CẢM NHẬN LỊCH SỬ TỪ ĐIÊU
KHẮC ĐỀN ĐINH LÊ
Lịch sử được làm nên bởi cả một dân tộc qua nhiều thế hệ, thế nhưng
nó lại được viết lại bởi một số ít các sử gia. May thay, ngoài văn hiến
thư tịch, lịch sử còn đuợc tái hiện bằng truyền khẩu và hình tượng. Nh
ờ
vậy lịch sử được nhìn nhận dưới ống kính vạn hoa lung linh và sinh
động hơn.
Có những dân tộc như Ai Cập, Trung Hoa, hay Hy Lạp, La Mã mọi
người dễ dàng tìm thấy trong những câu chuyện sự tương đồng giữa sử
sách và tranh tượng. Các học giả Trung Hoa có th
ể kiểm chứng sự chân
thực của cuốn Sử Ký, căn cứ vào các hiện vật tìm thấy ở khu lăng mộ
Tần Thuỷ Hoàng hay các bức tranh trong từ đường họ Vũ ở Gia Tường
Sơn Đông ở Việt Nam, những người nghệ nhân chạm khắc là những
người kể chuyện vô danh và vô tư nhất. Họ những sử gia quê mùa làm
chúng ta ngạc nhiên về thái độ độc lập đến lạ kỳ với hệ thống luân lý
phong kiến và một lịch sử không ngớt tiếng gươm đao. Hãy thử hình
dung những hướng dẫn viên du lịch phải vất vả lắm mới phiên dịch
được những lời ca ngợi công trạng ( mà phần nhiều là võ tr
ạng) cho các
du khách Âu Mỹ, nhưng còn khó khăn hơn khi đi tìm sự liên kết ý
nghĩa các bức hoành phi câu đối với hệ thống đồ án hoa lá muông thú
tưng bừng trên các dầm xà, cột ván, đầu bẩy như ở đền vua Đinh -
vua
Lê ( Hoa Lư- Ninh Bình).
Căn cứ vào văn bia ở đây, chúng ta được biết phần kiến trúc và điêu
khắc quần thể đền vua Đinh - vua Lê mà chúng ta đang thấy hiện nay
xuất hiện khá muộn, kéo dài suốt thế kỷ 17. Cho dù được chính sử ghi
nhận như là một những triều đại vẻ vang trong lịch sử dân tộc, nhà
Đinh nhà Tiền Lê, thì ánh hào quang sau 7 -8 thế kỷ đã không còn chói
loà nữa. Họ, những người nông dân- nghệ nhân, có riêng cho mình một
cách nhìn, cách nghĩ. Xin được dừng ít phút trước tấm bia làm năm
Chính Hoà thứ 16 ( 1696). Đây là chiếc bia cao nhất đứng ở giữa trong
nhà bia. Bia tán tụng công đức tiền nhân. Như bức hoành phi ở điện
vua Đinh : Chính thống thuỷ ( Khởi đầu sự chính thống). Đây là triều
đại có công lớn thống nhất sơn hà về một mối, đặt quốc hiệu là Đại Cồ
Việt, tiến hành bang giao với Trung Hoa. Trán bia không khắc lưỡng
long chầu nhật như từng thấy rất nhiều ở các vua Lê. Mà thấy ở đây là
đôi chim phượng mà nếu không giải thích sẽ lầm tưởng là đôi ngỗng !
Đường diềm thân bia được bắt đầu bằng đôi khỉ cực đẹp. Bên phải là
đôi khỉ một cái một đực đang âu yếm nhau. Bên kia là con kh
ỉ mẹ đang
cõng con khỉ con. Chưa hết phía dưới đế, phía chính diện là hình con
cua được đục nổi rõ, hai bên là hai con chuột đang rình rập. Sẽ nhiều
người không kịp xem con rồng nằm dài phía sau, cũng được đục nổi
lên, khá dữ tợn. Thật không biết đây là ý tứ của một bậc túc nho hay là
sự thâm thuý hóm hỉnh của người thợ.
