CON CHUỘT TRÊN BIA ĐÁ ĐỀN
VUA ĐINH
Chúng ta quen nghĩ những điều lớn lao, cao quý và bay bổng. Cho nên
thường thường chỉ tới năm Tý, chúng ta mới có những bài viết về con
chuột. Nếu có một công trình nghiên cứu đại loại như: Đồ án chuột
trong lịch sử nghệ thuật tạo hình Việt Nam, chúng ta chắc chắn rằng đó
là một công trình rất “tiên tiến và đậm đà bản sắc dân tộc”. Tiên tiến vì
hẳn đó là một công trình nghiên cứu khoa học đã lựa chọn một đối
tượng nghiên cứu nhỏ nhưng có sức công phá lớn. Trong một hướng
nghiên cứu Hậu hiện đại, người ta đi tìm các đối tượng vốn thứ yếu,
đơn lẻ, phản diện, ngoại vi, ngoại lai, phi chính thống để nghiên cứu.
Nói đậm đà bản sắc dân tộc vì trong lịch sử nghệ thuật của người Việt,
chuột đã thực sự leo vào những vị trí trang trọng nhất. Trong bài viết
này, tôi xin đề cập tới hình tượng con chuột trên bia đá Tiền triều Đinh
Tiên Hoàng đế công đức tằng tu điện miếu bia ký đền vua Đinh.
Bia Tiền triều Đinh Tiên Hoàng đế công đức tằng tu điện miếu bia ký
là chiếc bia đá có kích thước lớn nhất đền vua Đinh. Trong nhà bia đền
vua Đinh hiện còn ba chiếc bia khắc vào ba thời điểm Hoằng Định thứ
9 (năm 1608), Chính Hòa thứ 17 (1696) và cuối cùng là bia Thiệu Trị
thứ 3 (1843). Bia không có rùa đội bia như chiếc bia khắc năm Hoằng
Định thứ 9, và cũng không có hình lưỡng long chầu nhật trên trán bia.
Trên đế chiếc bia hình hai con chuột khắc nổi đang quay đầu vào con
cua nằm chính giữa. Không phải là lưỡng chuột chầu cua mà lộ r
õ dáng
vẻ rình rập của hai con chuột đồng béo núc đang chuẩn bị lao vào xơi
tái chú cua. Phía khuất sau mặt trái của tấm bia, cũng dưới phần chân
đế có hình một con rồng đang nằm dài thượt, ẩn mình trong bóng tối
buồn bã (minh họa). Những con chuột con cua đá đen bóng, két bùn đ
ất
thực đến nỗi có thể lầm tưởng như mới vừa lội từ bùn lên. Cũng tưởng
như tấm bia vừa khắc chữ xong đem đặt ngoài ruộng, thoắt một cái
đám cua, chuột, tôm cá đã chui vào hóa đá để sống một kiếp sống
thường hằng của nghệ thuật. Nhìn cao hơn một chút, ở hai bên di
ềm bia
phía dưới là gia đình nhà khỉ đang âu yếm nhau. Tôi dám chắc đó là
hình ảnh về một gia đình nhà khỉ thuộc loại đẹp nhất trong nghệ thuật
chạm khắc của người Việt. Trán bia là đôi phượng đục thô tới mức nếu
không nhìn kỹ vào phần đuôi ta lầm tưởng là một con ngỗng! Đúng là
rồng chẳng đáng mặt rồng, phượng không ra dáng phượng. Nhưng đó
là sự cố ý, vì tới cuối thế kỷ 17, những đồ án rồng phượng đã chín nẫu
rồi, và hơn nữa, ở quần thể khu di tích đền vua Đinh vua Lê có 3 tấm
bia đá làm thời Hoằng Định có những hình rồng khá uy phong và được
khắc chạm rất chuẩn mực. Rồi đến những cặp rồng đá chầu hai bên sập
đá cũng rất uy nghi. Vậy đồ án cua chuột ở đây có ẩn ý gì? Những bối
cảnh lịch sử nào đã thôi thúc người xưa tạc lên đây những câu chuyện
hóm hỉnh đến vậy ?
