Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

Olga Sviblova: Bà hoàng quyền lực của nhiếp ảnh Nga potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (691.81 KB, 13 trang )

Olga Sviblova: Bà hoàng quyền lực của
nhiếp ảnh Nga


Olga Sviblova
Bị đè nén nhiều thập kỉ dưới thời Xô-viết, nền nhiếp ảnh Nga nay đã
quay trở lại, phần nhiều nhờ vào nỗ lực của Olga Sviblova. Viv
Groskop gặp gỡ người từng là công nhân quét đường nhưng lại có đôi
tai của một chính trị gia sừng sỏ này.
*
Đi đến đâu, vị nữ giám đốc Nhà Nhiếp ảnh Moscow cũng mang theo
cùng bà nét kịch tính cùng vẻ quyến rũ. Vào những năm 1980 Olga
Sviblova được trưởng văn phòng Nga của một tờ báo Anh Quốc mệnh
danh là ‘người đàn bà đẹp nhất Mát-xcơ-va’. Một người quen gọi bà là
Marlene Dietrich của Nga, và ít tâng bốc hơn, ‘nữ hoàng độc thoại’.
Fedor Pavlov-Andreevich, người đứng đầu Marka – tổ chức nghệ thuật
nhiều ảnh hưởng đặt tại Moscow – mô tả bà là một người ‘cực kì năng
động, như một trận cuồng phong. Bà là nhân vật trung tâm trong giới
nghệ thuật Nga đương đại – một thế giới mà gần như bà đã tự tay tạo
ra. Người ta có thể thích hoặc không thích bà, nhưng bà là một sự thật
mà họ phải học cách đối diện.’
Sức bền của bà là một huyền thoại, ông nói: ‘Tôi đã nhìn thấy bà lúc 3
giờ sáng tại một sự kiện, nói chuyện trên hai chiếc điện thoại cùng một
lúc, thêm một hàng người xếp hàng chờ trò chuyện với bà.’ Catherine
Marshall, đồng tổ chức hiệp hội Friends of the Hermitage tại London,
nói Sviblova là một người Mát-xcơ-va tiêu biểu, theo nghĩa khá là dân
chơi: ‘Tôi đến từ St Petersburg và tôi thấy chúng tôi khác nhau như thế
nào – bà giàu cảm hứng, ám ảnh, trực ngôn, nói nhanh như gió. Bà ăn
ít, ngủ ít, công việc là cuộc đời. Theo một cách nào đó bà đã trói mình
vào thế giới này – bà rất nhiệt huyết với những việc mình làm.’
Ngày thứ Bảy trước buổi gặp gỡ của chúng tôi tại căn nhà của bà ở


Moscow, Sviblova – nổi tiếng là một con cú đêm – xuất hiện lúc 2 giờ
chiều trong bộ đầm dạ hội để chụp ảnh. Một khi đã phục trang xong, bà
trả lời một cuộc gọi hốt hoảng từ một nghệ sĩ vừa bị bắt vì chụp ảnh
trong một khu mua sắm. Bà làm ơn đến đồn cảnh sát được không? Bà
gọi vài cú điện thoại và vấn đề được giải quyết. Khi tôi gặp bà một vài
ngày sau đó sự vụ còn kịch tính hơn: bà bị cúm. Trông bà xanh xao,
giọng nói khàn khàn, nhưng vẫn đủ khỏe để đốt thuốc Kent liên tục
trong suốt cuộc nói chuyện.

.
Ngồi vắt vẻo ở rìa ghế sofa, mái tóc vàng dài búi thành một búi to sau
gáy kiểu diễn viên ballet, Sviblova trông như một dân hippy. Bà gầy và
mỏng manh trong chiếc áo len đan màu đen, quần ống bò đen, quấn
mình trong một chiếc khăn len cashmere đen to tướng. Vừa đun xong
một ấm trà đen rất đặc, bà đặt ba chiếc điện thoại và bốn cuốn sổ cạnh
bao thuốc lá. Điện thoại réo từng cơn. Bà luôn nói giọng the thé – bằng
vài thứ tiếng – ‘Mình sẽ gọi lại ngay sau ba phút cưng nhé’ và không
bao giờ gọi lại.
Người duy nhất bà nhận cuộc gọi là chồng bà, Olivier Morane, một nhà
môi giới bảo hiểm bà gặp ở Pháp năm 1991: “Oui, oui, mon cheri, mon
amour’ (Vâng, vâng, cưng của em, tình yêu của em), bà rù rì với chồng.
(Morane là chồng thứ hai của bà. Người chồng đầu tiên là nhà thơ
Alexei Parschikov: họ có một con trai, Timofei, một đạo diễn phim
đang lên.) Căn hộ bà sống chung với Morane rất có gu, không thể gọi là
tiêu biểu cho tầng lớp giàu mới nổi của Moscow: nó là một căn hộ
không vách ngăn kiểu Thụy Điển với cầu thang cuốn và đồ gỗ cả hiện
đại cả cổ. Những kệ sách oằn mình dưới sức nặng của bộ sưu tập những
cuốn sách ảnh của bà.
Điều Sviblova thích hơn cả là thuyết minh qua bộ sưu tập của mình cho
người khác nghe. Cũng dể hiểu thôi. Công trình nổi bật nhất của bà là