Theo lệ thường, đã phàm là bia đá bảng đồng đều hết sức nghiêm trang
với những quy định khắt khe, ứng với bậc đế vương nhất thiết phải là
tứ linh: long ly quy phượng. Hơn 200 trăm năm trước, những chuẩn
mực lập bia thời Lê sơ ở Xuân Lam, Thọ Xuân Thanh Hoá đã hết sức
kinh điển rồi.
Như nhiều nhà nghiên cứu đã từng nhận xét sự trống vắng các hình
ảnh
mô tả chinh chiến trong Mỹ thuật Việt Nam thời kỳ phong kiến. Chúng
ta rất ít thấy những cảnh chiến đấu vốn thấy nhiều trên trống đồng
Đông Sơn. ở đền vua Đinh - vua Lê chỉ có các đồ nghi tế có hình dạng
binh khí như các thanh đao và các câu đối hoành phi ca ngợi uy vũ của
các bậc đế vương. Câu đối trong đền vua Đinh viết “ Anh hùng vĩ liệt,
trác quán hồ Ngô, Trưng, Triệu, Thục dĩ tiền, Đại Việt sơn hà quy nhất
thống Thánh nhân dư linh kế tự giả Lê, Lý, Trần, Lê như hậu, Trường
Yên lăng tẩm tự thiên thu” .Nghĩa là: Anh hùng trác tuyệt vượt hẳn
Ngô, Trưng, Triệu, Thục trở về trước, Đại Việt non sông về một mối
Oai linh thần thánh nối tiếp sau này có Lê, Lý, Trần, Lê, đất Trường
Yên lăng tẩm tự ngàn thu.
Võ công là vậy nhưng tuyệt nhiên không hề tìm thấy một hình ảnh
nào làm chúng ta hình dung đó là ngôi đền của các vị vua là những anh
hùng trận mạc với những chiến thắng lẫy lừng. Đền Lý Bát Đế lập thời
gian này cũng vậy, hay sớm hơn nữa là đền Chiêu Trưng thờ danh
tướng Lê Khôi. Đền Chiêu Trưng hay còn gọi là đền Võ Mục rất nổi
tiếng với những bức chạm khắc đánh cờ, tấu nhạc vô cùng sảng khoái.
Chuyển qua đền vua Lê.
Phan Huy Chú trong “ Lịch triều hiến chương loại chí” đã đánh giá về
vua Lê Đại Hành như sau: “Vua phá Tống bình Chiêm, khiến cho cả
Hoa Hạ, Man Di đều sợ hãi. Trung Quốc đã mấy lần sắc phong khen
ngợi vua, khiến cho tiếng tăm của vua trở nên lừng lẫy.” Ngô Sỹ Liên
trong Đại Việt sử ký toàn thư viết: “ Vua đánh đâu đư
ợc đấy, chém vua
Chiêm Thành để rửa cái nhục phiên di đi bắt sứ thần, phá tan quân
Triệu Tống để bẻ cái mưu vua tôi ăn chắc, có thể gọi là bậc anh hùng
nhất đời vậy”
Câu đối ghi ở đền vua Lê ca ngợi sự nghiệp kháng Tống, Bình Chiêm
của vua Lê Hoàn:
“ Thần vũ thiếp tứ lân, thịnh Tống cường Chiêm thử nhật
Tinh linh tồn thiên cổ, Long giang Mã trục chi gian”
Nghĩa là: Thần vũ động bốn bên, trong lúc Chiêm cường Tống thịnh -
thiêng liêng còn muôn thủa, trong vùng núi Mã, sông Long.
Tràn ngập trong không gian linh thiêng của ngôi đền là thế giới của
mây nước, hoa lá cỏ cây và chim muông và những con vật của thế giới
tưởng tượng như con long, con lân. Những đoá sen ở đây tự nhiên như
ai đó vừa đi qua đầm sen hái lấy vài bông rồi tung lên các dầm xà.
