Môn học:
QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG BIỂN
HOÀNG TRUNG DU
Viện Hải Dương Học – Nha Trang
Email:
NHẬP MÔN
Với khoảng 3.260 km đường bờ biển, hơn 1 triệu km2
vùng đặc quyền kinh tế biển,
29/65 tỉnh, thành phố tiếp giáp với biển và là nơi sinh
sống của 30% dân số cả nước,
Vùng ven biển Việt Nam đang giữ một vị trí chiến lược
trọng yếu đối với sự phát triển kinh tế - xã hội, chính trị,
an ninh quốc phòng và môi trường
Vai trò kinh tế biển và các đại dương đối với phát triển
xã hội ngày càng lớn,
Sử dụng một cách triệt để mọi nguồn lợi biển, không
tính đến giới hạn sinh thái của chúng.
Và các tổ hợp kinh tế vùng ven biển đã dẫn đến sự
xáo trộn toàn bộ những đặc trưng hóa lý, sinh thái;
Phá vỡ các mối quan hệ trong chu trình vận động
vật chất và năng lượng, làm ô nhiễm suy thoái môi
trường
Để ngăn ngừa ô nhiễm và quản lý môi trường biển
cần coi việc sử dụng hợp lý và bảo vệ môi trường
biển là một vấn đề ưu tiên.
Trong đó mục tiêu bảo vệ các hệ sinh thái và bảo
tồn tính đa dạng sinh học biển là trọng tâm.
Để đạt được điều đó cần tiến hành các chương
trình quản lý tổng hợp vùng ven biển trong mối
quan hệ với quản lý các lưu vực lân cận.
Một chương trình như vậy cần phải được xây dựng
trên cơ sở khoa học, phù hợp với bản chất tự nhiên
và đặc thù tài nguyên của từng khu vực,
Cũng như phải lôi cuốn được các cấp chính quyền
địa phương và các ngành cùng tham gia thực hiện,
kể cả cộng đồng nhân dân ven biển
MỤC TIÊU CỦA MÔN HỌC
Sẽ tập trung giới thiệu ngắn ngọn các vấn đề mấu chốt cần nắm
vững trong quá trình nghiên cứu về quản lý môi trường biển. Bao
gồm:
Các khái niệm cơ bản được sử dụng trong môi trường biển
Những mối đe dọa đối với sinh thái môi trường biển
Những vấn đề cần thiết trong quản lý tài nguyên và bảo vệ môi
trường biển
Bên cạnh việc tập trung đi sâu vào các vấn đề chủ yếu liên quan
tới nguồn lợi, tài nguyên và môi trường biển theo luận điểm về sinh
thái kinh tế học hải dương.
Tài liệu còn cung cấp một số cách tư duy liên quan đến vấn đề
quản lý môi trường biển hiện nay.
NỘI DUNG
Giới thiệu một số khái niệm trong quản lý môi trường biển
Tăng cường khả năng hiểu biết về các hệ sinh thái trong
vùng biển Việt Nam
Xem xét những mối tác động tới môi trường biển
Vấn đề quản lý tài nguyên và môi trường biển
CHƯƠNG I
MỘT SỐ KHÁI NIỆM TRONG QUẢN
LÝ MÔI TRƯỜNG BIỂN
1.Biển và Đới bờ biển
Đại dương là phần nước mặn bao quanh các lục địa. Biển là phần
đại dương ven các lục địa.
Theo khái niệm pháp lý:
Phần lớn diện tích vùng biển (vùng biển quốc tế) là của chung
thế giới;
Một phần biển ven bờ do các quốc gia quản lý theo công ước
quốc tế (1958) hay còn gọi là lãnh hải (không vượt quá 12 hải
lý),
Vùng tiếp giáp lãnh hải (là vùng rộng nhất định-không vượt quá
24 hải lý kể từ đường cơ sở để tính chiều rộng của lãnh hải) nối
liền lãnh hải với bên ngoài lãnh hải là vùng đặc quyền kinh tế
và thềm lục địa.
Vùng đặc quyền kinh tế rộng 200 hải lý thường được các nước
lập ra thông qua pháp luật của nước mình
Đới bờ biển là vùng chuyển tiếp giữa lục địa và biển.
Đới bờ biển có bản chất khác hẳn các vùng biển và lục
địa lân cận.
Đới bờ biển là một hệ cân bằng động,
Hệ bờ biển tại đây luôn xảy ra các quá trình tương
tác Biển - Lục địa, với dải lục địa ven biển được giới
hạn từ đường bờ biển về phía lục địa cho đến phạm
vi ảnh hưởng của thủy triều.
