MỞ ĐẦU
Loài người đã trải qua hai nền văn minh và ngày nay, chúng ta đang đứng trước
ngưỡng cửa của nền văn minh thứ ba -văn minh trí tuệ, văn minh hậu công nghiệp
hay làn sóng thứ ba. Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ đặc biệt là công
nghệ thông tin, vật liệu mới, phỏng sinh học, vũ trụ, hàng không, cùng với những
thành tựu về công nghệ sinh học: công nghệ gen, nhân bản vô tính đang tác động
mạnh mẽ, sâu sắc làm đảo lộn toàn bộ nền kinh tế thế giới và toàn bộ xã hội loài
người đưa con người đi vào thời đại kinh tế tri thức. Rất nhiều nước trên thế giới đều
có tăng trưởng kinh tế từ tri thức. Việt Nam vẫn đang là một trong những nước nghèo
và kém phát triển so với khu vực và trên thế giới. Do đó phát triển kinh tế là chiến
lược cấp bách hàng đầu. Hơn nữa chúng ta đang trên con đường tiến hành công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước nên không thể không đặt mình vào tri thức, phát
triển tri thức để đưa nền kinh tế nước nhà bắt kịp và phát triển cùng thế giới.
Kinh tế tri thức mới xuất hiện cùng với sự phát triển của cuộc cách mạng khoa
học và công nghệ hiện đại của những thập niên gần đây. Sự ra đời và phát triển kinh
tế tri thức tác động mạnh mẽ đến mội quốc gia dân tộc, mọi hoạt động xã hội. Sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta gắn liền với sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước và phát triển nền quốc phòng toàn dân - an ninh nhân dân đang
phải đối mặt trực tiếp với những thuận lợi và khó khăn của sự phát triển kinh tế tri
thức. Nghiên cứu kinh tế tri thức và tác động của nó đói với quốc phòng – an ninh
nước ta hiện nay có ý nghĩa to lớn cả về lý luận và thực tiễn. Chính vì vậy bản thân
chọn đề tài; “Đặc điểm của kinh tế tri thức và tác động của kinh tế tri thức đến
quốc phòng an ninh ở nước ta” làm chủ đề thu hoạch.
Trên thế giới hiện nay vẫn đang tồn tại nhiều cách hiểu khác nhau về kinh tế tri
thức, có thể phân loại một cách tương đối các cách hiểu khác nhau về kinh tế tri thức;
Cách hiểu kinh tế tri thức dựa trên khía cạnh hẹp về tri thức. Đó là; hiểu "tri thức"
với nghĩa hẹp, tức đồng nghĩa tri thức với khoa học và công nghệ, hoặc đôi khi còn
coi "tri thức" chủ yếu là cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, trong đó 4
công nghệ trụ cột là công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới,
công nghệ không gian vũ trụ. Thứ hai, cách tiếp cận ngành đã tách biệt nền kinh tế
quốc dân thành hai bộ phận là khu vực kinh tế tri thức và khu vực kinh tế cũ.
Theo quan niệm này khu vực kinh tế tri thức bao gồm các ngành được gọi là
các ngành dựa trên tri thức. Hai khu vực kinh tế này hoạt động với những cơ chế, qui
luật và kết quả khác hẳn nhau. Nền kinh tế tri thức phát triển tới trình độ càng cao khi
các ngành kinh tế dựa trên tri thức chiếm phần ngày càng lớn trong nền kinh tế. Có
hai cột mốc cho thấy nền kinh tế đã chuyển sang giai đoạn kinh tế tri thức.
Một là, tỷ trong của khu vực công nghiệp và nông nghiệp lên đến điểm cực đại
và ngày càng giảm đi. Điểm mốc này đã xuất hiện ở các nước tiên tiến nhất cách đây
khoảng 30 năm. Hai là, tỷ trọng của các ngành dựa trên tri thức lớn hơn 70% (theo
phân loại của OECD 1996).
