàu có , trong sự quyên góp này sẽ xứng đáng
với sự hy sinh phấn đấu của các chiến sỹ ái quốc trên các mặt trận" (Hồ Chủ Tịch toàn
tập - NXB Sự thật- Hà nội 1984- Tập 4- Trang 15-16).
Nhờ vậy, Quỹ độc lập, Tuần lễ vàng và Tuần lễ đồng đã được đồng bào cả nước nhiệt
liệt hưởng ứng. Nhiều người, nhiều gia đình đã không tiếc những đôi hoa tai vàng từ hồi
còn con gái, những chiếc nhẫn cưới, những đôi vòng, đôi xuyến vốn là những kỷ niệm
quí giá, thiêng liêng của gia đình, những bộ tam sự, ngũ sự đã bao đời dùng để thờ cúng
tổ tiên góp vào công quỹ Nhà nước. Một cụ già 80 tuổi mang đến một gói lụa điều bên
trong là nén vàng gia bảo nặng 17 lạng, có người quyên góp toàn bộ tư trang của những
người trong gia đình đến nộp cho ban tổ chức Tuần lễ vàng Lòng dân đối với chính
quyền cách mạng thật vô biên. Theo báo cáo tổng hợp của Bộ Tài chính ngày 20-5-1946
thì Quỹ độc lập đã thu được 20 triệu đồng Đông Dương và Tuần lễ vàng đã động viên

9
TRẦN QUANG HUY-10K4051035
được khoảng 370kg vàng, tương đương với số thuế thu trong 1 năm dưới chính quyền
thực dân, phong kiến ở nước ta. (Võ Nguyên Giáp – Những chặng đường lịch sử – NXB
Chính trị quốc gia 1994 – trang 275).
Thực hiện 10 chính sách trong chương trình Việt Minh trước thực trạng chế độ thuế khoá
dưới chế độ thực dân phong kiến cũ quá hà khắc, Đảng và Chính phủ chủ trương bãi bỏ
các thứ thuế hà khắc do Pháp - Nhật đặt ra, đồng thời xây dựng một hệ thống chính sách
thuế mới hợp lý, công bằng, giảm nhẹ hơn, nhằm giải phóng sức sản xuất bị kìm hãm từ
bao đời nay do nạn sưu cao, thuế nặng. Nhưng tiếc rằng, do không nắm vững các quan
điểm, nội dung chính sách thuế mới nên một số cán bộ lại tuyên truyền, nhấn mạnh đến ý
kiến: "Chính quyền cách mạng sẽ bỏ hết các thứ thuế", gây nên sự hiểu lầm trong một số
người là dưới chính quyền cách mạng sẽ không phải nộp thuế nữa. Vì vậy, sắc lệnh số 11
ngày 7-9-1945 của Chính Phủ đã nêu rõ: "Chính sách thuế khoá hiện hành sẽ thay đổi
dần; Mỗi khi bãi bỏ một thứ thuế cũ hay đặt ra một thứ thuế mới phải có sắc lệnh ấn
định". Trong sắc lệnh cũng đã qui định: "Bãi bỏ thuế thân là một thứ thuế vô lý, trái
ngược với tinh thần của chính thể dân chủ cộng hoà". Việc xoá bỏ thuế thân đã thực sự
giải phóng nhân dân ta thoát khỏi sự trói buộc vào chiếc thẻ thuế thân, gắn với bắt bớ,
giam cầm, hành hạ nhân dân như đối với người nô lệ. Chính Phủ cũng ra lệnh đình chỉ
hẳn việc nấu và bán thuốc phiện nhằm chống tệ nạn nghiện hút mà thực dân Pháp đã, đầu
độc nhân dân ta để thu lợi nhuận và bần cùng hoá đời sống nhân dân ta, gây nên cảnh tan
nát của các gia đình.
Ngày 29-9-1945, Bộ Tài chính đã ban hành Chỉ thị số 3-TC bãi bỏ chế độ độc quyền
muối . Đồng thời tổ chức mua muối của dân với giá hợp lý, giảm bớt thiệt thòi cho nhân
dân, tạo được yên tâm, phấn khởi sản xuất trong dân.
Trong tình hình bị lũ lụt gây mất mùa, đói kém cho nông dân, ngày 28-10-1945, Bộ Tài
chính đã được phép ban hành Nghị định giảm đồng loạt 20% thuế điền thổ chung cho cả
nước và miễn thuế điền thổ năm 1946 cho các vùng bị lũ lụt.
Dưới chế độ cũ, thuế môn bài cũng là một gánh nặng đáng kể với người buôn bán nhỏ.
Sắc lệnh ngày 27-9-1945 đã quyết định bãi bỏ các hạng thuế môn bài thấp (dưới 50

