Tải bản đầy đủ (.pdf) (68 trang)

LUẬN VĂN: Hoạt động bảo lãnh tại Chi nhánh Ngân hàng Công thương Ba Đình docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (579.55 KB, 68 trang )








LUẬN VĂN:

Hoạt động bảo lãnh tại Chi nhánh
Ngân hàng Công thương Ba Đình











Lời mở đầu

Trong xu hướng toàn cầu hoá hiện nay, nền kinh tế nước ta đang trên đà đi lên và hội
nhập quốc tế. Ngân hàng thương mại Việt Nam, một trong các tổ chức tài chính quan trọng
nhất của nền kinh tế không nằm ngoài quỹ đạo này.
Trong giai đoạn hiện đại hoá toàn hệ thống ngân hàng, các Ngân hàng thương mại luôn đa
dạng hoá các nghiệp vụ của mình. Bên cạnh những nghiệp vụ truyền thống là cho vay, nhận
tiền gửi, thanh toán thì những nghiệp vụ mới cũng được hình thành như bảo lãnh, cho thuê
tài chính, kinh doanh ngoại hối Đối với các Ngân hàng thương mại, hoạt động bảo lãnh mới


chỉ là bước đầu và đang còn mới mẻ với khách hàng của họ, đặc biệt trong điều kiện kinh tế
hiện nay thì việc thực hiện nghiệp vụ này không phải là đơn giản. Đó là nghiệp vụ mang lại
thu nhập cao nhưng rủi ro cũng không nhỏ.
Nhận thức được điều này, em xin chọn đè tài: “Hoạt động bảo lãnh tại Chi nhánh Ngân
hàng Công thương Ba Đình” làm chuyên đề thực tập.
Nội dung chuyên đề gồm 3 chương:
Chương 1: Tín dụng bảo lãnh trong Ngân hàng
Chương 2: Thực trạng hoạt động bảo lãnh tại NHCT Ba Đình
Chương 3: Giải pháp nâng cao hoạt động bảo lãnh tại NHCT Ba Đình













Chương 1:
Tín dụng bảo lãnh trong ngân hàng
1. Khái quát về ngân hàng thương mại và tín dụng ngân hàng
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, hoạt động thương mại bùng nổ mạnh mẽ với xu
hướng toàn cầu hoá sâu sắc. cung với nhu cầu ngày càng phát triển của con người, các dịch vụ
hàng hoá ngày càng được mở rộng. Trong sự hỗn độn của thị trường đó, không thể thiếu một
trung gian tài chính quan trọng, một doanh nghiệp mà bất cứ doanh nghiệp nào khác cũng cần
đó là các ngân hàng.

Cùng với thời gian ngân hàng đã phát triển từ ngân hàng một cấp thành ngân hàng hai
cấp. Với hệ thống ngân hàng hai cấp các ngân hàng đã từng bước hoàn thiện và thực hiện vai
trò của mình trong nền kinh tế thị trường. Ngân hàng bao gồm nhiều loại tuỳ thuộc vào sự
phát triển của nền kinh tế nói chung và hệ thống tài chính nói riêng, trong đó ngân hàng
thương mại thường chiếm tỷ trọng lớn nhất về qui mô tài sản, thị phần và số lượng các ngân
hàng. Chúng ta sẽ tìm hiểu bản chất và vai trò của ngân hàng thương mại Việt Nam để hiểu
được tầm quan trọng của nó trong nền kinh tế hiện nay.
1.1. Khái niệm và bản chất của ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại (NHTM) là một tổ chức kinh tế hoạt động kinh doanh trên lĩnh
vực tiền tệ, thực hiện các công việc chủ yếu là cho vay, nhận tiền gửi và thanh toán.
Như vậy NHTM cũng là một doanh nghiệp thực hiện công việc kinh doanh, nhưng khác
với các doanh nghiệp khác là kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ, chúng không nằm ngoài quy
luật của hoạt động kinh doanh đó là kiếm lời và an toàn.Vậy thì bằng cách nào các ngân hàng
thu được lợi nhuận cao nhất


mà chúng có thể, chung hoạt động như thế nào chúng ta sẽ xem qua các tài sản nợ và tài
sản có của ngân hàng để hiểu rõ đặc điểm của nó.



NHTM thực hiện kinh doanh bằng cách bán tài sản nợ và dùng tiền để mua các tài sản
có, ngoài ra còn thực hiện các dịch vụ nhằm thu phí dịch vụ.
Tài sản nợ của NHTM hay còn gọi là nguồn vốn, bao gồm những khoản tiền gửi có thể
phát séc, khoản tiền gửi phi giao dịch, các khoản đi vay và vốn của ngân hàng.
Tiền gửi phi giao dịch là tiền gửi tiết kiệm và tiền gửi kì hạn, khoản tiền này chiếm một tỷ
trọng lớn (51%), những khoản tiền này chỉ dùng để gửi tiết kiệm không dùng để giao dịch.
NHTM thực hiện nhận tiền gửi và huy động tiền gửi từ nhân, các tổ chức kinh tế và có trách
nhiệm hoàn trả đã tạo nên một phần tài sản nợ cho ngân hàng.
Khoản vốn của ngân hàng chiếm tỷ trong nhỏ nhất (7%), là phần chênh lệch giữa tài sản

nợ và tài sản có. Các vốn này của ngân hàng là một cái đệm để chống đỡ sụt giảm giá trị của
tài sản có, tức là điều dẫn đến ngân hàng không trả được nợ. Khoản vốn nay trích từ một phần
lợi nhuận giữ lại và bán cổ phiếu mới
Tài sản có của ngân hàng là kết qủa của việc sử dụng vốn của ngân hàng đó. Những tài
sản có là những tài sản mang lại thu nhập cho ngân hàng,tức những tài sản thu được thiền trả
lãi và các phí dịch vụ khác tạo nên lợi nhuận cho ngân hàng.
Tài sản có bao gồm tiền dự trữ, tiền mặt trong quá trình thu, tiền gửi ở các ngân hàng
khác, các chứng khoán, tiền cho vay và những tài sản có khác.
Tiền cho vay chiếm một tỷ trọng lớn nhất trong tài sản có và mang lại lợi nhuận chủ yếu
cho ngân hàng.
Việc chuyển các tài sản nợ thành các tài sản có ngân hàng đã cung cấp các dịch vụ cho
công chúng như thanh toán, phân tích tín dụng và cũng giống


như bất cứ quá trình sản xuất khác trong một hàng kinh doanh ngân hàng tạo ra được các
dịch vụ hữu ích mà chi phí thấp nhất và có được doanh thu cao nhờ tài sản có thì ngân hàng
đó sẽ tồn tại và phát triển, ngược lại sẽ bị tổn thất và đào thải.
Nhưng hoạt động ngoại bản quyết toán là việc mua bán những công cụ tài chính, bán các
món cho vay và thu phí từ các dịch vụ. Trong môi trường cạnh tranh hiện naythì các ngân
hàng luôn quan tâm đến việc kiếm lời từ những hoạt động ngoại bản này.