Thứ hai, cách tiếp cận rộng. Cách tiếp cận này dựa trên cách hiểu rộng về tri
thức: Tri thức bao gồm mọi hiểu biết của con người đối với bản thân và thế giới.
OECD đã phân ra 4 loại tri thức quan trọng là biết cái gì, biết tại sao, biết như thế
nào, biết ai. Kinh tế tri thức không chỉ có nguồn gốc từ sự tiến bộ vượt bậc của các
công nghệ mới mà là kết quả tập hợp của ba nhóm nguyên nhân trực tiếp tác động
tương tác lẫn nhau bao gồm tiến bộ khoa học kỹ thuật; nền kinh tế toàn cầu hoá và
cạnh tranh quyết liệt; và các biến đổi văn hoá, chính trị, tư tưởng của chủ nghĩa tư
bản hiện đại. Cách tiếp cận nà cũng có hai nhánh tiếp cận tương tự nhau:
Từ khía cạnh lực lượng sản xuất: Kinh tế tri thức là trình độ phát triển cao của
lực lượng sản xuất. Cách hiểu này nhấn mạnh kinh tế tri thức chỉ là một nấc thang
phát triển của lực lượng sản xuất, không liên quan tới một hình thái kinh tế - xã hội
mới. Từ khía cạnh sự đóng góp của tri thức vào phát triển kinh tế. Cách quan niệm
này diễn giải định nghĩa của OECD đã nêu ở trên theo đúng nghĩa đen của nó, tức là
tri thức hay cụ thể hơn là những hoạt động sản xuất, truyền bá và sử dụng tri thức, đã
vượt qua vốn và lao động để trở thành nguồn lực chi phối mọi hoạt động tạo ra của
cải trong nền kinh tế tri thức. Trong đó tri thức là một khái niệm rất rộng bao trùm
mọi hiểu biết của con người.
Thứ ba, cách tiếp cận bao trùm. Theo cách tiếp cận này kinh tế tri thức thực
chất lf một loại môi trường kinh tế - văn hoá - xã hội mới có những đặc tính phù hợp
và tạo điều kiện thuận lợi nhất cho việ học hỏi, đổi mới và sáng tạo. Trong môi
trường đó, tri thức tất yếu trở thành nhân tố sản xuất quan trọng nhất đóng góp vào sự
phát triển kinh tế và hàm lượng tri thức được nâng cao trong mọi hoạt động kinh tế,
văn hoá, xã hội. Do vậy cốt lõi của việc phát triển một nền kinh tế tri thức, không chỉ
đơn thuần là phát triển khoa học - công nghệ mà là phát triển một nền văn hoá đổi
mới, sáng tạo thể hiện trong cách nghĩ, cách làm của mọi tác nhân kinh tế, xã hội để
tạo thuận lợi nhất cho việc sản xuất, khai thác và sử dụng mọi tri thức, mọi loại hiểu
biết của loài người, cũng như xây dựng và phổ biến các năng lực tri thức nội sinh.
Xét theo nghĩa này, kinh tế tri thức có thể được hiểu như một giai đoạn phát triển mới
của toàn bộ nền kinh tế, hoặc nói rộng hơn điều này sẽ dẫn tới một giai đoạn phát
triển mới của xã hội nói chung. Cách tiếp cận của Việt Nam về kinh tế tri thức
Ở Việt nam, từ cuối những năm 90 của thế kỷ trước, vấn đề kinh tế tri thức đã
được giới các nhà khoa học, những người hoạch định chính sách, các nhà quản lý đưa
ra bàn luận. Kinh tế tri thức được nhìn nhận dưới nhiều góc độ khác nhau.
Có người dẫn lời Các Mác nói rằng, khi hàm lượng cơ bắp trong sản phẩm do
con người làm ra giảm đến mức cực nhỏ thì lúc đó sẽ xuất hiện giai cấp công nhân
khoa học. Và cho rằng điều đó đang được chứng minh trong nền kinh tế tri thức.