10
TRẦN QUANG HUY-10K4051035
đồng/năm). Đối với các hộ nộp thuế môn bài với mức cao hơn cũng được bỏ phần phụ
thu nộp cho Ngân sách các cấp nhằm giảm nhẹ mức đóng góp của các cơ sở SXKD.
Trong hoàn cảnh nhân dân ta đang bị nạn đói hoành hành, sắc lệnh số 57 ngày 10-11-
1945 đã quyết định cấm sản xuất, tàng trữ, tiêu thụ rượu nấu bằng ngũ cốc, gắn với cuộc
vận động sâu rộng toàn dân không uống rượu với khẩu hiệu "Mỗi giọt rượu là một giọt
máu của đồng bào". Những vi phạm đối với các quy định trên đều bị xử lý nghiêm khắc.
Chế độ công quản, độc quyền nấu rượu của các Công ty tư nhân dưới chính quyền cũ
cũng bị bãi bỏ.
Được giải phóng khỏi thuế thân; giảm, miễn thuế điền thổ, thuế môn bài, thoát khỏi nạn
độc quyền công quản thuốc phiện, rượu, muối, bước đầu được hưởng chế độ tư do dân
chủ, đời sống giảm bớt khó khăn, quần chúng nhân dân vô cùng phấn khởi, yên tâm đẩy
mạnh sản xuất. Nhìn về hình thức bên ngoài, thì số thu của NSNN có bị giảm sút nhưng
cái được còn lớn lao hơn nhiều, đó là "thu được lòng dân", tạo được lòng tin của dân đối
với Đảng, Bác Hồ, Chính Phủ. Nhân dân quyết tâm đi theo Đảng, sẵn sàng chịu đựng mọi
hy sinh, mất mát để giữ được nền độc lập, tự do vừa mới giành được.
Kết quả đóng góp tự nguyện của nhân dân tuy rất to lớn song vì đời sống còn quá nghèo
nàn, khả năng đóng góp bằng tinh thần yêu nước còn rất hạn chế. Sau ngày kháng chiến
Nam bộ bùng nổ (23-9-1945) nhu cầu chi tiêu của NSNN tăng mạnh. Trong lúc đó, đời
sống kinh tế xã hội từng bước ổn định hơn. Chính phủ xác định đã đến lúc cần có thêm
một số biện pháp Tài chính phù hợp để động viên sự đóng góp của nhân dân mang tính
nghĩa vụ, đúng quy định của Nhà nước.
Đầu năm 1946, Bộ Tài chính đã điều chỉnh tăng thuế đối với thuốc lào, thuốc lá, rượu
ngoại, các loại bài lá, với những người đến mua vui tại các cuộc du hý công cộng : rạp
hát, rạp chiếu bóng, rạp xiếc, tiệm khiêu vũ, nhà ả đào, cuộc đua ngựa (Nghị định số
126/TC ngày 2/1/1946; Nghị định số 131/TC ngày 7/1/1948), phục hồi chế độ thu thuế
môn bài đối với loại buôn bán nhỏ do tình hình kinh tế tốt hơn, có khả năng thực hiện đầy
đủ nghĩa vụ nộp thuế.
11

TRẦN QUANG HUY-10K4051035
Theo Nghị định 193/TC ngày 5-2-1946 của Bộ Tài chính, xe ô tô vận tải phải nộp thuế
đặc biệt tính theo chỗ ngồi dành cho hành khách hay mức trọng tải của mỗi xe, dùng cho
việc sửa chữa đường sá, cầu cống.
Theo Nghị định 194/TC ngày 15-2-1946 của Bộ Tài chính, trâu, bò, ngựa, lợn, cừu, dê,
đưa ra làm thịt ăn hay bán phải nộp thuế đặc biệt với mức thuế phân biệt giữa Bắc bộ,
Trung bộ, Nam bộ đối với mỗi con trâu, bò, ngựa là 30đ, 20đ, 15đ, mỗi con lợn, dê, cừu
là 15đ, 10đ, 5đ.
Ngoài ra, Nhà nước tăng thêm thuế lưu hành thuốc lào, thuốc lá, rượu tây, rượu tầu; tăng
gấp 4 lần với việc lưu hành bài lá; đặt thêm thuế vãng lai đối với tàu thuyền đi lại trên
sông Bắc kỳ.
Ngày 10-4-1946 Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh số 48 thành lập một khoản đóng góp
bắt buộc mới được gọi là "đảm phụ quốc phòng" với đạo lý: "Trong khi các chiến sỹ
mang xương máu ra bảo vệ non sông thì quốc dân ở hậu phương được yên ổn làm ăn
cũng phải có nhiệm vụ đóng góp vào công cuộc bảo vệ quốc gia". Đảm phụ quốc phòng
động viên sự đóng góp rộng rãi mang tính chất bắt buộc theo nghĩa vụ công dân, góp
phần bảo vệ Tổ quốc với định mức chung trong năm 1946 đối với mọi công dân từ 18
tuổi đến 65 tuổi là 5đồng/suất (trừ người nghèo khổ, tàn tật không kế sinh nhai, binh lính
tại ngũ, cha mẹ, vợ chồng liệt sĩ ) Riêng đối với người có ruộng đất, hoạt động kinh
doanh nộp thuế điền thổ, thuế thổ trạch, thuế môn bài và công nhân viên chức mà lương
bổng trong năm trên 1.000 đồng thì nộp thuế theo "đảm phụ tỷ lệ" từ 20 đồng đến 3.000
đồng.
Chỉ trong thời gian ngắn, riêng ở Bắc bộ và Trung bộ khoảng 8 triệu công dân đã đóng
góp xấp xỉ 40 triệu đồng, nhiều người trong diện được miễn cũng xin được đóng góp
"đảm phụ quốc phòng", có người nằm trong diện đóng góp xin được đóng cao hơn so với
mức quy định.
Theo các sắc lệnh số 69 ngày 15-5-1946 và sắc lệnh số 78 ngày 29-5-1946. Chính Phủ
đã điều chỉnh biểu thuế điền thổ cho phù hợp với thời giá lúc bấy giờ, nhẹ hơn nhiều so
với trường hợp "cấy rẽ, nộp tô".
12