Như vậy thông qua các tài sản của ngân hàng ta thấy rằng ngân hàng là tổ chức thu hút
tiết kiệm lớn nhất trong hầu hết mọi nền kinh tế. Hàng triệu cá nhân, hộ gia đình và các doanh
nghiệp, các tổ chức kinh tế- xã hội đều gửi tiền tại ngân hàng. Ngân hàng là tổ chức cho vay
chủ yếu đối với các doanh nghiệp, cá nhân, hộ gia đình và một phần đối với nhà nước. Khi
khách hàng có nhu cầu về vốn, mua sắm, dự trữ hay các khoản đầu tư khác thì ngân hàng sẽ
cung cấp tín dụng, khi có nhu cầu thanh toán thì ngân hàng sẽ cung cấp các dịch vụ đa dạng
như thanh toán băng séc, uỷ nhiệm thu, uỷ nhiệm chi và khi khách hàng cần những thông tin

để lập kế hoạch dự án thì họ thơừng tìm đến các ngân hàng để nhờ tư vấn.
1.2. Một số dịch vụ cơ bản của ngân hàng
Ngân hàng là một doanh nghiệp cung cấp dịch vụ cho công chúng và doanh nghiệp.
Thành công của ngân hàng phụ thuộc vào khả năng đáp ứng các dịch vụ tài chính mà xã hội
có nhu cầu. Ngân hàng có một số dịch vụ cơ bản sau:
1.2.1. Mua bán ngoại tệ
Một trong những dịch vụ ngân hàng đầu tiên được thực hiện là trao đổi (mua, bán) ngoại
tệ: Mua, bán một loại tiền này lấy một loại tiền khác và hưởng phí dịch vụ.


1.2.2. Nhận tiền gửi
Cho vay được coi là hoạt động sinh lời cao, do đó các ngân hàng đã tìm mọi cách để huy
động được tiền. Một trong những nguồn quan trọng là các khoản tiền gửi thanh toán và tiết
kiệm của khách hàng. Ngân hàng mở dịch vụ đế bảo quản hộ người có tiền với cam kết hoàn
trả đúng hạn. Trong cuộc cạnh tranh để tìm và giành được các khoản tiền gửi, các ngân hàng
đã trả lãi cho tiền gửi như là phần thưởng cho khách hàng về việc sẵn sàng hy sinh nhu cầu
tiêu dùng trước mắt và cho phép ngân hàng sử dụng tạm thời để kinh doanh.
1.2.3. Cho vay
1.2.3.1. Cho vay thương mại
Ngay ở thời kỳ đầu, các ngân hàng đã chiết khấu thương phiếu mà thực tế là cho vay đối
với những người bán (người bán chuyển các khoản phải thu cho ngân hàng để lấy tiền trước).



Sau đó ngân hàng cho vay trực tiếp đối với các khách hàng (là người mua), giúp họ có vốn để
mua hàng dự trữ nhằm mở rộng sản xuất kinh doanh.
1.2.3.2. Cho vay tiêu dùng
Trong giai đoạn đầu hầu hết các ngân hàng không tích cực cho vay đối với cá nhân và hộ
gia đình bởi vì họ tin rằng các khoản cho vay tiêu dùng rủi ro vỡ nợ tương đối cao. Sự gia
tăng thu nhập của người tiêu dùng và sự cạnh tranh trong cho vay đã hướng các ngân hàng tới

người tiêu dùng như là một khách hàng tiềm năng.
1.2.3.3. Tài trợ cho dự án
Bên cạnh cho vay truyền thống là cho vay ngắn hạn, các ngân hàng ngày càng trở nên
năng động trong việc tài trợ trung, dài hạn: Tài trợ xây dựng nhà máy, phát triển ngành công
nghệ cao. Một số ngân hàng còn cho vay để đầu tư vào đất.


1.2.4. Bảo quản tài sản hộ
Các ngân hàng thực hiện việc lưu giữ vàng, các giấy tờ có giá và các tài sản khác cho
khách hàng trong két (vì vậy còn gọi là dịch vụ cho thuê két). Ngân hàng thường giữ hộ
những tài sản tài chính, giấy tờ cầm cố, hoặc những giấy tờ quan trọng khác của khách hàng
với nguyên tắc an toàn, bí mật, thuận tiện. Dịch vụ này phát triển cung với nhiều dịch vụ khác
như mua bán hộ các giấy tờ có giá cho khách thanh toán lãi hoặc cổ tức
1.2.5. Cung cấp các tài khoản giao dịch và thực hiện thanh toán
Khi khách hàng gửi tiền vào ngân hàng, ngân hàng không chỉ bảo quản mà còn thực hiện
các lệnh chi trả cho khách hàng. Thanh toán qua ngân hàng đã mở đầu cho thanh toán không
dùng tiền mặt, tức là người gửi tiền không cần phải đến ngân hàng để lấy tiền mà chỉ viết giấy
chi trả cho khách, khách hàng mang giấy đến ngân hàng sẽ được nhận tiền. Các tiện ích của
thanh toán không dùng tiền mặt (an toàn, nhanh chóng, chính xác, tiết kiệm chi phí) đã góp
phần rut ngắn thời gian kinh doanh và nâng cao thu nhập cho khách hàng. Khi ngân hàng mở
chi nhánh, phạm vi thanh toán qua ngân hàng được mở rộng, càng tạo nhiều tiện ích hơn.
Điều này đã khuyến khích khách hàng gửi tiền vào ngân hàng để nhờ ngân hàng thanh toán



hộ. Cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin, bên cạnh các thể thức thanh toán như séc,
uỷ nhiệm chi, nhờ thu, L/C, đã phát triển thành các hình thức thanh toán mới bằng điện, thẻ
1.2.6. Quản lý ngân quĩ
Các ngân hàng mở tài khoản và giữ tiền của phần lớn các doanh nghiệp và cá nhân. Nhờ
đó, ngân hàng thường có mối liên hệ chặt chẽ với nhiều khách hàng. Do có kinh nghiệm trong

quản ký ngân quĩ và khả năng trong việc thu ngân, nhiều ngân hàng đã cung cấp cho khách
hàng dịch vụ quản lý ngân quĩ, trong đó ngân hàng đồng ý quản lý việc thu và chi cho một
công ty kinh doanh


và tiến hành đầu tư phần thặng dư tiền mặt tạm thời và các chứng khoán sinh lợi và tín
dụng ngăn hạn cho đến khi khách hàng cần tiền mặt để thanh toán.
1.2.7. Tài trợ các hoạt động của chính phủ
Khả năng huy động và cho vay với khối lượng lớn của ngân hàng đã trở thành trọng tâm
chú ý của các Chính phủ. Do nhu cầu chi tiêu lớn và thường là cấp bách trong khi thu không
đủ, Chính phủ các nước đều muốn tiếp cận với các khoản vay của ngân hàng. Ngày nay,
Chính phủ giành quyền cấp phép hoạt động và kiểm soát các ngân hàng. Các ngân hàng được
cấp giấy phép thành lập với điều kiện là họ phải cam kết thực hiện với mức độ nào đó các
chính sách của Chính phủ và tài trợ cho Chính phủ. Các ngân hàng thường mua trái phiếu
Chính phủ theo một tỷ lệ nhất định trên tổng lượng tiền gửi mà ngân hàng huy động được.
1.2.8. Bảo lãnh
Do khả năng thanh toán của ngân hàng cho một khách hàng rất lớn và do ngân hàng nắm
giữ tiền gửi của các khách hàng, nên ngân hàng có uy tín trong bảo lãnh cho khách hàng.
Trong những năm gần đây, nghiệp vụ bảo lãnh ngày càng đa dạng và phát triển mạnh. Ngân
hàng thường bảo lãnh cho khách hàng của mình mua chịu hàng hóa và trang thiết bị, phát
hành chứng khoán, vay vốn của tổ chức tín dụng khác
1.2.9. Cho thuê thiết bị trung và dài hạn (Leasing)
Nhằm để bán được các thiết bị, đặc biệt là các thiết bị có giá trị lớn, nhiều hãng sản xuất
và thương mại đã cho thuê. Cuối hợp đồng thuê, khách hàng có thể mua (do vậy còn gọi là



