Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Bai tap Tu tuong pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (141.9 KB, 14 trang )

QUAN ĐIỂM HỒ CHÍ MINH VỀ ĐỘNG LỰC CỦA CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
1.Lý do chọn đề tài
Tư tưởng Hồ Chí minh là ngọn cờ dẫn dắt sự nghiệp cách mạng của Đảng và
nhân dân ta, trong đó tư tưởng về chủ nghĩa xã hội là một bộ phận hết sức quan
trọng.Điểm then chốt,có ý nghĩa phương pháp luận quan trọng của Hồ Chí Minh là
đề ra các mục tiêu chung và mục tiêu cụ thể xây dựng chủ nghĩa xã hội trong mỗi
giai đoạn cách mạng khác nhau ở nước ta.Để thực hiện những mục tiêu đó,cần phát
hiện những động lực và những điều kiện bảo đảm cho động lực đó thực sự trở
thành sức mạnh thúc đẩy công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội cũng như tìm ra
những trở lực và khắc phục chúng.Từ những phân tích trên,em quyết định chọn chủ
đề:”Quan điểmw Hồ Chí Minh về động lực của chủ nghĩa xã hội “ để làm chủ đề
nghiên cứu.
2.Nội dung nghiên cứu
2.1.Nhận thức về các nguồn động lực:
Theo Hồ Chí Minh ,những động lực đó biểu hiện ở các phương diện:vật chất
và tinh thần;nội sinh và ngoại sinh
2.1.1.Động lực bên trong:
a) Con người là động lực quan trọng nhất,quyết định nhất:
Người khẳng định: động lực quan trọng và quyết định nhất là con người, là
nhân dân lao động, nòng cốt là công – nông – trí thức. Người nhận thấy được ở
động lực này có sự kết hợp giữa cá nhân với xã hội.
Từ hệ thống tư tưởng của Người, chúng ta thấy toát lên nội dung quan niệm
về con người như sau:
Trong quan niệm của Hồ Chí Minh, con người là tổng hòa của các quan hệ xã hội
từ hẹp đến rộng. Người từng khẳng định: “Chữ Người, nghĩa hẹp là gia đình, anh em, họ
hàng, bầu bạn. Nghĩa rộng là đồng bào cả nước. Rộng nữa là cả loài người”(3). Hồ Chí
Minh không bao giờ xem xét con người một cách trừu tượng mà luôn xuất phát từ hoàn
cảnh con người hiện thực cụ thể trong các quan hệ xã hội với nhiều bình diện, nhiều chiều
khác nhau. Đặc biệt ở Hồ Chí Minh, bên cạnh những khái niệm phổ quát như giai cấp
công nhân, giai cấp vô sản, nhân dân lao động, chúng ta đã thấy xuất hiện thêm các khái
niệm mới: “Người nô lệ mất nước”, “Người cùng khổ”. Theo nhận xét của nhiều nhà


nghiên cứu, đấy là những khái niệm xuất hiện đầy ấn tượng và là một cách tiếp cận riêng
của Hồ Chí Minh trong quan niệm về con người. Có thể khẳng định: cách tiếp cận cơ bản
nhất của Hồ Chí Minh vẫn là đặt con người trong mối quan hệ với cộng đồng dân tộc. Bởi
vì, hơn bất cứ ai, Hồ Chí Minh luôn luôn ở trong lòng nhân dân, mang cùng một truyền
thống anh hùng, gắn bó với con người, với nhân dân từ trong khối óc, khát vọng và con
tim, trọn vẹn suốt cuộc đời.
Nhân tố con người là vốn quý nhất, quyết định thắng lợi được Hồ Chí Minh đề cập
ở ba cấp độ là: nhân dân nói chung; công nhân, nông dân, trí thức, bộ đội, cán bộ; mỗi một
con người cụ thể - tức là nhân dân lao động (trừ bọn Việt gian, phản động). Hồ Chí Minh
nói: “Nhân nghĩa là nhân dân. Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân”; “cán bộ là
gốc của công việc”; “muôn việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hoặc kém”;
1
“chúng ta phải biết quý trọng con người, nhất là công nhân, vì công nhân là vốn quý nhất
của xã hội”
Tư tưởng “Dân vi bản”, “Dân vi quý” đã được bàn nhiều trong lịch sử mà tiêu biểu
nhất là trong Nho giáo. Nhưng đến Hồ Chí Minh, tư tưởng “Dân vi bản”, “Dân vi quý” đã
thể hiện một sắc thái mới, với tư thế mới. Nói đến “Dân” trong tư tưởng Hồ Chí Minh là
nói đến toàn thể nhân dân, nói đến dân chủ. Điều này được thể hiện rõ nét trong tác phẩm
“Dân vận” (15-10-1949), Người viết:
“Nước ta là nước dân chủ.
Bao nhiêu lợi ích đều vì dân.
Bao nhiêu quyền hạn đều của dân.
Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng chiến,
kiến quốc là công việc của dân. Chính quyền từ xã tới chính phủ trung ương do dân
cử ra. Đoàn thể từ trung ương đến xã do dân tổ chức nên.
Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”(4).
Như vậy, Hồ Chí Minh luôn luôn đặt nhân dân vào địa vị cao nhất, địa vị
làm chủ trong những vấn đề quan trọng nhất của cách mạng và xã hội: lợi ích,
quyền hạn, công việc, trách nhiệm, chính quyền, đoàn thể (tức là Đảng), quyền
hành và lực lượng đều nhằm vào mục tiêu: vì dân, của dân, do dân, ở nơi dân. Nó

xác định vai trò dân chủ: dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra. Dân vừa là chủ
nhưng dân vừa thực hiện công việc làm chủ, vừa là chủ thể, vừa là khách thể, vừa
là lực lượng, động lực vừa là mục tiêu của cách mạng Việt Nam. Theo Hồ Chí
Minh, đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất nước nhà, xây dựng đời sống mới,
tiến lên xã hội chủ nghĩa đều phải bắt đầu từ vốn con người, từ việc phát huy nhân
tố con người. Nếu khinh dân, xem khinh việc sử dụng và phát huy nhân tố con
người sẽ là một sai lầm rất to, rất có hại, có quan hệ mật thiết đến thành hay bại của
sự nghiệp cách mạng.
Vai trò con người chính là vai trò của quần chúng nhân dân, người sáng tạo
chân chính ra lịch sử chứ không phải "vài ba cá nhân anh hùng nào", thể hiện qua
các hoạt động thực tiễn cơ bản nhất: Lao động sản xuất, đấu tranh chính trị - xã hội
và sáng tạo các giá trị văn hóa - tinh thần.
Hồ Chí Minh nói: "Vì chúng ta quên một lẽ rất đơn giản dễ hiểu: tức là vô
luận việc gì, đều do người làm ra, từ nhỏ đến to, từ gần đến xa, đều thế cả". "Tất cả
của cải vật chất trong xã hội đều do công nhân và nông dân làm ra. Nhờ sức lao
động của công nhân và nông dân, xã hội mới sống còn phát triển"; quần chúng còn
là người sáng tác nữa (các giá trị văn hóa - tinh thần). Hồ Chí Minh giải thích cơ sở
khoa học cho vai trò đó xuất phát từ chỗ: "Lực lượng dân chúng nhiều vô cùng
dân chúng biết giải quyết nhiều vấn đề một cách đơn giản, mau chóng, đầy đủ, mà
những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn, nghĩ mãi không ra"(5).
Như vậy, trong tư tưởng Hồ Chí Minh, con người đóng vai trò là động lực to
lớn, quyết định đối với mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Tư tưởng “dân là
vốn quý nhất, có dân là có tất cả” cho thấy trong tư tưởng Hồ Chí Minh, nhân tố
2
con người là nguồn lực quan trọng nhất, nguồn lực của mọi nguồn lực. Vai trò ấy
được Người kế thừa từ tư tưởng: “Chở thuyền cũng là dân, lật thuyền cũng là dân”
để rồi khái quát ở tầm chân ly:á “Dễ mười lần không dân cũng chịu; khó trăm lần
dân liệu cũng xong”(6).
b) Hồ Chí Minh rất coi trọng động lực kinh tế:
Hồ Chí Minh rất coi trọng động lực kinh tế, phát triển kinh tế, sản xuất, kinh