Thực ra, không cần phải đến kinh tế tri thức mới xuất hiện giai cấp công nhân khoa
học của Mác. Trong nhiều ngành công nghiệp hiện đại được tự động hóa hoàn toàn
như sản xuất xe ô tô, sản xuất linh kiện điện tử, sản xuất hóa chất hàm lượng cơ bắp
đã được giảm đến mức thấp nhất ngay từ khi chưa xuất hiện khái niệm kinh tế tri thức
Cũng có những ý kiến đánh đồng kinh tế tri thức với một số ngành kinh tế
thường được gọi là ngành kinh tế mới như Kinh tế Internet, hay Công nghệ tin học và
truyền thông, để từ đó cho rằng kinh tế tri thức là nền kinh tế dựa vào tri thức, trong
đó kinh tế Internet trở thành nội dung chủ yếu trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
Nhưng rõ ràng là, bất kỳ ngành sản xuất kinh doanh nào cũng phải dựa vào tri thức
và nền kinh tế Internet cũng chỉ là một trong những ngành kinh doanh, tuy đóng một
vai trò ngày càng quan trọng, nhưng không thể trở thành một ngành kinh doanh độc
lập mang tính quyết định cho một nền kinh tế được. Sự sụp đổ của hàng loạt công ty
kinh doanh Internet (cả của các công ty kinh doanh Tin học và Truyền thông) hiện
nay có thể sẽ giúp chúng ta thận trọng hơn, phân biệt rõ hơn khái niệm và vai trò của
các ngành kinh doanh với một nền kinh tế.
Nhiều hội thảo đã bàn đến không ít các định nghĩa khác nhau về kinh tế tri
thức, tuy nhiên trong các văn bản chính thức của đảng và nhà nước, chưa có văn bản
nào nêu ra định nghĩa về kinh tế tri thức. Mặc dù vậy trong số các định nghĩa về kinh
tế tri thức được bàn đến, dường như có một định nghĩa nổi lên và được công nhận bởi
nhiều người. Đó là định nghĩa của OECD và APEC nêu ra năm 2000. Định nghĩa
rằng: " Kinh tế tri thức là nền kinh tế trong đó sự sản sinh ra, truyền bá và sử dụng tri
thức là động lực chủ yếu nhất của sự tăng trưởng, tạo của cải, tạo việc làm trong tất
cả các ngành kinh tế".
Tiêu chí của nền kinh tế tri thức được biểu hiện qua hai nhóm: nhóm tiêu chí về
cấu trúc kinh tế và nhóm tiêu chí xã hội.
Các tiêu chí phản ánh nền kinh tế tri thức. Thứ nhất, nhóm tiêu chí về cấu trúc
kinh tế. Lực lượng sản xuất và tư liệu sản xuất là hai nhóm yếu tố tác động tới tiến
trình phát triển của một quốc gia. Lực lượng sản xuất xã hội bao gồm người lao động,
công cụ lao động và đối tượng lao động. Trong nền kinh tế tri thức, khoa học kỹ thuật
tiến bộ được thể hiện trong cả ba yếu tố của lực lượng sản xuất. Dĩ nhiên, trong các
yếu tố của lực lượng sản xuất, con người là yếu tố “động nhất”, quan trọng nhất.
Tư liệu sản xuất thay đổi, phù hợp với từng xã hội. Trong xã hội nông
nghiệp, đất đai là tư liệu sản xuất quan trọng nhất; trong xã hội công nghiệp, công
xưởng và nguyên liệu thay thế đất đai. Còn trong xã hội thông tin, cơ sở hạ tầng
thông tin và nguồn tài nguyên tin tức sẽ là tư liệu sản xuất quan trọng nhất. Để xây
dựng và phát triển thành nền kinh tế tri thức cần phải đầu tư và phát triển bốn cột trụ
quan trọng của nó: công nghệ cao; nhân lực chất lượng cao; cơ sở hạ tầng thông tin
và nguồn tài nguyên tin tức; thị trường.
