Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Vài ghi chú về chuyện “chuyên nghiệp hoá” hoạt động gallery ở Việt Nam pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (171.66 KB, 7 trang )

Vài ghi chú về chuyện “chuyên
nghiệp hoá” hoạt động gallery ở
Việt Nam
Nguyên Hưng


Buôn bán tranh mấy năm sau này, càng ngày càng khó. Nhiều gallery
phải đóng cửa. Nhiều gallery, để tồn tại, phải xé nhỏ không gian vừa
làm nhà hàng vừa bán tranh hay vừa bán tranh vừa chen thêm hàng thủ
công mỹ nghệ, đồ giả cổ, quà lưu niệm v.v… Vai trò của hoạt động
gallery trong đời sống mỹ thuật cứ mờ nhạt dần-không phát hiện được
họa sĩ nào mới mẻ, không còn sôi nổi triển lãm, ít được báo chí nhắc
đến v.v…

Tại sao?

Câu trả lời, thực tế, đã được dự báo từ năm bảy năm trước.[1] Trong
đó, căn bản, là do cách nghĩ quá đơn giản về kinh doanh nghệ thuật, do
cách hiểu sai lầm về vấn đề “chuyện nghiệp hóa” hoạt động gallery ở từ
các họa sĩ, giới buôn tranh đến giới truyền thông.[2] Hầu như ai cũng
muốn gallery của mình thuộc hàng “de luxe”, nhưng lại mơ hồ tất cả
mọi chuyện. Thực tế, sẽ không thể tuyển chọn, làm việc được với họa
sĩ, nếu gallery không có một “chiến lược sản phẩm” gắn liền với một
“chiến lược tạo hình ảnh” (cho gallery) và một “chiến lược khách
hàng” rõ ràng. Đa số không hiểu tính chất đồng đẳng trong mối quan hệ
giữa gallery với họa sĩ, và, giữa gallery với khách hàng thực sự có
nghĩa là gì. Không phải ngẫu nhiên mà nhiều chủ gallery đã từng thành
công, càng thành công họ càng hay cúng kiếng, càng mê tín, càng hay
tin lời thầy bói…

Những thuận lợi của thời mới “mở cửa” đã qua. Đến lúc này, vấn đề


“chuyên nghiệp hóa” hoạt động gallery cần phải được đặt ra một cách
“tỉnh táo” hơn. Lời giải cho vấn đề này, mỗi gallery mỗi khác, nhưng sẽ
là cầu âu nếu không lưu ý đến thực tế sau:

- Gallery có đẳng cấp

- Để làm gallery, trước hết, phải xác định đẳng cấp

- Để xác định đẳng cấp, trước hết cần, phải am hiểu thị trường, phải xác
định rõ khách hàng (đã có và có thể có của gallery) là những loại người
nào.

Tất cả nội dung hoạt động gallery, từ việc xây dựng chiến lược hình
ảnh, chiến lược sản phẩm, chiến lược quảng cáo, tiếp thị v.v… đều cần
phải căn cứ trên cơ sở nhận thức về các đặc điểm chung của thế giới
khách hàng đối tượng này. Nói cách khác, là cần tuân thủ nguyên tắc
nhất quán mang tính đẳng cấp thích ứng trong mọi hình thức biểu hiện
và hoạt động…

Có thể diễn giải ngắn gọn như sau:

Gallery, có loại “de luxe”, chuyên bán “hàng quí, hiếm” dành cho các
nhà sưu tập chuyên nghiệp, những người am hiểu nghệ thuật và giàu
có…; có loại làng nhàng bình dân, nhắm đến khách du lịch, những
người mua tranh giá rẻ với nhu cầu trang trí, làm quà lưu niệm…; có
loại tầm tầm bậc trung, chuyên bán những tác phẩm nghệ thuật đương
đại mà giá trị dễ được cảm nhận dựa trên những tiêu chuẩn thẩm mỹ đã
được thừa nhận. Khách hàng của loại gallery này khá đa dạng, từ các
nhà sưu tập nghiệp dư, những người dư thừa về tài chính nhưng chỉ có
khả năng đánh giá nghệ thuật “bằng lỗ tai”, những tay “trưởng giả học

