ĐẶC TRƯNG C
ỦA MỸ THUẬT
ĐA PHƯƠNG TIỆN
BÍCH KHOA-Miền bình yên
Trong lĩnh vực nghệ thuật ở nước ta hiện nay, việc họa sĩ ứng dụng những
công nghệ khoa học kỹ thuật tiên tiến vào sáng tác đã đem lại nhiều biến đổi
lớn về quan niệm cũng như trong hình thức thể hiện tác phẩm. Nó đã th
ực sự
trở thành một cuộc cách mạng trong lĩnh vực sáng tạo. Việc khai thác triệt
để khả năng đồ họa của máy vi tính giúp họa sĩ có thể xây dựng và phát tri
ển
những hình ảnh hai chiều hoặc ba chiều, tĩnh hoặc động một cách dễ dàng,
tạo nên những tác phẩm “nghệ thuật kỹ thuật số” rất đa dạng và đặc sắc. Có
thể gọi chúng là những tác phẩm Mỹ thuật đa phương tiện (MTĐPT). Thực
tế ở nước ta hiện nay, MTĐPT là một phần không nhỏ và không thể thiếu
được trong nền mỹ thuật Việt Nam. Hơn lúc nào h
ết, nó góp phần đẩy nhanh
và mạnh sự phát triển, biến đổi của mỹ thuật cũng như thị trường nghệ thuật
trong nước. Tuy nhiên, ở Việt Nam khi nói đến MTĐPT rất nhiều người
thậm chí cả giới nghệ sĩ cũng đều nhìn nhận nó dưới góc độ kỹ thuật. Lý do
chính là do sự thiếu cập nhật thông tin đã gây ra những hiểu biết sai lệch về
MTĐPT. Chính sự hiểu biết sai lệch này đã tạo ra tâm lý sùng mộ quá đáng
hoặc tâm lý e sợ, dị ứng đối với MTĐPT. Thực chất, nguồn gốc mỹ thuật và
nền tảng tạo hình của tác phẩm MTĐPT lại xuất phát từ quá trình bố cục
những yếu tố tạo hình truyền thống của nghệ thuật thị giác như: điểm chấm,
đường nét, hình mảng, khối, không gian, màu sắc, chất liệu thông qua
những phương tiện biểu đạt phong phú và đa dạng của nhiều phương tiện,
với sự trợ giúp của máy vi tính. Chính vì vậy mà MTĐPT vừa mang trong
nó những đặc trưng c
ủa nghệ thuật thị giác đồng thời cũng chứa đựng những
đặc trưng ngôn ngữ tạo hình riêng do nó chịu sự chi phối của yếu tố công
nghệ kỹ thuật và quy trình thể hiện.
Sự khác nhau chủ yếu giữa “hội họa kỹ thuật số” và hội họa truyền thống
chính là sự giao tiếp của họa sĩ sáng tác và tác phẩm của mình. “Họa sĩ kỹ
thuật số” có tùy sử dụng những công cụ không phải sẵn có trong hội họa
truyền thống. Đó là: bảng mẫu màu thực tế gồm có hàng triệu màu; không
gian của tác phẩm kỹ thuật số có thể làm thay đổi to nhỏ tùy ý. Khả năng
biên tập các yếu tố thị giác trên bố cục của tranh kỹ thuật số cũng rất đa
dạng và phong phú; Bên cạnh đó, với một sự đa dạng và phong phú của
những hiệu ứng 2 chiều và 3 chiều được xây dựng sẵn và có khả năng kết
hợp biến đổi để tạo nên những hiệu ứng mới một cách nhanh chóng và hiệu
quả không giới hạn. Họa sĩ kỹ thuật số sử dụng một tablet (bàn vẽ, dùng với
thiết bị nhập/ chuột hoặc bút hỗ trợ vẽ kỹ thuật số) cho phép vẽ với độ chính
xác và chuyển động giống như một cây cọ trong thực tế vẽ trang trí tr
ên màn
hình. Bề mặt truyền thống của tranh cũng đã thay đổi trong hội họa kỹ thuật
số. Thay vào đó là một màn hình chứa khung tranh ảo hoặc sketchbook
(Tấm vẽ phác thảo kỹ thuật số), họa sĩ sử dụng một con chuột máy tính
(mouse) hoặc bút vẽ và tablet để trình bày trên bề mặt ảo của bức tranh.
Nếu xét về nghệ thuật, thể hiện tác phẩm trên máy tính cũng giống như trên
tranh trong nghệ thuật giá vẽ. Cũng sử dụng những thủ pháp bố cục, đường
nét, màu sắc , nhưng phương pháp thì khác. Ưu điểm của MTĐPT là sáng
tác đỡ tốn kém, linh động hơn, thay đổi bố cục nhanh hơn, dễ hình dung tác
phẩm và dễ sửa chữa. Tuy nhiên, họa sĩ sáng tác trên giá vẽ với cây cọ thì
nét bút khoáng đạt hơn Mặc dù vậy, nghệ thuật vẫn quan trọng nhất là ý
tưởng. Chính ý tưởng mới là hơi thở, là tiếng nói của nghệ thuật. Chất liệu,
máy tính hay đôi tay, cọ vẽ hay chuột vi tính chỉ là công cụ giúp thể hiện ý
tưởng của họa sĩ mà thôi.