Trong nền mỹ thuật Trung Hoa, đề tài chiến tranh đư
ợc thể hiện rất phổ
biến trong các lăng mộ và từ đường, ví dụ như trong hệ thống tranh
Hoạ tượng thạch đời Hán. Các học giả lý giải hiện tượng này như sự
hồi vọng lại quãng đời và công trạng của người đã khuất. Nhưng t
ại sao
chúng ta lại không tìm thấy sự hồi vọng như thế ở đây. Thân thế người
đã khởi công xây dựng lại khu đền vua Đinh - vua Lê này cũng có
những võ công hiển hách. Lễ quận công Bùi Thời Trung vốn là tướng
nhà Mạc sau về hàng nhà Lê, sau được phong Đô đốc Hiệu lực tứ vệ
quân sự bộ Lễ. Trong dân gian vẫn còn lưu truyền câu chuyện “Giết
quận Kế tế quận Mỹ”.
Người viết từng có một thắc mắc tại sao các nghệ nhân xưa trên long
sàng đá khắc hình con rồng vùng vẫy hết sức oai vệ lại khắc thêm
những con vật rất đỗi tầm thường như con tôm con cá và cả lũ chuột.
Rồi. Đột nhiên trời đổ cơn mưa, long sàng lênh láng nước chợt như
thấy rồng quẫy đạp sóng sánh lấp lánh ánh nắng quái chiều tà. Tôi lại
tiếp tục nẩy sinh câu hỏi: có phải bác thợ cả xưa cũng sau cơn mưa bất
chợt như thế từ trong lán bước ra sau mấy bi thuốc lào chếnh choáng
hứng chí đục thêm mấy con vật thân quen. Hay muốn ngụ ý cái đức
hàng đầu của thiên tử là “ chỉnh lý âm dương, làm cho bốn mùa thuận;
dưới thì nuôi vạn vật được thoả thích” ( Sử Ký. Trần Bình thế gia)
Thì ra cái ước vọng mưa thuận gió hoà, vạn vật sinh sôi đối với người
nông dân là vô cùng mãnh liệt. Ư
ớc vọng đó lớn biết bao, nó xua đi hận
thù, che lấp cả những ham muốn quyền lực, những tiếng hò reo chiến
thắng. Cổ nhân không hao tiền tốn của để làm các tượng đài chiến
thắng. Vào cái ngày náo nức khánh thành Đền vua Đinh - vua Lê năm
Hoàng Định thứ 7, trong đám dân làng Chi Phong tổng Trường Yên có
bao nhiêu người từng để một phần xương thịt ngoài xa trường? Họ
muốn được tiếp tục sống với những ký ức gươm đao, muốn được nhìn
thấy những chứng tích chiến tranh hay muốn được hồn nhiên nhập vào
cõi siêu nhiên chỉ cách họ một tầm tay với. Cuộn theo khói hương, họ
thả hồn cùng những cô tiên cưỡi rồng bay ngang trên đầu. Con rồng
con lân uốn lượn nhảy múa trong những nhịp điệu bất tận của vũ trụ.
Mỹ thuật Việt Nam truyền thống đã nhiều lần chứng minh rằng nó
không phải là những tiếng vọng lịch sử chiến tranh mà thực sự đã đập
những nhịp đập của những ước vọng sống mãnh liệt. Đây là vấn đề thú
vị mà người viết xin được dành sang dịp khác. Chẳng hạn cùng đề tài
chiến trận thì Mỹ thuật dân gian Trung Quốc rất phổ biến, từ thể loại
Hoạ tượng thạch đời Hán, tranh khắc gỗ niên hoạ Minh Thanh, tranh
trổ giấy, hay tới các bức chạm khắc trên các công trình kiến trúc vùng
An Huy, Hồ Nam. Chỉ riêng tích “ Không thành kế” mà Khổng Minh
lừa cha con nhà Tư Mã ý thì đã tốn bao nhiêu giấy mực, gỗ đá để vẽ
khắc lại câu chuyện này. Mỹ thuật dân gian người Việt xem ra gần với
tranh c
ủa giới văn nhân sỹ phu Trung Hoa, xét từ góc độ xa lánh các sự
kiện chính trị đương thời, các cuộc giao tranh, để tìm về với đề tài cá
nước, chim trời, trăng hoa tuyết nguyệt.
Trần Hậu Yên Thế