“cải tạo” những nhiếp ảnh gia Nga bị đàn áp thời Xô-viết. Bà lận lưng
vô số triển lãm quốc tế được tung hô về nhiếp ảnh avant-garde và nhiếp
ảnh Nga hiện đại.
Một điều giúp ích nhiều cho mục đích của bà là trong những năm gần
đây bà đã tự tạo cho mình danh tiếng của một người môi giới quyền
lực. Roman Abramovich, ông chủ tỷ phú của CLB Bóng đá Chelsea, đã
bị bà thuyết phục tài trợ hai trong số các triển lãm nhiếp ảnh Xô-viết
trong Gilbert Collection tại Somerset House, London, trong đó lần triển
lãm thứ hai diễn ra vào năm 2007 đã giới thiệu Max Penson, một nhiếp
ảnh gia tư liệu bị giới cầm quyền Xô-viết gạt ra ngoài. Sviblova, theo
như Tomothy Stevens, giám đốc Gilbert Collection, ‘có con mắt hiếm
thấy, biết nhìn ra những hình ảnh và bản in ấn tượng, và một mối đồng
cảm tuyệt vời với những nghệ sĩ mà bà tôn vinh cũng như những khó
khăn của họ dưới thời Xô-viết.” Mặc dù nổi tiếng nhất trong vai trò
người cứu rỗi nền nhiếp ảnh Nga, bà cũng liên tục cổ xúy cho mọi loại
hình nghệ thuật Nga. Trong năm 2007, các triển lãm đa phương tiện
của bà đã được trưng bày tại Venice Biennale về Nghệ thuật đương đại
lần thứ 52, nơi bà là giám tuyển của khu vực nghệ thuật Nga.

.
Sviblova chỉ nghiêm túc khám phá nhiếp ảnh sau sự sụp đổ của Liên
bang Xô-viết. Năm 1991 bà đến Pháp để nghiên cứu làm phim tài liệu
về người mẫu ưa thích của Matisse, Dina Vierny. Thay vào đó, bà thấy
mình ngày càng bị thu hút bởi những bức ảnh về Xô-viết. Bà chưa bao
giờ nhìn thấy những ảnh như thế ở nhà. ‘Đột nhiên tôi nhìn thấy những
phần lịch sử nước Nga mà tôi không được dạy ở trường,’ bà nói, ‘tôi
nhận ra ngay lúc đấy rằng nước Nga đang tự tái tạo – và rằng để biết
được tương lai của mình, chúng ta phải biết về quá khứ.’
Khi bà lớn lên bà được xem rất ít ảnh. ‘Bà tôi hủy tất cả album ảnh của
chúng tôi vì có một số họ hàng của chúng tôi làm giám mục, số khác

