Tải bản đầy đủ (.pdf) (209 trang)

Tìm hiểu về hát chèo pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (704.1 KB, 209 trang )


Hát chèo
Chèo là một loại hình nghệ thuật sân
khấu dân gian Việt Nam. Chèo phát sinh
và phát triển ở đồng bằng Bắc Bộ. Loại
hình sân khấu này phát triển cao, giàu tính
dân tộc. Nếu sân khấu truyền thống Trung
Quốc có đại diện tiêu biểu là Kinh kịch
của Bắc Kinh và sân khấu Nhật Bản là
kịch nô thì đại diện tiêu biểu nhất của sân
khấu truyền thống Việt Nam là chèo.
Lịch sử
Đồng bằng châu thổ sông Hồng luôn là
cái nôi của nền văn minh lúa nước của
người Việt. Mỗi khi vụ mùa được thu
hoạch, họ lại tổ chức các lễ hội để vui
chơi và cảm tạ thần thánh đã phù hộ cho
vụ mùa no ấm. Từ thiên niên kỷ thứ nhất
trước Công nguyên, họ đã biết biểu diễn
các vở chèo đầu tiên trên sân đình. Nhạc
cụ chủ yếu của chèo là trống chèo. Chiếc
trống là một phần của văn hoá cổ Việt
Nam, người nông dân thường đánh trống
để cầu mưa và biểu diễn chèo.
Chèo bắt nguồn từ âm nhạc và múa dân
gian, nhất là trò nhại từ thế kỷ 10. Qua thời
gian, người Việt đã phát triển các tích
truyện ngắn của chèo dựa trên các trò nhại
này thành các vở diễn trọn vẹn dài hơn.
Sự phát triển của chèo có một mốc
quan trọng là thời điểm một binh sỹ quân


đội Mông Cổ đã bị bắt ở Việt nam vào thế
kỷ 14. Binh sỹ này vốn là một diễn viên
nên đã đưa nghệ thuật Kinh kịch của Trung
Quốc vào Việt Nam. Trước kia chèo chỉ
có phần nói và ngâm các bài dân ca, nhưng
do ảnh hưởng của nghệ thuật do người lính
bị bắt mang tới, chèo có thêm phần hát.
Vào thế kỷ 15, vua Lê Thánh Tông đã
không cho phép biểu diễn chèo trong cung
đình, do chịu ảnh hưởg của đạo Khổng. Do
không được triều đình ủng hộ, chèo trở về
với những người hâm mộ ban đầu là nông
dân, kịch bản lấy từ truyện viết bằng chữ
Nôm. Tới thế kỷ 18, hình thức chèo đã
được phát triển mạnh ở vùng nông thôn
Việt Nam và tiếp tục phát triển, đạt đến
đỉnh cao vào cuối thế kỷ 19. Những vở nổi
tiếng như Quan Âm Thị Kính, Lưu Bình
Dương Lễ, Kim Nham, Trương Viên xuất
hiện trong giai đoạn này. Đến thế kỷ 19,
chèo ảnh hưởng của tuồng, khai thác một
số tích truyện như Tống Trân, Phạm Tải,
hoặc tích truyện Trung Quốc như Hán Sở
tranh hùng. Đầu thế kỷ 20, chèo được đưa
lên sân khấu thành thị trở thành chèo văn
minh. Có thêm một số vở mới ra đời dựa
theo các tích truyện cổ tích, truyện Nôm
như Tô Thị, Nhị Độ Mai.
Các đặc trưng của chèo
Không giống tuồng chỉ ca tụng hành

