Phê bình mỹ thuật: một chuyện
thừa?
Gần 10 năm viết phê bình mỹ thuật, càng ngày, tôi càng hiểu ra rằng, ở
Việt Nam, viết phê bình mỹ thuật trên báo, cho dù viết về cái gì, kiểu
gì… cũng rất dễ thành thừa. Và nhảm.
Thừa, bởi chẳng mang lại ích lợi gì cho ai.
Với người đọc, đọc phê bình mà không xem trực tiếp tác phẩm là điều
vô nghĩa. Chẳng thà không đọc. Còn cứ đọc khơi khơi như thế, thực ra,
chỉ có tác dụng đắp dày ảo tưởng về sự hiểu biết của mình mà thôi.
Tiếp cận mỹ thuật không thể theo cái cách tiếp cận văn học. Tiếp cận
văn học, cho dù qua màn hình computer, qua bản photocopy, hay qua
bản viết tay… thì cũng là tiếp cận với văn bản gốc. Người ta có thể mà
ngồi nhà mà “tiếp xúc” mà “giao lưu”… Với tác phẩm mỹ thuật, không
thể tiếp cận thông qua bất cứ hình thức trung gian nào như vậy được.
Phải đến tận nơi. Một bức ảnh tranh, cho dù được in ở chất lượng tốt
mấy cũng không thể đại diện được cho nguyên tác. Những thông tin về
nguyên tác mà nó mang lại, thường, chỉ là một vài ý niệm sơ sài. Thậm
chí sai lạc. Lý do dễ hiểu: ở một bức tranh, ngay từ kích thước đến kết
cấu bề mặt vật liệu tác phẩm, tự nó, đã là những tín hiệu thẩm mỹ. Có
khi, lại là tín hiệu thẩm mỹ chủ yếu. Qua một tấm ảnh thu nhỏ và bóng
láng, các tín hiệu này bị tan biến hoàn toàn… Có lẽ ai cũng biết, các
cuộc triển lãm mỹ thuật trong nước, thường, rất ít người đến xem. Có,
đa số, quanh quẩn cũng là người trong nghề với nhau…
Thêm nữa, ngay cả khi người đọc đã xem trực tiếp tác phẩm thì việc
đọc phê bình cũng chưa chắc đã có ý nghĩa gì. Nhiều khi, chỉ có tác
dụng củng cố cho một mớ những thành kiến, định kiến sẵn có nào đó
mà thôi. Lý do cũng dễ hiểu: đàng sau tác phẩm nghệ thuật nào cũng
là một quan điểm, một phương pháp sáng tác nhất định. Và, đàng sau
một quan điểm một phương pháp sáng tác nào cũng là một hệ thống mỹ
học cung cấp những nguyên tắc, những tiêu chuẩn cho sự đánh giá,
nhận định… nhất định v.v… Nhưng, ở Việt Nam, cho đến nay, oái
oăm, những vấn đề đàng sau này, chưa nói đến chuyện phổ cập, ngay ở
tầng “bác học” cũng đang rất… “à ơi!”. Với sự “à ơi!” và bất cập
như vậy, chữ nghĩa phê bình trở nên rối rắm và mơ hồ. Một chữ
được viết ra, cho dù rõ ràng, nhưng qua người đọc, thường, được hiểu
theo kiểu gì đâu đâu!. Người viết nghĩ một đường, người đọc hiểu một
nẻo. Ví dụ đơn giản nhất: “đẹp”. Khi viết, mỗi khi quyết định buông
xuống một chữ “đẹp”, người viết có ý thức và thận trọng nào cũng đều
phải cân nhắc. Cân nhắc không phải chỉ ở sự đánh giá mà còn ở khái
niệm, kiểu mở cái ngoặc: “đẹp-hiểu theo nghĩa nào?” Ngay cả khi đã
mở cái ngoặc này rồi, cũng chắc chắn, lại phải băn khoăn, lại cảm thấy
cần phải mở thêm cái ngoặc nữa: “hiểu theo nghĩa này, có nghĩa là…!”.