doanh, giải phóng mọi năng lực sản xuất, làm cho mọi người, mọi nhà trở nên giàu
có, ích quốc, lợi dân gắn kinh tế với kỹ thuật, kinh tế với xã hội.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn thường nhắc nhở cán bộ, chiến sĩ và
toàn thể nhân dân ta rằng, phải làm thế nào để nông thôn tiến kịp thành thị, miền
núi tiến kịp miền xuôi về mọi mặt, nền kinh tế phát triển bền vững, tự chủ, đồng
bào ai cũng được ấm no, hạnh phúc
c) Động lực tinh thần không thể thiếu trong chủ nghĩa xã hội :
Có nhiều định nghĩa về văn hóa, nhưng định nghĩa của Hồ Chí Minh là đúng
đắn, khoa học và cách mạng nhất, được Đảng và Nhà nước ta quán triệt sâu sắc,
vận dụng sáng tạo vào sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, xây dựng chủ
nghĩa xã hội.
Tháng 8-1943, khi còn ở trong nhà tù Tưởng Giới Thạch, Hồ Chí Minh đã
đúc kết quan điểm của mình về văn hóa : “Ý nghĩa của văn hóa: Vì lẽ sinh tồn cũng
như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ,
chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những dụng
cụ cho sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ
những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi
phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra
nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”. Đây là quan
điểm hết sức đúng đắn và toàn diện, vượt thời đại, đáp ứng yêu cầu của xã hội
tương lai. Văn hóa gắn liền với cuộc sống của con người. Văn hóa là mục
đích,động lực của cuộc sống khi gắn với nhu cầu- yếu tố tâm lý cơ bản nhất làm
nảy sinh tính tích cực của con người. Văn hóa bao gồm các giá trị vật chất và tinh
thần do con người sáng tạo và phát minh ra. Các giá trị vật chất của văn hóa như
những công cụ sinh hoạt hằng ngày về ăn, mặc, ở và các phương thức sử dụng. Các
giá trị tinh thần như ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn
học, nghệ thuật. Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội . Các giá trị tinh thần và
vật chất của văn hóa, nhất là tinh thần độc lập tự cường, lý tưởng cộng sản ( biết hy
sinh mình, làm lợi cho quần chúng- chí công vô tư), tinh thần dân chủ ( dân quyền)
thực hành và biểu hiện trong 5 nội dung cơ bản của cuộc sống con người: tâm lý,

luân lý, xã hội, chính trị, kinh tế.
Quan điểm của Hồ Chí Minh về văn hóa tinh thần đã giúp Đảng ta phát huy
truyền thống tâm lý của dân tộc như lòng yêu nước, tinh thần độc lập, tư cường,
đoàn kết, lòng dũng cảm, trí thông minh sáng tạo… để vận động, tập hợp mọi tầng
lớp nhân dân, tạo nên sức mạnh tinh thần- quyền lực mềm- sức mạnh nội sinh to
lớn làm nên thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Sau Cách mạng
Tháng Tám năm 1945, để bảo vệ chính quyền dân chủ nhân dân còn rất non trẻ,
vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách, thù trong, giặc ngoài, vận nước “ ngàn cân
3
treo sợi tóc”, đảm bảo cho kháng chiến và kiến quốc đi đến thắng lợi, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã tiếp tục khẳng định ý nghĩa quyết định của văn hóa khi thấm sâu vào
tâm lý con người- trở thành văn hóa sống, nhất là khi tâm lý có lý tưởng cộng sản
để định hướng đúng đắn và thúc đẩy mạnh mẽ hoạt động thực tiễn.
Như vậy,trong tư tưởng Hồ Chí Minh,cùng với con người và kinh tế,văn hóa
cũng là 1 động lực quan trọng trong xây dựng chủ nghĩa xã hội .Điều này ,đã được
chứng minh qua quá trình bảo vệ và xây dựng tổ quốc tù ngàn xưa và những lý
luận vô cùng sắc bén của Người.
d) Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là hạt nhân trong hệ động lực:
Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Phương thức lãnh đạo của Đảng thể hiện
bằng quan điểm, đường lối chính sách được thể chế hóa bằng pháp luật; bằng công
tác tổ chức và cán bộ; bằng kiểm tra, kiểm soát; bằng vai trò tiên phong gương mẫu
của cán bộ, đảng viên.
Thực tế đã minh chứng hùng hồn, từ ngày có Đảng, nhân dân ta từ thân phận
nô lệ thành người tự do. Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng đã giành lại chủ quyền,
độc lập, tự do cho đất nước, dựng nên chế độ dân chủ cộng hòa, một chế độ mang
lại quyền làm chủ thật sự cho nhân dân. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, chính lòng
yêu nước, lực lượng, trí tuệ, và trách nhiệm của nhân dân trước vận mệnh của Tổ
quốc đã làm nên những thắng lợi có ý nghĩa lịch sử trong cách mạng giải phóng
dân tộc cũng như trong sự nghiệp bảo vệ và xây dựng Tổ quốc. Chính từ những ý
kiến chân thành, tâm huyết của nhân dân, trực tiếp hay gián tiếp đã giúp Đảng ta