theo Sa hoàng,’ bà nhớ lại. ‘Bên ngoại tôi có một tướng Bạch vệ, mặc
dù sau đó ông đã trở thành tướng Hồng quân. Nếu chuyện đó mà lộ ra
thì khỏi đi học đại học luôn. Và vì hầu hết dân tình là sống trong các
khu nhà tập thể, nên không thể giữ những bức ảnh đó được: nếu có
người hàng xóm nào nhìn thấy mấy cái ảnh đó thì xem như chấm hết.
Nhất là khi họ cần thêm một phòng ở.’
Tư liệu ảnh của Nga trong thời Xô-viết bị hủy hoại bởi sự kết hợp chết
người của kiểm duyệt, tự kiểm duyệt và sự hỗn loạn, bà nói. ‘Từ năm
1917 trở đi lịch sử cá nhân của mọi người bị xóa sạch. Nhiếp ảnh Nga
đơn giản là không tồn tại. Chụp ảnh ở Nga lúc đó cũng giống như đứng
ở Quảng trường Đỏ mà không mặc quần.’ Bà không màng tới hầu hết
nền nhiếp ảnh Xô-viết chính thống.
Tại Paris bà tình cờ gặp một đoàn đại biểu quốc gia Nga muốn tổ chức
một festival ảnh. Sviblova nhận theo đuổi dự án này và trở lại Moscow,
tái tạo lịch sử hình ảnh của thế kỉ 20 từ con số 0. Các nhà sưu tầm và
lưu trữ đã âm thầm gom góp ảnh trong nhiều năm từ từ bước ra khỏi
bóng tối. Sviblova lần theo những dấu vết và tin đồn, tìm đến tận gia
đình thân nhân các nhiếp ảnh gia để cầu xin và vay mượn từ kho lưu
trữ của họ. Bộ sưu tập đó trở thành Nhà Nhiếp ảnh Moscow, mở cửa
năm 2000.
Kho lưu trữ quốc gia hiện có hơn 80,000 bức ảnh, rất nhiều trong số đó
tưởng đã mất đi vĩnh viễn. Bộ sưu tập bao gồm tác phẩm các bậc thầy
avant-garde của thời Cách mạng đã được đánh giá lại như Alexander
Rodchenko , El Lissitsky và Boris Ignatovich, cũng như làn sóng các
‘phóng viên ảnh Nga’ mới thời bấy giờ, thập niên 1920s và1930s:
Alexander Grinberg, Yury Yeremin và Nikolai Andreev. Sviblova mô
tả họ là ‘trăm phần trăm giỏi ngang cơ Cartier-Bresson’, nhưng đề tài
của họ thì rất khác: họ chụp phong cảnh, nude, những dinh thự cũ,
khung cảnh đồng quê, và họ bị bôi nhọ trong những năm 1930s vì sáng
tác những bức ảnh phản động, ‘kiểu Tuốc-ghê-nhép’ – họ muốn khắc

họa nước Nga thế kỉ 19 của nhà văn này. Những khung cảnh đồng quê
lãng mạn của Yeremin và những bức ảnh nude cũ kĩ của Grinberg từ
thập niên 1930s đặc biệt được ưa thích, cho thấy một mặt đời sống Xô-
viết mà chính quyền hồi ấy muốn giấu đi. Festival ảnh gần lần ấy của
Sviblova thu hút nửa triệu người xem.


Ảnh của Alexander Grinberg


Trước cơn bão - Ảnh của Nikolai Andreev


Gần Hermitage - Ảnh của Boris Ignatovich
Sviblova nhớ được một người chụp ảnh khi bà còn bé: ông của bà, một
kĩ sư kênh Volga-Don thời Khrushcheb. Nhưng ông chỉ giới hạn vào
việc chụp ảnh thiên nhiên. Mẹ bà là một giáo viên ngôn ngữ, cha bà là
kĩ sư tên lửa. Bà học triết học và tâm lí học tại trường đại học nhưng
lúc nào cũng có hứng thú với nghệ thuật. Bà không bao giờ phải lo nghĩ
về việc kiếm sống trong thời Xô-viết vì bà nói, bạn có thể sống mà gần
như không có đồng nào. Trong sáu năm liền ở tuổi hai mươi bà làm
công nhân quét đường. ‘Không phải vì chủ nghĩa anh hùng gì cả mà để
tôi có thể làm những gì tôi thích vào các buổi sáng và các buổi tối,’ bà
giải thích. ‘Tôi xem đó là thời gian hạnh phúc nhất đời tôi. Giống như
tuổi thơ được kéo dài đến năm 30 tuổi vậy. Tôi khỏe đến nỗi chả cần đi
tập gym. Và tôi không có bất cứ bó buộc xã hội nào.’
Kiệt lực, bà chán việc quét đường vào cuối những năm 1970s và bắt
đầu tổ chức sự kiện cho các nghệ sĩ. Bà không coi đó là một nghề vì họ
là bạn bè và bà làm việc đó vì muốn thế. Không có lợi ích thương mại
nào cả. Đó cũng không phải là một hoạt động li khai thực sự vì chính

