BIỂU TƯỢNG LƯ
ỠNG LONG TRIỀU
NGUYỆT, MỘT NÉT HỒN VIỆT
Trong văn hoá tâm linh về tín ngưỡng tôn giáo có những không gian,
biểu tượng thiêng liêng và đồ án cát tường để phục vụ niềm tin tâm
thức. Thờ cúng tổ tiên có gian thờ trong nhà, thường bố trí gian giữa,
thờ cúng dòng họ có nhà từ đường, thờ Thánh Hoàng có đình làng, thờ
Phật có chùa, thờ thánh thần có đền, miếu, thờ Thượng Thanh, Ngọc
Thanh, Thái Thanh (đạo giáo) có quan đạo.
Trong không gian thiêng liêng ấy có đồ án quen thuộc, phổ biến là
“Lưỡng Long Triều Nguyệt” thể hiện ở hình vẽ, phù điêu và hay gặp
nhất hình tượng trên nóc đình, đền, miếu, trên trán bia đá. Ngoài con
Long ra còn có con Li, Rùa, Phượng, dân gian gọi là “tứ linh” (Long,
Li, Quy, Phượng). Con Li trên nóc trụ biểu tượng về sự bình yên. Con
Phượng trên trụ biểu tượng sức mạnh, may mắn, nó được cách điệu nh
ư
ngọn nến, búp sen mềm mại đẹp mắt. Con Long (Rồng) khởi nguyên là
con Giao Long. Sách “Hoài Nam Tử” nói rằng: “Da nó có từng hột,
người đời cho miệng nó là gươm đao”. Nham Sư Cổ trong “Tiền Hán
Thư” dẫn lời Quách Phác: “Con Giao Long hình như con rắn mà có
bốn chân, cổ nhỏ giống to đến mấy ôm, sinh trứng to bằng một hai
cái hộc, có thể nuốt người được (Đào Duy Anh - Lịch sử Cổ Đại Việt
Nam 2005 - 31). Rồng Việt Nam là con cá sấu và con rắn hoá thân mà
thành nó là con vật huyền thoại. ở Phú Thọ - Đất tổ có câu chuyện Đại
Hải đánh Thục. Chuyện kể rằng trong La Phù (Huyện Thanh Thuỷ) có
một vị quan tên là Đặng Hồng, có vợ thứ là Ngọc Dung đi tắm ở Giếng
Giá có thuồng luồng lên phủ khắp ngư
ời, sinh ra một cái bọc, nở ra một
con vật đầu rồng mình rắn. Tản Viên giao cho cầm quân, dàn tr
ận ở núi
Quỳnh Nhai đã thắng lớn. Trong tâm linh người Việt, Rồng là chúa tể
nơi sông, hồ, biển cả. Có tài biến hoá, ẩn sâu dưới vực, bay lên 9 tầng
mây, nổi gió, khạc ra lửa thiêu đốt tà ma, có lợi cho Nông nghiệp. Bởi
vậy Rồng biểu tượng cho nền văn hoá Việt Nam mang tính tổng hợp
linh hoạt và hoà hiếu (biến cá sấu hung ác thành rồng hiền lành có ích).
Chuyện Lạc Long Quân lấy bà âu Cơ đẻ ra một bọc “Long bào bách
noãn”. Bọc rồng trăm trứng nở thành một trăm con trai trấn giữ đầu
non góc biển của nước Văn Lang xưa. Không phải ngẫu nhiên mà
người Việt nhận mình là “Con Rồng - Cháu tiên”. Theo đó người Việt
thời Thượng Cổ săm mình hình Giao Long (rồng) để bảo vệ mình. Su
ốt
dòng chảy lịch sử từ thời Hùng Vương đến phong kiến tự chủ các triều
đại Đinh, Lí, Trần, Lê, Nguyễn vẫn lấy Rồng làm biểu tượng tài trí cao
sang, quyền uy, may mắn để phản ánh tư duy tâm hồn của Vương
quyền mình.
Trong dân gian Việt Nam còn bảo lưu biết bao nhiêu câu chuyện thần
thoại liên quan đến Rồng; thường theo mô típ người ăn ở phúc hậu,
hiền lành, được gặp Rồng mà đẻ ra người con trai tuấn tú, trí dũng,
trung với nước hiếu với bố mẹ dân làng. Về di vật trong trống đồng
Đông Sơn có khắc con Rồng trông mượt mà, khoẻ khoắn có 4 chân,
mõm dài đuôi to cong lên trông tựa con cá sấu. Đến thời nhà Lý Rồng
mình thon thon dài, uốn lượn nhiều khúc cong nhỏ dần về phía đuôi,
môi dưới có râu, môi trên có mào, sau gáy có bờm, chân móng sắc
nhọn như móng chim, tung bay ngang dọc giữa mây trời, thể hiện tâm
hồn, ước mơ tự do độc lập. Rồng nhà Trần tiếp thu Rồng nhà Lý có
thêm tai, cặp sừng, trông đẫy đà, táo bạo đầy sức sống gắn liền với khí
phách thắng quân Nguyên Mông hung hãn. Rồng nhà Lê nối tiếp nhà
Trần, mình rắn khoẻ có mào, sừng, song có ảnh hưởng một số chi tiết
Rồng Trung Quốc, nom giữ tợn hơn lộ rõ uy quyền nhà vua gắn liền
với thời kì Nho giáo thay thế Phật giáo làm quốc giáo. Rồng nhà
Nguyễn có dáng mạnh mẽ, giữ tợn tương tự như nhà Lê nhưng có phần
hung hãn hơn bởi Nho giáo giữ địa vị thống trị, nhưng đã đi vào giai
đoạn mạt kì. Qua đó ta thấy con Rồng đã đi vào kí ức thẳm sâu của con
Người Việt biết chừng nào. Sức sống của nó mãnh liệt theo suốt chiều
dài dựng nước kể từ thời bình minh đến các triều đại phong kiến tự chủ
nó luôn là biểu tượng cao sang quyền uy thịnh vượng và may mắn.