động anh hùng của các giới quyền quý,
chèo miêu tả cuộc sống bình dị của người
dân nông thôn. Khát vọng sống thanh bình
giữa một xã hội phong kiến đầy bất công là
đặc điểm nổi bật trong nội dung của chèo,
nhiều vở chèo còn thể hiện cuộc sống vất
vả của người phụ nữ sẵn sàng hy sinh bản
thân vì người khác. Nội dung của các vở
chèo lấy từ những truyện cổ tích, truyện
Nôm; được nâng lên một mức cao bằng
nghệ thuật sân khấu mang giá trị hiện thực
và tư tưởng sâu sắc. Trong chèo, cái thiện
luôn thắng cái ác, các sỹ tử tốt bụng, hiền
lành, luôn đỗ đạt, làm quan còn người vợ
thì tiết nghĩa, cuối cùng sẽ được đoàn tụ
với chồng. Các tích trò chủ yếu lấy từ
truyện cổ tích, truyện Nôm; ca vũ nhạc từ
dân ca dân vũ; lời thơ chủ yếu là thơ dân
gian. Lối chèo thường diễn những việc vui
cười, những thói xấu của người đời như
các vở: Thầy mù, Hương câm, Đồ điếc,
Quan Âm Thị Kính. Ngoài ra chèo còn thể
hiện tính nhân đạo, như trong vở Trương
Viên.
Tính chất
Chèo luôn gắn với chất "trữ tình", thể
hiện những xúc cảm và tình cảm cá nhân
của con người, phản ánh mối quan tâm
chung của nhân loại : tình yêu, tình bạn,
tình thương.

Nhân vật trong chèo
Nhân vật trong chèo thường mang tính
ước lệ, chuẩn hóa và rập khuôn. Tính cách
của các nhân vật trong chèo thường không
thay đổi với chính vai diễn đó. Những
nhân vật phụ của chèo có thể đổi đi và lắp
lại ở bất cứ vở nào, nên hầu như không có
tên riêng. Có thể gọi họ là thầy đồ, phú
ông, thừa tướng, thư sinh, hề v.v Tuy
nhiên, qua thời gian, một số nhân vật như
Thiệt Thê, Thị Kính, Thị Mầu, Súy Vân đã
thoát khỏi tính ước lệ đó và trở thành một
nhân vật có cá tính riêng.
Diễn viên đóng chèo nói chung là
những người không chuyên, hợp nhau trong
những tổ chức văn nghệ dân gian gọi là
phường chèo hay phường trò "Hề" là một
vai diễn thường có trong các vở diễn chèo.
Anh hề được phép chế nhạo thoải mái
cũng như những anh hề trong cung điện của
vua chúa Châu Âu. Các cảnh diễn có vai
hề là nơi để cho người dân đả kích những
thói hư tật xấu của xã hội phong kiến hay
kể cả vua quan, những người có quyền, có
của trong làng xã. Có hai loại hề chính bao
gồm :hề áo dài và hề áo ngắn
Kỹ thuật kịch
Đây là loại hình nghệ thuật tổng hợp
các yếu tố dân ca, dân vũ và các loại hình
nghệ thuật dân gian khác ở vùng đồng bằng

Bắc Bộ. Nó là hình thức kể chuyện bằng
sân khấu, lấy sân khấu và diễn viên làm
phương tiện giao lưu với công chúng, và
có thể được biểu diễn ngẫu hứng. Sân khấu
chèo dân gian đơn giản, những danh từ
chèo sân đình, chiếu chèo cũng phát khởi
từ đó. Đặc điểm nghệ thuật của chèo bao
gồm yếu tố kịch tính, kỹ thuật tự sự,
phương pháp biểu hiện tính cách nhân vật,
tính chất ước lệ và cách điệu. Ngôn ngữ
chèo có những đoạn sử dụng những câu thơ
chữ Hán, điển cố, hoặc những câu ca dao
với khuôn mẫu lục bát rất tự do, phóng
khoáng về câu chữ.
Chèo không có cấu trúc cố định năm
hồi một kịch như trong sân khấu Châu Âu
mà các nghệ sỹ tham gia diễn chèo thường
ứng diễn. Do vậy, vở kịch kéo dài hay cắt
ngắn tuỳ thuộc vào cảm hứng của người
nghệ sỹ hay đòi hỏi của khán giả. Không
giống các vở opera buộc các nghệ sỹ phải
thuộc lòng từng lời và hát theo nhạc trưởng
chỉ huy, nghệ sỹ chèo được phép tự do bẻ
làn, nắn điệu để thể hiện cảm xúc của nhân
vật. Số làn điệu chèo theo ước tính có
khoảng trên 200.
Nhạc cụ
Chèo sử dụng tối thiểu là hai loại nhạc
cụ dây là đàn nguyệt và đàn nhị đồng thời
thêm cả sáo nữa. Ngoài ra, các nhạc công