Thông tin thống kê phản ánh cấu trúc kinh tế của nền kinh tế tri thức nên chia
thành hai nhóm: nhóm chỉ tiêu phản ánh ở tầm vĩ mô và nhóm chỉ tiêu phản ánh tầm vi
mô. Đối với tầm vĩ mô bao gồm các chỉ tiêu: chi cho nghiên cứu và triển khai các
công trình khoa học vào thực tiễn so với tổng chi ngân sách nhà nước; chi mua và
nhận chuyển giao công nghệ so với tổng chi ngân sách nhà nước; chi cho đào tạo
nguồn nhân lực chất lượng cao so với tổng chi cho giáo dục của toàn xã hội; năng
suất nhân tố tổng hợp (TFP),v.v…
Đối với tầm vi mô bao gồm các chỉ tiêu: chi cho nghiên cứu và triển khai các
công trình khoa học vào thực tiễn so với tổng vốn đầu tư của khu vực doanh nghiệp;
tỷ lệ cán bộ làm nghiên cứu và triển khai công nghệ của khu vực doanh nghiệp so với
tổng số lao động của khu vực doanh nghiệp; số lượng máy tính dùng trong khu vực
doanh nghiệp,v.v…
Thứ hai, nhóm tiêu chí về xã hội. Từ định nghĩa của nền kinh tế tri thức, có
thể khẳng định tri thức và thông tin là hai yếu tố then chốt và nó quyết định bản chất
xã hội của nền kinh tế này - đó là “xã hội thông tin”. Xã hội thông tin đòi hỏi năm
điều kiện sau đây:
- Cơ cấu sức lao động có sự thay đổi căn bản, những người làm công tác
thông tin chiếm hơn 50% tổng số người đang làm việc;
- Trong tổng giá trị sản xuất của nền kinh tế, kinh tế thông tin chiếm hơn
50%;
- Công nghiệp thông tin phát triển đầy đủ, xây dựng được mạng lưới
thông tin tiên tiến;
- Thông tin hóa đời sống xã hội;
- Tri thức trở thành nguồn tài nguyên to lớn và động lực thúc đẩy chủ yếu cho
xã hội phát triển.
Năm điều kiện của xã hội thông tin gợi cho các nhà Thống kê đưa ra hệ thống
chỉ tiêu để phản ánh, đo lường nền kinh tế tri thức qua các chỉ tiêu về lao động như:
tỷ lệ lao động làm công tác thông tin so với tổng số lao động đang làm việc trong nền
kinh tế, tỷ lệ lao động trí óc so với lao động chân tay; các chỉ tiêu về tiếp cận, sử
dụng và thụ hưởng thông tin trong đời sống hằng ngày của dân cư.
Để phát triển đất nước theo hướng nền kinh tế tri thức, việc hoạch định chính
sách của Chính phủ đóng vai trò quan trọng. Kinh nghiệm của Hàn Quốc trong phát
triển năng lực công nghệ của đất nước thực hiện qua ba giai đoạn: giai đoạn bắt
chước sao chép công nghệ; giai đoạn bắt chước sáng tạo công nghệ (hai giai đoạn này
các tri thức cần có có thể sao chép hoặc mua) và giai đoạn đổi mới công nghệ (giai
đoạn phát minh). Đi cùng với chính sách của Chính phủ, ngành Thống kê nên chủ
động nghiên cứu, đưa ra các thông tin thống kê phục vụ kịp thời cho nhu cầu quản lý
và phát triển.