TRẦN QUANG HUY-10K4051035
Hình thức đóng góp tự nguyên cũng được phát triển với nhiều dạng phong phú như "Hũ
gạo nuôi quân" "Giúp binh sĩ bị nạn", "Giúp đồng bào tản cư" "Quỹ bình dân học vụ" "
Đón thương binh về làng" "Đỡ đần bộ đội" "Hũ gạo cứu nước", "Hũ gạo nuôi quân",
"Thóc Bác Hồ khao quân" Nhân dân ngày càng tin tưởng vào thắng lợi của cuộc kháng
chiến, hăng hái đóng góp sức người, sức của.
Bên cạnh các hình thức đóng góp như trên, bấy giờ còn có hình thức đóng góp khác rất
phổ biến, đó là "ăn cơm nhà, làm việc nước", bụng đói nhưng vẫn hăng hái luyện tập
quân sự, canh gác xóm làng suốt ngày đêm hay đi dân công phục vụ tiền tuyến. Một gia
đình có con em đi bộ đội, đi dân công thì cả xóm phân công nhau giúp đỡ, trông nom
người già yếu ở nhà để người đi được yên tâm, ruộng vườn không bị hoang hoá.
Cùng với chính sách động viên, Đảng và Chính Phủ đã rất quan tâm tìm mọi cách từng
bước bồi dưỡng sức dân qua các phong trào vận động "đẩy mạnh tăng gia sản xuất",
"thực hành tiết kiệm", "giảm tô giảm tức" phân chia ruộng đất lĩnh canh trong các đồn
điền tịch thu của bọn thực dân, phản động hoặc tạm giao ruộng đất tịch thu của bọn Việt
gian cho nông dân nghèo canh tác, cho vay tín dụng bằng tiền, bằng trâu bò, nông cụ ,
không đòi hỏi thế chấp bằng ruộng đất, tài sản
Chính sách tiết kiệm đã trở thành "quốc sách" được mọi cấp, mọi ngành và đại bộ phận
các tầng lớp nhân dân đồng tình ủng hộ và thực hiện trong tiêu dùng. Bộ máy chính
quyền của mỗi Tỉnh thường không quá 30 người; rất ít trường hợp dùng xe công cho việc
riêng; đất không bị bỏ hoang, kể cả những mảnh vườn nhỏ xung quanh các cơ quan
Trung ương tại An toàn khu Việt Bắc; mỗi tuần lễ, mỗi gia đình bớt ăn mấy nắm gạo bỏ
vào hũ gạo nuôi quân, hũ gạo cứu đói thậm chí ở cơ quan, một phong bì thư được dùng
đi dùng lại 2-3 lần; bản nháp công văn, lần đầu viết bằng bút chì, lần sau mới viết bằng
bút mực Nhìn về hình thức, những việc trên đây mang tính bình thường nhưng trong
lúc đất nước còn nghèo, với phương châm "kiến tha lâu đầy tổ" "năng nhặt chặt bị" "góp
gió thành bão" thì những việc trên đây có ý nghĩa rất thiết thực, to lớn.
Các hình thức quyên góp, đảm phụ quốc phòng và một số cải cách về thuế chỉ đáp ứng
được một phần nhỏ nhu cầu chi tiêu của NSNN. Để vươn lên thế chủ động về tài chính,
Đảng và Chính Phủ đã quyết định khẩn trương chuẩn bị mọi điều kiện để in và phát hành

13
TRẦN QUANG HUY-10K4051035
giấy bạc Việt nam. Ngày 15-11-1945 cơ quan ấn loát (in bạc) của Bộ Tài chính, tiền thân
của nhà in Ngân hàng ra đời và bắt đầu hoạt động Từ 3/2/1946 (ngày tết đầu tiên sau
Cách mạng Tháng 8 thắng lợi) ở các tỉnh Nam Trung bộ, những tờ giấy bạc đầu tiên của
nước Việt nam dân chủ cộng hoà ra mắt trước sự hoan nghênh nhiệt liệt của nhân dân.
Mọi người nô nức đổi tiền ĐD lấy tiền Việt Nam, nên Chính phủ đã thu hồi được số tiền
ĐD đáng kể để chi tiêu trong những vùng chưa phát hành tiền Việt Nam. Giấy bạc Việt
Nam trong giai đoạn này do Bộ Tài chính phát hành nên có tên gọi là "tiền tài chính".
Trên tờ giấy bạc có hình Hồ Chủ tịch nên còn được gọi là "giấy bạc Cụ Hồ". Ngày
3/11/1945, Quốc hội đã quyết định cho lưu hành giấy bạc Việt Nam trong cả nước, kịp
thời trở thành lợi khí phục vụ nhu cầu của cuộc trường kỳ kháng chiến nổ ra từ
19/12/1946.
Đầu năm 1948, qua nhiều thắng lợi giòn giã, cuộc kháng chiến chống Pháp đã được
chuyển sang giai đoạn cầm cự, giằng co với địch. Về kinh tế hưởng ứng lời kêu gọi của
Hồ Chủ Tịch, toàn dân "Thi đua ái quốc", phong trào thi đua sản xuất được đẩy mạnh ở
tất cả vùng tự do. Về nông nghiệp đã có một số chính sách khuyến khích sản xuất được
ban hành như: chia lại công điền, tạm cấp ruộng đất vắng chủ, tăng cường giảm tô, giảm
tức, cho vay sản xuất nông nghiệp Về công thương nghiệp: cho vay vốn, tích cực bao
vây kinh tế địch, bảo vệ hàng sản xuất ở vùng tự do. Nhờ đó, trong khu vực nông nghiệp,
công thương nghiệp đã có những bước phát triển khá.
Về thuế, đã có những điều chỉnh phù hợp với thời giá lên cao, biểu thuế điền thổ tăng
50%, thuế nhập khẩu tăng từ 5% lên 10% và từ 15% lên 20% (Sắc lệnh số 218 ngày
20/8/1948)
Bước vào năm 1949, căn cứ vào tình hình chung có nhiều biến động có lợi cho ta, Chính
Phủ ra lệnh "Tích cực cầm cự, chuẩn bị tổng phản công". Ngày 8-5-1949, sắc lệnh số 36
ra đời, đặt ra quỹ "Tham gia kháng chiến" quy định suất đóng góp bắt buộc cho mỗi công
dân là 60 đồng, tương đương 10 ngày sinh hoạt phí của bộ đội.
Năm 1950, lực lượng quân sự của ta mạnh mẽ hơn nhiều. Cách mạng Trung quốc thành
công có ảnh hưởng tích cực tới cuộc kháng chiến của ta, Liên Xô, các nước XHCN và