còn sử dụng thêm trống và chũm chọe. Bộ
gõ nếu đầu đủ thì có trống cái, trống con,
trống cơm, thanh la, mõ. Trống con dùng
để giữ nhịp cho hát, cho múa và đệm cho
câu hát. Có câu nói " phi trống bất thành
chèo" chỉ vị trí quan trọng của chiếc trống
trong đêm diễn chèo. Trong chèo hiện đại
có sử dụng thêm các nhạc cụ khác để làm
phong phú thêm phần đệm như đàn thập
lục, đàn tam thập lục, đàn nguyệt, tiêu
v.v
Tác phẩm
Vở chèo
Một số vở chèo tiêu biểu:
1. Trần Tử Lệ
2. Tuần Ty Đào Huế
3. Quan Âm Thị Kính
4. Lưu Bình-Dương Lễ
5. Từ Thức gặp tiên
6. Kim Nham
7. Chu Mãi Thần
8. Nghêu sò ốc hến
9. Bài ca giữ nước
10. Đồng tiền Vạn Lịch
11. Hoàng Trìu kén vợ
Trích đoạn
Một số trích đoạn tiêu biểu : Thị Mầu
lên chùa, Súy Vân giả dại, Đánh ghen (vở
Tuần Ty Đào Huế), Xã trưởng - Mẹ Đốp,
Hồ Nguyệt Cô hóa cáo,

Giai điệu
Một số giai điệu chèo cổ : Quân tử
dịch, Sử bằng, Đò đưa, Tò vò, Nhịp đuổi,
Du xuân, Đào liễu, Ngâm bốn mùa, Đường
trường trong rừng, Tuyết sương, Quá
giang
Nghiên cứu
Nghiên cứu về chèo, Lương Thế Vinh
đã viết Hỷ Phường Phổ Lục.
Phân loại chèo
Chèo sân đình
Chèo sân đình là loại hình chèo cổ
của những phường chèo xưa, thường được
biểu diễn ở các sân đình, sân chùa, sân
nhà các gia đình quyền quý. Sân khấu chèo
sân đình thường chỉ là 1 chiếc chiếu trải
ngoài sân, đằng sau treo chiếc màn nhỏ,
diễn viên và nhạc công ngồi 2 bên mép
chiếu tạo dàn đế. Chèo diễn theo lối ước
lệ, cảnh trí chỉ được thể hiện theo ngôn
ngữ, động tác cách điệu của diễn viên.
Đạo cụ của người diễn hay sử dụng là
chiếc quạt.
Chèo cải lương
Chèo cải lương là 1 dạng chèo cách
tân do Nguyễn Đình Nghi khởi xướng và
theo đuổi để thực hiện từ đầu những năm
1920 đến trước Cách mạng tháng Tám
1945, theo xu hướng phê phán tính ước lệ
của chèo cổ. Chèo cải lương được soạn