Cứ thế, các câu hỏi sẽ được đặt ra bất tận. Chẳng lẽ lúc nào cũng phải
lôi mấy ông Aristote, ông Kant, ông Hégel, ông Engel, rồi mấy ông
“mỹ học gia” hiện đại đến hậu hiện đại ra mà thuyết minh, biện giải.
Đó là chưa kể đến chuyện tại sao phải đặt ra những câu hỏi như thế -
những câu hỏi đụng đến một loạt vấn đề phức tạp về bản chất của nghệ
thuật, về qui luật vận động và phát triển của nghệ thuật… Nói chung,
mịt mù…
Trong người đọc, giới sáng tác là một thành phần đáng kể. Trước
những vấn đề nêu trên, họ có là ngoại lệ không? Tôi ngờ là không. Bao
năm qua, thành phần người đọc mà tôi tiếp xúc nhiều, thường xuyên,
chính là giới sáng tác. Càng tiếp xúc, tôi càng hiểu, thực ra, không phải
không là ngoại lệ, một số khá đông trong họ, thậm chí còn là những
biệt lệ không thể đọc nổi phê bình. Với người đọc bình thường, kiến
thức về mỹ thuật, có thể là khoảng trống không, nhưng trống không là
còn có cơ may… Với người đọc là người trong nghề, cơ may này hết
sức nhỏ nhoi. Họ, thường, đã là những sản phẩm bị điều kiện hóa từ
lâu rồi, không thể “cựa quậy” gì được nữa, tự mình. Nhìn trên phương
diện sáng tác, có vẻ như các họa sĩ Việt Nam đã bước vào ngưỡng hiện
đại, thậm chí là cả hậu hiện đại. Thì ở phương Tây có gì, ở Việt Nam
có đủ - từ Ấn tượng, Tượng trưng, Biểu hiện, Trừu tượng, Siêu thực…
đến Installation, Performance, đến Video art, Body art v.v…Nhưng, ở
phương diện nhận thức, dường như, không phải như vậy. Sự tiếp cận
nghệ thuật thế giới hiện đại ở Việt Nam, cho đến nay, ở số đông họa sĩ,
chủ yếu, cũng chỉ qua sách tranh và qua những câu chuyện, những giai
thoại. Mang vác một thứ tâm lý tụt hậu với các ngộ nhận về tính phổ
quát của nghệ thuật phương Tây, họ trở nên rất cả tin, đã bắt chước, mô
phỏng rất nhanh những gì thấy được. Nhưng bởi, không được sự hậu
thuẫn của cả nền văn hóa giáo dục, không thể tiếp cận các vấn đề lý
thuyết - không thể ý thức hết các điều kiện nội tại và ngoại tại cấu
thành ngôn ngữ và cơ sở mỹ học làm nền tảng cho sự vận động định
hình và phát triển của một xu hướng nghệ thuật, một phương pháp sáng
tác mới…- nên, trong phần lớn trường hợp, sự bắt chước, mô phỏng kia
chỉ còn có ý nghĩa của một sự tha hóa. Hiếm người, có ý thức trọn
vẹn về nghệ thuật, về phương pháp sáng tác của mình. Đa số, trở thành
con tin của một phong cách nghệ thuật sẵn có nào đó-mỗi người, thủ
đắc một số chiêu thức kỹ thuật, tạo ra một vài mô-típ thuần túy hình
thức, bấu víu vào ít đề tài v.v… rồi cứ thế mà “nhân bản”. Sáng tác, chỉ
còn là một thói quen, một sự nhai lại. Không thể sinh sôi, không thể
biến hóa…
Thêm nữa, khi đã là con tin của một phong cách nghệ thuật sẵn có, có
nghĩa là đang ở trạng thái đứt gãy về mặt tư duy, người ta đồng thời
cũng sẽ là con tin của bao nhiêu thứ khác, chẳng hạn, của một số tín
điều và ảo tưởng loanh quanh trong cái rọ Lãng mạn hay Hiện thực chủ
nghĩa khởi từ thời Pháp thuộc (cùng lắm là mấp mé ngưỡng Tượng
trưng hay Biểu hiện chủ nghĩa tiếp xúc sau này) nói chung là đã rất lạc
hậu, của cái nhìn số đông, của những giá trị thực dụng hay của những