Dựa trên lý ấy và triết lý kinh dịch mà có biểu tượng “Lưỡng long triều
nguyệt”. Trong đó mặt trăng ở giữa hai bên là Rồng, mặt trăng chiếu
sáng ban đêm và có liên quan đến con người sinh vật. Người xưa làm
lịch theo chu kỳ tuần hoàn của mặt trăng mặt trời quanh quả đất phục
vụ nông nghiệp và săn bắt gọi là âm lịch nên mặt trăng mang tính âm
ký hiệu nét đứt ( ), con rồng biến hoá linh hoạt mang tính dương ký
hiệu nét liền (-). Theo đó biểu tượng “Lư
ỡng long triều nguyệt” ký hiệu
theo quẻ dịch là ( ) gọi tên quẻ li. ý nghĩa quẻ này: về thiên thời: ban
ngày, về địa lý: phương nam, Ngũ hành: thuộc hoả, về nhân vậ
t là nhân
văn - về tính cách: tài học, thông minh, sáng, đẹp, về hướng: Nam, về
thời gian: tháng 5, mùa hạ, nóng.
Vậy rõ ràng biểu tượng “Lưỡng long triều nguyệt” phù hợp với đất
nước con người Việt Nam. Một biểu tượng cát tường. Biểu tượng
“Lưỡng long triều nguyệt” là “hồn việt”.
Mặt trống đồng trang trí rất nhiều chim, có những con mỏ dài, cánh
ngắn, thân thon xếp đặt thành một vòng ngoài cùng (chim lạc) có con
trang trí trên nóc nhà sàn Đông sơn mỏ ngắn đuôi dài cong không có
mào, trông rất hiền lành, không giống con Phượng hai cánh xoè ra như
nan quạt, hai chân dạng ra mắt to sắc, sau gáy có bờm trông khí phách,
dữ tợn (Phượng chạm gỗ đình Yên Bảng, Hà Bắc).
Ai đó đã lựa chọn con chim lạc ở mặt trống đồng để thế vào vị trí con
Rồng, con Phượng là không phù hợp với truyền thống văn hoá Việt
Nam. Phải nói rằng trong ký ức Việt chỉ có “Long, Li, Quy, Phượng” l
à
những con vật linh thiêng và trong tâm thức ngư
ời Việt cũng chỉ có cặp
“Rồng - Tiên” mới coi như: Vật Tổ của mình. Do vậy trong văn hoá
tâm linh ở các di sản kiến trúc Việt, suốt mấy nghìn năm trải qua nhiều
thời đại chỉ thấy mô típ “Lưỡng long triều nguyệt” rất quen thuộc khắp
mọi nơi từ thôn làng đến kinh thành, có những hiểm lưỡng phượng
triều nguyệt, mà không thấy con chim lạc triều nguyệt.
ở đình biểu di của kiến trúc văn hoá tâm linh, ông cha ta chọn 4 con
chim phượng chụm 1 vào nhau tạo thành một bông hoa đang nở mượt
mà, đầy sức sống nhìn tựa như ngọn đèn thắp sáng vĩnh cửu - ý tưởng
ngưỡng mộ, đối tượng tôn thờ, nhưng tài tính khéo léo đẹp mắt cát
tường, chứ không như ở trên đỉnh trụ biểu đền thờ đương đại có đền
thay bằng 4 con chim lạc bố cục rời rạc khô cứng trông lạ mắt không
mấy cảm hứng.
Theo phong thuỷ hình thái của một biểu tượng liên quan về “Khí” thu
năng lượng của vũ trụ nó có thể tác dụng tích cực hoặc phản cảm (Sui)
đến con người.
Người xưa nói: “đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu” ý nghĩa
rất sâu xa đối với văn hoá tâm linh là niềm tin thiêng liêng cao c
ả, niềm
tin ấy thanh khiết bền vững trong tín ngưỡng, tôn giáo, trong tâm thức
con người.
Vào giữa tháng giêng năm Mậu Tý (2008) tôi cùng đoàn nhà văn chi
hội văn học nghệ thuật Phú Thọ đến thăm thành phố Côn Minh tỉnh
Vân Nam Trung Quốc giáp biên giới Việt Nam. Tôi đã thăm thủ phủ
của Ngô Tam Quế (Phục Minh chống Thanh, thăm chùa Hoa Đình Tự,
ngôi chùa cổ kính thâm nghiêm nổi tiếng của Vân Nam, nơi hội tụ 500
tượng La Hán và cả trên dọc đường từ Hà Khẩu đến Côn Minh không
thấy có biểu tượng “ Lưỡng Long Triều nguyệt” mà chỉ thấy biểu tư
ợng
“Lưỡng Long triều quả bầu”, quả bầu có liên quan đ
ến câu chuyện thần
thoại Trung Quốc. Tôi suy ngẫm và bất ngờ nhận ra rằng biểu tượng “
Lưỡng Long Triều Nguyệt” tiếng vọng kỳ lạ của quá khứ thắp sáng m
ãi
theo dòng lịch sử xưa và nay là hồn Việt.
Nguyễn Xuân Đài