thành màn, lớp, bỏ múa và động tác cách
điệu trong diễn xuất, xử lý những mô hình
làn điệu chèo cổ, đưa nguyên những bài
dân ca có sẵn vào bổ sung cho hát chèo.
Bộ "Tám trận cười" của Nguyễn Đình
Nghi gồm những vở nổi tiếng.
Chèo chái hê
Chèo chái hê là loại hình dân ca hát
vào rằm tháng bảy hàng năm, hoặc trong
đám tang, đám giỗ của người có tuổi thọ,
có nguồn gốc từ việc kết nghĩa giữa 2 làng
Vân Tương (Bắc Ninh) và Tam Sơn (Đông
Anh, Hà Nội), gồm có các phần: 1. Giáo
roi 2. Nhị thập tứ hiếu 3. Múa hát chèo
thuyền cạn 4. Múa hát kể thập ân. Kết thúc
chương trình hát chèo chái hê thường là
hát quan họ.
Chèo hiện đại
Các nghệ sỹ nổi tiếng
 Tào Mạt : là người có đóng góp lớn
trong sự phát triển chèo hiện đại.
 Nguyễn Thị Minh Lý, bà sinh năm
1912, là con gái Trùm Thịnh, người đã
cùng với Nguyễn Đình Nghị và Cả Tam
đóng góp lớn cho việc hiện đại hóa
chèo đầu thế kỷ 20.
 Hoa Tâm, người xã Kim Động, tỉnh
Hưng Yên.
 Gần đây có các nghệ sỹ : Thanh
Trầm, An Chinh, Hoài Thu, Xuân Hinh,

Vân Quyền
Các làng chèo nổi tiếng
Một trong những làn chèo nổi tiếng
nhất là làng chèo Thiết Trụ, hay còn gọi là
chiếu chèo làng Thiết Trụ, ở xã Bình
Minh, tỉnh Hưng Yên. Đội chèo làng Thiết
Trụ được thành lập từ những năm 1960.
Niềm đam mê chèo của người dân thể
hiện trong các câu thơ sau :
Ăn no rồi lại nằm khoèo
Nghe giục trống chèo vỗ bụng đi xem
Chẳng thèm ăn chả ăn nem
Thèm no cơm tẻ, thèm xem hát chèo.
Từ đầu thế kỷ 20, huyện Mỹ Lộc, Nam
Định đã có 3 làng chèo khá nổi tiếng: làng
Đặng, làng Quang Sán, làng Nhân Nhuế, xã
Mỹ Thuận.
Trong thơ của Nguyễn Bính có nhắc
đến hội chèo làng Đặng
Bữa ấy mưa xuân phơi phới bay
Hoa xoan lớp lớp rụng vơi đầy
Hội chèo làng Đặng đi ngang ngõ
Mẹ bảo: "Thôn Đoài hát tối nay
Thông tin thêm
Nhạc sĩ Quốc Trung đã kết hợp làn
điệu chèo với âm nhạc của nhạc cụ hiện
đại trong chương trình Đường xa vạn dặm,
mang đến cho khán giả một kiểu thưởng
thức chèo mới lạ.
Chèo cổ Thất Gian hành

trình trở về cội nguồn
Đối với những người yêu Chèo cổ, đôi
khi một tiếng mõ rơi hay một tiếng trống
chèo vang lúc đêm khuya cũng đủ làm nao
lòng, dội vào tiềm thức của họ nỗi nhớ
khôn nguôi về một “thời xa vắng”. Chèo
cổ Việt Nam gần như không xuất hiện trong
hơn nửa thế kỷ qua, nhưng giữa những sôi
động của nhịp sống hiện đại, loại hình
nghệ thuật này vẫn như đốm lửa âm ỉ, chỉ
cần một ngọn gió cũng đủ thổi bùng niềm
đam mê vốn cổ với những khát vọng dân
gian tưởng như đã thuộc về dĩ vãng…
Người say chèo

Sinh ra trong một gia đình nghệ sỹ
nông dân bốn đời đi hát chèo, ba đời đứng
trùm (tương đương với chức tổng đạo diễn
bây giờ), nhà nghiên cứu văn hóa dân gian
Trần Quốc Thịnh có một quá khứ đầy ắp
tiếng chèo. Làng Thất Gian quê ông xưa
thuộc tổng Phù Lang huyện Quế Dương
(nay thuộc xã Châu Phong, huyện Quế Võ)
là đất giáo phòng, một làng mà có tới 3
loại hình nghệ thuật: chèo, ca trù và chầu
văn, song chèo vẫn là “món ăn” tinh thần
được yêu chuộng nhất của bà con, nhất là
trong những dịp nông nhàn. Cụ ông, tên tục
Trần Văn Bảy, tức cụ Lý Thống là người
đầu tiên lập ra phường chèo Thất Gian.