Một số chỉ tiêu thống kê phản ánh nền kinh tế tri thức. Một là, các chỉ tiêu vĩ
mô
- Chi nghiên cứu và triển khai các công trình khoa học vào thực tiễn so với tổng chi
ngân sách nhà nước;
- Chi cho đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao so với tổng chi cho giáo dục của
toàn xã hội;
- Tỷ lệ vốn đầu tư cho lĩnh vực công nghệ thông tin so với tổng vốn đầu tư;
- Giá trị chuyển giao công nghệ so với tổng chi ngân sách nhà nước;
- Tỷ lệ doanh thu của ngành công nghệ thông tin so với tổng giá trị sản xuất của nền
kinh tế;
- Tỷ lệ doanh thu bán phần mềm so với tổng doanh thu của khu vực doanh nghiệp
trong nền kinh tế;
- Tỷ lệ giá trị tăng thêm của các ngành thông tin so với tổng sản phẩm trong nước;
- Tỷ lệ của sản nghiệp tri thức so với tổng giá trị tài sản của nền kinh tế;
- Năng suất nhân tố tổng hợp (TFP);
- Hệ số đổi mới tài sản cố định;
- Nhân tố đầu ra của ngành văn hóa, du lịch văn hóa, du lịch tri thức đối với các
ngành sản xuất vật chất và tiêu dùng của dân cư;
- Tỷ lệ lao động làm công tác thông tin so với tổng số lao động đang làm việc trong
nền kinh tế;
- Tỷ lệ lao động trí óc so với lao động chân tay;
- Số lượng các đơn vị khoa học công nghệ trong nền kinh tế.
Thứ hai, các chỉ tiêu vi mô
- Chi cho nghiên cứu và triển khai các công trình khoa học vào thực tiễn so với
tổng vốn đầu tư của khu vực doanh nghiệp;
- Tỷ lệ cán bộ làm nghiên cứu và triển khai công nghệ của khu vực doanh
nghiệp so với tổng số lao động của khu vực doanh nghiệp;
- Số máy tính dùng trong khu vực doanh nghiệp;
- Tỷ lệ doanh nghiệp có Website và truy cập internet;
- Tỷ lệ dân cư truy cập internet so với tổng dân số;
- Tỷ lệ dân cư tham gia hoạt động thương mại điện tử so với tổng dân số;
- Số điện thoại thuê bao tính cho 1000 dân;
- Các chỉ tiêu về tiếp cận, sử dụng và thụ hưởng thông tin trong đời sống hằng
ngày của dân cư.
Có thế khái quát một số đặc điểm của kinh tế tri thức như sau; Thứ nhất, tri
thức trở thành nhân tố chủ yếu nhất của nền kinh tế. Vốn quý nhất trong nền kinh tế
tri thức là tri thức. Tri thức là nguồn lực hàng đầu tạo sự tăng trưởng. Không phải
như các nguồn lực khác bị mất đi khi sử dụng, tri thức và thông tin có thể được chia
sẻ và trên thực tế lại tăng lên khi sử dụng.
Trong kinh tế tri thức, của cải tạo ra dựa vào tri thức nhiều hơn là dựa vào tài
nguyên thiên nhiên và sức lao động cơ bắp, tuy nhiên vốn và các nguồn lực khác vẫn
là những yếu tố rất cơ bản. Kinh tế tri thức được đặc trưng bởi sự chuyển dịch cơ cấu
kinh tế theo hướng phát triển ngày càng mạnh các ngành kinh tế có giá trị gia tăng
cao dựa nhiều vào tri thức: đó là các ngành công nghiệp công nghệ thông tin, công
nghiệp công nghệ cao, các ngành dịch vụ dựa vào sử lý thông tin, tài chính ngân
hàng, giáo dục đào tạo, nghiên cứu phát triển công nghệ và ứng dụng trực tiếp để tạo
ra sản phẩm.