hợp đồng thuê mua). Rất nhiều ngân hàng tích cực cho khách hàng quyền lựa chọn thuê các
thiết bị, máy móc cần thiết thông qua hợp đồng thuê mua, trong đó ngân hàng mua thiết bị và
cho khách hàng thuê với điều kiện khách hàng phải trả tới hơn 70% hoặc 100% giá trị tài sản

cho


thuê. Do vậy cho thuê của ngân hàng cũng có nhiều điểm giống như là cho vay và được
xếp vào tín dụng trung và dài hạn.
1.2.10. Cung cấp dịch vụ uỷ thác và tư vấn
Do hoạt động trong lĩnh vực tài chính, các ngân hàng có rất nhiều chuyên gia về quản lý
tài chính. Vì vậy, nhiều cá nhân và doanh nghiệp đã nhờ ngân hàng quản lý tài sản và quản lý
tài chính hộ. Dịch vụ uỷ thác phát triển sang cả uỷ thác vay hộ, uỷ thác cho vay hộ, uỷ thác
phát hành, uỷ thác đầu tư Thậm chí ngân hàng còn đóng vai trò là người được uỷ thác trong
di chúc, quản lý tài sản cho khách hàng đã qua đời bằng cách công bố tài sản, bảo quản các tài
sản có giá. Nhiều khách hàng còn coi ngân hàng như một chuyên gia tư vấn tài chính. Ngân
hàng sẵn sàng tư vấn về đầu tư, về quản lý tài chính, về thành lập, mua bán, sáp nhập doanh
nghiệp.
1.2.11. Cung cấp dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán
Nhiều ngân hàng đang phấn đấu cung cấp đủ các dịch vụ tài chính cho phép khách hàng
thoả mãn mọi nhu cầu. Đây là một trong những lý do chính khiến các ngân hàng bán các dịch
vụ môi giới chứng khoán, cung cấp cho khách hàng cơ hội mua cổ phiếu, trái phiếu, và các
chứng khoán khác. Trong một vài trường hợp, các ngân hàng tổ chức ra công ty chứng khoán
hoặc công ty môi giới chứng khoán để cung cấp dịch vụ môi giới.
1.2.12. Cung cấp các dịch vụ bảo hiểm
Từ nhiều năm nay, các ngân hàng đã bán bảo hiểm cho khách hàng, điều đó bảo đảm việc
hoàn trả trong trường hợp khách hàng chết, bị tàn phế hay gặp rủi ro trong hoạt động, mất khả
năng thanh toán. Ngân hàng liên doanh với công ty bảo hiểm hoặc tổ chức công ty bảo hiểm
con, ngân hàng cung cấp dịch vụ tiết kiệm gắn với bảo hiểm như tiết kiệm an sinh, tiết kiệm
hưu trí







1.2.13. Cung cấp các dịch vụ đại lí
Nhiều ngân hàng trong quá tình hoạt động không thể thiết lập chi nhánh hoặc văn phòng ở
khắp mọi nơi. Nhiều ngân hàng (thường là ngân hàng lớn) cung cấp dịch vụ ngân hàng đại lí
cho các ngân hàng khác như thanh toán hộ, phát hành hộ các chứng chỉ tiền gửi, làm ngân
hàng đầu mối trong hoạt động tài trợ
1.3. Khái niệm và bản chất của tín dụng
Tín dụng là một quan hệ kinh tế giữa người cho vay và người đi vay, giữa họ có mối liên
hệ với nhau thông qua vận động giá trị vốn tín dụng (đi vay, sử dụng vốn vay,hoàn trả vốn
vay) được biêu hiện dưới hình thái tiền tệ hoặc hàng hoá có tác dụng thúc đẩy sản xuất kinh
doanh phát triển, tăng trưởng kinh tế.
1.4. Các nghiệp vụ tín dụng
Phân loại theo hình thức cấp tín dụng , nghiệp vụ tín dụng bao gồm các hình thức sau:
1.4.1. Chiết khấu thương phiếu
Thương phiếu được hình thành chủ yếu từ quá trình mua bán chịu hàng hóa và dịch vụ
giữa khách hàng với nhau. Người bán (hoặc người thụ hưởng) có thể giữ thương phiếu đến
hạn để đòi tiền người mua (hoặc người phải trả) hoặc mang đến ngân hàng để xin chiết khấu
trước hạn.
Số tiền ngân hàng ứng trước phụ thuộc vào lãi suất chiết khấu, thời hạn chiết khấu và lệ
phí chiết khấu.
Nghiệp vụ chiết khấu được coi là đơn giản, dựa trên sự tín nhiệm giữa ngân hàng và
những người kí tên trên thương phiếu. Để thuận tiện cho khách, ngân hàng thường kí với
khách hợp đồng chiết khấu (cấp cho khách hàng hạn mức chiết khấu trong kì). Khi cần chiết
khấu, khách hàng chỉ cần gửi thương phiếu lên ngân hàng xin chiết khấu. Ngân hàng sẽ kiểm
tra chất lượng của thương
phiếu và thực hiện chiết khấu. Do tối thiểu có hai người cam kết trả tiền cho ngân hàng nên
độ an toàn của thương phiếu tương đối cao (trừ trường hợp ngân hàng





kí miễn truy đòi đối với khách hàng). Hơn nữa, ngân hàng thương mại có thể tái chiết khấu
thương phiếu tại ngân hàng Nhà nước để đáp ứng nhu cầu thanh khoản với chi phí thấp (vì
vậy thương phiếu còn được coi là loại tài sản có khả năng chuyển nhượng – có tính thanh
khoản cao).
1.4.2. Cho vay
1.4.2.1. Thấu chi
Thấu chi là nghiệp vụ cho vay qua đó ngân hàng cho phép người vay được thấu chi trội
(vượt) trên số dư tiền gửi thanh toán của mình đến một giới hạn nhất định và trong khoảng
thời gian xác định. Giới hạn này được gọi là hạn mức thấu chi.
Để được thấu chi, khách hàng làm đơn xin ngân hàng hạn mức thấu chi và thời gian thấu
chi (có thể phải trả phí cam kết cho ngân hàng). Trong quá trình hoạt động, khách hàng có thể
kí séc, lập uỷ nhiệm chi, mua thẻ vượt quá số dư tiền gửi để chi trả (song trong hạn mức
thấu chi). Khi khách hàng có tiền nhập về tài khoản tiền gửi, ngân hàng sẽ thu nợ gốc và lãi.
Số lãi mà khách hàng phải trả:
Số lãi phải trả = Lãi suất thấu chi * Thời gian thấu chi *Số tiền thấu chi
Các khoản chi quá hạn mức thấu chi sẽ chịu lãi suất phạt và bị đình chỉ sử dụng hình thức
này.
Thấu chi là hình thức tín dụng ngắn hạn, linh hoạt, thủ tục đơn giản. Hình thức này nhìn
chung chỉ sử dụng đối với những khách hàng có độ tin cậy cao, thu nhập đều đặn và kì thu
nhập ngắn.
1.4.2.2. Cho vay trực tiếp từng lần
Cho vay trực tiếp từng lần là hình thức cho vay tương đối phổ biến của ngân hàng đối với
các khách hàng không có nhu cầu vay thường xuyên, không có điều kiện để được cấp hạn
mức thấu chi.
Mỗi lần vay khách hàng phải làm đơn và trình ngân hàng phương án sử dụng vốn vay.
Ngân hàng sẽ phân tích khách hàng và kí hợp đồng cho vay, xác định





