NỘI - NGOẠI THẤT VÀ TRANG
HOÀNG NGÀY TẾT
Kể ra, khó nói tục đón tết Nguyên Đán ở Việt Nam có từ bao giờ. Đâu
như khoảng thế kỷ II-III sau CN trở đi mới có. Chỉ biết, chẳng lễ tết
nào trong năm được rộn rã, đẹp đẽ như tết Nguyên Đán. Năm nào cũng
thế, cứ độ xuân mới, ở Việt Nam ta, từ miền xuôi đến miền ngược, từ
chốn thôn dã đến thị thành, mọi nhà đều náo nức đón tết, mà xưa nay
vẫn nôm na gọi là ăn tết Ngày tết bắt đầu cho một năm, người Việt
mong muốn đón xuân, tống cựu nghênh tân trong một khung cảnh tinh
tươm, no ấm. Âu cũng là tục lệ hay.
Tết Nguyên Đán tuy chính ngày mồng một tháng Giêng âm lịch, nh
ưng
người miền quê thực sự chuẩn bị, sắm sửa từ dạo tháng Chạp. Thời
điểm này thuận lợi vì việc đồng áng thư thả (xưa kia ra giêng bà con
mới cấy vụ xuân). Việc lớn như dọi lại mái nhà, tát ao bắt cá, lựa riêng
mấy con cá quả, trắm đen, chép đỏ to nhất trữ sống trong chum, dành
làm cỗ tết. Tiện thể vợt bùn đắp lại bờ ao, bón chân hàng dậu, dọn dẹp
vườn tược, phát quang bụi rậm, quét vôi gốc cây vén tỉa ngõ trúc
Nhiều nơi ở nông thôn còn chặt tre, kết 3 bó rạ, buộc một bó vàng mã,
dựng cây nêu trước sân nhà. Cây nêu tượng trưng cho hạnh phúc nhà
nông xưa, trồng nêu trước tết đến ngày khai hạ (mùng 7) thì hạ nêu. Có
nhà còn lấy cây dứa gai cài ngoài cửa con hàng dậu, rắc vôi bột, vẽ bàn
cờ, kẻ cái cung, cái nỏ trong sân, cũng là có ý trừ tà, kẻo năm mới ma
quỷ vào nhà quấy nhiễu ở thành phố, trước năm mới thư
ờng vá lại vỉa
hè, thông sạch cống rãnh, sơn phết tường rào, vệ sinh hàng cây, mắc
thêm đèn chiếu sáng, đèn trang trí, sửa biển hiệu, tân trang quầy h
àng
kể cả sơn vôi lại nhà cửa nếu có điều kiện. Sân nhà lại được trồng thêm
cây cảnh, bày chậu hoa mới. Chỗ nào cũng như mới mẻ, tươi thắm hẳn
lên.
Từ ngõ xóm trông vào đã thấy hai bên cánh cổng, cánh cửa các nhà có
dán tranh Thần hộ mệnh, Quan ông - những ông tướng nhà tr
ời che chở
cho một năm mới an bình thịnh vượng của gia chủ. Người Việt ta quan
niệm mỗi năm Thiên đình có lệ thay thế toàn bộ quan quân trông nom
công việc dưới Hạ giới. Thời khắc Giao thừa chính là lúc “bàn giao”,
đón các ngài từ Thiên đình xuống nhậm chức, cho nên bày xôi, gà,
bánh trái, hoa quả, đồ ăn thức nguội ra cúng giao thừa, gọi là úy lạo
quan quân nhà Trời. Dân thành thị ngày nay, dù sống nơi nhà cửa, căn
hộ chung cư chật hẹp, cũng cố dành một góc ban công, khá hơn thì sân
thượng để bày biện mâm cúng giao thừa. Khá giả thì sửa soạn đồ cúng
thật hậu, cầu kỳ, vàng mã lộng lẫy, mong chiều lòng quan quân nhà
Trời. Từ đó đến hết mồng 3 tết, cỗ bàn liên tục. Đói quanh năm cũng
no ba ngày tết. “Mùng ba ăn rốn, mùng bốn nhịn thèm” là vậy.
Mấy ngày gần tết cả làng inh ỏi tiếng lợn bị chọc tiết (việc đánh tiếng
“đụng” lợn phải thoả thuận từ trước). Tiếng chày giã giò ra nh
ịp hối hả,
tiếng dao thớt tất bật. Khắp nơi bờ giếng, cầu ao đàn bà con gái tíu tít
vo nếp, đãi đỗ, rửa lá dong, lá chuối, hỏi han nhau tết to tết nhỏ. Trong
nhà la liệt đám gói bánh chưng, gói giò lụa, giò xào. í ới tấm lá, sợi
lạt Rậm rịch lắm, tết lắm.