14
TRẦN QUANG HUY-10K4051035
nhiều nước khác lần lượt công nhận Chính Phủ ta làm cho địa vị quốc tế của nước ta
ngày càng tăng thêm, thế của ta càng mạnh.
Để đáp ứng nhu cầu chi tiêu kháng chiến ngày càng nhiều theo hướng tích cực trên các
lĩnh vực, ngày 12-12-1950 Hồ Chủ Tịch đã ký sắc lệnh Tổng động viên nhân tài vật
lực của toàn dân theo phương châm "Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng" Tất cả
các địa phương, toàn dân thi đua thực hiện bằng được khẩu hiệu "Thuế không thiếu một
cân, quân không thiếu một người". Cuộc vận động trên không những chỉ có đồng bào ở
vùng tự do hăng hái thi đua làm nghĩa vụ đóng góp đảm phụ, nộp thuế mà cả đồng bào
vùng tạm bị chiếm cũng hăng hái, phấn khởi góp quân lương, bán thóc cho Chính Phủ.
Nhân dân ta còn vượt qua bao nguy hiểm của vòng vây của giặc để tự nguyện gánh, thồ
thóc ra vùng tự do "đóng nhanh lúa tốt"
Nhìn chung trong các năm 1950-1951, kinh tế – tài chính của ta gặp rất nhiều khó khăn
do cuộc kháng chiến phát triển, chi tiêu ngày càng nhiều. Việc thi hành chính sách tài
chính còn nhiều thiếu sót, mức động viên còn mang tính bình quân, chính sách thuế còn
dè dặt . . Thuế thu vừa thấp, vừa chưa đánh mạnh vào các tầng lớp có nhiều thóc, nhiều
tiền . Thuế thu bằng tiền chỉ bảo đảm phần nhỏ yêu cầu chi tiêu của Nhà nước. Thuế điền
thổ và quỹ công lương từ năm 1950 đã chuyển sang thu bằng hiện vật, theo luỹ tiến
nhưng mức huy động còn chưa sát với các tầng lớp nhân dân. Số thu cho NSNN còn thấp
nên Chính phủ phải dựa nhiều vào việc phát hành giấy bạc để đáp ứng đủ yêu cầu chi tiêu
về quân sự, hành chính.
Trong bài trả lời phỏng vấn của Báo Cứu quốc về kết quả tổng động viên, Bác Hồ đã nói
:"Từ nay trở đi, cuộc tổng động viên phải tiếp tục rộng lớn, đều hơn, mạnh hơn. Phải làm
cho bộ đội đủ ăn, đủ mặc, đủ người giúp việc trong khi chuẩn bị chiến trường, sửa sang
đường sá" (Hồ Chí Minh toàn tập - NXB Sự thật - Tập 5- Trang 316)
Về tài chính, phương hướng đề ra là động viên đến mức cao nhất khả năng đóng góp của
nhân dân một cách công bằng, hợp lý. Chuyển hướng quan trọng đối với các khoản đóng
góp chính là không thu bằng tiền mà thu bằng hiện vật, chủ yếu là bằng thóc, nhằm tránh
ảnh hưởng của lạm phát, đồng bạc của ta bị sút giảm, đảm bảo cho bộ đội ăn no đánh

thắng và cung cấp đủ lương thực cho công nhân viên chức Nhà nước. Trên tinh thần đó,
15
TRẦN QUANG HUY-10K4051035
"Quỹ tham gia kháng chiến" ban hành năm 1949 với mức quy định là 60 đồng/suất được
chuyển thành "Quỹ công lương" thu bằng 10kg thóc/suất. Đồng thời tăng cường thu các
loại thuế được duy trì sau khi loại bỏ các loại thuế nô dịch, mang tính chất bóc lột; sửa lại
thuế điền thổ hợp lý hơn và đánh luỹ tiến vào hoa lợi của chủ ruộng đất, phù hợp hơn với
khả năng của người nộp thuế, đặc biệt là động viên hợp lý vào địa chủ, phú nông có
nhiều ruộng đất phì nhiêu, thu hoạch cao. Thuế môn bài được điều chỉnh tăng gấp đôi;
thuế trước bạ tăng gấp 2 lần, thuế thuốc lào, thuốc lá tăng gấp 4 lần cho phù hợp với thời
giá (Bộ Tài chính - Lịch sử Tài chính Việt nam - Tập 1- 1993- trang 76).
Nhằm thu hồi bớt một số lượng tiền phát hành quá mức, đẩy giá lên cao, Chính phủ ta đã
dùng đến hình thức phát hànhcông trái. Theo Sắc lệnh 122 ngày 16/7/1946, Nam bộ là
nơi đầu tiên được phát hành công trái (gọi là "công thải") để huy động sự đóng góp tài
lực của nhân dân, với mức vay là 5 triệu đồng, chia làm 5 kỳ, lãi không quá 5%/năm.
Phát huy thắng lợi của chiến thắng Việt Bắc thu đông 1947, theo Sắc lệnh số 166 ngày
11/4/1948, Chính phủ cho phát hành công phiếu kháng chiến nhằm hai mục đích: Huy
động số tiền nhàn rỗi trong dân, phục vụ sản xuất chiến đấu và dùng công phiếu kháng
chiến như một thứ tiền dự trữ, đề phòng trường hợp đứt liên lạc với trung ương,
UBKCHC địa phương có thể ra lệnh lưu hành Công phiếu kháng chiến như giấy bạc,
theo giá trị ghi trên Công phiếu kháng chiến. Dự kiến phát hành 500 triệu đồng, lãi suất
3%/năm, thời hạn trả lãi 5 năm. Do công tác tuyên truyền vận động chưa tốt, việc bán
Công phiếu kháng chiến kéo dài đến hết năm 1949, tiền sụt giá nhanh, cũng chỉ bán được
2/3 số phiếu phát hành.
Rút kinh nghiệp Công phiếu kháng chiến, ngày 19/9/1950, Chính phủ đã cho phát hành
Công trái quốc gia, ghi bằng thóc để bảo đảm giá trị số tiền dân cho vay với tổng mức
phát hành là 100.000 tấn thóc, lãi suất 3%/năm, thời hạn hoàn trả 5 năm. Công tác tuyên
truyền làm tốt hơn nhưng kết quả cũng chỉ đạt khoảng 30% dự tính. Nguyên nhân chủ
yếu là hình thức công trái còn xa lạ với số đông dân chúng, chỉ quen nộp thuế, ủng hộ,
chưa mạnh dạn bỏ nhiều tiền ra mua công trái, một phương tiện cất giữ tiền và sinh lợi.

