Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

CUNG AN ĐỊNH ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (132.05 KB, 8 trang )

CUNG AN ĐỊNH

Cung An Định vốn là cung điện riêng của vua Khải Định, tọa lạc bên
bờ sông An Cựu, nay mang số 97 đường Phan Đình Phùng, thành phố
Huế. Nguyên tại vị trí này, từ năm 1902, ông hoàng Phụng Hóa Công
(vua Khải Định sau này) đã dựng phủ riêng, đặt tên là phủ An Định.
Trong hệ thống kiến trúc cung đình Nguyễn ở Huế, ngoài những công
trình nổi tiếng bởi phong cách và vẻ đẹp thuần túy phương Đông như
các cụm kiến trúc trong Hoàng thành, lăng Minh M
ạng, Lăng Tự Đức
người ta còn hay nhắc tới một số công trình được xây dựng theo phong
cách Tân-cổ điển (néo-classique) như điện Kiến Trung, lăng Khải
Định, cung An Định Tuy nhiên, không như lăng Khải Định đã được
rất nhiều người biết đến hay điện Kiến Trung từng nổi danh một thời
(1), cung An Định là một thực thể kiến trúc rất đặc sắc và vẫn tồn tại
ngay trong lòng thành phố Huế nhưng lại gần như bị lãng quên !
Cung An Định vốn là cung điện riêng của vua Khải Định, tọa lạc bên
bờ sông An Cựu, nay mang số 97 đường Phan Đình Phùng, thành phố
Huế. Nguyên tại vị trí này, từ năm 1902, ông hoàng Phụng Hóa Công
(vua Khải Định sau này) đã dựng phủ riêng, đặt tên là phủ An Định.
Năm 1917, sau khi lên ngôi, trở thành vua Khải Định, nhà vua mới
dùng tiền riêng để cải tạo phủ thành cung An Định theo lối kiến trúc
hiện đại. Công việc này kéo dài đến đầu năm 1919 mới hoàn tất. Từ
ngày 28/2/1922, cung An Định trở thành Tiềm để của Đông cung thái
tử Vĩnh Thụy (vua Bảo Đại về sau). Sau Cách mạng tháng Tám 1945,
gia đình cựu hoàng Bảo Đại đã chuyển từ Hoàng cung qua sống lại
cung An Định. Năm 1955, chính quyền Ngô Đình Diệm đã tịch thu
cung An Định, buộc bà Từ Cung (vợ vua Khải Định) phải mua một tòa
lầu ở bên cạnh để chuyển gia đình qua. Sau khi miền Nam được giải
phóng, bà Từ Cung đã hiến cung An Định cho chính quyền cách mạng.
Đến nay cung An Định do Liên đoàn lao động thành phố Huế quản lý,


trở thành Nhà Văn hóa Lao động của Thành phố.
Cung An Định xây mặt về phía sông An Cựu, hướng nam. Cung có địa
thế bằng phẳng, tổng diện tích mặt bằng 23.463m2, chung quanh có
khuôn viên tường gạch, dày 0,5m, cao 1,8m trên có hàng rào song sắt
bao bọc. Khi còn nguyên vẹn cung có khoảng 10 công trình kiến trúc,
bố trí trên một trục dọc theo chiều bắc-nam. Từ trước ra sau là: Bến
thuyền, Cổng chính, đình Trung Lập, Sân trước và bồn hoa, lầu Khải
Tường, nhà hát Cửu Tư Đài, Nhà ngang, Chuồng thú, Hồ nước, Vườn
cung, cổng hậu trải qua thời gian và sự tàn phá của chiến tranh, đến
nay cung chỉ còn lại 3 công trình khá nguyên vẹn là Cổng chính, đình
Trung Lập và lầu Khải Tường. Thật may mắn, đây cũng là 3 công trình
thuộc loại tiêu biểu nhất của cung An Định.
Cổng chính của cung xây bằng vôi vữa theo lối tam quan, hai tầng,
đỉnh mái tầng trên gắn hình biểu tượng một viên trân châu lớn. Toàn
thân cổng trang trí bằng sành sứ đắp nổi công phu. Đặc biệt, dòng chữ
Hán ghi tên cổng và các câu đối trang trí ở thân đều được ghép bằng
mảnh sứ màu rất độc đáo.
Đình Trung Lập, nằm phía trong cửa, kết cấu kiểu đình bát giác, dáng
thông thoáng và xinh xắn. Đình có nền cao, hai hệ thống bậc cấp đi lên
đặt theo chiều đông- tây, kiểu hiện. Trong đình nguyên có đặt bức
tượng đồng vua Khải Định, tỷ lệ bằng người thật, đúc từ năm 1920
(năm 1960, bức tượng này được chuyển lên lăng Khải Định). Chung
quanh bên ngoài đình, tại vị trí của tám góc có tượng Bát tiên, hình
thức tạo hình rất sinh động.
Lầu Khải Tường nằm phía sau đình Trung Lập, là công trình kiến trúc
chính của cung An Định. Chữ Khải Tường (nghĩa là nơi kh
ởi phát điềm
lành), tên lầu là do vua Khải Định đặt. Lầu 3 tầng, xây dựng bằng các
vật liệu mới (xi măng, sắt thép) pha trộn các vật liệu truyền thống (vôi
sò, giấy bản ) theo kiểu hiện đại. Lâu đài mang phong cách châu Âu