định kiến đồng đại nào đó v.v… Tất cả “quần xà ngầu” với nhau, và
mỗi “nghệ sĩ”, thực tế, trở thành “một mớ lộn xộn”. Vô phương cứu
chữa. Phê bình đi qua họ, còn lại, ít khi là lý lẽ. Thường, chỉ là chút
kiến thức, và một ít chữ nghĩa… leng keng. Chẳng phải ngẫu nhiên mà
ở Việt Nam các kiểu phê bình leng keng chữ nghĩa lại nhiều và sống
dai đến thế (Phê bình mỹ thuật mà bí hiểm như viết kinh, viết kệ, mà
hư huyễn như viết chuyện thần thoại, truyền kỳ…)-những thứ chỉ làm
lộn xộn thêm cái lộn xộn sẵn có. Và, chẳng phải ngẫu nhiên mà giới
sáng tác, mỗi khi viết, khi nói, trong phần lớn trường hợp, nếu không
nói chuyện sinh hoạt, chuyện thực dụng, mà bàn chuyện “học thuật” thì
cứ mãi loay hoay, hoặc với những chuyện cũ xì (mà các họa sĩ Việt
Nam ở đầu hay giữa thế kỷ trước đã từng bàn với ý thức tự giác và
nhiệt tình cao hơn…), hoặc, với những chuyện gần như là… “ngớ
ngẩn”. Có rất nhiều ví dụ có thể kể về sự “ngớ ngẩn” này. Cũng quanh
chữ “đẹp”, chẳng hạn. Lắm người-họa sĩ và cả nhà phê bình-vẫn nói:
“mới thì mới, nhưng phải đẹp!”. Nghe cởi mở lắm, cấp tiến lắm, nhưng
thật ra là “ấm ớ!”. Trước cái mới, anh dựa theo tiêu chuẩn nào mà cho
nó đẹp hay xấu?! Sự “ấm ớ” này, không dừng lại ở các suy nghĩ cá
nhân. Nó gần như là cách nghĩ chung, đi vào thể chế. Thử xem lại các
giải thưởng mỹ thuật quốc gia tổ chức ở cấp khu vực và cấp quốc gia
hàng năm, hay, các giải thưởng cấp quốc gia của Giải thưởng mỹ thuật
Asean do tập đoàn các công ty Philip Morris tài trợ, hẳn thấy: khi người
ta thản nhiên bày và chấm giải cho các tác phẩm ở đủ các khuynh
hướng và phương pháp sáng tác khác nhau trên cùng “một mâm” thì
người ta căn cứ trên tiêu chuẩn gì? Chưa bao giờ có một tuyên bố nào
cho rạch ròi về chuyện này. Làm như chỉ cần một hệ qui chiếu nào đó
thôi là có thể soi đủ cả Hiện thực, Lãng mạn, Ấn tượng, Biểu hiện,
Trừu tượng, Lập thể, Siêu thực v.v… và v.v… Căn cứ vào “tính sáng
tạo” như vẫn hay nói ư? Nói vậy bằng không. Bởi sau chữ sáng tạo còn
bao nhiêu cách hiểu, còn bao nhiêu vấn đề thực ra chưa bao giờ được
xới lên, biện biệt… Mới đây, Hội Mỹ thuật TP Hồ Chí Minh tổ chức
một cuộc hội thảo về nghệ thuật Việt Nam đương đại. Chưa nói đến
những gì được đề cập bên trong, ngay cái tên khái quát chủ đề hội thảo
nghe đã “lộ cộ”: “Về tính sáng tạo của nghệ thuật đương đại Việt Nam
trong thời đổi mới”. Chẳng lẽ không phải sáng tạo xưa nay vốn là yếu
tính của nghệ thuật hay sao - không sáng tạo không có nghệ thuật - mà
cần phải nhấn nhá thêm mấy chữ “về tính sáng tạo” ở phía trước? Thêm
nữa, chẳng lẽ không phải “đương đại” vốn có nghĩa là “cái đang là”,
“cái đang ở thời hiện tại” hay sao mà phải nối thêm cái đuôi “trong thời
đổi mới”… Sự “lộ cộ” ở đây, rõ ràng, không đơn giản chỉ là chuyện
chữ nghĩa. Chữ nghĩa, chỉ là phần lộ ra của một não trạng, một cách
nghĩ bất ổn. Nó để lấp ló cái mặc cảm thiếu “tính sáng tạo” và cái mặc
cảm lạc hậu mãn tính. Đặc biệt, nó để thò ra một tình trạng vô ý thức
hay loạng choạng, tù mù triền miên trong nhận thức.