Việc giao tiếp giữa người nghệ sĩ và vi tính thông qua thiết bị trung gian nh
ư
giao diện màn hình, thiết bị kết xuất là hình thức hoàn toàn khác với giao
tiếp giữa họa sĩ và bức tranh. Đây cũng chính là một trong những đặc trưng
của MTĐPT. Hình thức giao tiếp giữa họa sĩ và máy vi tính là một quá trình
tương tác hai chiều qua lại trong quá trình sáng tạo:
* Chiều từ máy vi tính tới họa sĩ: thông tin được thiết bị số hóa biến những
tín hiệu thị giác như điểm chấm, đường nét, màu sắc, hình khối thành những
tín hiệu số (digital). Quá trình số hóa diễn ra trên toàn bộ những tín hiệu thị
giác trong MTĐPT. Đây chính là quá trình số hóa ”Digitalization”.
* Chiều từ họa sĩ tới máy vi tính: rất đa dạng và phong phú, tùy thuộc vào s
ự
phát triển của khoa học công nghệ và mức độ ứng dụng của họa sĩ. Một số
dạng cơ bản như: joysticks (thiết bị nhập dùng để điều khiển máy vi tính, có
chức năng giống như chuột), bảng vẽ đồ họa (graphics tablets), găng tay dữ
liệu (data gloves), và thậm chí là cả những thiết bị mặc vào người họa sĩ để
thể hiện những chuyển động (animation) trong khi xây dựng phim hoạt hình
hoặc mô hình thực tế ảo (virtual reality)
ở MTĐPT, ngoài yếu tố về không gian truyền thống (chiều dài, rộng, sâu)
còn có chiều thứ tư - chiều thời gian và chiều thứ năm - chiều tương tác:
* Chiều thời gian trong MTĐPT chính là đặc trưng tạo nên hiệu quả chuyển
động (animation). Chính nhờ khái niệm thời gian này mà những tác phẩm
MTĐPT trở nên sống động và đa dạng. MTĐPT cũng như âm nhạc, trình
diễn, video và phim là những dạng nghệ thuật thời gian. Có thể nói, thời
gian và sự chuyển động là nhân tố thiết yếu cấu thành nên tác phẩm
MTĐPT.
* Chiều tương tác: sự tác động qua lại giữa người xem, người thưởng thức
và tác phẩm nghệ thuật đã tạo nên một đặc trưng mới của MTĐPT. Người
xem tham gia vào tác phẩm, có quyền thay đổi dòng chảy mạch ý tưởng của
tác phẩm. Với chiều tương tác này, tác phẩm MTĐPT trở nên sống động, lôi
cuốn và đa dạng hơn so với nghệ thuật giá vẽ.
Tỷ lệ của tác phẩm MTĐPT: Trong một vài thể loại của MTĐPT như truyền
hình, phim, và đồ họa vi tính hoặc nghệ thuật màn ảnh (screen art) – họa sĩ
phải thể hiện thế giới xung quanh trong một không gian chính xác của màn
hình máy vi tính, màn hình TV Trong hội họa truyền thống, họa sĩ có thể
kéo dãn khung tranh ra theo phương thẳng đứng hoặc nằm ngang để phù h
ợp
với nội dung mà đề tài và ý tưởng yêu cầu. Tuy nhiên, trong MTĐPT cụ thể
là nghệ thuật màn ảnh (screen art) có phần khác biệt nhỏ: nghệ sĩ phải làm
việc bên trong một không gian nền có tỷ lệ các cạnh cố định: Tỷ lệ các cạnh
là quan hệ giữa chiều rộng bức tranh và chiều cao. Hiện nay, đa số m
àn hình
của máy truyền hình chuẩn có tỷ lệ các cạnh là 4 x 3. Đối với truyền hình số
(DTV - Digital Television: truyền hình kỹ thuật số) màn ảnh và phim có độ
rộng hơn tiêu chuẩn TV và những màn ảnh phim cổ điển, với những tỷ lệ
các cạnh là 16 x 9, hoặc 5.3 x 3 cho DTV và thậm chí còn rộng h
ơn (5.6 x 3)
cho phim. Lợi thế của tỷ lệ 4 x 3 là tương phản giữa 2 chiều của màn hình
không quá mạnh.