làm sang”, và, những người có “tâm cảm đương đại”…

Ba loại gallery này, có tiêu chuẩn đánh giá nghệ thuật khác nhau. Với
các gallery “de luxe”, sự lựa chọn nghệ thuật, chủ yếu dựa trên tiêu
chuẩn tiêu biểu hay tiên phong (của một khuynh hướng, một truyền
thống, một trào lưu nghệ thuật…). Nó nhờ vào sự đánh giá, tiến cử của
các nhà phê bình hoặc curator tầm cở. Không phải ngẫu nhiên, ngày
nay mọi người đều đồng ý New York là trung tâm nghệ thuật thế giới.
Đơn giản là ở đó, có nhiều gallery “de luxe” lưu giữ được những tác
phẩm có giá trị điển phạm (canon) và có con mắt phát hiện biết nuôi
dưỡng những mầm mống ban đầu của cái tiên phong … Với các gallery
bình dân, yếu tố vui mắt, dễ nhìn, thể hiện cái đặc dị văn hóa địa
phương là chổ dựa cơ bản để lựa chọn tác phẩm. Nói cách khác, sự
đánh giá ở đây, ít khi căn cứ trên các tiêu chuẩn mỹ học, mà chủ yếu,
được nhìn trong các tương quan văn hóa ở sắc thái hay ý nghĩa biểu
trưng. Đó là môi trường của các khuynh hướng tự nhiên và tượng trưng
chủ nghĩa; của tranh “nhái”… Với các gallery bậc trung, sự lựa chọn,
chủ yếu lại căn cứ trên tiêu chuẩn tính chuyên nghiệp và các xu hướng
xã hội. Nếu như các gallery “de luxe” có thể lựa chọn nghệ thuật ở
quan hệ phi cá nhân hóa-chấp nhận cái mới chưa thể định giá, chưa xác
lập được các tiêu chuẩn đánh giá- và, chỉ đặt tác phẩm trong dòng chảy
của lịch sử mỹ thuật được xem là một quá trình phát triển tuyến tính-cái
mới, cái tiên phong mặc nhiên được xem là một giá trị (phù hợp với
nhu cầu sáng tạo bản thân của tầng lớp “bên trên”)…, thì ở các gallery
bậc trung, sự lựa chọn nghệ thuật được hình dung trong các mối quan
hệ cá nhân gắn liền với nhận thức về các xu hướng xã hội (các xu
hướng xã hội, ví dụ: đề cao các giá trị truyền thống hay hiện đại, đề cao
giá trị cá nhân hay gia đình, đề cao “giá trị châu Á” hay giá trị phổ quát
của con người, đề cao sự hòa hợp với thiên nhiên hay tiện nghi vật
chất, đề cao sự trực nhận cảm tính hay sự phân tích duy lí v.v… và

v.v…) Nói vắn tắc, dễ hiểu là theo nguyên tắc “Ngưu tầm ngưu, mã
tầm mã”. Nó không cần, hay ít quan tâm đến lịch sử mỹ thuật, đến các
xu hướng vận động của nghệ thuật đương đại. Nó chỉ quan tâm đến
những qui phạm, điển phạm (Các tiêu chuẩn đo lường tính chuyên
nghiệp). Nó không quan tâm đến phê bình lý thuyết, chỉ quan tâm đến
phê bình thực hành. Nó quan tâm đến tác giả nhiều hơn là tác phẩm…
Sự tồn tại của hệ thống gallery này chỉ có ý nghĩa giúp cho các giá trị
nghệ thuật được phổ cập, nuôi dưỡng được lực lượng sáng tác, chứ ít
có khả năng tác động trực tiếp đến sự vận động, phát triển của một nền
mỹ thuật…