v.v… và v.v…
Nói chung, chúng ta viết hay đọc, bao giờ cũng là viết hay đọc trong
cái nhìn liên văn bản, liên ngành, liên văn hóa. Mỗi một chữ, một khái
niệm được viết ra đều có nghĩa là chiết ra hay trích ra từ một hệ thống
nào đó. Và nó được đọc, cũng gắn liền với một hệ thống nào đó cấu
thành cách nhìn, quyết định cách hiểu của người đọc. Giữa cái được
viết ra và sự đọc nó, nhiều khi có một khoảng lệch hết sức ghê gớm.
Nhiều khi không có sự tương đồng nào. Trở lại với chuyện phê bình
mỹ thuật, những bài viết phê bình mỹ thuật trên báo, vốn dĩ là những gì
hết sức sơ sài, hết sức dở dang, khi đến với người đọc, sẽ nối kết, sẽ
tổng hợp với cái gì? Và, sẽ cho ra kết quả gì? Thực tế như đã nói, nó,
nơi số đông người đọc, chỉ được nối kết, tổng hợp với những định kiến,
thành kiến, những hoang tưởng, ảo tưởng, ngộ nhận v.v… Và, cuối
cùng, chỉ biến mọi nỗ lực phê bình trở thành một cái gì có vẻ như ai
cũng cần nhưng lại rất thừa. Không chỉ thừa, nhảm.
Thực tế, có lẽ, nhiều người viết phê bình đã hiểu rõ điều này. Hiểu.
Một số người thôi, không viết phê bình nữa, chấp nhận làm “chiêng
trống làm rộn ràng phiên chợ”. Cho qua ngày. Một số chuyển sang
làm… thinh. Hay, làm “nhà phê bình vỉa hè”. Một số loay hoay bức
bối. Nhiều người trẻ, muốn viết phê bình mỹ thuật, thành tâm nói với
tôi: “Chẳng lẽ vô phương sao? Chẳng lẽ thôi không viết phê bình
nữa?…”. Tôi không biết góp ý thế nào với họ. Bởi, xét đến cùng, họ
cũng đã là sản phẩm của một nền văn hóa, giáo dục có lắm điều bất cập
và thái quá “điều kiện hóa” tư duy con người từ lâu rồi. Nói nhiều chỉ
làm cho họ hoang mang. Tôi biết vài người suốt ngày lùng sục trên
internet tìm đọc, mong thấy “lối ra”. Họ bắt đầu nói chuyện dịch
chuyển góc nhìn phê bình, chuyển đối tượng phê bình sang các vấn đề
văn hóa mỹ thuật, sang các vấn đề học thuật v.v… Nhưng để hiểu và
làm việc đó, họ cần phải có một khối lượng kiến thức liên ngành khổng
lồ và mang tính hàn lâm. Xem như họ phải học lại từ đầu. Nhưng học ở
đâu? Ai dạy? Đi tìm một danh sách các tài liệu tham khảo cần đọc đã
khó lắm rồi. Nhiều khi phải có “duyên” mới gặp bạn, gặp thầy. Mà
ngay cả khi có điều kiện, sách hay chất đầy nhà, thì đọc, nhiều khi, cứ
như phải “đâm đầu vào tường”. Bao nhiêu trở ngại lù lù trong tư duy.
Cách giáo dục đào tạo ở Việt Nam, lâu nay, rất ít chú tâm tạo cho
người học khả năng suy nghĩ độc lập, khả năng tự học. Kiến thức lý
luận và phương pháp luận của không ít người được gọi là “trí thức” rất
kém. Bởi vậy, tiêu hóa là chuyện khó. Dễ “tẩu hỏa nhập ma” lắm.