Đến đời thân sinh ra ông Thịnh là cụ Trần
Văn Độ, một trí thức nông dân chuyên dạy
chữ nho còn gọi là thầy trùm Điều, chuyên
ra các vai ông Đồ, quan, đặc biệt tán hề
rất nổi trò.

Tuổi thơ của người nghệ sỹ già là
những đêm theo cha đi hát ở sân đình, có
khi đến canh hai, canh ba mà chiếu chèo
chưa tan, người xem vẫn kín “ba mặt”
cánh gà, những đứa trẻ vô tư như cậu bé
Thịnh díp mắt “hồn nhiên” ngủ ngay dưới
chân diễn viên. Lên 9 tuổi, vai đầu tiên
cha cho tham gia là đóng hề, bưng tráp,
chải chiếu, khi ấy cả phường chèo có 12
người. Rồi cha mất, phường chèo tan, gánh
hát còn có 7 người lúc đó đều đã trên 50
tuổi, thi thoảng “hoài cổ’’ vẫn diễn lại vài
tích trò quen thuộc phục vụ bà con chòm
xóm. Chèo cổ mai một, Chèo cải biên dần
chiếm ưu thế, người ta không còn được
thưởng thức loại kịch hát lề lối, dãi dề, đà
đận, nồng hậu, dồn dập tiếng trống chèo
ngày xưa nữa. Có những đêm, không ngủ
được vì nhớ tiếng hát Chèo, ông Thịnh một
mình tay gõ trống, miệng hát lại đoạn chèo
Kiều, Tống Trân đúng điệu, “thổ tận cam
tràng” mà xót lòng bởi sự đứt đoạn của
một loại hình diễn xướng dân gian đặc sắc
do cha ông truyền lại. Mất nhiều năm dày

công tìm hiểu, nghiên cứu, nay đã ở tuổi
“thất thập”, ông Thịnh mới thực hiện được
tâm nguyện cả đời: khôi phục gánh Chèo
cổ Thất Gian. Đi gần hết cuộc đời, nhà
nghiên cứu văn hoá dân gian Trần Quốc
Thịnh được bạn đọc biết đến qua gần 10
đầu sách, chủ yếu về văn hóa dân gian.
Tuyển tập “Những lời bông trong Chèo”
dày 380 trang đã chính thức xuất bản và
sắp tới sẽ cho ra mắt cuốn “Chèo Cổ
truyền làng Thất Gian” với dung lượng gần
1.000 trang do NXB Văn hoá - Thông tin
ấn hành. Chuyện một người lao tâm khổ tứ,
nhiều năm liền bỏ tiền túi để “nuôi sống”
gánh hát đại diện cho chèo Chiếng Bắc
cũng là chiếu chèo duy nhất còn sót lại của
Chèo cổ Việt Nam nghe qua thật khó tin.
Không ít người đã bảo ông là “hâm”,
nhưng “hâm” để phục dựng nền nghệ thuật
dân gian quí giá gần như đã bị lãng quên
thì điều đó thật cần thiết và đáng trân
trọng.

Bắc Ninh còn một chiếu chèo

Chèo nảy sinh và phát triển ở đồng
bằng Bắc Bộ, bắt đầu từ Chèo Chái hê (ai
biết câu gì kể câu ấy), Chèo kể tích (ngồi
thành dãy, lấy một tích truyện: Lưu Bình,
Tống Trân, Phạm Tải… ai nghĩ được cách

