Tải bản đầy đủ (.pdf) (3 trang)

MẠN ĐÀM TRANH "NGŨ HỔ" docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (124.1 KB, 3 trang )

MẠN ĐÀM TRANH "NGŨ HỔ"



Tranh dân gian ngũ hổ

Theo luận thuyết Thiệu Khang Tiết (Thiệu Ung đời Tống Trung Quốc): Khai thi
ên
vào hội Tý (Thiên khai ư Tý), lập địa hội Sửu (Địa tịch ư Sửu), sang hội Dần
(Nhân xuất ư Dần). Sang hội Dần bắt đầu có sự sống và con người xuất hiện. Lúc
đó trời đất hoàn hảo, càn khôn cân bằng, âm dương giao hoà, sự sống phát triển.
Mỗi hội có 10.800 năm, lý giải theo chu trình biến dịch của vũ trụ - Nhất cực sinh
lưỡng nghi, lưỡng nghi binh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái (quẻ), bát quái sinh
sáu tư quẻ, sáu tư quẻ biến hóa vô cùng (đây là vòng lớn tính âm lịch).
Âm lịch tính theo chu kỳ nhỏ mỗi hội có 60 năm. Năm 1950 là năm Canh D
ần đến
năm 2010 là 60 năm sẽ lại là năm Canh Dần. Trong 60 năm ấy có 5 năm Dần
nhưng hàng thiên can thay đổi và ngũ hành thuộc mệnh cũng thay đổi: Đó là Canh
Dần 1950 - là Mộc, Nhâm Dần 1962 - là Kim, Giáp Dần 1974 - là Thu
ỷ, Bính Dần
1986 - là Hoả, Mậu Dần 1998 - là Thổ. Năm Dần tức là năm h
ổ, hội tụ ngũ sắc của
ngũ hành thuộc Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả, Thổ.
Tranh “Ngũ Hổ” “Hắc Hổ thần tướng”, “Bạch Hổ thần tướng” thuộc loại tranh
thờ của dòng tranh dân gian Hàng Trống Hà Nội. Các nhà nghiên cứu mỹ thuật cổ
học cho rằng hai dòng tranh dân gian lớn của Việt Nam: Tranh Hàng Trống và
Tranh Đông Hồ (Bắc Ninh) được xuất hiện vào thời Lý (1010 - 1225 ) duy trì ở
thời Hồ và phát triển ở thời Lê (1553 - 1788). Nội dung rất phong phú và gần gũi
với đời sống xã hội, đó là ước mơ hạnh phúc, bình yên, tăng gia s
ản xuất, cảnh đẹp
thiên nhiên; tôn vinh lịch sử anh hùng yêu nước, đánh giặc và gửi gắm tâm linh,


tôn thờ sức mạnh siêu nhiên trong các hình tượng tứ linh - Long, Li, Quy,
Phượng và Ngư, Phúc, Hạc, Hổ gọi chung là bát vật.
Tranh “Ngũ Hổ” được biểu hiện khá sống động, sức mạnh và uy lực ngự trị. Hổ
ngồi chính giữa to lớn, uy nghiêm quắc thước màu vàng (thổ) Hoàng Hổ - biểu
hiện bản lĩnh vững vàng, thành, tín và ngự trị ở trung cung. Hai bên ph
ải có 5 lá cờ
ngũ sắc, trái có 5 bảo kiếm. Phía dưới bên phải có Bạch Hổ, bên trái có Hắc hổ,
đều đứng chầu trên bệ đá. Phía trên, bên phải có Xích Hổ đằng vân, bên trái có
Thanh Hổ đằng vân - Hai Hổ đỏ và xanh lục bay trên làn mây cách đi
ệu bồng bềnh
sinh động. Trong khoảng trống phía trên tranh có hình mặt trời, bên dưới có ngôi
sao Bắc Đẩu biểu hiện không gian: Nam phía trên, Bắc phía dưới (như vậy trên là
Hoả và Mộc, dưới là Kim và Thuỷ). Bố cục tranh đối xứng dọc - biểu hiện thời
gian đồng hiện, không gian đồng hiện. Bốn con hổ nhỏ xanh đỏ trắng đen (là Mộc
Hoả Kim Thuỷ) trong thế động dung, những cặp mắt nhĩ đối nhãn đầy sinh khí,
những bộ ria, lông mi cứng cong như những tia sáng. Tạo hình dáng khoẻ, khái
quát ước lệ cao, đa tầng, đa nghĩa không lẫn lộn trong hội họa thế giới. Chất dân
gian mà vẫn hiện đại về nghệ thuật, tư duy rất Bác học, mang giá trị của văn hoá
dân tộc đậm nét.
Sự sắp xếp bố cục, màu sắc tranh Ngũ Hổ cho ta thấy một biểu cảm trừu tư
ợng của
cấu trúc ngũ hành và tứ phương Đông, Tây, Nam, Bắc và Xuân, Hạ, Thu, Đông.
Ngũ hổ là hình tượng tôn thờ sức mạnh vũ trụ thiên nhiên tiết mùa, thời vận của
quy luật tự nhiên. ý nghĩa tượng trưng tương tự như hình tượng Thanh Long
(Rồng Xanh - mùa xuân), Xích Điểu (chim Điểu - mùa hạ), Bạch Hổ (Hổ Trắng -
mùa thu), Ô Quy (rùa đen - mùa đông) - Là xuân sinh, hạ trưởng, thu bế, đông tàn
đều mang triết lý nhân sinh nhu cầu hạnh phúc.
Năm 2010 là năm Canh Dần, khởi đầu tháng giêng là tháng Mậu Dần. Canh Dần
là Hổ xanh, Mậu Dần là Hổ vàng. Hổ vàng trong Hổ xanh là khởi đầu năm mới
cho tấm lòng vàng nhân ái mạnh khoẻ, vĩnh hằng như mùa Xuân.

Lê Hướng Quỳ

×