Chúng cũng không giống nhau trong cách thức quan hệ khách hàng.
Loại “de luxe” tồn tại trong các mối quan hệ “de luxe”-mối quan hệ
liên lập giữa các thành phần xã hội có đẳng cấp cao “nhất”. Sự liên hệ
giữa các thành phần này, thường, là trực tiếp và khép kín. Ngoài ra,
trong phần lớn trường hợp, bởi được xem là đầu mối, là tác nhân kích
hoạt cho sự vận động tiến hóa của một nền nghệ thuật, chúng cũng là
đối tượng của các chương trình tài trợ, phát triển văn hóa nghệ thuật (từ
chính phủ hay các tổ chức phi chính phủ, các doanh nghiệp). Loại
gallery bình dân, thường, tồn tại dưới hình thức những hành lang hay
cửa hàng bán tranh. Chúng thụ động trong quan hệ với khách hàng và
không cần đề ra tiêu chí nghệ thuật. Chúng chủ yếu sống dựa vào thị
trường du lịch và tầng lớp trung lưu trong xã hội. Chúng cần được nhắc
đến thường xuyên trên các phương tiện thông tin đại chúng. Loại tầm
tầm bậc trung thì rắc rối hơn. Rắc rối hơn vì, khách hàng của họ,
thường, là người của một “gu” thẩm mỹ, của một “xu hướng xã hội”,
của một phong cách nghệ thuật nào đó v.v… Nói chung là không thuần
nhất. Ở tầm này, gallery cần phải nêu rõ tiêu chí, phải giương “ngọn
cờ”, phải trình bày tiêu chuẩn lựa chọn, đánh giá bằng lý lẽ và chứng
cứ, phải tạo nên một dáng vẽ hấp dẫn thích ứng v.v… Ngoài ra, có một

đặc điểm tâm lý chung, khá phổ biến ở khách hàng của loại gallery này,
dễ bị lợi dụng, là họ, thường khá nhạy cảm với các biểu hiện của tính
giai cấp (rất hay sợ tụt hạng, sợ trở nên lạc hậu….), thường, khá bảo
thủ (có xu hướng tin tiêu chuẩn đánh giá nghệ thuật là cái gì tuyệt đối,
vĩnh cữu…), nhưng cũng khá cả tin (uy tín xã hội của tác giả, của phê
bình… có thể thuyết phục họ dễ dàng…).



Nói tóm lại:

Gallery, cho dù ở đẳng cấp nào, cũng đều có thể “chuyện nghiệp hóa”
theo kiểu của mình.

Việc không xác định rõ đẳng cấp, sẽ dẫn đến hậu quả là gallery, dẫu
muốn đứng ở hàng “de luxe” cũng chỉ được nhìn nhận như một
“gallery bình dân”. Nó vi phạm nguyên tắc tượng trưng của tính giai
cấp, là một. Quan trọng hơn, nó cho thấy chủ gallery có cách nhìn
không đáng tin cậy.

Ở Việt Nam, xây dựng gallery “de luxe” theo tiêu chuẩn “quốc tế hóa”
là việc khó khăn. Lý do đơn giản là bản thân nền mỹ thuật Việt Nam
không hay chưa có một vị trí nào trên bản đồ mỹ thuật thế giới. Nếu ở
Việt Nam, có thật có một xu hướng tiên phong (avant-garde) nào đó,
thì trước tình hình thông tin phê bình rất kém như hiện nay cũng khó
được đón nhận. Nói cách khác, nó thiếu một bệ đỡ xã hội cần thiết-một
thiết chế bảo trợ.

Khó khăn, không có nghĩa là không thể. Hoàn toàn có thể nếu, một, có
quyết tâm; hai, có bản lĩnh của một đầu mối thông tin đáng tin cậy; ba,

có khả năng phát hiện, và bốn, dám đi cùng nghệ sĩ trên hành trình
phiêu lưu sáng tạo…

_________________________

[1]Trong loạt bài “Thị trường mỹ thuật Việt Nam-từ cái nhìn người
khác” của Nguyên Hưng, đăng trên Thể thao & Văn hóa đầu năm
1998.

[2]Đây là chuyện dài dòng, để phân tích phải trích dẫn, diễn giải
nhiều, và điều này vượt ra ngoài khuôn khổ một bài báo. Tôi xin phép
được quay lại với chuyện này trong một bài viết khác.

×