này chiếm diện tích tới 745m2. Mái lầu lợp ngói liệt, nền các tầng đều
lát gạch hoa, mặt trước và nội thất lầu được trang trí rất công phu
Về cách bố cục không gian, lầu Khải Tường đã mang đậm dấu ấn Tây
phương. Toàn bộ mặt trước công trình được trang trí công phu tỉ mỉ
theo các mô típ kiến trúc Ro man Cận đại xen lẫn cùng các đề tài trang
trí phương Đông cổ như rồng, phụng, bát bảo.vv tạo cho du khách
một ấn tượng rất đặc biệt khi chiêm ngưỡng công trình này.
Phần nội thất công trình được bố trí khá hiện đại. Tầng 1 gồm có 7
phòng, trong đó quan trọng nhất là phòng khách v
ới một bộ 6 bức tranh
tường mang giá trị nghệ thuật rất cao.
Đây là 6 bức tranh được vẽ bằng sơn dầu trực tiếp lên mặt tường xi
măng với kích thước lớn (1,8m x 1,1m), khung tranh đắp gờ cao cầu
kỳ, gây ấn tượng như tranh treo trên tường. Các bức tranh này thể hiện
phong cảnh thực của các lăng Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự
Đức, Đồng Khánh và Khải Định. Nhận xét về các bức tranh này, giáo
sư Chu Quang Trứ đã viết: "Tranh đã tái tạo lại được cảnh thực, chú ý
bố cục của cả tổng thể kiến trúc, nêu bật những đặc điểm của từng
lăng
Lối xây dựng tranh ở đây theo luật viễn cận châu Âu mà họa sĩ đương
đại mới được tiếp nhận, có phần nào kết hợp với lối nhìn sinh động
phương Đông Lối vẽ không còn phương Đông cũng không hẳn thuần
phương Tây này, hẳn phải do những họa sĩ Việt Nam mới được đào t
ạo
ở phương Tây còn vương vấn nhiều cách nhìn truyền thống, và do đó
dù trên tranh không ký tên, chúng ta có thể ngờ là của lớp họa sĩ Việt
Nam đương thời (như Lê Văn Miến, Tôn Thất Sa ) (2)
Tầng 2 gồm 8 phòng, được nối thông với nhau bằng hệ thống cửa và
hành lang rất khoa học, phục vụ cho mục đích chính là nơi nghỉ ngơi
của các thành viên trong gia đình hoàng đế. Mặt trước tầng này có ban