Chiếc bia khắc năm Chính Hòa thứ 17 (1696) là do một tiến sỹ họ
Nguyễn, từng giữ chức Hàn lâm đã về hưu soạn. Người viết chữ Hán l
à
Truy lưu Trần Đạo, Từ tế chân nhân trụ trì chùa Kim Cương (Kim
Cuơng là ngôi chùa cổ đá mất chỉ còn dấu tích trên núi Thiên Long,
Hoa Lư, Ninh Bình). Một ông quan đã về hưu, một vị nhân sĩ đã xuất
gia soạn và viết ra cho phỏng đoán việc trùng tu thời Chính Hòa này là
tâm nguyện của dân xã Trường Yên hơn là do sự thôi thúc của vương
triều. Mặt sau của tấm bia Chính Hòa cũng ghi danh tính của người thợ
đá tài hoa, tên là Lê Nhân Phú quê ở xã An Hoạch, huyện Đông Sơn
tỉnh Thanh Hóa. Đúng là tam tuyệt chi tài. Lời văn hay có người viết
chữ đẹp lại được bàn tay người thợ khắc tài hoa. Trong quần thể di tích
đền vua Đinh vua Lê thì đây là chiếc bia đầu tiên ghi đầy đủ danh tính
cả người soạn bia, viết chữ và khắc bia. Chiếc bia Trùng tu tạo tác
thánh tượng Lê Đại Hành hoàng đế bi ký tịnh minh có ghi tượng làm
tại Thạch Thành, Thanh Hóa nhưng không ghi rõ tên tuổi người làm.
Thời thế đã có những đổi thay. Chính giữa diềm bia phía dưới có khắc
hình cá hóa rồng. Đồ án cá hóa rồng dù ở Trung Quốc hay Việt Nam
cũng mang âm hưởng dân gian. Một ước mơ ngày kia được thành thiên
tử của những người dân quê đã âm thầm len lỏi vào rất nhiều các đồ án
chạm khắc từ đình làng cho đến đền miếu. Ước mơ này có gì là quá xa
vời, khi mà dòng dõi chúa Trịnh cũng chỉ là anh trai cày thủa hàn vi
còn phải đi ăn trộm gà hàng xóm. Con chuột dẫu tả rất hiện thực nh
ưng
trong ngữ cảnh của tổng thể đồ án đã dẫn dắt chúng ta tới những liên
tưởng về cuộc tranh chấp quyền lực khốc liệt suốt thế kỷ 17 của hai
dòng họ Trịnh - Nguyễn dẫn đến 7 cuộc nội chiến. Tuy mang danh một
lòng thờ phụng vua Lê, nhưng các ông vua bị vô hiệu hóa trở thành m
ột
thứ bù nhìn. Bia được khắc vào thời Chính Hòa (1681-1705) mà theo
sử viết là thời đại yên bình thịnh trị nhất của thời đại Lê Trung. Hưng
chính vì hai thế lực Trịnh Nguyễn sau bẩy lần chinh chiến bất phân
thắng bại (từ sau năm 1672) đã tạm hòa hoãn lấy sông Gianh làm giới
tuyến. Còn dư đảng cuối cùng của nhà Mạc tới năm 1688 cũng đã bị
dẹp bỏ.
Sự hiện diện của con chuột trên bia đá ở đền vua Đinh là chuy
ện hi hữu
trong lịch sử nghệ thuật tạc bia người Việt. Nhưng đặt trong dòng chảy
của nghệ thuật, giai đoạn thời Chính Hòa, chúng ta thấy nó giống như
những dòng nước khi chạm vào nh
ững mạch đá ngầm bất chợt tung bọt
lên trắng xóa. Một cảnh tượng phá bỏ sự âm thầm tẻ nhạt của dòng
chảy lịch sử nghệ thuật. Cách đền vua Đinh không xa, trên lối vào khu
di tích ở ngã ba Thiên Tôn, tôi và họa sỹ Đức Hòa đã phát hiện ra một
chiếc bia đá vào niên hiệu Chính Hòa thứ 21 (1700) có khắc hình một
cô gái khỏa thân đứng dưới cành hoa. Lịch sử nghệ thuật Việt Nam có
những ví dụ mẫu mực về sức sống của những cảm hứng dân gian, đư
ợc
ươm trồng từ mảnh đất văn hóa làng xã. Nhà nghiên cứu Nguyễn Đỗ
Cung từng đánh giá cao sự bừng tỉnh của nghệ thuật dân gian thời chúa
Trịnh Căn (cũng là thời vua Lê Hy Tông) như là sự tiếp nối cuối cùng
của nghệ thuật nhà Mạc.
T.H.Y.T