qui mô cho vay, thời hạn giải ngân, thời hạn trả nợ, lãi suất và yêu cầu đảm bảo nếu cần.
Mỗi món vay được tách biệt nhau thành các hồ sơ (khế ước nhận nợ) khách nhau.
Số lượng = Nhu cầu vốn cho _ Vốn chủ sở _ Các nguồn vốn
cho vay sản xuất kinh doanh hữu tham gia khác tham gia
Nếu cho vay dựa trên tài sản đảm bảo:
Số lượng = Giá trị tài sản * Tỷ lệ cho vay trên giá trị
cho vay đảm bảo tài sản đảm bảo
Theo từng kì hạn nợ trong hợp đồng, ngân hàng sẽ thu gốc và lãi. Trong quá trình khách
hàng sử dụng tiền vay, ngân hàng sẽ kiểm soát mục đích và hiệu quả sử dụng, nếu thấy có dấu
hiệu vi phạm hợp đồng, ngân hàng sẽ thu nợ trước hạn, hoặc chuyển nợ quá hạn. Lãi suất có
thể cố định hoặc thả nổi theo thời điểm tính lãi.
Nghiệp vụ cho vay từng lần tương đối đơn giản. Ngân hàng có thể kiểm soát từng món
vay tách biệt. Tiền cho vay dựa vào giá trị của tài sản đảm bảo.
1.4.2.3. Cho vay theo hạn mức
Đây là nghiệp vụ tín dụng theo đó ngân hàng thoả thuận cấp cho khách hàng hạn mức tín
dụng. Hạn mức tín dụng có thể tính cho cả kì hoặc cuối kì. Đó là số dư tối đa tại thời điểm
tính.
Hạn mức tín dụng được cấp trên cơ sở kế hoạch sản xuất kinh doanh, nhu cầu vốn và nhu
cầu vay vốn của khách hàng. Ngân hàng ước lượng hạn mức tín dụng
đối với các doanh nghiệp như sau (không kể các công ty tài chính, các tổ chức tín dụng):
Bước 1: Xác định dự trữ hợp lý cao nhất trong kì (hoặc cuối kì) trước
Dựa trên dự trữ thực tế cao nhất kì trước, loại trừ dự trữ bất hợp lý



Dự trữ cao Dự trữ Hàng kém phẩm chất, chậm
nhất hợp lý = thực tế _ luân chuyển, hàng không thuộc
trước kỳ cao nhất đối tượng cho vay của NH

Bước 2: Xác định dự trữ cao nhất hợp lý kì này



Dự trữ cao Tăng (-giảm) Tăng (-giảm) dự trữ
= nhất hợp lý + dự trữ do hàng + do kế hoạch tăng (giảm)
trước kỳ hoá tăng (giảm) sản lượng tiêu thụ
Bước 3: Xác định hạn mức tín dụng cao nhất trong kì
= Dự trữ cao nhất _ Vốn chủ sở hữu _ Các nguồn khác
hợp lý kì này tham gia dự trữ tham gia dự trữ
Mỗi lần vay khách hàng chỉ cần trình bày phương án sử dụng tiền vay, nộp các chứng từ
chứng minh đã mua hàng hoặc dịch vụ và nêu yêu cầu vay. Sau khi kiểm tra tính chất hợp
pháp và hợp lệ của chứng từ, ngân hàng sẽ phát tiền cho khách hàng.
1.4.2.4. Cho vay luân chuyển
Cho vay luân chuyển là nghiệp vụ cho vay dựa trên luân chuyển của hàng hoá. Doanh
nghiệp khi mua hàng có thể thiếu vốn. Ngân hàng có thể cho vay để mua hàng và sẽ thu nợ
khi doanh nghiệp bán hàng. Đầu năm hoặc quí,
người vay phải làm đơn xin vay luân chuyển. Ngân hàng và khách hàng thoả thuận với nhau
về phương thức vay, hạn mức tín dụng, các nguồn cung cấp hàng hoá và khả năng tiêu thụ.
Hạn mức tín dụng có thể được thoả thuận trong một năm hoặc vài năm. Đây không phải là
thời hạn hoàn trả mà là thời hạn để ngân hàng xem xét lại mối quan hệ với khách hàng và
quyết định có cho vay nữa hay không tuỳ mối quan hệ giữa ngân hàng với khách hàng cũng
như tình hình tài chính của khách hàng.


Việc cho vay dựa trên luân chuyển của hàng hoá nên cả ngân hàng lẫn doanh nghiệp đều phải
nghiên cứu kế hoạch luân chuyển hàng hoá để dự đoán dòng ngân quĩ trong thời gian tới.
1.4.2.5. Cho vay trả góp
Cho vay trả góp là hình thức tín dụng, theo đó ngân hàng cho phép khách hàng trả gốc
làm nhiều lần trong thời hạn tín dụng đã thoả thuận. Cho vay trả góp thường được áp dụng đối

với các khoản vay trung và dài hạn, tài trợ cho tài sản cố định hoặc tài sản lâu bền. Số tiền trả
mỗi lần được tính toán sao cho phù hợp với khả năng trả nợ (thường là từ khấu hao và thu
nhập sau thuế của dự án, hoặc từ thu nhập hàng kì của người tiêu dùng).



1.4.2.6. Cho vay gián tiếp
Phần lớn cho vay của ngân hàng là cho vay trực tiếp. Bên cạnh đó ngân hàng cũng phát
triển các hình thức cho vay gián tiếp. Đây là hình thức cho vay thông qua các tổ chức trung
gian như: nhóm sản xuất, Hội nông dân, Hội phụ nữ,
1.4.3. Cho thuê tài sản (thuê - mua)
1.4.3.1. Mục đích, ý nghĩa
Hoạt động chủ yếu của NHTM là cho vay để khách hàng mua tài sản. Tuy nhiên trong vài
trường hợp, khách hàng không đủ (hoặc chưa đủ) điều kiện để vay. Để mở rộng tín dụng,
NHTM đã mua các tài sản theo yêu cầu của khách
hàng để cho khách hàng thuê. Vì tài sản cho thuê thuộc sở hữu của ngân hàng nên ngân hàng
có thể thu hồi để bán hoặc cho người khách thuê khi người thuê không trả nợ được. Điều này
góp phần giảm bớt thiệt hại cho ngân hàng. Hoạt động cho thuê của NHTM chủ yếu là cho
thuê tài chính.
1.4.3.2. Nội dung
* Qui trình nghiệp vụ cho thuê như sau:
- Ngân hàng mua tài sản để cho thuê
- Ngân hàng mua tài sản của người đi thuê để cho thuê lại