Nhu cầu chi tiêu cho kháng chiến tăng nhanh hơn nhiều so với những cố gắng và kết quả
động viên dươí các hình thức tự nguyện và bắt buộc nêu trên đây. Do đó trong 4 năm
16
TRẦN QUANG HUY-10K4051035
kháng chiến (1947-1950), số thu Ngân sách chỉ đáp ứng khoảng 25% nhu cầu chi tiêu,
còn lại phải dựa vào phát hành (Bốn mươi năm trưởng thành của ngành Tài chính Việt
nam 1945-1985 - trang 13).
Nhìn chung, các chủ trương, chính sách và biện pháp về tài chính, tiền tệ từ sau cách
mạng tháng 8 đến năm 1950 đã khơi dậy được lòng yêu nước, thương nòi, tinh thần độc
lập, tự chủ và tinh thần đóng góp của các tầng lớp nhân dân. Qua đó, đã từng bước góp
phần khắc phục được những khó khăn cực kỳ gay gắt, bảo đảm các nhu cầu chi tiêu ngày
càng nhiều trong bước đầu của cuộc kháng chiến. Tuy nhiên, nguồn thu chủ yếu vẫn dựa
vào sự đóng góp tự nguyện của nhân dân mà người nghèo lại hăng hái hơn người giầu có
thì kết quả còn rất hạn chế. Chế độ động viên theo nghĩa vụ chưa được hình thành chặt
chẽ, chính sách thuế còn sơ sài, chắp vá trên một số loại thuế dưới chế độ cũ; hệ thống
thuế mới chưa được xây dựng; tư tưởng muốn xoá thuế, xem nhẹ thuế, còn phổ biến
trong một số cán bộ. Số thu vào NS chỉ đáp ứng được phần nhỏ nhu cầu chi tiêu, phải dựa
chủ yếu vào nguồn phát hành tiền, một lợi thế mà cách mạng đã giành được qua lòng tin
của nhân dân đối với Đảng và Hồ Chủ Tịch là rất cần thiết và có tác dụng to lớn nhưng
cũng có những tồn tại, hậu quả không tốt do tình trạng lạm phát, giá trị đồng tiền ngày
càng giảm sút.
4.Giai đoạn 1956 - 1965 - Sau khi có hệ thống chính sách thuế mới dưới Chính
quyền cách mạng
Ngày 04/01/2011
Bối cảnh lịch sử - Phương hướng nhiệm vụ đối với công tác thuế
Sau chiến thắng Điện biên phủ, Hiệp định Geneve năm 1954 đã kết thúc thắng lợi 9 năm
kháng chiến của nhân dân ta chống thực dân xâm lược Pháp. Nhưng đất nước ta còn bị
chia cắt: Miền Bắc được giải phóng vẫn mang hậu quả nặng nề của chiến tranh tàn phá;
miền Nam còn phải sống dưới ách đô hộ tàn bạo của đế quốc Mỹ xâm lược và bè lũ tay
sai. Nhân dân ta bước vào thời kỳ phải thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược: vừa

xây dựng CNXH ở miền Bắc, vừa đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất tổ quốc.
Thuận lợi cơ bản đối với chúng ta lúc này là hoà bình, nhân dân ta đoàn kết, yêu nước,
tin tưởng ở Đảng, Bác Hồ và Nhà nước CM, hăng hái thực hiện những chủ trương, chính
17
TRẦN QUANG HUY-10K4051035
sách mới của Chính Phủ. Đồng thời có phe XHCN tận tình giúp đỡ chúng ta. Song hoàn
cảnh chiến tranh đã từng gây cho ta rất nhiều khó khăn mà bao trùm là nền kinh tế bị
chiến tranh tàn phá nặng nề. Nạn đói kéo dài đe doạ đời sống của nhân dân miền Bắc.
Ngoài ra việc chuyển hướng quản lý kinh tế của vùng tự do cũ, chủ yếu dựa vào nông
thôn sang một nền kinh tế bao gồm cả nông thôn và thành thị, với vùng mới giải phóng
còn nặng nề tàn tích của Chủ nghĩa đế quốc, thực dân, chưa có sự thống nhất về giá cả,
tiền tệ và có nhiều việc còn rất mới mẻ, phức tạp.
Đi đôi với chủ trương khôi phục kinh tế, Đảng và Nhà nước đã chủ trương củng cố nền
tài chính quốc gia, vạch rõ những nhiệm vụ tài chính thích hợp với những điều kiện kinh
tế- xã hội và yêu cầu khôi phục kinh tế trong lúc này là:
-Tăng thu đúng chính sách, chế độ; triệt để khai thác các nguồn thu trong nước, động
viên đúng mức khả năng đóng góp của các tầng lớp nhân dân. Thuế vẫn là nguồn thu
quan trọng nhất, đặc biệt là thuế CTN; hạ dần mức động viên đối với thuế nông nghiệp.
Tăng cường các khoản thu từ xí nghiệp quốc doanh, sử dụng hợp lý các khoản viện trợ,
tăng dần tỷ lệ thu trong nước.
-Giảm chi tiêu hành chính đi đôi với chống lãng phí, tham ô. Dành phần lớn chi tiêu để
khôi phục và phát triển kinh tế.
-Bảo đảm thăng bằng thu chi NSNN, đi đôi với thăng bằng thu chi tiền mặt, góp phần
bình ổn vật giá, thị trường, cải thiện đời sống nhân dân; chú ý đời sống bộ đội, cán bộ
công nhân viên chức.
-Xây dựng chính sách, chế độ tài chính, chú ý nghiên cứu, sửa đổi những điểm chưa hợp
lý và bổ sung một số điểm cần thiét trong chính sách thuế, nghiên cứu xây dựng chế độ
quản lý XNQD, sửa đổi chế độ lương của CB viên chức và bộ đội.
Để đáp ứng kịp thời nhu cầu chi tiêu trong tình hình chưa có chính sách, chế độ tài chính
thống nhất giữa vùng tự do và vùng mới giải phóng. Nhà nước đã thi hành một số biện

pháp chuyển tiếp từ chiến tranh sang hoà bình như:

o Bãi bỏ một số thứ thuế nô dịch và bất công trong vùng tạm chiếm cũ như:
Thuế thân, thuế gái điếm, thuế sòng bạc trái với chế độ xã hội của ta
18
TRẦN QUANG HUY-10K4051035
- Tạm thời vận dụng một số chính sách thuế, để từng bước khắc phục tình trạng quá
chênh lệch và thực hiện nghĩa vụ đóng góp giữa 2 vùng.
+ ở vùng nông thôn mới giải phóng: Vận dụng thuế nông nghiệp, thực hiện ở vùng tự do
và giảm 50% số thuế. Thuế nông nghiệp vẫn tiếp tục được thu bằng thóc để đảm bảo nhu
cầu lương thực, góp phần vào quản lý thị trường, ổn định giá cả.
+ ở các thành thị mới giải phóng: Vận dụng các loại thuế CTN theo thể lệ của chế độ cũ.
Đồng thời tiến hành việc thu đổi tiền Đông Dương, phát hành tiền Ngân hàng của ta vào
vùng mới giải phóng.
Qua đó, xoá bỏ một bước sự khác nhau về chế độ đóng góp giữa 2 vùng, thống nhất giá
cả, tiền tệ, ổn định thị trường, đời sống và tăng thu cho NSNN. Đồng thời với việc áp
dụng những biện pháp tạm thời trên đây, Bộ Tài chính đã tiến hành nghiên cứu "chính
sách thuế thành thị" là công cụ có hiệu lực của Nhà nước, phục vụ kế hoạch khôi phục và
phát triển kinh tế (1955-1957) với các nhiệm vụ chủ yếu sau:
- Bảm đảm yêu cầu tăng cường tích luỹ vốn để kiến thiết quốc gia, đáp ứng nhu cầu chi
tiêu của NSNN.
- Tích cực thu hồi tiền mặt, góp phần củng cố giá trị tiền tệ, ổn định vật giá;
- Hướng dẫn hoạt động SXKD có lợi cho quốc kế dân sinh, góp phần bảo hộ và phát
triển kinh tế quốc doanh.
- Góp phần thúc đẩy việc khôi phục và phát triển kinh tế, tạo tiền đề cho công cuộc cải
tạo nền kinh tế theo hướng sử dụng, hạn chế và cải tạo CTN tư bản tư doanh bằng hình
thức thích hợp (công tư hợp doanh, đại lý, kinh tiêu) hợp tác hoá người SX nhỏ, sắp xếp
và chuyển tiểu thương sang lao động SX
- Điều tiết lợi nhuận CTN tư bản tư doanh, điều hoà thu nhập của các tầng lớp dân cư.
Chính sách thuế mới được áp dụng thống nhất với mọi cơ sở SXKD thuộc mọi thành

phần kinh tế trên nguyên tắc: thuế đối với quốc doanh nhẹ hơn tư nhân; động viên đối với
SX nhẹ hơn buôn bán; ngành nghề, mặt hàng cần thiết nhẹ hơn ngành nghề, mặt hàng
không cần thiết, xa xỉ, cao cấp; biện pháp thu đơn giản, bảo đảm tính công bằng, hợp lý
19
TRẦN QUANG HUY-10K4051035
Từ cuối năm 1954, Nhà nước đã công bố hệ thống thuế mới hoàn chỉnh và lần lượt ban
hành áp dụng thống nhất trên toàn miền Bắc. Hệ thống thuế mới gồm có thuế nông
nghiệp thu bằng hiện vật và 12 thứ thuế thu bằng tiền là:

o Thuế doanh nghiệp
o Thuế lợi tức doanh nghiệp
o Thuế buôn chuyến
o Thuế hàng hoá
o Thuế sát sinh
o Thuế kinh doanh nghệ thuật
o Thuế thổ trạch
o Thuế môn bài
o Thuế trước bạ
o Thuế muối
o Thuế rượu
o Thuế xuất khẩu - Thuế nhập khẩu.
5.Giai đoạn 1966 - 1975 - Thời kỳ cải tạo và xây dựng CNXH ở miền Bắc
Ngày 03/01/2011
Ở miền Bắc - Kết quả thu các loại
Yêu cầu rất to lớn và khẩn trương của nền tài chính quốc gia trong thời kỳ cả nước có
chiến tranh (1966-1975) với những nhiệm vụ đặc biệt là vừa tiếp tục xây dựng chủ nghĩa
xã hội, vừa chiến đấu chống xâm lược, đòi hỏi số thu tăng lên gấp bội. So với thời gian
1961-1965, số thu trong nước chỉ tăng chút ít trong thời gian chiến tranh phá hoại lần thứ
nhất (1965-1968); sau đó, nhờ kết quả khôi phục và phát triển kinh tế, thu trong nước
tăng lên 1,6 lần so với những năm 1961-1965. Đặc biệt tăng nhanh là nguồn thu từ ngoài

nước: số tiền viện trợ và vay nợ bình quân năm từ 1961-1965 là 29% tổng thu ngân sách
nhà nước; 1966-1970 là 60,6% và 1971-1975 là 60,3%. Tổng hợp chung, so với 1961-
1965, tổng thu ngân sách 1966-1970 gấp 2 lần; 1971-1975 gấp 2,7 lần. (Lịch sử Tài chính
Việt Nam – tập I – trang 228 và 229).
20
TRẦN QUANG HUY-10K4051035
Nhìn chung, trong thời kỳ 1966-1975, tài chính đã bám sát nhiệm vụ chính trị của Đảng
và Chính phủ, cố gắng tăng nguồn thu để bảo đảm nhu cầu chi to lớn, khẩn trương trong
hoàn cảnh vô cùng khó khăn, phức tạp của sự nghiệp chống ngoại xâm đi đối với xây
dựng và bảo vệ tổ quốc, nên đã góp phần xứng đáng vào thắng lợi chung của cả nước.
6.Giai đoạn 1976 - 1985 - Thời kỳ thống nhất đất nước - trước cải cách hệ thống
chính sách thuế
Ngày 02/01/2011
Bối cảnh lịch sử 1976 - 1980
Sau thắng lợi to lớn của chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, miền nam Việt nam hoàn toàn
giải phóng. Năm 1976, đất nước ta được thống nhất về mặt Nhà nước, cả hai miền Nam -
Bắc cùng tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Thời kỳ 1976-1980 là thời kỳ khôi phục và phát triển kinh tế. Nền tài chính Việt Nam của
thời kỳ này là phải phục vụ mục tiêu khôi phục kinh tế bị tàn phá nặng nề sau 30 năm
chiến tranh và khắc phục sự khác biệt về kinh tế, xã hội giữa hai miền để cả nước có điều
kiện thống nhất và cùng tiến lên chủ nghĩa xã hội. Chúng ta lại phải đương đầu với hai
cuộc chiến tranh biên giới (ở phía Bắc và Tây nam) cùng với sụ cấm vận, bao vây kinh tế
của chủ nghĩa đế quốc. Phương hướng, nhiệm vụ của tài chính quốc gia phải gắn liền với
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV, và kế hoạch 5 năm lần thứ hai (1976-1980).