nhìn lại mình, từng bước khắc phục hạn chế và khuyết điểm, tiếp tục giữ vững
ngọn cờ lãnh đạo cách mạng. Sự gắn bó mật thiết giữa Đảng với dân trước vận
mệnh của Tổ quốc đã giúp Việt Nam vượt qua cơn chấn động chính trị vào cuối
thập kỷ tám mươi, đầu chín mươi của thế kỷ XX; đưa Việt Nam vượt qua cơn
khủng hoảng kinh tế-tài chính trên phạm vi cả nước trong những năm cuối thập
niên thứ nhất của thế kỷ XXI, đảm bảo ổn định tăng trưởng kinh tế bình quân trong
nhiều năm trên dưới 6%/năm. Chủ quyền, lãnh thổ đất nước được bảo vệ vẹn toàn.
Những thành tựu trong công tác đối ngoại tiếp tục khẳng định vị thế của Việt Nam
trên trường quốc tế, giúp cho chúng ta thêm sức mạnh tổng hợp, tạo ra thế và lực
mới trong quá trình hội nhập khu vực và quốc tế.
Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng hơn tám mươi năm qua trước hết thể hiện ở
đường lối khoa học, cách mạng và nhân văn. Đường lối, chủ trương của Đảng xuất
phát từ thực tế Việt Nam, từ nguyện vọng của nhân dân, thuận xu thế của thời đại,
phù hợp quy luật khách quan. Trong Đảng, nhiều cán bộ, đảng viên noi theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh, thật sự “tận trung với nước, tận hiếu với dân”, hết
lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, kiên quyết đấu tranh chống mọi
biểu hiện tiêu cực, góp phần xây dựng Đảng ta ngày càng trong sạch vững mạnh.
Tóm lại, Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng có ý nghĩa quyết định đối với sự
phát triển của chủ nghĩa xã hội .Đây là hạt nhân trong hệ động lực vì chính nhân tố
này đã biến những nhân tố đông lực nêu trên từ nguồn lực tiềm tàng trở thành sức
mạnh và không ngừng phát triển.
2.1.2.Động lực bên ngoài:
4
Ngoài các dộng lực bên trong, những nhân tố nội sinh, theo Hồ Chí Minh, sự
phát triển của chủ nghĩa xã hội đòi hỏi phải kết hợp được các nhân tố động lực bên
ngoài. Một trong những nhân tố động lực bên ngoài là sức mạnh thời đại, đoàn kết
quốc tế, chủ nghĩa yêu nước gắn liền với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân,
những thành quả khoa học thế giới.
Giữa nội lực và ngoại lực,Hồ Chí Minh xác định rất rõ nội lực là quyết định
nhất,ngoại lực là quan trọng nhất.chính vì thế,Người thường nêu cao tinh thần độc

lập,tự chủ,tự lực cánh sinh là chính,nhưng luôn tranh thủ sựu giúp đỡ,hợp tác quốc
tế,kết hợp sức mạnh dân quốc tế tạo thành sức mạnh tổng hợp để xây dựng thành
công chủ nghĩa xã hội ,trên cơ sở đảm bảo quyền dân tộc cơ bản của Việt
Nam,không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau,chung sống hòa bình và phát
triển.
2.2.Biện pháp phát huy các động lực của chủ nghĩa xã hội :
2.2.1.Đối với con người:
Phát huy sức mạnh của con người với tư cách là cá nhân người lao động. Sức
mạnh cộng đồng hình thành từ sức mạnh của mỗi cá nhân .Muốn phát huy sức
mạnh của cả cộng đồng phải có biện pháp khơi dậy, phát huy động lực của mỗi cá
nhân.Hồ Chí Minh đã đưa ra một số biện pháp để phát huy độnglực cá nhân:
Một là tác động vào nhu cầu, lợi ích của con người. Theo Người, muốn xây
dựng CNXH cần phải biết kích thích những động lực mới, đó chính là lợi ích cá
nhân chính đáng của người lao động.HCM phê phán mạnh mẽ chủ nghĩa cá nhân,
nhưng hơn ai hết Người lại rất quan tâm đến con người, khuyến khích lợi ích cá
nhân chính đáng, coi trọng động lực cá nhân, tìm tòi cơ chế chính sách để kết hợp
hài hoà lợi ích xã hội và lợi ích cá nhân, như: khoán, thưởng, phạt
Hai là tác động vào động lực chính trị, tinh thần. Phát huy quyền làm chủ và
ý thức làm chủ của người lao động (bao gồm quyền làm chủ sở hữu, làm chủ quá
trình sản xuất và phân phối). Theo Người: phải thực hành dân chủ, đó là “chìa khoá
vạn năng có thể giải quyết mọi khó khăn”, phải quan tâm bồi dưỡng ý thức làm
chủ, tâm lý làm chủ: “Hợp tác xã là nhà, xã viên là chủ”, “yêu xe như con, quý
xăng như máu”, “quý trâu như bạn”.Thực hiện công bằng xã hội. HCM thấy rõ
thiếu công bằng và dân chủ dẫn tới hậu quả làm bùng nổ những xung đột xã hội
căng thẳng. Thực hiện công bằng nhưng không phải là cào bằng.Người nhắc nhở:
“không sợ thiếu, chỉ sợ khôngcông bằng. Không sợ nghèo, chỉ sợ lòng dân không
yên.”
Ba là sử dựng vai trò điều chỉnh của các nhân tố tinh thần khác: chính trị,
văn hoá, đạo đức, pháp luật.Phải biết tác động một cách toàn diện lý tưởng chính
trị. Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội “cần có ý thức giác ngộ xã hội chủ nghĩa cao,

một lòng một dạ phấn đấu cho chủ nghĩa xã hội”; phát triểndân trí; giáo dục pháp
lý - đạo đức
2.2.2.Đối với kinh tế:
Để phát triển kinh tế nhanh, mạnh và vững chắc chúng ta có thể áp dụng
các đòn bẩy kinh tế - động lực của quá trình phát triển kinh tế như: thực hiện công
bằng xã hội, chính sách tiền lương, tiền thưởng, chính sách khoán, thực hành tiết
5
kiệm, huy động nguồn vốn nội lực, cải cách hành chính, thực hiện công bằng trong
lưu thông phân phối, v.v…
Thứ nhất, xét về mặt kinh tế, thực hiện công bằng xã hội, trước hết cũng là
một động lực, một đòn bẩy kinh tế rất quan trọng, có tính quyết định để tăng năng
suất lao động xã hội, nâng cao hiệu quả kinh tế, cải tiến kỹ thuật và cải tiến trong
công tác quản lý. Theo Hồ Chí Minh, công bằng xã hội ở đây không phải là thứ
công bằng chung chung, không phải là sự cào bằng bình quân chủ nghĩa. Công
bằng ở đây là công bằng về quyền công dân, quyền làm chủ xã hội, công bằng về
quyền lợi và nghĩa vụ trước pháp luật. Một khi đã thực hiện được công bằng xã hội
thì người lao động sẽ nhận rõ được quyền lợi, trách nhiệm và nghĩa vụ của mình
đối với xã hội, đồng thời cũng thể hiện được mối quan hệ hài hoà giữa lợi ích cá
nhân với lợi ích tập thể. Có thể nói, thực hiện công bằng xã hội trong phát triển
kinh tế nó chính là động lực để thúc đẩy, phát huy hết mọi tiềm năng, sức mạnh
của cá nhân và tập thể trong quá trình lao động sản xuất. Trong bài phát biểu với
cán bộ, học viên Trường Cán bộ công đoàn, ngày 19/01/1957, Hồ Chí Minh đã nói
rằng: “Bây giờ anh em mong được lên lương có chính đáng không? Có. Nhưng
lương tăng gấp đôi mà hàng đắt, vẫn không ăn thua gì. Nuôi lợn ít mà muốn ăn thịt
nhiều là không được”. Và chính Người cũng đã từng nêu lên phương châm: sản
xuất phải nhiều, nhanh, tốt, rẻ, để nâng cao năng suất, hiệu quả và để nâng cao mức
sống của người lao động. Điều này cho thấy, với Hồ Chí Minh không thể có thứ
công bằng mà ở đó ta làm ít hưởng nhiều; trái lại, làm bao nhiêu hưởng bấy nhiêu,
không làm không hưởng. Nói cách khác, đồng lương của người lao động nó phải
luôn gắn chặt với hiệu quả của công việc. Bởi vì, lương là một trong những thước