Ngoài ra còn một cách nói khác đó là “vùng ven bờ”
thường được hiểu như là nơi tương tác giữa đất và
biển, bao gồm các môi trường ven bờ cũng như vùng
nước kế cận.
Đây là hệ chuyển tiếp có chứa rất nhiều hệ sinh thái
tự nhiên như: cửa sông, đầm phá, vũng vịnh, các dải
ven biển, đất ngập nước và vùng triều, …
Các hệ sinh thái này có bản chất tự nhiên, có giá trị
tài nguyên môi trường khác nhau
Ngoài việc xác định đới bờ biển thuần túy theo khái
niệm địa lý sinh thái, còn được phân chia theo quản
lý hành chính, và quy hoạch phát triển từng vùng.
Các thành phần của nó bao gồm các vùng châu
thổ, vùng đồng bằng ven biển, các vùng đất ngập
nước, các bãi biển và cồn cát, các rạn san hô, các
vùng rừng ngập mặn, đầm phá, và các đặc trưng
ven bờ khác.
Khái niệm vùng ven bờ thường được xác định một
cách tùy tiện, hơi khác nhau giữa các quốc gia và
thường dựa vào giới hạn pháp lý và ranh giới hành
chánh
Theo IUCN (1986), vùng ven bờ được định nghĩa như sau:
“là vùng ở đó đất và biển tương tác với nhau, trong đó ranh
giới về đất liền được xác định bởi giới hạn các ảnh hưởng
của biển đến đất và ranh giới về biển được xác định bởi giới
hạn các ảnh hưởng của đất và nước ngọt đến biển”
Tuy nhiên, trong môi trường biển rất hiếm có một ranh
giới địa lý rõ ràng, cố định phân chia các quần xã và các
quá trình sinh học.
Thứ nhất, pháp luật quốc gia liên quan tới giải quyết
vấn đề này, nếu nó tồn tại, thường không rõ ràng trong
việc đưa ra những định nghĩa và tiêu chí biên
giới vùng ven bờ một cách chính xác.
Thứ hai, thường các ranh giới được xác định theo qui
định của hành chính không đồng nhất với ranh giới
của hệ sinh thái.
Thứ ba, việc quản lý các vùng ven bờ xuyên quốc gia
thường rất khó khăn do nó liên quan tới lợi ích từng
quốc gia.
Do vậy, định nghĩa vùng ven bờ phải phản ảnh
các tiếp cận tổng hợp bao gồm:
Vùng ven bờ được quản lý là một hệ tổng hợp
về tài nguyên và sử dụng tài nguyên; và
Chức năng quản lý phối hợp giữa các tổ chức
khác nhau liên quan đến qui hoạch và thực thi
Để định nghĩa về vùng ven bờ tiếp tục được chuẩn bị kỹ
lưỡng và cập nhật trong các dự án của các quốc gia,
các yếu tố sau đây cần phải được tính đến:
Phạm vi phần đất bên trong vùng ven bờ phải
được thoả thuận cũng như phần nước thuộc lãnh
thổ quản lý.
Định nghĩa vùng ven bờ phải xuất phát từ các đặc
điểm tự nhiên (địa mạo) và chức năng sinh thái.
Xác định ranh giới hành chính dựa vào pháp luật
quốc gia, các vùng đặc trưng và các qui hoạch chi
tiết.
Sử dụng các kỹ thuật bản đồ để phác họa ranh giới
đường bờ và đường vùng ven bờ trên các bản đồ
2. Khái niệm về Quản lý tổng
hợp vùng bờ (QLTHVB)
QLTHVB được định nghĩa như sau: “QLTHVB bao gồm việc
đánh giá toàn diện, đặt ra các mục tiêu, quy hoạch và
quản lý các hệ thống tài nguyên ven biển, có xét đến các
yếu tố lịch sử, văn hóa và truyền thống, và các lợi ích trong
mâu thuẫn sử dụng; là quá trình liên tục tiến triển nhằm đạt
được sự phát triển bền vững”
Mặc dù có rất nhiều định nghĩa khác nhau về QLTHVB
nhưng sự khác nhau giữa chúng là rất ít.
Hầu hết các định nghĩa đều thừa nhận rằng QLTHVB là
một quy trình có tính liên tục, tính tiên phong trong thực
hiện và có khả năng thích nghi cao nhằm quản lý nguồn
tài nguyên cho sự phát triển bền vững vùng ven bờ
QLTHVB không thay thế cho các kế hoạch và quản lý
của từng ngành. Đúng hơn là nó tập trung vào sự liên
kết giữa hoạt động của các ngành, củng cố và điều hòa
quản lý ngành để đạt được mục tiêu một cách bền vững
và đầy đủ.