công, mặt sau có sân thượng nhìn ra phía vườn sau của cung.
Tầng 3 bao gồm 3 phòng lớn và 4 phòng nhỏ được cấu trúc hợp lý,
cũng phục vụ mục đích chính là nơi nghỉ ngơi thư giãn cho các thành
viên trong gia đình vua. Mặt trước đắp nổi một bình phong có hình mặt
trời đang tỏa sáng, mặt sau có sân thượng nhìn ra phía vườn sau cung.
Nhìn chung, dù từ cách bố trí đến phương thức sử dụng vật liệu, lầu
Khải Tường đã chịu ảnh hưởng sâu sắc của phong cách Tây phương
thời Cận đại, tuy nhiên, những dấu ấn của nghệ thuật truyền thống Việt
vẫn còn biểu hiện rõ ở công trình này, đặc biệt là các mô típ trang trí
cùng sự hòa hợp của nó đối với cảnh quan tự nhiên chung quanh.
Trong các công trình kiến trúc được xây dựng dưới thời Khải Định,
Cung An Định là một công trình bề thế có diện tích mặt bằng qui mô
rộng lớn, được khởi công xây dựng và hoàn thành sớm hơn c
ả. Nó đánh
dấu mốc mở đầu thời kỳ lịch sử mỹ thuật Huế tiếp xúc và chịu ảnh
hưởng Tây phương. Đó là thời kỳ mà một nhà nghiên cứu người Pháp-
ông L.Bezecier gọi là thời kỳ tân cổ điển (Néo -
classique). Mặc dù chịu ảnh hưởng của Tây phương song m
ỹ thuật Huế
với tư cách là một trung tâm mỹ thuật Việt Nam thời Nguyễn vẫn gìn
giữ và tiếp tục phát huy những nội dung và tính chất mỹ thuật truyền
thống của dân tộc. Cung An Định đã chứng tỏ cho thấy rõ điều này
không chỉ ở tổng thể công trình kiến trúc mà còn ở từng chi tiết trang
trí trên các bộ phận riêng lẻ. Là một chứng tích tiêu biểu cho quá trình
phát triển mỹ thuật Nguyễn trên đất Huế trong giai đoạn cuối cùng, từ
đầu thế kỷ XX đến 1945, bên cạnh sự kế thừa các giá trị mỹ thuật cổ
truyền mang phong cách chung của triều Nguyễn, Cung An Định còn
có phong cách mỹ thuật riêng ở chỗ đã kết hợp một cách h
ài hòa, rõ nét
sự giao thoa giữa các nền mỹ thuật Đông -Tây- kim- cổ, của các nền

văn hóa á Âu. Do vậy, giá trị nổi bật của Cung An Định chính là lĩnh
vực mỹ thuật và đã được thể hiện một cách sinh động, cụ thể thông qua
bàn tay vàng của các nghệ nhân người Việt tài danh đương thời, trên
nhiều phương diện: nghệ thuật kiến trúc, trang trí, hội họa, điêu khắc v
à
nghệ thuật khảm nổi sành sứ
Vì vậy, cùng với các công trình kiến trúc khác thời Khải Định như lăng
Khải Định, lầu Kiến Trung, cửa Hiển Nhơn cung An Định được xem
là một đại diện tiêu biểu của thời kỳ kiến trúc tân - cổ điển, một giai
đoạn giao thoa nhiều chiều có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong lịch sử
mỹ thuật Việt Nam.
PHAN THANH HẢI - Huế, tháng 9/2006
CHú THíCH
1. Điện Kiến Trung được xây dựng năm 1921, trên nền cũ của lầu Du
Cửu (trước đó là lầu Minh Viễn-đ
ệ nhất thắng cảnh của đất Huế theo sự
sắp xếp của vua Thiệu Trị) trong Tử Cấm thành. Đây là nơi ăn ở, sinh
hoạt của gia đình vua Khải Định, sau là Bảo Đại. Ngôi điện này bị phá
hủy đầu năm 1947, khi thực dân Pháp quay lại tái chiếm Huế.
2. Nguyễn Tiến Cảnh, Nguyễn Du Chi, Trần Lâm Biền, Chu Quang
Trứ : Mỹ Thuật Huế. Viện Mỹ Thuật-trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô
Huế, 1992. Trang 109-/10. Cũng cần lưu ý là, nhóm tác giả của cuốn
Mỹ thuật thời Nguyễn trên đất Huế (Nguyễn Hữu Thông chủ biên,
NXB Hội nhà văn, Hà Nội, 1992, trang 171-/ 72) lại cho rằng, những
bức tranh này lại do họa sĩ Lương Quang Duyệt thực hiện.

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×