đo công sức, trình độ, thái độ, ý thức, tinh thần lao động của người lao động. Nâng
lương là một trong những biểu hiện của nâng cao mức sống, mức thu nhập của
người lao động. Song tiền lương và giá cả hàng hoá cũng tăng theo tỷ lệ thuận,
thậm chí tốc độ tăng giá cao hơn, rõ ràng đây là một nghịch lý, bởi nó không giúp
tăng mức sống của người lao động mà còn kéo mức sống thụt lùi. Điều đó cũng nói
lên rằng sản xuất không tăng, kinh tế kém phát triển. Như vậy, theo Hồ Chí Minh
chính sách tiền lương cũng là một trong những động lực quan trọng của phát triển
kinh tế. Bởi, như trên đã nói, tiền lương chính là thước đo của giá trị sức lao động
mà người lao động đã bỏ ra. Và nếu đồng lương không tương xứng với giá trị sức
lao động thì những tư liệu sinh hoạt cần thiết của người lao động cũng không được
đáp ứng. Điều này sẽ dẫn tới việc đánh mất đi động lực của quá trình sản xuất, và
nền kinh tế tất yếu sẽ bị ngưng trệ. Không chỉ vậy, tiền lương không thích hợp nó
còn là một trong những nguyên nhân của rất nhiều căn bệnh như tham ô, tham
nhũng.
Thứ hai, không chỉ có tiền lương, chính sách khoán cũng là một trong những
đòn bẩy kinh tế đem lại lợi ích cho tập thể và người lao động. Khi nói về chế độ
làm khoán Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Chế độ làm khoán là một điều kiện của chủ
nghĩa xã hội, nó khuyến khích người công nhân luôn luôn tiến bộ, cho nhà máy
tiến bộ. Làm khoán là ích chung và lại lợi riêng. Công nhân sản xuất ra nhiều vải,
cố gắng nhiều hưởng được nhiều; làm khoán tốt thích hợp và công bằng dưới xã
hội ta hiện nay. Nếu người công nhân nào thiếu tinh thần trách nhiệm, thiếu tinh
thần kỷ luật thì làm cho mau nhưng không tốt, như vậy là không đúng và làm
khoán phải nâng cao số lượng, nhưng luôn luôn phải giữ chất lượng”. Với một
6
đoạn văn ngắn gọn , dễ hiểu, Hồ Chí Minh đã trình bày một cách khái quát và hàm
súc vai trò đòn bẩy kinh tế của chế độ khoán đối với việc phát triển kinh tế - xã hội.
Chúng ta cũng cần khẳng định thêm rằng, chế độ làm khoán ở đây là chế độ khoán
sản phẩm, chứ không phải khoán trắng, bởi,
trên thực tế yếu tố chất lượng và yếu tố số lượng phải luôn đi đôi với nhau, trong
đó yếu tố chất lượng là yếu tố hàng đầu. Theo Hồ Chí Minh, giá trị của khoán sản

phẩm không chỉ đem lại lợi ích về thu nhập , mà chủ yếu và sâu xa là sự tiến bộ
của công nhân và phát triển của nhà máy, đặc biệt nó còn có ý nghĩa giáo dục tinh
thần trách nhiệm và kỷ luật lao động. Hay nói cách khác, khoán là biện pháp tích
cực để giáo dục và xây dựng tác phong công nghiệp cho người lao động. Chúng ta
nói khoán là đòn bẩy kinh tế bởi vì, nó có ý nghĩa khuyến khích tăng năng suất lao
động, nâng cao chất lượng và hiệu quả kinh tế. Quay trở lại với phương châm
“nhiều, nhanh, tốt, rẻ”, của Hồ Chí Minh chúng ta thấy rằng, khoán vừa là biện
pháp vừa là động lực trong việc thực hiện chính sách phát triển kinh tế của Người.
Qua thực tiễn sản xuất, vai trò đòn bẩy kinh tế và tính hiệu quả của chế độ khoán
càng được thể hiện rõ nét. Không chỉ trong sản xuất, trong hoạt động kinh tế, chế
độ khoán còn áp dụng tốt trong các lĩnh vực hoạt động phi sản xuất, kể cả lĩnh vực
hành chính trong giai đoạn hiện nay.
Thứ ba, ngoài chế độ tiền lương, khoán, thì thực hành tiết kiệm cũng là một
trong những đòn bẩy kinh tế quan trọng. Hồ Chí Minh luôn kêu gọi mọi người phải
thực hành tiết kiệm và phê phán mạnh mẽ thói xa hoa, lãng phí. Người cho rằng,
lãng phí cũng là một căn bệnh, là tội lỗi đối với Đảng, với Nhà nước, và đối với
nhân dân. Sự lãng phí gây ra rất nhiều tai hại trước mắt và hậu quả lâu dài. Trong
rất nhiều bài viết, bài nói chuyện của mình Chủ tịch Hồ Chí Minh không ngừng
phê phán thói lãng phí, sự không minh bạch về tài chính. Người viết: “Đúng, chế
độ chi tiêu của Nhà nước là một sự “ràng buộc”, nhưng đó là một sự ràng buộc rất
cần thiết và rất hay. Nó ràng buộc những kẻ phung phí, những người thích phô
trương. Nó ràng buộc cả những người chỉ biết việc trước mắt mà không thấy việc
lâu dài. Chỉ biết việc của bộ phận mình mà không thấy việc chung của cả nước.
Nhưng chính nhờ đó mà nó lại chặt xiềng, chắp cánh cho kinh tế nước ta tiến lên
như ngựa thần trên con đường xã hội chủ nghĩa. Nó giúp ta dành dụm từng đồng xu
thành những số vốn lớn. Nó vít kín các lỗ thủng, các khe hở, không để của cải dành
dụm của chúng ta hao hụt phân tán. Như vậy mới dồn được phần lớn vốn của Nhà
nước vào việc công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa”.
Thứ tư, theo Hồ Chí Minh, ngoài tiết kiệm để tích luỹ vốn, phục vụ sản xuất
thì việc huy động vốn trong dân cũng là một trong những biện pháp hữu hiệu trong