Trong những trường hợp khách hàng có tài sản cố định song lại có nhu cầu mua nguyên
nhiên vật liệu. Khách hàng có thể bán tài sản cho ngân hàng (lấy tiền) với cam kết thuê lại tài
sản đó. Trong trường hợp này, ngân hàng phải thẩm định kỹ lại giá trị của tài sản, hiệu quả sử
dụng tài sản, thời gian thuê lại
- Ngân hàng thuê tài sản để cho thuê, hoặc mua trả góp tài sản để cho thuê
Tuỳ theo những yêu cầu cụ thể của người đi thuê với ngân hàng, hoặc giữa ngân hàng với

người cung cấp mà ngân hàng có thể đi thuê tài sản hoặc mua trả góp để cho thuê.
* Những vấn đề chủ yếu:
- Trong nghiệp vụ cho thuê, ngân hàng phải xuất tiền theo yêu cầu của khách hàng và sau
một thời gian nhất định phải thu đủ gốc và lãi. Tài sản cho thuê thường là tài sản cố định. Vì



vậy cho thuê được tính vào tín dụg trung và dài hạn. Khách hàng phải trả gốc và lãi dưới hình
thức tiền thuê hàng kì.
- Thời hạn cho thuê có thể gồm hai phần: Thời hạn cơ bản và thời hạn gia hạn thêm. Thời
hạn cơ bản là thời hạn người đi thuê không được phép huỷ hợp đồng; thời hạn gia hạn thêm là
thời hạn ngân hàng có thể cho người đi thuê tiếp tục thuê, hoặc người đi thuê mua lại, trả lại
tài sản. Đối với tài sản khó
bán, hoặc khó cho thuê lại, thời hạn cơ bản phải đảm bảo cho ngân hàng thu được gốc và lãi.
- Ngân hàng không cam kết cung cấp dịch vụ bảo dưỡng tài sản, không chịu trách nhiệm
về những thiệt hại đối với tài sản cho thuê.
- Lãi suất cho thuê thường cao do bao gồm chi phí tìm kiếm người cung cấp, chi phí dàn
xếp và phụ thuộc vào thời hạn thuê. Nếu thời gian thuê đảm bảo trả toàn bộ gốc và lãi, tiền
thuê trả hàng kì (gồm gốc và lãi) thấp hơn so với trong hợp đồng thuê mà người thuê chỉ trả
một phần gốc và lãi.



- Ngân hàng có quyền thu hồi tài sản nếu thấy người thuê không thực hiện đúng hợp
đồng, song đồng thời ngân hàng phải có trách nhiệm cung cấp đúng loại tài sản cần cho khách
hàng và phải bảo đảm về chất lượng của tài sản đó.
- Ngân hàng gặp rủi ro khi khách hàng kinh doanh không hiệu quả, không trả được tiền
thuê đầy đủ và đúng hạn. Nhiều tài sản cho thuê mang tính đặc chủng, khó bán, khó cho thuê
lại, khi thu hồi chi phí tháo dỡ cao, nên rủi ro cho thuê rất cao đối với ngân hàng. Do vậy,
khi cho thuê, ngân hàng phai tiến hành phân tích tín dụng đồng thời phân tích thị trường tài

sản cho thuê, đánh giá nhà cung cấp, lựa chọn các hình thức cho thuê thích hợp. Ngân hàng
yêu cầu người thuê phải mua bảo hiểm tài sản.
Ngân hàng có thể lập Phòng cho thuê hoặc Công ty cho thuê để thực hiện và quản lí hoạt
động cho thuê.
1.4.4. Bảo lãnh



Bảo lãnh của ngân hàng là cam kết của ngân hàng dưới hình thức thư bảo lãnh về việc
thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng của ngân hàng khi khách hàng không thực
hiện đúng nghĩa vụ như cam kết.
Bảo lãnh thường có 3 bên: Bên hưởng bảo lãnh, bên được bảo lãnh và bên bảo lãnh. Bảo
lãnh của ngân hàng có nghĩa ngân hàng là bên bảo lãnh; khách
hàng của ngân hàng là người được bảo lãnh; và người hưởng bảo lãnh là bên thứ ba.
2. Bảo lãnh trong ngân hàng
2.1. Khái niệm bảo lãnh
Bảo lãnh ngân hàng là cam kết bằng văn bản của tổ chức tín dụng (bên bảo lãnh) với bên
có quyền (bên nhận bảo lãnh) về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng (bên
được bảo lãnh) khi khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đã cam
kết với bên nhận bảo lãnh. Khách hàng phải nhận nợ và hoàn trả cho tổ chức tín dụng số tiền
đã được trả thay.

Cam kết bảo lãnh là cam kết đơn phương bằng văn bản của tổ chức tín dụng hoặc văn bản
thoả thuận giữa tổ chức tín dụng, khách hàng được bảo lãnh với bên nhận bảo lãnh về việc tổ
chức tín dụng sẽ thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng khi khách hàng không thực
hiện đúng nghĩa vụ đã cam kết với bên nhận bảo lãnh.
Hợp đồng bảo lãnh là văn bản thoả thuận giữa tổ chức tín dụng với khách hàng về quyền
lợi và nghĩa vụ củ các bên trong việc bảo lãnh và hoàn trả.
2.2. Bản chất và ý nghĩa
Bảo lãnh là một hình thức tài trợ của ngân hàng cho khách hàng, qua đó khách hàng có

thể tìm nguồn tài trợ mới, mua được hàng hoá hoặc thực hiện được các hoạt động sản xuất
kinh doanh nhằm thu lợi.
Bảo lãnh là hình thức tài trợ thông qua uy tín. Ngân hàng không phải xuất tiền ngay khai
bảo lãnh, như vậy bảo lãnh được coi như tài sản ngoại bảng. Tuy nhiên khi khách hàng không
thực hiện được cam kết, ngân hàng phải thực hiện nghĩa vụ chi trả cho bên thứ ba. Khoản chi
này được xếp vào loại tài sản “xấu” trong nội bảng, cấu thành nợ qua hạn. Chính vì vậy, bảo



lãnh cũng chứa đựng rủi ro như một khoản cho vay và đòi hỏi ngân hàng phân tích khách
hàng như khi cho vay.
Bảo lãnh của ngân hàng tạo mối liên kết trách nhiệm tài chính và san sẻ rủi ro. Trách
nhiệm tài chính trước hết phụ thuộc vào khách hàng, trách nhiệm của ngân hàng là thứ cấp khi
khách hàng không thực hiện nghĩa vụ với bên thứ ba. Do mối liên hệ giữa ngân hàng với
khách hàng có khả năng ràng buộc khách hàng phải thực hiện các cam kết. Bảo lãnh cũng góp
phần giảm bớt thiệt hại tài chính cho bên thứ ba khi tổn thất xảy ra.
Ngân hàng cố gắng tìm kiếm các khoản thu từ bảo lãnh nhằm bù đắp chi phí. Bảo lãnh
được tính theo tỉ lệ phần trăm trên số tiền bảo lãnh. Ngoài phí , ngân hàng có thể yêu cầu
khách hàng phải kí quĩ, tạo nguồn tiền thanh toán cho ngân

hàng với mức lãi suất rất thấp. Bảo lãnh cũng góp phần mở rộng các dịch vụ khác như kinh
doanh ngoại tệ, thanh toán, tư vấn
2.3. Chủ thể tham gia bảo lãnh
Bảo lãnh của ngân hàng thường có 3 bên tham gia: Bên bảo lãnh, bên được bảo lãnh, bên
nhận bảo lãnh.
* Bên bảo lãnh là các tổ chức tín dụng, bao gồm: Ngân hàng thương mại Nhà nước, ngân
hàng thương mại cổ phần, ngân hàng đầu tư, ngân hàng phát triển, ngân hàng chính sách,
ngân hàng liên doanh, chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam, ngân hàng hợp tác, các
loại hình ngân hàng khác và các tổ chức tín dụng phi ngân hàng thành lập và hoạt động theo
Luật Các tổ chức tín dụng (gọi chung là tổ chức tín dụng) được thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh

ngân hàng theo các qui định cảu pháp luật có liên quan và các qui định tại Quy chế bảo lãnh
ngân hàng.
* Bên được bảo lãnh là các khách hàng, bao gồm:
- Các doanh nghiệp đang hoạt động kinh doanh hợp pháp tại Việt Nam: Doanh nghiệp
Nhà nước; Công ty cổ phần; Công ty trách nhiệm hữu hạn;
Công ty hợp danh; Doanh nghiệp của các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội; Doanh
nghiệp liên doanh; Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam; Doanh nghiệp
tư nhân, hộ kinh doanh cá thể.