Có rất nhiều dạng của quản lý tổng hợp, theo
Net Coast, 2001, có thể phân biệt các dạng sau:
Tổng hợp giữa các chính quyền
Tổng hợp giữa các lĩnh vực
Tổng hợp giữa các tổ chức phi chính phủ và tổ
chức chính phủ
Tổng hợp giữa khoa học và quản lý
Tổng hợp quốc tế
Tổng hợp theo không gian
Tổng hợp theo chiều dọc hay chiều ngang
Từ các thảo luận trên, có thể thấy là có nhiều
quan điểm khác nhau về quản lý tổng hợp vùng
ven bờ.
Tuy vậy, rõ ràng là một chương trình quản lý
vùng bờ miêu tả một số dạng hợp tác giữa các
cơ quan hoặc tổ chức khác nhau để cố gắng
giải quyết những mâu thuẩn có khả năng sinh ra
Không có một cơ chế nào phù hợp cho tất cả,
do sự thành công của việc thực thi
QLTHVB phụ thuộc vào các điều kiện địa
phương, kinh nghiệm, đặc điểm của hệ sinh
thái, áp lực phát triển cũng như vào các khung
chính sách, pháp lý khu vực và quốc gia, cùng
nhiều yếu tố khác nữa
Điều đó có nghĩa rằng mỗi một vùng cần có một
phương pháp tiếp cận của chính mình. Không có
một khuôn mẫu chung đối với tất cả các vùng
khác nhau.
QLTHVB cần một số nhân tố quan trọng:
Đạt được sự thống nhất và hợp tác giữa các ban ngành
chính phủ tại mọi cấp độ khác nhau;
Đảm bảo sự ủng hộ của các thể chế chính trị cho việc
thực thi dự án;
Đảm bảo sự tham gia và tham vấn đầy đủ của
cộng đồng và các chủ thể địa phương;
Đạt được sự nhất trí trong việc quản lý và sử dụng bền
vững tài nguyên ven bờ;
Đinh hướng các phương pháp quản lý có tính linh hoạt và
thích ứng khi các điều kiện thay đổi;
Làm cho quy trình QLTHVB phù hợp với thể chế, tổ chức
và môi trường xã hội của quốc gia và khu vực.
CHƯƠNG II
CÁC HỆ SINH THÁI TRONG VÙNG
BIỂN VIỆT NAM
1. Hệ sinh thái cửa sông
Các kiểu cửa sông
Cửa sông (estuary) là thuỷ vực ven bờ tương
đối kín, nơi mà nước ngọt và nước biển gặp
nhau và trộn lẫn vào nhau. Các đặc trưng về địa
mạo, lịch sử địa chất và điều kiện khí hậu tạo
nên sự khác biệt về tính chất vật lý và hoá học
của các kiểu cửa sông
Kiểu tiêu biểu nhất là cửa sông châu thổ ven bờ (coastal
plain estuary). Các cửa sông thuộc kiểu này được hình thành
vào cuối kỷ băng hà muộn, khi nước biển dâng lên ngập các
châu thổ sông ven bờ biển.
Kiểu cửa sông thứ hai là vịnh nửa kín (semi-enclose bay)
hoặc đầm phá (lagoon). Ở đây các doi cát song song với
đường bờ hình thành và ngăn cản một phần sự trao đổi
nước từ biển. Độ muối trong các đầm khác nhau nhiều, phụ
thuộc vào điều kiện khí hậu.
Kiểu cửa sông cuối cùng là vịnh hẹp. Các thung lũng này bị
trũng bởi hoạt động băng hà và sau đó bị ngập bởi nước
biển. Chúng đặc trưng bởi cửa nông làm hạn chế trao đổi
nước trong vịnh với biển.
Các đặc trưng môi trường
Chế độ thuỷ lý hoá ở vùng cửa sông thay đổi trong giới hạn
lớn làm cho môi trường gây ra nhiều áp lực đối với sinh vật.
Sự thay đổi chế độ muối là đặc trưng cơ bản ở cửa sông
và phụ thuộc vào mùa, địa hình, thuỷ triều và lượng nước
ngọt.
Nhiệt độ ở vùng cửa sông thay đổi lớn hơn so với các
thuỷ vực ven bờ lân cận. Biến thiên của giá trị này mang
tính mùa vụ và theo điều kiện khí quyển. Nhiệt độ còn
khác nhau giữa các tầng nước.
Dòng chảy ở cửa sông do triều và nước sông chi phối.
Do có số lượng lớn vật lơ lửng trong nước vùng cửa
sông,
Sự hoà tan oxy trong nước giảm theo quá trình tăng nhiệt
độ và độ muối.