kể, cách hát hay ở đoạn nào thì diễn xướng
đoạn ấy, nối nhau cho hết tích), đến diễn
tích trò rồi hoàn thiện như sau này. Chèo
cổ xưa có 4 chiếng: chiếng Đông vùng Hải
Dương, Hưng Yên, Kiến An (thuộc Hải
Phòng ngày nay)…; chiếng Đoài vùng Hà
Đông, Sơn Tây, Phú Thọ…; chiếng Nam
vùng Thái Bình, Nam Định, Hà Nam…
chiếng Bắc vùng Bắc Ninh, Bắc Giang,
Phúc Yên. Riêng đất Bắc Ninh cổ mật độ
phường chèo dày đặc, nhiều gia đình mấy
đời đi hát chèo, có khi cả nhà thành hẳn
một gánh riêng. Nét đặc trưng trong Chèo
cổ, người diễn và người xem không cách
biệt nhau, một chiếc dây thừng căng giữa
hai cột đình hoặc rạp, kéo cánh màn gió,
vắt quần áo lên gọi là buồng trò, diễn viên
hoá trang ngoài cũng nhìn thấy, trải chiếu
diễn, người xem đứng hai bên sàn, trẻ con
ngồi quanh chiếu, diễn thâu đêm suốt
sáng…

Thoáng chút suy tư, ông Thịnh bồi hồi
nhớ lại thời hưng thịnh của phường chèo
Thất Gian xưa. Gánh hát có 12 người đều
là học trò ông Trùm Khoa hay còn gọi là
nữ Khoa (lệ xưa không cho con gái đi hát
“xướng ca vô loài” nên con trai thường
phải đóng thế) vì ông xinh trai, giọng tốt,
đóng nữ nổi tiếng. Kép chính của phường

là ông Nguyễn Văn Lự tức Ba Lự vừa đẹp
người lại hát hay, diễn giỏi, thường ra kép
bằng, đóng các vai chủ đạo như Mai Sinh
(Nhị Độ Mai), Kim Trọng (Kiều)… Kép
nhì Nguyễn Văn Phòng (cũng là bạn nối
khố của ông Thịnh) nhỏ tuổi nhất phường,
không biết chữ chỉ học truyền khẩu mà ra
rất nhiều vai hát “sạt mái ngói đình”, diễn
Kiều ở Kiều Lương ông ra Vương Quan,
đến vai tìm mãi không thấy, thì ra bị các
chị coi hát bế “cho đi ăn quà” và bảo “cái
thằng bằng cái ranh mà sao nó hát hay
thế”. Ngoài ra nữ lệch còn phải kể đến ông
Nguyễn Văn Sử còn gọi là Sử Phượng
thường đóng vai Tú bà, Đào Huế, Suý
Vân… trong vùng không đào nào sánh kịp.
Nữ bằng Đặng Đình Trác có bằng Sơ học
yếu lược, làm thư ký họ lại, tốt giọng,
chuyên đóng Kiều, Hạnh Nguyên, Phương
Hoa rất hay, về sau cơ thể phát triển cao
lớn, vỡ giọng không đóng nữ được nữa,
chuyển sang các vai nịnh như Lư Kỷ, Đổng
Trác. Riêng kép Đen có ông Nguyễn Văn
Xích, tiếng vang, âm đục thường vào vai
Trương Phi, hung đồ, đôi khi cũng ra vai
quan cất đĩnh đạc như Mai Công, Hầu
Đoan, Viên Ngoại… Thời ấy, những người
nông dân một nắng hai sương vất vả mà tối
đến xóm làng vui như tết, Chèo cổ gắn bó
với dân như có duyên nợ.


Bà Nguyễn Thị Nhỡ, 58 tuổi, con gái
cụ Nguyễn Văn Xích, một trong 7 nghệ
nhân cuối cùng của phường chèo Thất
Gian những năm 1940 thế kỷ trước, chuyên
vào vai Sử mẫu được ông Thịnh đánh giá
tầm cỡ bậc nhất nghệ thuật Chèo cổ hiện
nay nhớ lại “Lúc tôi khoảng hơn 10 tuổi đi
xem thày hát thường học lỏm, ở nhà những
lúc 2 cha con cùng giã gạo thày lại dạy tôi
hát vài điệu Sử xuân, nhớ nhất là đoạn
Dương Lễ rủ Lưu Bình học. Cũng đã mấy

×