các đòn bẩy kinh tế. Theo Người, đồng tiền dính với hoạt động của tất cả các
ngành. Vì vậy, các ngành, các tổ chức kinh tế, các cơ quan nhà nước cùng toàn thể
nhân dân phải biết sử dụng đồng tiền cho tốt…. Một đồng vốn bỏ ra phải đảm bảo
tăng thêm của cải cho xã hội, phải luân chuyển nhanh, đừng để tồn đọng. Phải tích
cực huy động tiền nhàn rỗi để bỏ vào sản xuất. Khi nói về vấn đề này Hồ Chí Minh
yêu cầu: huy động tiền nhàn rỗi trong dân là nhằm đưa vào sản xuất, thì đồng tiền
ấy mới sinh sôi, nảy nở ngày càng thêm nhiều. Về góc độ kinh tế, con người muốn
làm chủ nền kinh tế mới thì phải học cách quản lý và sử dụng tiền sao cho hợp lý,
đem lại lợi ích cho công cuộc kiến thiết nước nhà, nâng cao mức sống của nhân
7
dân. Mặt khác, pháp luật của Nhà nước là hành lang ngăn chặn các hành vi lãng
phí, tham ô, tham nhũng trong cán bộ, đảng viên và nhân dân.
Thứ năm, như trên đã nói, chính sách tiền lương tốt là một trong những điều
kiện chống lãng phí, tham ô, tham nhũng có hiệu quả. Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng:
giảm đến mức tối thiểu số người làm việc hành chính, tăng cường lực lượng cho
sản xuất trực tiếp. Bởi vậy, cải cách hành chính cũng là một trong những động lực
rất có ý nghĩa của phát triển kinh tế. Bộ máy hành chính nhà nước càng phình ra
bao nhiêu thì trở thành gắnh nặng cho ngân sách nhà nước bấy nhiêu. Lượng tiền
bỏ ra chi cho khối hành chính càng lớn, thì lượng tiền đưa vào sản xuất càng hạn
chế. Đó là chưa kể sự thất thoát đồng tiền qua việc mua sắm những thứ đắt tiền
không cần thiết, xây dựng trụ sở tiêu tốn nhiều tiền của công quỹ. Cải cách hành
chính là đòn bẩy kinh tế, vì cải cách hành chính như một biện pháp tiết kiệm sức
người, sức của. Mấu chốt của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta như Hồ
Chí Minh đã khẳng định: đó là tăng gia sản xuất và thực hành tiết kiệm, để xây
dựng cơ sở vật chấy kỷ thuật và tiến hành công nghiệp hoá nước nhà. Tăng gia sản
xuất và thực hành tiết kiệm theo Hồ Chí Minh luôn luôn là những nhiệm vụ hàng
đầu trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Cải cách hành chính thực chất cũng
nhằm thực thi hai nhiệm vụ là tăng gia sản xuất và thực hành tiết kiệm. Khi nói về
vấn đề này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Gián tiếp sản xuất cũng cần. Phải có
người làm bàn giấy, tính toán, đánh máy….mới phục vụ cho người trực tiếp sản

xuất, nhưng nhiều quá có bao nhiêu lãi chén hết. Bây giờ nhà máy số gián tiếp sản
xuất còn nhiều quá”. Như vậy, việc giảm cán bộ gián tiếp của bộ máy quản lý thực
chất là cải cách hành chính, là công việc phải làm thường xuyên , để làm cho bộ
máy nhà nước không rơi vào tình trạng quá cồng kềnh , gây lãng phí sức người ,
sức của, trở thành gọn nhẹ mà công việc vẫn được thực hiện một cách có hiệu quả.
Thứ sáu, thực hiện công bằng xã hội trong lưu thông phân phối cũng là động
lực của phát triển kinh tế. Bởi vì, tổ chức lưu thông phân phối cũng góp phần nâng
cao năng suất và hiệu quả kinh tế. Hoạt động lưu thông phân phối không thể thiếu
được trong nền kinh tế. Hồ Chí Minh đã từng nói: “Trong nền kinh tế quốc dân có
ba mặt quan trọng: nông nghiệp, công nghiệp, thương nghiệp. Ba mặt công tác liên
hệ mật thiết với nhau. Thương nghiệp là cái khâu giữa nông nghiệp và công
nghiệp. Thương nghiệp đưa hàng đến nông thôn phục vụ nông dân; thương nghiệp
lại đưa nông sản, nguyên liệu cho thành thị tiêu dùng. Nếu khâu thương nghiệp bị
đứt thì không liên kết được nông nghiệp với công nghiệp, không cũng cố được
công nông liên minh. Công thương nghiệp không chạy thì hoạt động nông nghiệp,
công nghiệp sẽ bị rời rạc”. Cũng như trong quá trình sản xuất, đồng vốn không
được để ứ đọng thì quá trình lưu thông phân phối cũng không được để ách tắc. Như
cơ thể con người, muốn khỏe mạnh thời phải thông khí huyết, bế là sinh bệnh tật,
thứ bệnh của lưu thông phân phối gây bế tắc là bệnh đầu cơ tích trữ. Người phân
tích: “Tệ nạn phải chống là bọn đầu cơ tích trữ. Đảng, Chính phủ và mậu dịch cung
cấp hàng cho dân, nhưng một số hàng không đến tay dân mà bị bọn đầu cơ lợi
dụng như vải, thuốc tây…Có thứ thuốc mậu dịch bán 500đ một viên mà bọn đầu cơ
bán 2500đ. Thật là nó lợi dụng đồng bào ốm để làm giàu, như thế là rất đáng phản
đối. Muốn chống bọn đầu cơ thì không riêng gì công an, công thương, mậu dịch
mà tất cả cán bộ, công nhân, nhân dân đều phải chống cả, vì cán bộ nhân dân có
8
hàng triệu tai, mắt mới làm được để hàng hóa đến tay nhân dân”.Như vậy, lưu
thông phân phối tốt, thì nền kinh tế khỏe, vững và sản xuất không ngừng phát triển.
Trên đây là những luận điểm cơ bản nhất của Hồ Chí Minh khi bàn về động
lực của quá phát triển kinh tế - xã hội. Chính những động lực này là nhân tố quan

trọng góp phần làm cho nền kinh tế nước ta vượt qua được những khó khăn thử
thách, đặc biệt trong thời kỳ đất nước có chiến tranh. Theo Hồ Chí Minh, với việc
sử dụng một cách linh hoạt, hợp lý và có hiệu quả các đòn bẩy kinh tế trong phát
triển kinh tế nó không chỉ là động lực thúc đẩy đất nước phát triển, mà cao hơn nữa
là tiến tới xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ và văn minh
2.2.3.Đối với tinh thần:
Để văn hoá thực sự là cơ sở, là nền tảng, là mục tiêu và là động lực của sự
phát triển, Đảng và nhà nước ta đã luôn xác định: xây dựng văn hoá là nhiệm vụ
trọng tâm. Nghị quyết hội nghị lần thứ V Ban chấp hành TW Đảng khoá VIII chỉ
rõ: “Văn hoá là một mặt trận, xây dựng và phát triển văn hoá là một sự nghiệp cách
mạng lâu dài, đòi hỏi phải có ý chí cách mạng và sự kiên trì, cẩn trọng. Sự nghiệp
xây dựng và phát triển văn hoá là sự nghiệp của toàn dân, do Đảng lãnh đạo, tầng
lớp trí thức là nền tảng của khối đại đoàn kết dân tộc và cũng là nền tảng của sự
nghiệp xây dựng và phát triển văn hoá”. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của
Đảng cộng sản Việt Nam diễn ra vào tháng 4 năm 2006 cũng xác định: “Về văn
hoá, chúng ta chủ trương tiếp tục phát triển sâu rộng và nâng cao chất lượng nền
văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, gắn kết chặt chẽ và đồng bộ hơn với phát
triển kinh tế - xã hội, làm cho văn hoá thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống; xây
dựng và hoàn thiện giá trị, nhân cách con người Việt Nam thời kì công nghiệp hoá,
hiện đại hoá.
Ba lĩnh vực cần tập trung thực hiện bằng được là: xây dựng môi trường, lối
sống và đời sống văn hoá của mọi người dân ở cơ sở, phát huy tinh thần tự nguyện,
tính tự quản và năng lực làm chủ của nhân dân; khuyến khích sáng tạo văn học,
nghệ thuật, tạo ra những tác phẩm, công trình có giá trị cao về tư tưởng và nghệ
thuật; xây dựng và nâng cấp đồng bộ hệ thống thiết chế văn hoá, chú trọng các
công trình văn hoá lớn, tiêu biểu.
Theo phương hướng ấy, cần tiếp tục đầu tư cho việc bảo tồn và tôn tạo các di
tích lịch sử và di sản văn hoá; tạo điều kiện cho các lĩnh vực xuất bản, thông tin đại
chúng phát triển; đảm bảo tự do dân chủ cho mọi hoạt động sáng tạo văn hoá, văn
học, nghệ thuật đi đôi với phát huy trách nhiệm công dân của văn nghệ sĩ, chăm

