Bệnh tim do rượu, thuốc gì?
Hình ảnh cơ tim bình thường và cơ tim giãn do
rượu.
Cơ chế bệnh sinh
Khi uống rượu, cơ thể chúng ta tiếp thu chất ethanol từ rượu, và trải qua hai
bước chuyển hóa trong gan. Bước thứ nhất, enzyme ADH (alcohol
dehydrogenase) chuyển hóa ethanol thành acetaldehyde. Bước thứ hai,
enzyme ALDH2 (acetaldehyde dehydogenase) chuyển hóa acetaldehyde
thành acetate, hay nói nôm na là axít axetic mà chúng ta thấy trong dấm.
Thật ra, acetate còn được chuyển hóa một lần nữa nhưng ở ngoài gan, và
chúng ta sẽ không quan tâm ở đây. Trong ba hoạt chất ethanol, acetaldehyde
và acetate thì acetaldehyde được xem là độc hại nhất vì nó có khả năng gây
đột biến gen và gây ung thư. Đặc biệt hơn, các nhà khoa học tại trung tâm
nghiên cứu tim mạch – Trường đại học Wyoming, Laramie của Mỹ đã
nghiên cứu và công bố vào năm 2008 rằng: acetaldehyde gây độc cho tế bào
cơ tim, gây rối loạn chức năng, cấu trúc và chuyển hóa của tế bào cơ tim. Và
ở những người nghiện rượu, uống rượu liên tục, lâu dài với số lượng lớn, khi
mà acetaldehyde luôn xuất hiện trong cơ thể với nồng độ cao thì sẽ gây nên
tình trạng tế bào cơ tim to ra có hình bầu dục rất kỳ lạ, tăng nhiều trọng
lượng toàn bộ khối cơ, các buồng tim giãn nhiều. Hậu quả làm mất dần chức
năng co bóp của cơ tim. Đó là bệnh cơ tim giãn.
Triệu chứng lâm sàng
Bệnh nhân có tiền sử uống rượu với số lượng lớn liên tục trong thời gian dài.
Các dấu hiệu của bệnh diễn ra rất từ từ và bệnh nhân thường có một giai
đoạn dài từ vài tháng đến vài năm hoàn toàn không có triệu chứng. Khi đến
bệnh viện là đã có biểu hiện của suy tim. Ban đầu là biểu hiện của suy tim
trái: khó thở khi gắng sức, khó thở khi nằm và khó thở về đêm. Giai đoạn
nặng sẽ thấy có thêm các dấu hiệu của suy tim phải như phù ngoại biên, gan
to, tĩnh mạch cổ nổi, cổ trướng. Có thể gặp các biểu hiện của hội chứng cung
lượng tim thấp như mệt mỏi và suy nhược cơ thể.
Khám lâm sàng thường không có dấu hiệu đặc hiệu và đôi khi chỉ liên quan
đến mức độ suy tim của bệnh nhân. Khám tim hay gặp nhịp nhanh, đôi khi
có tiếng ngựa phi, tiếng thổi tâm thu do hở van hai lá và ba lá do giãn các
buồng tim, mỏm tim xuống thấp và sang trái (giãn thất trái) hay giãn về phía
mũi ức của thất phải. Khám phổi trong trường hợp ứ trệ tuần hoàn nhiều có
thể thấy có ran ẩm, thở nhanh nông, tràn dịch màng phổi phối hợp. Khám
bụng có gan to, phản hồi gan – tĩnh mạch cổ dương tính, nhưng đa phần các
bệnh nhân có tĩnh mạch cổ nổi tự nhiên. Khám ngoại biên phát hiện phù chi
dưới, phù toàn thân, chi lạnh, đầu chi tím.
Diễn biến tự nhiên của bệnh sẽ dẫn đến suy tim tăng dần và có thể bị tử vong
trong bệnh cảnh suy tim nặng hay rối loạn nhịp. Tỷ lệ tử vong trong vòng 5
năm là 40 – 80%.
Dùng thuốc thế nào?
Người bệnh cần ngừng uống rượu. Đây là việc đầu tiên cần làm trong điều
trị bệnh.
Điều trị nội khoa: nhằm mục đích ổn định tình trạng suy tim. Dùng các
thuốc sau:
- Thuốc lợi tiểu: khi dùng thuốc lơi tiểu phải căn cứ vào chức năng thận và
thể tích dịch trong cơ thể. Thường lựa chọn các loại lợi tiểu quai như
furosemid, torsemid hay bumetanid.
- Thuốc giãn mạch: làm giảm gánh cho tim như ức chế men chuyển dạng
angiotensin (coversyl), nitrat (nitromint) và hydralazin trong đó ức chế men
chuyển dạng angiotensin là lựa chọn hàng đầu. Cần chú ý tác dụng hạ huyết
áp tư thế của thuốc giãn mạch.
- Trợ tim: digitalis (digoxin) là thuốc được lựa chọn trong các trường hợp
rung nhĩ có tần số thất cao.
- Thuốc kháng vitamin K (sintrom): cần được sử dụng khi bệnh nhân có
huyết khối trong buồng tim, có rung nhĩ hay đã có tiền sử tắc mạch.
- Điều trị rối loạn nhịp: trong bệnh cơ tim giãn thường gặp nhiều khó khăn.
Trong số các thuốc chống rối loạn nhịp thì amiodaron (cordaron) là thuốc
dường như có hiệu quả và ít tác dụng phụ nhất.
- Thuốc chẹn bêta giao cảm: hiện duy nhất chỉ có carvedilol là thuốc được
chấp nhận dùng để điều trị suy tim tại Hoa Kỳ. Tuy nhiên các nghiên cứu
mới đây chỉ ra rằng các thuốc khác như bisoprolol hay metoprolol cũng có
hiệu quả làm giảm tỷ lệ tử vong ở bệnh nhân suy tim. Liều khởi đầu cần rất
thấp và hết sức thận trọng khi nâng liều điều trị.
Điều trị phẫu thuật ghép tim: chỉ định trong các trường hợp suy tim nặng
NYHA 3 hoặc 4 không đáp ứng với điều trị nội khoa (đã bao gồm cả chẹn
bêta). Tuy nhiên phẫu thuật này tốn kém và mới chỉ thực hiện tại môt số
trung tâm y học lớn.