Nhiệm vụ tài chính trong thời kỳ này là từng bước thực hiện quản lý tập trung, thống nhất
các nguồn thu chi tài chính theo chính sách, chế độ, tiêu chuẩn, định mức chung của Nhà
nước, bảo đảm trách nhiệm và tính chủ động của các ngành, các cấp, các đơn vị cơ sở, cải
tiến quan hệ giữa tài chính Nhà nước, tài chính xí nghiệp và tín dụng ngân hàng. Nghị

quyết Đại hội Đảng lần thứ IV (12/1976) đã khẳng định: "Trước mắt, tài chính phải xây
dựng được một ngân sách tích cực nhằm bảo đảm tốt kế hoạch phát triển kinh tế và mở
rộng các hoạt động văn hoá, xã hội. ở miền Nam, cần có chính sách thuế đúng đắn, công
bằng, hợp lý, góp phần điều tiết các nguồn thu nhập. Cùng với việc thống nhất thị trường,
21
TRẦN QUANG HUY-10K4051035
giá cả, phải thống nhất chế độ tài chính trong cả nước"

Sau thống nhất đất nước, tình hình kinh tế-xã hội và các chính sách về thị trường, tiền tệ,
giá cả còn nhiều khác biệt giữa hai miền. ở miền Bắc về cơ bản nền kinh tế đã được cải
tạo theo đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội. ở miền Nam, hoạt động công thương
nghiệp tư bản tư nhân còn trong phạm vi rộng lớn. Tư bản tư nhân trong các ngành dịch
vụ, thương nghiệp đang giữ vai trò quan trọng. Do đó, việc thống nhất chính sách thuế
trong cả nước phải được tiến hành dần từng bước, gắn với công cuộc cải tạo XHCN và
xây dựng CNXH với quá trình thống nhất các chính sách về giá cả, tiền tệ, thị trường.
7.Giai đoạn 1986 - 2000: Thời gian thành lập ngành Thuế nhà nước thống nhất
Ngày 01/01/2011
Sự cần thiết - Mục tiêu - Yêu cầu đổi mới hệ thống chính sách thuế
1. Sự cần thiết phải đổi mới hệ thống chính sách thuế
Trải qua những năm tháng lịch sử, từ sau ngày Cách mạng tháng 8 thành công, hệ thống
thuế và thu tài chính đã bảo đảm nguồn thu quan trọng của Ngân sách Nhà nước, phục vụ
cho việc thực hiện những nhiệm vụ chính trị - kinh tế - xã hội và quốc phòng của đất
nước. Mặt khác, các chính sách thuế cũng đã góp phần thúc đẩy sản xuất nông nghiệp,
công nghiệp, thương nghiệp phát triển, nhất là kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể, góp
phần xoá bỏ quan hệ bóc lột phong kiến, cải tạo XHCN đối với nông nghiệp, công
thương nghiệp tư bản tư doanh và cá thể.

Nhưng trước nhu cầu đổi mới của đất nước, hệ thống chính sách thuế và thu trong khu
vực quốc doanh đã bộc lộ nhiều nhược điểm, chủ yếu là:


- Chưa thể hiện được sự bình đẳng về động viên đóng góp giữa các thành phần kinh tế,
chưa khuyến khích các thành phần kinh tế tập thể, cá thể và tư nhân bỏ vốn đầu tư, phát
triển sản xuất, kinh doanh, mở rộng kinh tế hàng hoá. Việc áp dụng chính sách thu riêng
biệt đối với kinh tế quốc doanh, tách ra khỏi hệ thống chính sách thuế, về thực chất đã
22
TRẦN QUANG HUY-10K4051035
làm yếu đòn bẩy kinh tế của công tác quản lý tài chính, nhất là trong giai đoạn thương
mại hoá vật tư, tiền tệ hóa tiền lương

- Chưa bao quát hết các nguồn thu có thể động viên cho Ngân sách Nhà nước, đặc biệt là
các nguồn thu phát sinh qua cơ chế thị trường (chuyển nhượng cổ phần, cổ phiếu, cho
vay, nhượng bán tài sản, nhà đất ), có nhiều mặt trùng lắp, gây thắc mắc, suy bì không
cần thiết giữa các đơn vị, giữa những người nộp thuế;

- Chính sách mang tính chắp vá. Các văn bản pháp quy về các chính sách thuế và thu chỉ
được ban hành bằng hình thức dưới luật, chưa bảo đảm đầy đủ tính pháp lý theo đúng
Hiến pháp quy định, chưa ngang tầm quan trọng của công tác động viên về thuế; hiệu lực
thi hành còn bị hạn chế.

- Tổ chức quản lý thuế từ Trung ương đến địa phương (cả bộ máy và con người) chưa
thành một hệ thống tập trung, chặt chẽ; có phần việc dẫm chân lên nhau, có trận địa lại bị
buông lỏng quản lý. Trình độ nghiệp vụ, quản lý thu thuế của cán bộ thuế còn yếu kém,
chưa đủ sức hoàn thành nhiệm vụ được giao theo yêu cầu phát triển đa dạng, phức tạp
của tình hình mới trong cơ chế thị trường.

Sở dĩ có tình trạng như trên chủ yếu là do nhận thức tư tưởng chưa coi thuế thực sự là
một trong những đòn bẩy kinh tế quan trọng mà Nhà nước XHCN nhất thiết phải nắm và
sử dụng tốt trong giai đoạn quá độ tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Quan
điểm chung là muốn thay thế các hình thức thuế thu vào NSNN bằng các chế độ thu đối
với kinh tế quốc doanh được xây dựng trên cơ chế tập trung bao cấp và tư tưởng nóng vội

, muốn nhanh chóng thủ tiêu kinh tế tư bản tư nhân.