sóc các tài năng văn hoá, nghệ thuật; đổi mới nội dung và phương thức quản lí của
nhà nước về văn hoá” (Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính
trị quốc gia, H.2006, tr.33). Đại hội cũng xác dịnh phương hướng nhiệm vụ phát
triển của kinh tế xã hội trong thời gian tới: “Phát triển văn hoá, nền tảng tinh thần
của xã hội. Tiếp tục phát triển sâu rộng và nâng cao chất lượng nền văn hoá Việt
Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, gắn kết chặt chẽ và đồng bộ hơn với phát
triển kinh tế xã hội, làm cho văn hoá thấm sâu vào mọi lĩnh vực đời sống xã hội
Làm cho văn hoá thấm sâu vào từng khu dân cư, từng gia đình, từng người, hoàn
thiện hệ giá trị mới của con người Việt Nam, kế thừa các giá trị truyền thống của
dân tộc và tiếp thu tinh hoa văn hoá của loài người, tăng sức đề kháng chống văn
hoá đồi truỵ, độc hại. Nâng cao tính văn hoá trong mọi hoạt động kinh tế, chính trị
9
xã hội, sinh hoạt của nhân dân. Xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc, đáp ứng yêu cầu phát triển của xã hội và con người trong điều kiện đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập kinh tế quốc tế. Đảm bảo sự gắn
kết giữa nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt với
phát triển văn hoá - nền tảng tinh thần xã hội. Đặc biệt coi trọng nâng cao văn hoá
lãnh đạo và quản lý, văn hoá trong kinh doanh và văn hoá trong nhân cách của
thanh niên, thiếu niên; chống những hiện tượng phản văn hoá, phi văn hoá” (Văn
kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, H.2006,
tr.213).
Hiện nay, chúng ta đang bước vào cuộc hội nhập lần thứ ba, hướng tới mục
tiêu xây dựng một nền văn hóa "tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc". Cách mạng
tháng Tám - 1945 thành công và đặc biệt sau chiến thắng năm 1975, đất nước
thống nhất quy về một mối, giao lưu và tiếp biến văn hóa có sự thay đổi về chất so
với các thời kỳ lịch sử trước đó. Trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay,
vấn đề giao lưu kinh tế, văn hóa là vấn đề sống còn của dân tộc. Văn kiện Đại hội
IX của Đảng khẳng định: Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước
trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển. Về văn hóa,
Đảng ta thực hiện mở rộng giao lưu văn hóa với nước ngoài dưới nhiều hình thức:

giới thiệu rộng rãi những giá trị văn hóa của dân tộc Việt Nam với thế giới, đồng
thời cũng lựa chọn đưa vào nước ta các giá trị văn hóa tiến bộ của các nước, mở
rộng hoạt động văn hóa quốc tế dưới nhiều hình thức hợp tác, trao đổi, học tập lẫn
nhau. Tuy nhiên, cần có quy định và những biện pháp hữu hiệu để bảo vệ giá trị
văn hóa dân tộc, chống nạn chảy máu văn hóa, nhất là đối với các cổ vật, bảo vật
quốc gia, cũng như chống sự thâm nhập vào nước ta những văn hóa phẩm độc hại,
đồi trụy Những biến đổi của hoàn cảnh lịch sử hôm nay đã khiến cho giao lưu
tiếp biến ở Việt Nam thay đổi về nhiều phương diện.
Giao lưu và tiếp biến văn hóa hôm nay là giao lưu và tiếp biến trong thời đại
tin học. Sự xuất hiện của kinh tế tri thức và sự bùng nổ của công nghệ thông tin
khiến cho văn hóa, các sản phẩm văn hóa trở nên vô cùng phong phú và đa dạng.
Thời đại ngày nay có những hình thức, sản phẩm giao lưu mà trước kia chưa hề có,
phương tiện giao lưu rất đa dạng, nội dung giao lưu hết sức phong phú và cũng rất
phức tạp. Thế giới hôm nay là thế giới phẳng, thế giới của toàn cầu hóa, của đối
thoại và tiếp biến giao lưu cho nên quá trình đối thoại giữa các nền văn hóa là yếu
tố then chốt tạo nên sự hiểu biết và tôn trọng lẫn nhau giữa các quốc gia, các dân
tộc trên thế giới. Công cuộc đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam
khiến cho giao lưu và tiếp biến của Việt Nam hôm nay được đặt trong thế chủ
động, tự nguyện, không bị áp đặt hay cưỡng chế. Đảng cộng sản Việt Nam chủ
trương hóa giải các mối quan hệ đối đầu thành đối thoại, lấy văn hóa ngoại giao
thành phương thức đối thoại chính, coi văn hóa là động lực của sự phát triển, giữ
gìn bản sắc dân tộc nhưng đồng thời không chối bỏ những yếu tố văn hóa ngoại
sinh mà chủ động tiếp nhận để biến đổi cho phù hợp với văn hóa dân tộc. Giao lưu
và tiếp biến văn hóa ở Việt Nam hiện nay đã tạo sự chuyển biến văn hóa trên tất cả
các lĩnh vực của đời sống văn hóa, đặc biệt là lĩnh vực khoa học và công nghệ, giáo
dục và đào tạo, du lịch và phát triển kinh tế… Là bởi chúng ta đang xây dựng một
nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc theo định hướng phát triển
ổn định và bền vững.
10
Văn hoá thực sự đã trở thành một nội dung quan trọng trong hoạt động xã

hội, các giá trị văn hoá thể hiện rõ vai trò tích cực và sức mạnh đặc biệt cũng như
khả năng tác động vào các lĩnh vực đời sống. Tính chủ động và tích cực của nhân
dân trên các lĩnh vực của đời sống xã hội đã cho thấy vai trò của văn hoá với tư
cách là nền tảng tinh thần, là động lực, là mục tiêu của sự phát triển kinh tế xã hội.
Cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” đã thực sự tạo
chyển biến quan trọng để văn hoá Việt Nam phát triển theo đúng định hướng và
cương lĩnh, đó là một nền văn hoá vừa tiên tiến vừa đậm đà bản sắc dân tộc như
tinh thần của nghị quyết hội nghị lần thứ V Ban chấp hành TW Đảng khoá VIII và
kết luận của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X về văn hoá.