- Các tổ chức tín dụng được thành lập và hoạt động theo Luật Các tổ chức tín dụng.
- Hợp tác xã và các tổ chức khác có đủ điều kiện qui định tại Điều 94 của Bộ Luật Dân sự.
- Các tổ chức kinh tế nước ngoài tham gia các hợp đồng hợp tác liên doanh và tham gia
đấu thầu các dự án đầu tư tại Việt Nam hoặc vay vốn để thực hiện các dự án đầu tư tại Việt
Nam.


* Bên nhận bảo lãnh là các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước có quyền thụ hưởng các
cam kết bảo lãnh của tổ chức tín dụng.
2.4. Các hình thức bảo lãnh
2.4.1. Bảo lãnh dự thầu
Bảo lãnh dự thầu là một bảo lãnh ngân hàng do tổ chức tín dụng phát hành cho bên mời
thầu để đảm bảo nghĩa vụ tham gia dự thầu của khách hàng. Trường hợp khách hàng bị phạt
do vi phạm qui định dự thầu mà không nộp hoặc nộp không đủ tiền phạt cho bên mời thầu thì
ngân hàng sẽ thực hiện việc trả tiền phạt thay cho bên dự thầu.
Trong hoạt động kinh tế, rất nhiều hoạt động được thực hiện thông qua đấu thầu như đấu
thầu cung cấp thiết bị, xây dựng. Để tìm kiếm được các nhà thầu có đủ năng lực và hạn chế
những rủi ro khi nhà thầu vi phạm điều khoản tham gia dự thầu như trúng thầu song không
thực hiện hợp đồng, không kê khai đúng các yêu cầu của chủ đầu tư chủ đầu tư thường yêu

cầu bên dự thầu phải kí quĩ (đặt cọc) dự thầu. Nếu vi phạm, bên dự thầu sẽ mất quyền kí quĩ.
Do kí quĩ gây ra nhiều thủ tục phiền phức cho cả hai bên, đặc biệt làm đọng vốn của bên tham
gia dự thầu, nhiều chủ thầu yêu cầu thay thế tiền kí quĩ bằng bảo lãnh của ngân hàng.
2.4.2. Bảo lãnh thực hiện hợp đồng
Bảo lãnh thực hiện hợp đồng là một bảo lãnh ngân hàng do tổ chức tín dụng phát hành
cho bên nhận bảo lãnh bảo đảm việc thực hiện đúng, đầy đủ các nghĩa vụ của khách hàng với
bên nhận bảo lãnh theo hợp đồng đã kí kết. Trong trường hợp khách hàng vi phạm, gây tổn
thất cho bên thứ ba thì ngân hàng sẽ thực hiện việc chi trả tổn thất thay cho khách hàng.



Các hợp đồng được bảo lãnh như hợp đồng cung cấp hàng hoá, xây dựng, thiết kế Việc
khách hàng vi phạm hợp đồng như không cung cấp không đúng hạn, không đúng chất lượng
cam kết đều có thể gây tổn thất cho bên thứ ba.


Bảo lãnh của ngân hàng một mặt bù đắp một phần tổn thất cho bên thứ ba,mặt khác thúc đẩy
khách hàng nghiêm chỉnh thực hiện hợp đồng.
2.4.3. Bảo lãnh hoàn thanh toán
Bảo lãnh hoàn thanh toán là một bảo lãnh ngân hàng do tổ chức tín dụng phát hành cho
bên nhận bảo lãnh về việc bảo đảm nghĩa vụ hoàn trả tiền ứng trước của khách hàng theo hợp
đồng đã kí kết với bên nhận bảo lãnh. Trường hợp khách hàng vi phạm các cam kết với bên
nhận bảo lãnh và phải hoàn trả tiền ứng trước nhưng không hoàn trả hoặc hoàn trả không đủ
số tiền ứng trước cho bên nhận bảo lãnh thì ngân hàng sẽ hoàn trả số tiền ứng trước cho bên
nhận bảo lãnh.
Nhiều người cung cấp yêu cầu khách hàng (người mua hàng hoá dịch vụ) phải đặt trước
một phần tiền trong giá trị hợp đồng cung cấp. Tiền đặt cọc vừa giúp bên cung cấp có một
phần vốn để sản xuất kinh doanh, vừa có tác dụng ràng buộc người mua phải mua hàng đã
đặt. Tuy nhiên, đề phòng người cung cấp không cung cấp hàng đồng thời lại không trả tiền
đặt cọc, bên mua yêu cầu bên cung cấp phải có bảo lãnh của ngân hàng về việc sẽ trả tiền ứng

trước.
Vậy bảo lãnh bảo đảm hoàn trả tiền ứng trước là cam kết của ngân hàng về việc sẽ hoàn trả
tiền ứng trước cho bên mua (người hưởng bảo lãnh) nếu bên cung cấp (người được bảo lãnh)
không trả.
2.4.4. Bảo lãnh vay vốn
Bảo lãnh vay vốn là một bảo lãnh ngân hàng do tổ chức tín dụng phát hành cho bên nhận
bảo lãnh. Về việc cam kết trả nợ thay cho khách hàng trong trường hợp khách hàng không trả
nợ hoặc không trả nợ đầy đủ, đúng hạn.
Nhiêu tổ chức tín dụng khi cho vay đòi hỏi phải có đảm bảo hoặc bằng hàng hoá, chứng
khoán, bất động sản, hoặc bảo lãnh của người thứ ba Nhà nước, doanh nghiệp, tổ chức tín



dụng có nhu cầu vay vốn bằng cách phát hành trái phiếu song nếu uy tín của người vay trên
thị trường đó chưa cao, việc phát hành sẽ rất khó khăn. Điều đó nảy sinh nhu cầu bảo lãnh vay
vốn. Bảo lãnh là đảm bảo

hoàn trả vốn vay là cam kết của ngân hàng đối với người cho vay (tổ chức tín dung, các cá
nhân ) về việc sẽ trả gốc và lãi đúng hạn nếu khách hàng ( người đi vay) không trả được.
2.4.5. Bảo lãnh thanh toán
Bảo lãnh thanh toán là một bảo lãnh ngân hàng do tổ chức tín dụng phát hành cho bên
nhận bảo lãnh (người thụ hưởng) cam kết sẽ thanh toán tiền thay cho khách hàng nếu khách
hàng không thanh toán hoặc không thanh toán đủ.
2.4.6. Bảo lãnh đảm bảo chất lượng sản phẩm
Bảo lãnh đảm bảo chất lượng sản phẩm là một bảo lãnh ngân hàng do tổ chức tín dụng
phát hành cho bên nhận bảo lãnh bảo đảm khách hàng thực hiện đúng các thoả thuận về chất
lượng của sản phẩm theo hợp đồng đã kí kết với bên nhận bảo lãnh. Là cam kết của ngân
hàng về việc sẽ trả tiền phạt thay cho khách hàng nếu khách hàng vi phạm các thoả thuận
trong hợp đồng về chất lượng sản phẩm.
2.4.7. Bảo lãnh đối ứng