quyền lúc đó không xem trọng nghệ thuật.
Mãi đến năm 1987 bà mới tổ chức triển lãm chính thức đầu tiên cho các
họa sĩ trẻ. Bà nổi tiếng vì giúp đỡ các họa sĩ chỉ thành công sau sự sụp
đổ của Liên bang Xô-viết, cứu vớt danh tiếng cho những người theo
chủ nghĩa ý niệm như Ilya Kabakov và Erik Bulatov (một Warhol thời
Brezhnev), chuyên giễu nhại Chủ nghĩa Hiện thực Xã hội. (Bức tranh
sơn dầu Cuộc Cách mạng Perestroika của Bulatov đã bán được tại
Sotheby’s London đầu năm 2007 với giá 198,000 bảng).
Năm 1988, bộ phim tài liệu của bà mang tên Quảng trường Đen, về nền
nghệ thuật Nga sau cái chết của Stalin, được chiếu tại Cannes. Trong
năm 1991 bà được mời nói chuyện về nghệ thuật Nga tại Diễn đàn
Kinh tế Thế giới tại Moscow và theo cách này hay cách khác bà đã bắt
đầu hiểu hơn về giá trị tài chính của nghệ thuật. Tuy nhiên, bà nhớ lại,
đây là một thời kì kinh khủng, bấp bênh: ‘Tất cả chúng ta đều biết
chuyện gì sẽ xảy ra với anh nếu anh đến Trại cải tạo Gulag, nhưng
chuyện gì sẽ xảy ra trong cuộc đời mới này? Anh sẽ làm gì để kiếm
tiền?’
Đột nhiên mọi người bắt đầu mua và bán tranh ảnh Nga trên toàn thế
giới: Sotheby’s đã tổ chức buổi bán đầu giá nghệ thuật Nga đầu tiên
vào năm 1988 và thu về 2 triệu bảng. (Đến năm 2006 thị trường nghệ
thuật Nga tại Sotheby’s đã có giá trị 82 triệu bảng). Bà có một trải
nghiệm khiến thay đổi quan niệm của bà vào đầu những năm 1990:
Sviblova thu xếp một bộ sưu tập nghệ thuật lớn cho một nhà băng, sau
đó nhà băng này bị mafia chiếm: ‘Tôi không bao giờ được thấy lại
những bức ảnh đó nữa. Chủ nghĩa tư bản Nga là như thế đấy. Nhìn lại
thì đúng là ngay lúc đấy tôi quyết định sẽ chỉ làm việc cho nhà nước
thôi.’ Là người chối bỏ chế độ quan quyền thời trẻ, giờ bà lại chuyển
sang trân trọng những dự án của nhà nước dành cho Nhà Nhiếp ảnh
Moscow, trong khi sử dụng khả năng thuyết phục của mình để dẫn dụ
tầng lớp elite doanh nhân mới bơm những dòng vốn cần thiết cho nghệ

thuật.

Với tổng thống Nga
Vadim Vasiliev, phát ngôn viên cua công ty xây dựng MIAN, một
trong những nhà tài trợ lớn nhất của Sviblova, giải thích, ‘Bà là một
người đàn bà cực kì phong cách và lôi cuốn. Được gặp gỡ và trò
chuyện cùng bà là một điều vô cùng thích thú. Bà có thể nói không
dừng và kể những câu chuyện hay ho nhất.’
‘Thường bà sẽ có một festival hai tuần nữa đã tổ chức mà chưa có
đồng tài trợ nào cả,’ Fedor Pavlov-Andreevich nói. ‘Rồi đột nhiên theo
một cách thần kì nào đó bà đã có trong tay vài triệu đô-la mà mình
cần. Điều đặc biệt là bà là phụ nữ: thế giới nghệ thuật và tài chính Nga
tuyệt đối do đàn ông thống trị, vậy mà bà biết làm sao để hòa hợp bằng
sự nữ tính tuyệt đối của mình.’
Trên hết, Sviblova bộc lộ mình là một người không sao đoán trước
được. Triển lãm bà giám tuyển cho Venice Biennale hồi ấy là một khởi
đầu đầy tham vọng. Clickihope không giới thiệu các bức ảnh bà yêu
thích mà thay vào đó là một sắp đặt đa phương tiện bởi tám nghệ sĩ
Nga đang lên. Tiêu đề triển lãm là một trò chơi mạng của Julia Milner.
Người tham gia bấm ‘I hope’ vào một trong năm mươi thứ tiếng. ‘Yếu
tố hy vọng ở đây mang tính biểu tượng,’ Sviblova nói. ‘Triển lãm sắp
đặt này nói về sự ra đời của một utopia và sự khám phá những điều
không tưởng của nó. Nó nói về một thế giới như một sàn nhảy disco nơi
hàng ngàn người đang nhảy nhót nhưng mỗi chúng ta đều nhảy một
mình.’
Chỉ có điều một người đàn bà như Sviblova hẳn không bao giờ phải
nhảy một mình lâu.
*


×