2.2.4.Đối với sự lãnh đạo của Đảng:
Vai trò lãnh đạo sáng suốt của Đảng càng cực kỳ quan trọng và luôn là nhân
tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng nước ta. Để đảm đương được
vai trò lãnh đạo, Đảng phải tiếp tục tự đổi mới, tự chỉnh đốn, tăng cường bản chất
giai cấp công nhân và tính tiền phong để xây dựng Đảng thật sự trong sạch, vững
mạnh, có tầm trí tuệ cao, có phương thức lãnh đạo khoa học Muốn vậy, cần tập
trung vào một số vấn đề trọng tâm sau:
Một là, Đảng ta cần tiếp tục nâng tầm trí tuệ và đổi mới tư duy để lãnh đạo
toàn diện đất nước phù hợp với diễn biến nhanh chóng, mau lẹ của thực tế; phù hợp
với đường lối đổi mới của cách mạng Việt Nam. Mỗi đảng viên phải nhận thức
đúng, đầy đủ trách nhiệm của mình khi tự nguyện đứng trong hàng ngũ của Đảng
và tuyên thệ dưới cờ Đảng để cố gắng phấn đấu thực hiện tốt các nhiệm vụ của
người đảng viên và mọi nhiệm vụ được giao. Đảng lãnh đạo thông qua đội ngũ cán
bộ, đảng viên của mình hoạt động trong mọi lĩnh vực. Do đó, cần xây dựng đội ngũ
đảng viên có bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã
hội và đường lối đổi mới của Đảng; có phẩm chất đạo đức trong sáng, lối sống lành
mạnh, "cần kiệm liêm chính, chí công vô tư"; có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ
đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao và có khả năng tổng kết, giải đáp những vấn
đề thực tiễn của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta; đồng thời mỗi đảng

viên phải xây dựng cho mình phương pháp và tác phong công tác, làm cho mỗi
đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm thuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm
liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là
người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân như căn dặn của Chủ
tịch Hồ Chí Minh trước lúc đi xa.
Hai là, nêu cao vai trò, trách nhiệm của các cấp ủy đảng, nhất là người đứng
đầu cấp ủy. Điều lệ Đảng đã quy định rõ, cấp ủy là cơ quan lãnh đạo của Đảng giữa
hai kỳ đại hội. Như vậy, cấp ủy, nhất là người đứng đầu cấp ủy có vai trò, trách
nhiệm quyết định đối với hoạt động và hiệu quả lãnh đạo của Đảng và cũng là biểu
hiện tập trung Đảng lãnh đạo thông qua tổ chức đảng. Thực tế cho thấy vai trò của
người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng là cực kỳ quan trọng. Họ có quyền và trách
nhiệm thay mặt cấp ủy, tổ chức đảng. Trình độ, năng lực, sự trong sạch, gương
11
mẫu của các cấp ủy viên, nhất là người đứng đầu cấp ủy là nhân tố hàng đầu bảo
đảm hiệu quả lãnh đạo của Đảng. Sự gương mẫu, tiên phong của cấp ủy viên, nhất
là người đứng đầu cấp ủy, ở cấp càng cao thì sự lan tỏa, sức thuyết phục đối với đội
ngũ đảng viên, nhân dân càng rộng lớn và còn có giá trị thuyết phục cao hơn nhiều
những bài thuyết giáo chung chung. Nhưng nếu người đứng đầu cấp ủy suy thoái
đạo đức hoặc lợi dụng chức vụ, quyền hạn để làm ảnh hưởng xấu đến uy tín của
Đảng nhất là ở cấp vĩ mô "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" thì điều đó là nguy hiểm
khôn lường đối với Đảng và chế độ mà sự tan rã của Đảng Cộng sản Liên Xô và
các nước XHCN ở Đông Âu đã cho ta bài học đắt giá. Cần quy định rõ trách nhiệm
thông qua các tiêu chí cụ thể đánh giá người đứng đầu cấp ủy trong lãnh đạo thực
hiện công tác xây dựng Đảng và nhiệm vụ chính trị, chuyên môn của cơ quan, đơn
vị mình, đặc biệt cần tập trung vào trách nhiệm trong công tác tổ chức cán bộ và
phát triển đội ngũ kế cận. Đảng ta thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý
đội ngũ cán bộ, mà thực chất công tác cán bộ là của cấp ủy và trách nhiệm của
người đứng đầu cấp ủy. Nếu coi việc đề bạt, bổ nhiệm cán bộ là một đặc ân, đặc
quyền của Đảng thì sẽ là nguy cơ lớn đối với Đảng. Do đó, việc lựa chọn đúng
người, xếp đúng việc là việc quan trọng hàng đầu trong tổ chức cán bộ.

Ba là, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội
một cách toàn diện trên các mặt phong cách, nội dung, phương pháp. Về phong
cách lãnh đạo phải gần dân, nghe dân, học dân và trọng dân theo đúng tư tưởng
"lấy dân làm gốc" và "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, giám sát"; học tập
và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh bằng các hành động thiết thực, cụ thể
trong công việc, trong quan hệ với nhân dân, đồng chí, đồng nghiệp, gia đình
nhằm khắc phục triệt để tình trạng quan liêu, xa dân, ngại tiếp xúc với dân, không
nghe ý kiến phê bình, phản biện của dân, thậm chí còn chèn ép dân của một bộ
phận cán bộ, đảng viên. Điều đó làm mất lòng tin của nhân dân đối với Đảng. Cần
phân định rõ chủ thể lãnh đạo với chủ thể quản lý để không có sự "lấn sân", bao
biện làm thay của chủ thể lãnh đạo, hoặc ngược lại, buông lỏng lãnh đạo và quản
lý, xác định rõ nguyên tắc, nội dung, phương pháp, hình thức và thẩm quyền, trách
nhiệm của chủ thể lãnh đạo và của đối tượng chịu sự lãnh đạo bằng các nguyên tắc,
quy định, quy chế, quy trình, cụ thể. Về nội dung lãnh đạo phải đổi mới cách ra
nghị quyết, trước mắt cần rà soát lại, sơ kết, tổng kết các nghị quyết của Đảng đã
ban hành, xem những nghị quyết nào còn nguyên giá trị phải tiếp tục đẩy mạnh
thực hiện, nhằm khắc phục hiện tượng nghị quyết này chồng lên nghị quyết kia
hoặc nhắc lại nội dung của các nghị quyết đã có trước. Tập trung lãnh đạo việc
hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; cải cách hành
chính, tạo môi trường thông thoáng, bình đẳng cho các thành phần kinh tế hoạt
động theo luật pháp, cùng cạnh tranh bình đẳng và phát triển lành mạnh; nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực, đổi mới quan hệ phân phối, điều tiết kinh tế phù hợp để
thực hiện công bằng trong từng chính sách và từng bước phát triển; bảo vệ vững
chắc chủ quyền, lãnh thổ quốc gia Đồng thời với việc đổi mới cách ra nghị quyết,
phải đổi mới việc quán triệt, học tập, tuyên truyền nghị quyết để mọi đảng viên và
nhân dân nhận thức đúng, đầy đủ và thực hiện tốt các nghị quyết đã đề ra. Về
phương pháp lãnh đạo phải tuân thủ triệt để nguyên tắc tập trung dân chủ và tự phê
bình, phê bình trong Đảng. Nhưng để thực hiện được các nguyên tắc này trong thực
tiễn không phải dễ. Tình trạng khi kiểm điểm hằng năm, mọi cấp ủy viên, đảng
12