Trong nhà, bàn thờ, tủ thờ là nơi được chú trọng hơn cả. Dù ở nông
thôn hay thành thị người Việt vẫn ưa bài trí kiểu đăng đối. Cũng một
phần do chỗ thờ cúng, tiếp khách, cỗ bàn thư
ờng ở gian chính, cộng với
nề nếp thẩm mỹ lâu đời. Bàn thờ được cắm thêm hoa tươi, các rèm c
ửa,
y môn, mành sáo được quét mạng nhện, phủi bụi, giặt giũ lại hoặc thay
mới. Cách đây vài ba mươi năm, nông thôn ta còn du nhập lối trang
hoàng tết theo phong cách đám cưới, hội nghị: ở chính gian giữa nhà,
bà con mắc võng các dây xúc xích làm bằng giấy ngũ sắc, tỏa ra từ đèn
lồng hay quả tú cầu lớn treo cao, neo vào bốn góc nhà Trông phấn
chấn đáo để!
Bàn thờ, tủ thờ, ghế thắp hương bằng gỗ thường, gỗ tốt, gỗ sơn mài,
sang cả thì bằng gỗ quý chạm trổ công phu, sơn son thếp vàng. Thời
mới có chất liệu gỗ dán, gỗ ép, nhựa tổng hợp. ở miền Nam có nơi ưa
dùng bàn thờ đá rửa, cũng đủ cả triện góc, rồng chầu xi măng lõi thép
bả nhẵn quét sơn Có thế nào, bàn thờ, tủ thờ cũng được làm mới lại
nhân dịp tết như cẩn xà cừ quét lại vecni, sơn phết Kèm theo là bát
hương, lọ hoa, chén nước, chân đèn, chân nến, đèn cầy, đĩa đựng trái
cây, mâm bày ngũ quả, bộ ấm chén thờ, lư hương, đỉnh đốt trầm Gần
đây phổ biến loại đồ nhựa mạ vàng, mạ bạc, đèn nhấp nháy, hương
điện vừa rẻ lại tiện dụng, tuy không đẹp và tình cảm như đồ truyền
thống. Giữa bát hương thường cắm cây hương bằng sắt tây hay que tre
có gắn chữ thọ, để treo hương vòng. Xưa dân gian không có lệ thờ
tượng tại nơi ăn nghỉ, gần đây thấy xuất hiện tượng Đức Phật, Quan
âm, Thần tài
Sát ngày mùng 1, người lớn, trẻ nhỏ tíu tít quét tước nhà cửa, lau chùi
các thứ vật dụng. Nhiều đồ thờ như chân đèn nến, lư, đ
ỉnh, ống gia phả,
khay vàng mã cho đến cái mâm đồng, đôi bát tộ, nậm rượu tầu, bát
nước cúng, chục đũa mun kể như đồ quý, của gia bảo, chỉ dịp tết mới
đem ra dùng. Đồ đồng, đồ thau đem đánh bóng, sáng choang. Đại tự
“Cung chúc Tân niên”, cặp câu đối roi rói mực tàu giấy đỏ, đôi liễn
mới được trương lên, tỏ thành tâm câu chữ thánh hiền, làm cửa nhà
thêm trang trọng. Gần đây bên cạnh câu đối chữ nho, có cả tranh thư
pháp quốc ngữ, tranh in, tranh sao chép châu Âu hay Trung Hoa, lịch
treo tường lớn nhỏ đủ loại thành thử quá đà nhiêu khê, rối rắm.
Dân ta đa phần sùng đạo Phật nên đồ cúng tết mang nhiều màu đỏ son,
vàng ánh với hình tứ linh, tứ quý Đơn sơ như ban thờ bằng tre, ngày
tết dán thêm giấy điều, tô phẩm. Cũng đủ bài vị, chân dung cố phụ, cố
mẫu, ảnh kỵ Nhà nghèo đến mấy cũng cố dành dụm, sắm sửa bàn thờ
tươm tất, hương khói, cúng vọng tổ tiên trong mấy ngày tết. Vị trí đặt
bàn thờ rất được coi trọng. Nhà chật hẹp thì khéo lựa thế, kén hướng
thuận. Vật dụng thường bày biện theo cặp, đăng đối, trên dưới tả hữu
phân minh, tầng lớp theo bề sâu. Bởi tại quan niệm chiều sâu hướng
đến tổ tiên, thần linh, còn dàn trải theo chiều ngang là chuyện phàm
trần, đời thường.