Bảo lãnh đối ứng là một bảo lãnh của ngân hàng do tổ chức tín dụng (bên phát hành bảo
lãnh đối ứng) phát hành cho một tổ chức tín dụng khác (bên bảo lãnh) về việc đề nghị bên bảo
lãnh thực hiện bảo lãnh cho các nghĩa vụ của khách hàng của bên phát hành bảo lãnh đối ứng
với bên nhận bảo lãnh. Trường hợp khách hàng vi phạm các cam kết với bên nhận bảo lãnh,
bên bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh thì bên phát hành bảo lãnh đối ứng phải thực
hiện nghĩa vụ bảo lãnh đối ứng cho bên bảo lãnh.
Ngoài ra, còn các loại bảo lãnh khác
2.5. Điều kiện bảo lãnh
Tổ chức tín dụng xem xét và quyết định bảo lãnh khi khách hàng có đủ các điều kiện sau:
- Có đầy đủ năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự theo quy định của pháp
luật.




- Có tín nhiệm trong quan hệ tín dụng thanh toán với tổ chức tín dụng.
- Có bảo đảm hợp pháp cho nghĩa vụ được bảo lãnh:
* Căn cứ vào đặc điểm của tình hình sản xuất kinh doanh, khả năng tài chính và uy tín
của khách hàng, tổ chức tín dụng và khách hàng thoả thuận áp dụng hoặc không áp dụng các
biện pháp bảo đảm cho bảo lãnh. Các hình thức bảo đảm cho bảo lãnh bao gồm: ký quĩ, cầm
cố tài sản, thế chấp tài sản, bảo lãnh của bên thứ ba và các biện pháp bảo đảm khác theo yêu
cầu của pháp luật.
*Việc dùng tài sản hình thành từ vốn vay để bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ bảo
lãnh (đối với bảo lãnh vay vốn) hoặc không áp dụng hình thức bảo đảm bằng tài sản cho việc
thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh thực hiện theo Nghị định số 178/1999/NĐ-CP ngày 29/12/1999
của Chính phủ về bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng và các văn bản hướng dẫn Nghị
định này.
- Có dự án đầu tư hoặc phương án sản xuất kinh doanh khả thi, hiệu quả khi đề nghị bảo
lãnh vay vốn.
- Đối với trường hợp bảo lãnh hối phiếu, lệnh phiếu khách hàng phải bảo đảm các điều

kiện theo quy định của pháp luật về thương phiếu.
- Trong trường hợp vay vốn nước ngoài khách hàng phải thực hiện đúng các quy định của
pháp luật về quản lý vay và trả nợ nước ngoài.
- Khách hàng là các tổ chức kinh tế nước ngoài được đầu tư, kinh doanh hoặc được tham
gia đấu thầu tạih Việt Nam theo các quy định của pháp luật Việt Nam.
2.6. Qui trình bảo lãnh của ngân hàng






Hình 1: Bảo lãnh của ngân hàng




Ngân hàng (bên bảo lãnh)

(4) (3)
(1) (2)
Khách hàng của ngân hàng (5) Người thứ ba (bên
(bên được bảo lãnh) hưởng bảo lãnh)

(1) Khách hàng làm đơn xin được bảo lãnh gửi ngân hàng. Ngân hàng sẽ thực hiện phân
tích khách hàng để tìm hiểu về yêu cầu của bảo lãnh cũng như mức độ rủi ro. Nếu đồng ý,
ngân hàng và khách hàng sẽ kí hợp đồng bảo lãnh và phát hành thư bảo lãnh.
(2) Ngân hàng (hoặc khách hàng) thông báo về thư bảo lãnh cho bên thứ ba.
(3) Theo như đã thoả thuận với khách hàng và bên thứ ba, ngân hàng thực hiện nghĩa vụ
bảo lãnh với bên thứ ba nếu nghĩa vụ đó xảy ra.

(4) theo như hợp đồng bảo lãnh đã kí với khách hàng, ngân hàng yêu cầu với khách hàng
phải thực hiện các nghĩa vụ tài chính đối với ngân hàng (trả nợ gốc,lãi, hoặc phí).
(5) Khách hàng kí hợp đồng với bên thứ ba về thanh toán, về xây dựng, hay vay vốn Bên
thứ ba yêu cầu phải có bảo lãnh của ngân hàng.
Bước 1. Khách hàng làm đơn xin được bảo lãnh gửi ngân hàng ghi rõ số tiền, điều kiện
bảo lãnh. Ngân hàng phân tích khách hàng, hợp đồng kinh tế giữa khách hàng và bên thứ ba,
yêu cầu bảo lãnh của bên thứ ba. Qua đó, ngân hàng xác định rủi ro và các biện pháp phòng
ngừa.
Bước 2. Kí hợp đồng bảo lãnh với khách hàng

Hợp đồng bảo lãnh là hợp đồng độc lập với hợp đồng kinh tế giữa khách hàng và ngân
hàng thể hiện ràng buộc tài chính giữa ngân hàng và bên thứ ba. Nội dung chính của hợp đồng
như sau:
- Số tiền và thời hạn bảo lãnh của ngân hàng
- Các điều khoản vi phạm hợp đồng kinh tế dẫn đến nghĩa vụ chi trả của ngân hàng



- Các tài liệu cần thiết mà bên thứ ba cần có để chứng minh sự vi phạm hợp đồng của bên
được bảo lãnh
- Hình thức bảo lãnh
- Phí bảo lãnh, số tiền kí quĩ hoặc tài sản đảm bảo cho bảo lãnh mà khách hàng phải thực
hiện đối với ngân hàng
- Trách nhiệm trả nợ cho ngân hàng khi ngân hàng phải thực hiện nghĩa vụ với bên thứ ba
Bước 3. Hình thức bảo lãnh
Ngân hàng có thể thực hiện bảo lãnh dưới các hình thức sau:
- Phát hành thư bảo lãnh, xác nhận bảo lãnh.
- Kí xác nhận bảo lãnh trên các hối phiếu, lệnh phiếu (kí hối phiếu, lệnh phiếu nhận nợ)
- Mở thư tín dụng
- Các hình thức khác theo qui định của pháp luật

Lựa chọn hình thức nào là tuỳ thuộc chủ yếu vào yêu cầu của bên thứ ba. Để hạn chế rủi
ro, bên thứ ba có thể yêu cầu đích danh ngân hàng bảo lãnh và hình thức bảo lãnh. Phát
hành thư bảo lãnh có thể áp dụng cho mọi loại bảo lãnh, bảo lãnh thanh toán được thực hiện
dưới hình thức mở thư tín dụng (bảo lãnh mở L/C trả chậm). Độ an toàn của hình thức này
rất cao do tính pháp lí quốc tế của L/C. Bảo lãnh vay vốn (thường vay của các tổ chức tín
dụng nước ngoài) được

thực hiện dưới hình thức kí phát hối phiếu: Thư bảo lãnh kèm theo hối phiếu trả tiền đã được
ngân hàng kí với ngày trả tiền đúng vào ngày khách hàng phải trả cho bên thứ ba.
Kết luận: Thông qua nghiệp vụ tín dụng gồm chiết khấu, cho vay, bảo lãnh, cho thuê,
ngân hàng góp phần tài trợ vốn của khách hàng. Các nghiệp vụ tín dụng đa dạng nhằm phù
hợp với quá trình luân chuyển vốn và chu kì thu nhập của khách hàng.
2.7. Đồng bảo lãnh
Đồng bảo lãnh là việc nhiều tổ chức tín dụng cùng bảo lãnh cho một nghĩa vụ của khách
hàng thông qua một tổ chức tín dụng làm đầu mối.
Đồng bảo lãnh tạo độ an toàn cao cho các khoản nợ, phân tán được rủi ro. Trách nhiệm
và quyền hạn của các bên tham gia đồng bảo lãnh là như nhau đối với các khoản nợ.