viên đều viết rằng mình đã thực hiện đúng và tốt việc tập trung dân chủ, tự phê
bình và phê bình, nhưng thực tế có nhiều nơi, nhiều đảng viên vẫn độc đoán,
chuyên quyền, thậm chí có khi, có lúc người đứng đầu cấp ủy lấy ý kiến cá nhân
mình áp đặt cho tập thể cấp ủy.
Bốn là, mở rộng dân chủ ngoài xã hội; thực hành dân chủ thật sự trong Đảng.
Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân
và vì nhân dân, biết kế thừa những tinh hoa dân chủ của các Nhà nước pháp quyền
trong lịch sử và đã, đang phát triển lên tầm cao mới, khác hẳn về bản chất và cao
hơn gấp vạn lần so với dân chủ tư sản, nhưng chưa tuyên truyền, giáo dục cho
người dân hiểu đúng về dân chủ đi liền với kỷ cương nên một số người đã cố tình
lợi dụng dân chủ để gây rối, chia rẽ làm tác động xấu đến trật tự, an toàn xã hội.
Việc thực hành dân chủ trong nội bộ Đảng rất quan trọng. Trong Đảng có
thật sự dân chủ thì mới có điều kiện mở rộng và phát huy dân chủ của nhân dân.
Điều 3, Điều lệ Đảng đã quy định rõ quyền của đảng viên, trong đó thể hiện cụ thể
quyền dân chủ của đảng viên. Do vậy, cần phải xây dựng và ban hành Quy chế dân
chủ trong Đảng để có cơ sở thực hiện dân chủ trong thực tiễn. Quy chế chất vấn
trong Đảng hiện nay mới quy định chất vấn trong sinh hoạt cấp ủy, như vậy chủ
thể, đối tượng và phạm vi chất vấn rất hẹp, cần sửa đổi bổ sung Quy chế chất vấn
trong Đảng theo hướng mở rộng chủ thể, đối tượng, phạm vi và hình thức chất vấn.
Năm là, tăng cường giữ gìn kỷ luật, tạo sự đoàn kết nhất trí của Đảng là sức
mạnh vô địch của Đảng. Đảng điều chỉnh hành vi của các tổ chức đảng, đảng viên
bằng kỷ luật của mình. Buông lỏng kỷ luật, sớm hay muộn Đảng sẽ bị suy yếu, tan
rã.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: kỷ luật của Đảng là "kỷ luật sắt, nghĩa
là nghiêm túc và tự giác", ai ai cũng phải phục tùng kỷ luật và chịu các hình thức
kỷ luật (nếu có khuyết điểm, sai lầm). Về vấn đề thi hành kỷ luật, tư tưởng Hồ Chí
Minh thể hiện rõ tính dân chủ, lòng bao dung, độ lượng sâu sắc: Người đời ai cũng
có khuyết điểm (chỉ có trẻ em mới sinh ra và người chết mới không có khuyết
điểm), nhưng chúng ta không sợ sai lầm, khuyết điểm, chỉ sợ không chịu khó cố
gắng sửa chữa và cũng chỉ sợ người lãnh đạo không biết tìm cách đúng để giúp cán

bộ sửa chữa những khuyết điểm, sai lầm. Mọi vi phạm kỷ luật đảng đều phải được
xem xét, nếu đến mức phải thi hành kỷ luật thì xử lý thích đáng, không có "vùng
cấm", không được che đậy, thiên lệch, nể nang. Thực tế vừa qua, việc chấp hành kỷ
luật của một số tổ chức đảng và đảng viên chưa nghiêm túc; việc xử lý kỷ luật (khi
có vi phạm) còn nể nang, nhẹ trên, nặng dưới, thiếu tác dụng giáo dục, ngăn ngừa
và răn đe, chưa tạo được sự đồng thuận cao của xã hội, Có trường hợp làm cán
bộ, đảng viên phân tâm. Do vậy cần tăng cường giữ gìn kỷ luật sắt, tạo sự đoàn kết
nhất trí của Đảng và sự đồng thuận của xã hội. Đây chính là sức mạnh vô địch của
Đảng, "cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của
mắt mình".
2.3.Cần khắc phục những trở lực trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã
hội :
Muốn khai thông, phát huy động lực để phát triển chủ nghĩa xã hội phải nhận
diện để khắc phục những vật cản.Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra những căn bệnh
13
có thể dẫn đến nguy cơ thoái hoá của Đảng cầm quyền, đến an nguy của chế độ xã
hội chủ nghĩa. Người yêu cầu:
Phải đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân: “Chủ nghĩa cá nhân là kẻ địch hung
ác của chủ nghĩa xã hội. Người cách mạng phải tiêu diệt nó ”
Phải đấu tranh chống tham ô, lãng phí, quan liêu => vì nó “là bạn đồng minh
của thực dân phong kiến”, “nó làm hỏng tinh thần trong sạch và ý chí khắc khổ của
cán bộ ta. Nó phá hoại đạo đức cách mạng của ta là cần, kiệm, liêm, chính.”
Phải chống chia rẽ, bè phái, mất đoàn kết, vô kỉ luậtvì những hành động ấy
“làm giảm sút uy tín và ngăn trở sự nghiệp của Đng, ngăn trở bước tiến của cách
mạng.
Phải chống chủ quan, bảo thủ, giáo điều, lười biếng, không chịu học cái mới.
HCM đã nhìn rõ những lực cản từ bên trong: Yếu kém về kiến thức, bấp
bênh về chính trị, trì trệ trong nhận thức, bo thủ trong hành động .Những trở lực
này sẽ dẫn đến sự tha hoá sa đoạ về đạo đức. Chính vì vậy phải cải tạo chính mình.
3.Kết luận:

Tư tưởng Hồ Chí minh là ngọn cờ dẫn dắt sự nghiệp cách mạng của Đảng và
nhân dân ta, trong đó tư tưởng về chủ nghĩa xã hội là một bộ phận hết sức quan
trọng.Cách tiếp cận sáng tạo, độc đáo về động lực của sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội là điểm nổi bật trong tư tưởng Người.Chúng ta cần hiểu rõ bản chất
của những động lực bên trong lẫn bên ngoài,từ đó có những biện pháp thích hợp để
phát huy những động lực này cũng như khắc phục những trở lực kìm hãm quá trình
phát triển. . Chúng ta tin tưởng rằng, dưới sánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ
nghĩa xã hội, với sự kiên định mục tiêu, lý tưởng và đạo đức xã hội chủ nghĩa cùng
sự lãnh đạo sáng tạo, đúng đắn của Đảng, nhân dân ta sẽ từng bước thực hiện thắng
lợi sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa.
14

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×