Trong cán bộ và nhân dân, còn nhiều người chưa hiểu rõ sự cần thiết phải có thuế để đáp
ứng mọi nhu cầu chi tiêu của bộ máy Nhà nước. Do đó, chưa hăng hái tự giác làm đầy đủ
nghĩa vụ công dân về kê khai, nộp thuế đúng, đủ, kịp thời theo pháp luật về thuế hoặc
23
TRẦN QUANG HUY-10K4051035
chưa tích cực đấu tranh chống các hành vi trốn lậu thuế. Công tác tuyên truyền, giải thích
về vai trò của thuế , nghĩa vụ đóng góp thuế của công dân cũng chưa được quan tâm thực
hiện sâu rộng, thường xuyên để từng bước nâng dần trình độ dân trí về thuế, gắn với việc
xử lý nghiêm minh, từng bước đưa việc thực hiện các nguyên tắc, chế độ về thuế vào nề
nếp, kỷ cương.

Chế độ quản lý, thu thuế còn bị buông lỏng, dẫn đến phát triển tình trạng, tuỳ tiện trong
hiệp thương mức doanh thu, thuế khoán; gây thất thu thuế và nợ đọng, dây dưa tiền thuế
phổ biến, nghiêm trọng trong mọi thứ thuế, mọi thành phần kinh tế, ở tất cả các địa
phương mà không bị xử lý đầy đủ theo quy định của pháp luật.

Trong phương hướng, nhiệm vụ chủ yếu của 5 năm 1991-1995, Nghị quyết Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ VII (6/1991) đã đề ra yêu cầu :"Tiếp tục xây dựng nền kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần và đổi mới quản lý kinh tế. Phải phát huy thế mạnh của các thành phần
kinh tế, vừa cạnh tranh, vừa hợp tác, bổ sung cho nhau trong nền kinh tế quốc dân thống
nhất. Cơ chế vận hành nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ
nghĩa là cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước bằng pháp luật, kế hoạch, chính
sách và các công cụ khác " (Văn kiện đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII, NXB Sự
thật.1991-trang 66). Nghị quyết cũng đã đề ra yêu cầu "tiếp tục đổi mới và bổ sung các
luậtt huế. Kiện toàn hệ thống thu thuế, chống thất thu và lạm thu, chống mọi biểu hiện
tiêu cực trong công tác thuế. Tăng cường thanh tra tài chính, kiểm soát việc chấp hành
Pháp lệnh kế toán, thống kê (Văn kiện Đại hội VII – trang 72).


Từ đầu thập kỷ 90, Liên xô sụp đổ và phe XHCN tan rã. Nguồn thu từ nước ngoài vào
Việt Nam, nhất là viện trợ cho không giảm mạnh. Quan hệ kinh tế đối ngoại chuyển sang
có vay, có trả thì NSNN phải dựa chủ yếu vào thu thuế và vay trong nước. Khi thực hiện
cơ chế hạch toán kinh doanh, từng bước xoá bỏ bao cấp qua kế hoạch, qua giá, qua tín
dụng thì đồng thời giảm hẳn chức năng điều tiết vào NSNN qua các đòn bẩy này. Khi áp
dụng thu thuế đối với kinh tế quốc doanh thì cơ cấu thu của NSNN cơ bản cũng thay đổi,
24
TRẦN QUANG HUY-10K4051035
phần thuế thu vào quốc doanh và các thành phần kinh tế khác phải tương ứng với thu
nhập quốc dân được tạo ra qua từng thành phần kinh tế khác nhau. Tình hình trên đây sẽ
có tác động đến các lĩnh vực kinh tế, tài chính và đòi hỏi đổi mới các chính sách động
viên và thuế cho NSNN.

2. Mục tiêu, yêu cầu chủ yếu của việc đổi mới hệ thống chính sách thuế

2.1- Về tài chính: Thuế phải bảo đảm nguồn thu chủ yếu của Ngân sách Nhà nước.

Một ngân sách quốc gia lành mạnh phải dựa trước hết vào các nguồn thu từ nội bộ nền
kinh tế quốc dân. Muốn vậy, hệ thống thuế phải bao quát được hết các nguồn thu có thể
bồi dưỡng, khai thác cho NSNN, từ mọi hoạt động sản xuất kinh doanh, mọi tiêu dùng xã
hội, mọi thu nhập cao v.v Phấn đấu để thuế chiếm tỷ trọng trên 80%-90% trong tổng số
thu Ngân sách; phải đề cao ý thức tự nguyện, tự giác chấp hành nghĩa vụ khai báo, nộp
thuế của mọi tổ chức, cá nhân.

Mức động viên về thuế bao giờ cũng phải lấy từ tổng sản phẩm quốc nội, từ thu nhập
quốc dân. Do đó, thuế phải phát huy tác dụng thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh
phát triển để tạo được nguồn thu lớn cho NSNN. Khả năng có thể động viên còn phụ
thuộc vào trình độ và ý thức tiết kiệm trong sản xuất, tiêu dùng. Vì vậy, nguồn thu chủ
yếu của ngân sách là thuế phải góp phần khuyến khích thực hiện tốt chính sách tiết kiệm
cả trong sản xuất, tiêu dùng và khơi dậy được ý thức giác ngộ của dân về nghĩa vụ nộp

thuế. Phải tạo được sự đồng tình, ủng hộ và nhất trí cao trong các cơ quan, đoàn thể, các
tổ chức kinh tế, cá nhân từ mức động viên thích hợp, thông qua hệ thống chính sách thuế
hợp lý, phục vụ có hiệu quả công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.

Đổi mới hệ thống thuế còn phải được giải quyết đồng bộ với chính sách tài chính quốc
gia. Chính sách động viên về thuế phải đặt trong mối quan hệ hữu cơ với sự sắp xếp lại
cơ cấu chi tiêu của Ngân sách Nhà nước theo hướng xoá bỏ các khoản chi mang tính bao
25

×