ở thôn quê, giữa nhà thường bày bàn trà hình chữ nhật, chiều dài hư
ớng
vuông góc với bàn thờ. Bàn có chân cao, hai bên có hai ghế ngựa, còn
mấy gian bên bày phản gỗ, giường tre. Có khi sập gụ, tủ chè kê ngay ở
gian chính. Sập gụ là chỗ ngồi chơi, tiếp khách ban ngày, ban đêm làm
giường ngủ, nóc tủ chè tiện sử dụng làm bàn thờ. Ngày tết giư
ờng phản
được trải chiếu hoa mới. Nhà bình dân chiếu đậu, chiếu hoa, nhà khá
giả mền bông thêu hoa văn, phượng múa ở thành phố, lâu nay nhà
cửa kiểu mới, đất đai chẳng chiều lòng người, phải xây nhà hình ống,
lên tầng. Thành thử khó tổ chức phòng ốc kiểu gian điện nh
ư xưa. Cách
trang trí nội thất ngày thường và ngày tết cũng khác. Đồ đạc không
nhiều chủng loại như ở nông thôn, mà thay vào đó là các đồ mỹ thuật
thực dụng, bàn ghế, sa lông mô đéc, thiết bị tiện nghi, thảm trải cùng
với những chi tiết kiến trúc trau chuốt sẵn có: vòm, cột, sàn, trần,
khung viền, phào chỉ, mặt tường nhẵn phẳng, màu sắc ấm áp tiện treo
tranh lồng khung kính. Có lẽ ở thành phố, nội thất ngày tết chỉ nổi bật
nhờ hoa tươi, cành đào, cành mai, cây quất và đồ ăn thức uống đựng
đậm hương vị tết. Có thể thêm s
ự góp mặt của ít chậu hoa, cây cảnh, kể
cả cây quả hàng mã như “cây vàng” “cây bạc”, “lá ngọc cành vàng”,
thường bày theo bộ hai cây cao dăm bẩy tấc ở trong nhà và cao hơn ở
ngoài sảnh, khởi sắc xuân lên nhiều.
Nết treo tranh tết có từ lâu đời, chắt chiu một phần hồn Việt trong lành,
nhân hậu, lấp lánh nét đẹp cội nguồn. Từ Hà Nội tới các tỉnh, “khắp
chợ cùng quê” đâu cũng thấy bày tranh tết nhà nào cũng treo tranh tết.
Vô khối tích truyện cổ, lịch sử, đời thường, tín ngưỡng, phong tục đầy
sức sống hồn nhiên của dân gian trong các tranh ông Công, ông Táo,
Sơn tinh, Thủy Tinh, Thạch Sanh, Thúy Kiều - Kim Trọng. Tranh
Thánh Gióng, Bà Trưng, Bà Triệu. Tứ phủ, Tam tòa Thánh mẫu, tranh
Tứ Bình, Tố Nữ. Ngũ Hổ, Cá Chép trông trăng, Tiên đồng Ngọc nữ,
Tiến tài Tiến lộc. Tranh Hứng dừa, Đánh ghen, Chơi đu, Thả diều, Bơi
thuyền, Tử tôn vạn đại.
Thầy đồ Cóc, Đại cát Gà mẹ gà con, Đám cưới chuột, Cóc kiện trời
Kể bao nhiêu cho hết. Tranh Đông Hồ thì nhiều màu nâu, lục, vàng, đỏ
rất ư mộc mạc, chân quê, còn tranh Hàng Trống t
ươi màu cánh sen, lam
chàm, hoàng yến, bạch yến với đường nét thanh tú ra điều thành thị.
Lại thêm loại tranh vẽ màu phẩm trên giấy bìa, quen gọi tranh Bờ Hồ
bay bướm, khéo vẽ là tranh ngũ quả, cuốn thư
Người Việt ta xưa thú chơi cũng tới bến, ăn tết chả khi nào thiếu trò
vui: múa lân, múa rồng, đánh đu, chèo thuyền, chọi gà, cờ người, pháo
đất, bài bạc Đó là những trò diễn, cuộc chơi thư giãn, cầu may mắn,
hạnh phúc làm cho ngày xuân, hội xuân thêm rôm rả, náo nức. Trò ch
ơi
tết cũng quen thuộc như thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ, cây nêu, tràng
pháo à quên, từ dạo cấm đốt pháo đến giờ ngày tết cứ như văng vắng,
thiêu thiếu. Có nhà kiếm đâu được cái băng cát xét, tí quét tiếng pháo
tép pháo đùng, nghe chẳng bằng đập mẹt. Tiếc là tiếc tiếng pháo đì đẹt
vỗ về. Tiếc là tiếc cái hơi thuốc pháo phân dơi ngào ngạt, có tình. Tiếc
là tiếc mấy mươi tơi tả, lắc rắc, đốm đốm xác pháo nơi mái hiên, bậc
thềm. Rác đấy, nhưng quý hóa là rác tết, mặt đất cứ như gấm như hoa,
trông phấn chấn chẳng thua mai, đào.
Người bình dân ăn tết đã vậy, nói chi đến bậc vua chúa ngày xưa,
những kẻ uy danh bốn biển, tiền của trùm thiên hạ. Mỗi dịp Nguyên
Đán, quang cảnh triều hạ càng làm nổi bật vai trò tôn quý, uy nghiêm
của hoàng gia. Chả thế mà lễ cử hành đón năm mới trong cung đình
được tôn danh là “Đại triều”.
KTS Đoàn Khắc Tình