Thêm nữa, còn có bao nhiêu trở ngại, áp lực khác. Ngay cả khi đã tích
lũy và làm chủ được khối lượng kiến thức cần thiết, chuyển sang hướng
“phê bình lý thuyết”, “phê bình học thuật” như thế, người viết sẽ phải
đụng độ với bao nhiêu thành kiến, bao nhiêu tín điều, bao nhiêu mặc
cảm, kể cả mưu toan… chi phối sự suy nghĩ và hành xử nơi số đông
người trong làng mỹ thuật, và do đó, rất dễ bị xem như những kẻ trịch
thượng, những kẻ phá bĩnh, có khi còn là “những kẻ phản bội”, khả
nghi…
Tôi viết ra tất cả những điều này, không phải để biện minh cho cái việc
lâu nay tôi không viết một bài phê bình mỹ thuật nào đăng báo trong
nước hay để phủ nhận vai trò của phê bình mỹ thuật nói chung. Tôi
viết, để lẩy ra một số vấn đề khác, đáng quan tâm hơn:
Một, đừng hy vọng phê bình sẽ làm cho công chúng yêu thích và hiểu
biết về mỹ thuật hơn, nếu như còn tiếp tục phớt lờ việc phổ cập kiến
thức về mỹ thuật, về nghệ thuật nói chung đến mọi người dân; đừng hy
vọng phê bình sẽ thúc đẩy được sáng tác, sẽ làm cho giới sáng tác đổi
mới thực sự - trở nên chuyên nghiệp và bản lĩnh hơn ở tư cách con
người tự do sáng tạo - nếu như cả nền văn hóa mỹ thuật vẫn còn dị ứng
hay bất cập trước các vấn đề lý thuyết, vẫn còn “đóng cửa” không chịu
cập nhật các lý thuyết nghệ thuật mới và cả cơ sở học thuật liên quan
của nhân loại ngày nay.
Hai, sẽ không giải quyết được vấn đề phổ cập, nếu không, trước hết,
giải quyết các vấn đề “bác học”. Không thể “ăn sống nuốt tươi” các lý
thuyết ngoại nhập. Cần phải có một hệ thống chuyên gia làm công việc
thu thập, chọn lọc và xử lý thông tin -những người có khả năng phê
bình lý thuyết và kiến tạo lý thuyết. Không thể tiếp tục quản lý sinh
hoạt mỹ thuật theo lối tư duy thời bao cấp mà ở đó, người thủ trưởng sẽ
quyết định tất cả. Những cuộc hội thảo gọi là “khoa học” về các vấn đề
nghệ thuật đương đại được tổ chức thời gian gần đây, từ trung ương
đến địa phương, dường như, là vẫn đang được triển khai theo lối tư duy
này. Nhìn vào cách đặt vấn đề và cách tổ chức, có thể thấy, nó có vẻ
như là một cuộc vận động dư luận cho một mục đích nào đó khác hơn
là nhằm phát hiện và giải quyết các vấn đề học thuật. Cùng một số tiền
bỏ ra cho các cuộc hội thảo như thế hàng năm, nếu tập trung đầu tư cho
một vài chuyên gia, tổ chức họ thành một bộ máy với các điều kiện làm
việc phù hợp…, mọi chuyện có lẽ sẽ hiệu quả hơn.
Ba, sẽ không giải quyết được các vấn đề “bác học” nếu không đào xới
vào tận nền tảng-cơ sở tồn tại, các yếu tố chi phối sự vận động và phát
triển-của cả nền văn hóa mỹ thuật. Như thế, có nghĩa là phải chấp nhận
sự phê phán. Thậm chí hơn nữa: sự phủ định. Và sự chấp nhận này,
không gì khác hơn, là tạo ra một môi trường dân chủ thực sự cho phê
bình…
…
Ở trên, tôi có nêu vấn đề dịch chuyển góc nhìn phê bình, chuyển đối
tượng phê bình sang các vấn đề văn hóa mỹ thuật, sang các vấn đề học
thuật v.v…. Do vấn đề khá phức tạp cần phải biện luận dài dòng, tôi
xin được đề cập sâu hơn vào một dịp khác.