Một đặc trưng nữa của tác phẩm MTĐPT đó chính là Âm thanh kỹ thuật số:
Chức năng chính của âm thanh là: Truyền thông thông tin đặc biệt; định
hướng người xem, thưởng thức nhận định được không gian và thời gian; mô
tả những tình huống đặc biệt. Trong MTĐPT, nghệ sĩ có thể biên tập âm
thanh, sử lý, hòa trộn hoặc tạo nên những hiệu ứng đặc biệt về âm thanh,
làm cho tác phẩm MTĐPT trở nên sống động hơn, độc đáo hơn.
Hình ảnh kỹ thuật số trong tác phẩm MTĐPT rất đa dạng và phong phú.
Tuy
nhiên xét về mặt bản chất, chúng đều tồn tại dưới 2 dạng cơ bản: Hình
Vector và Hình Bitmap (raster).
Màu sắc kỹ thuật số: Trong mỹ thuật truyền thống màu sắc được sử dụng
dựa trên lý thuyết pha màu của Prang và Prewster. Tuy nhiên đối với
MTĐPT, màu sắc cũng rất đa dạng và phong phú. Có thể chia màu Kỹ thuật
số thành 2 dạng chính: Màu ánh sáng (RGB) - là hệ màu được sử dụng dựa
trên cơ sở lý thuyết ánh sáng của Newton. Tác phẩm MTĐPT khi được sáng
tạo và hiển thị trên màn hình vi tính, màn hình TV, đầu máy camera
thường sử dụng hệ màu ánh sáng này; Màu mực in (CMYK) - là hệ màu sử
dụng dựa trên lý thuyết hấp thụ ánh sáng trên bề mặt của chất liệu in.
Điểm chấm: trong MTĐPT khi thể hiện trên màn hình, mỗi điểm chấm chỉ l
à
một pixel có dạng hình học là hình vuông. Nếu tác phẩm được đem kết xuất
(in ra) điểm chấm sẽ được hiển thị là một point có dạng hình học là hình
tròn. Rõ ràng, tùy thuộc vào môi trường hiển thị tác phẩm MTĐPT mà hình
thức của điểm chấm có sự thay đổi nhất định.
Bố cục đặc trưng của MTĐPT là dạng lưới: do tính chất thường được hiển
thị trên màn hình bởi những điểm ảnh (pixel) theo dạng ma trận cột v
à dòng.
Điều này thể hiện rất rõ trong những bố cục tác phẩm MTĐPT thuộc lĩnh
vực Mỹ thuật ứng dụng như dàn trang, thiết kế web Đây là thế mạnh của
dạng bố cục lưới vì nó thể hiện tính đồ họa và tính cấu trúc của bố cục rất
cao. Tuy nhiên, đó cũng là điểm yếu trong bố cục tác phẩm MTĐPT thuộc
lĩnh vực Mỹ thuật tạo hình vì thiếu đi sự uyển chuyển và linh hoạt.
Ngoài những đặc trưng kể trên, tác phẩm MTĐPT còn có những đặc trưng
khác liên quan đến kỹ thuật và công nghệ: Chất lư
ợng của tác phẩm MTĐPT
phụ thuộc vào thiết bị kết xuất; thiết bị hiển thị màn hình; độ phân giải hình
ảnh; độ phân giải kết xuất; độ phân giải màn hình; định dạng hình ảnh; mô
hình màu để xây dựng tác phẩm; định dạng âm thanh; tốc độ đường truyền
dữ liệu trên internet; thiết lập tùy biến trên thiết bị người sử dụng
Như vậy, MTĐPT là một trong những ngành mới, xuất hiện ở Việt Nam v
ào
nửa cuối của thế kỷ XX. Sự hình thành của nó khởi đầu từ sự kết hợp của
hai lĩnh vực hoàn toàn khác nhau: Kỹ thuật công nghệ và Mỹ thuật. Mặc dù
vậy, những tác phẩm MTĐPT vẫn chủ yếu xây dựng trên những kiến thức
nền tảng của Nghệ thuật tạo hình. Đó chính là sự kết hợp (bố cục) các yếu t
ố
thị giác: điểm chấm, đường nét, hình mảng, khối, ánh sáng, màu sắc, chất
liệu, họa tiết tạo nên tác phẩm MTĐPT. Ngoài những nền tảng tạo hình
truyền thống của nghệ thuật thị giác, tác phẩm MTĐPT bản thân nó cũng
mang những đặc trưng riêng. Đó là quá trình số hóa tất cả những tín hiệu thị
giác của nghệ thuật thị giác. Đặc trưng MTĐPT thể hiện ở sự hình thành
màu kỹ thuật số; hình
ảnh kỹ thuật số; không gian thể hiện của tác phẩm; âm
thanh kỹ thuật số; hình thức tương tác của nghệ sĩ với tác phẩm và những
phương tiện biểu đạt tác phẩm cũng như yếu tố thời gian trong MTĐPT
Nguyễn Đức Sơn