Ngân hàng tham gia đồng bảo lãnh với tư cách là thành viên hoặc là đầu mối phát hành
bảo lãnh.Với tư cách là đầu mối khi số tiền bảo lãnh vượt mức uỷ quyền của Tổng giám đốc
ngân hàng đó hoặc vượt mức 15% vốn tự có của ngân hàng, hoặc ngân hàng có yêu cầu để
phân tán rủi ro. Với tư cách là thành viên thì ngân hàng cần phải kiểm tra năng lực tài chính
của các thành viên tham gia đồng bảo lãnh.
2.8. Bảo đảm bảo lãnh
Căn cứ vào đặc điểm của tình hình sản suất kinh doanh, khả năng tài chính và uy tín của
khách hàng, tổ chức tín dụng và khách hàng thoả thuận áp dụng hoặc không áp dụng các biện
pháp bảo đảm cho bảo lãnh. Các hình thức bảo đảm cho bảo lãnh gồm: kí quĩ, cầm cố tài sản,
thế chấp tài sản, bảo lãnh của bên thứ ba và các biện pháp bảo đảm khác theo quy định của

pháp luật.


Việc dùng tài sản hình thành từ vốn vay để bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh
(đối với bảo lãnh vay vốn) hoặc không áp dụng hình thức bảo đảm bằng tài sản cho việc thực
hiện nghĩa vụ bảo lãnh thực hiện theo Nghị định số 178/1999/NĐ-CP ngày 29/12/1999 của
Chính phủ về bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng và các văn bản hướng dẫn nghị định
này.
2.9. Quyền và nghĩa vụ của ngân hàng bảo lãnh
* Ngân hàng bảo lãnh có quyền:
- Đề nghị tổ chức tín dụng khác xác nhận việc bảo lãnh của mình đối với khách hàng
- Chấp nhận hoặc từ chối đề nghị bảo lãnh của khách hàng hoặc của tổ chức tín dụng phát
hành bảo lãnh đối ứng trong thời hạn tối đa là 45 ngày kể từ ngày nhận đủ hồ sơ đề nghị bảo
lãnh
- Yêu cầu khách hàng cung cấp các tài liệu về khả năng tài chính cũng như các tài liệu
liên quan đến giao dịch bảo lãnh, báo cáo tình hình sản suất kinh doanh, báo cáo tình hình
thực hiện các hợp đồng và các nghĩa vụ có liên quan đến giao dịch bảo lãnh
- Yêu cầu khách hàng có bảo đảm cho nghĩa vụ được bảo lãnh
- Thu phí bảo lãnh theo thoả thuận



- Yêu cầu khách hàng hoặc bên phát hành bảo lãnh đối ứng hoàn trả số tiền bảo lãnh mà
tổ chức tín dụng đã trả thay
- Hạch toán ghi nợ khách hàng hoặc bên phát hành bảo lãnh đối ứng số tiền mà tổ chức tín
dụng đã trả thay để thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh, nếu sau 15 ngày kể từ ngày tổ chức tín dụng
trả thay mà khách hàng hoặc bên phát hành đối ứng không nhận nợ.
- Xử lí tài sản đảm bảo của khách hàng theo quy định tại Nghị định số 178/1999/NĐ-CP
ngày 29/12/1999 của Chính phủ và các văn bản hướng dẫn Nghị định này.


- Khởi kiện theo qui định của pháp luật khi khách hàng, bên phát hành bảo lãnh đối ứng vi
phạm hợp đồng bảo lãnh.
- Có thể chuyển nhượng quyền, nghĩa vụ của mình cho tổ chức tín dụng khác nếu được
bên nhận bảo lãnh chấp thuận bằng văn bản.
* Ngân hàng bảo lãnh có nghĩa vụ:
- Thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh theo cam kết bảo lãnh
- Đôn đốc khách hàng thực hiện đầy đủ và đúng nghĩa vụ đã cam kết với bên nhận bảo
lãnh.
- Hoàn trả đầy đủ tài sản bảo đảm (nếu có) và các giấy tờ có liên quan cho khách hàng khi
khách hàng đã thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ đối với bên nhận bảo lãnh.
2.10. Quyền và nghĩa vụ của khách hàng trong hoạt động bảo lãnh
* Khách hàng có quyền:
- Yêu cầu tổ chức tín dụng thực hiện đúng cam kết với bên nhận bảo lãnh
- Yêu cầu tổ chức tín dụng thực hiện đúng thởa thuận trong hợp đồng bảo lãnh
- Khởi kiện theo quy đinh của pháp luật nếu tổ chức tín dụng vi phạm hợp đồng bảo lãnh
- Có thể chuyển nhượng quyền, nghĩa vụ của mình cho bên khác có đủ điều kiện bảo lãnh
nếu bên được bảo lãnh, bên nhận bảo lãnh chấp thuận bằng văn bản.
* Khách hàng có nghĩa vụ:
- Cung cấp đầy đủ, chính xác và trung thực tài liệu và báo cáo có liên quan đến giao dịch
được bảo lãnh theo yêu cầu của tổ chức tín dụng bảo lãnh hoặc tổ chức tín dụng phát hành
bảo lãnh đối ứng.






- Trả cho tổ chức tín dụng bảo lãnh có tổ chức tín dụng xác nhận bảo lãnh, tổ chức tín
dụng phát hành bảo lãnh đối ứng phí bảo lãnh và các loại phí khác có liên quan theo thoả
thuận.

- Nhận nợ và hoàn trả cho tổ chức tín dụng bảo lãnh hoặc tổ chức tín dụng phát hành bảo
lãnh đối ứng, tổ chức tín dụng xác nhận bảo lãnh số tiền đã trả thay để thực hiện nghĩa vụ bảo
lãnh cho khách hàng bao gồm cả gốc, lãi và các chi phí trực tiếp phát sinh từ việc thực hiện
bảo lãnh.
- Thực hiện đúng và đầy đủ nghĩa vụ đã cam kết với bên nhận bảo lãnh, tổ chức tín dụng
bảo lãnh hoặc tổ chức tín dụng phát hành bảo lãnh đối ứng.
- Chịu sự kiểm tra, kiểm soát của tổ chức tín dụng bảo lãnh hoặc tổ chức tín dụng phát
hành bảo lãnh đối ứng với các hoạt động có liên quan đến giao dịch được bảo lãnh.
2.11.Thời hạn bảo lãnh
Thời hạn bảo lãnh được xác định căn cứ vào thời hạn thực hiện các cam kết giữa khách
hàng với bên nhận bảo lãnh
Việc gia hạn bảo lãnh phải được bên nhận bảo lãnh chấp thuận bằng văn bản.











×