Hai là, kinh tế tri thức có tốc độ hoạt động và đổi mới nhanh. Trong nền kinh tế
công nghiệp, nâng cao năng lực cạnh tranh chủ yếu là bằng cách tối ưu hoá, tức là
hoàn thiện cái đã có để giảm chi phí sản xuất; còn trong kinh tế tri thức thì quyết định
năng lực cạnh tranh chủ yếu là sự sáng tạo ra cái mới có chất lượng cao hơn, thời
gian đi tới tiêu dùng nhanh hơn. Kinh tế phát triển là do sáng tạo, không ngừng đổi
mới công nghệ, đổi mới sản phẩm. Vòng đời công nghệ và vòng đời sản phẩm từ lúc
mới nảy sinh phát triển, chín muồi đến tiêu vong ngày càng rút ngắn; tốc độ đổi mới
của các doanh nghiệp và của toàn bộ nền kinh tế ngày càng nhanh. Do đó kinh tế tri
thức có tốc độ hoạt động rất nhanh. Làm việc và kinh doanh theo tốc độ của tư duy.
Trong kinh tế tri thức, sáng tạo trở thành động lực chủ yếu của phát triển.
Thứ hai là sản xuất công nghệ trở thành loại hình sản xuất quan trọng nhất, tiên
tiến nhất, tiêu biểu nhất của nền sản xuất tương lai. Các ngành kinh tế tri thức đều
phải dựa vào công nghệ mới để đổi mới và phát triển. Các doanh nghiệp đều có sản
xuất công nghệ, đồng thời có nhiều doanh nghiệp chuyên sản xuất công nghệ, có thể
gọi là doanh nghiệp tri thức, trong đó khoa học và sản xuất được nhất thể hoá, không
còn phân biệt phòng thí nghiệm với công xưởng, những người làm việc trong đó là
công nhân tri thức, họ vừa nghiên cứu vừa sản xuất.
Thứ ba là mạng thông tin trở thành cơ sở hạ tầng quan trọng nhất. Việc ứng
dụng công nghệ thông tin rộng rãi trong mọi lĩnh vực và thiết lập mạng thông tin đa
phương tiện phủ khắp nước, nối với hầu hết các tổ chức, các gia đình. Mọi người đều
có nhu cầu thông tin và được truy nhập vào các kho thông tin cần thiết cho mình. Mọi
lĩnh vực hoạt động trong xã hội đều có tác động của công nghệ thông tin để nâng cao
năng suất, chất lượng, hiệu quả, cũng chính vì vậy nhiều người gọi nền kinh tế tri
thức là nền kinh tế số hay kinh tế mạng.
Bốn là, kinh tế tri thức là nền kinh tế học tập. Mọi người có điều kiện thuận lợi
để học tập suốt đời, không ngừng phát triển tri thức, nâng cao kỹ năng, phát triển sức sáng
tạo, thích nghi với sự phát triển, thúc đẩy đổi mới. Xã hội học tập là nền tảng của kinh tế
tri thức.
Năm là, kinh tế tri thức là nền kinh tế toàn cầu hoá. Thị trường và sản phẩm
mang tính toàn cầu, một sản phẩm sản xuất ở bất kỳ nơi nào cũng có thể nhanh chóng
có mặt khắp nơi trên thế giới. Quá trình toàn cầu hoá cũng là quá trình chuyển sang
nền kinh tế tri thức, toàn cầu hoá và kinh tế tri thức thúc đẩy nhau, gắn quyện với
nhau, là hai anh em sinh đôi của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại. Quá
trình phát triển khoa học và công nghệ, phát triển kinh tế tri thức cùng với quá trình
phát triển kinh tế thị trường, phát triển thương mại thế giới và quá trình toàn cầu hoá
là những quá trình đi liền với nhau, tác động qua lại và thúc đẩy nhau phát triển.
Thứ tư, các doanh nghiệp vừa cạnh tranh vừa hợp tác để phát triển. Trong cùng
một lĩnh vực, khi một công ty thành công hơn, lớn mạnh hơn, thì công ty khác tìm
cách sáp nhập vào hoặc chuyển hướng khác ngay, nếu không muốn bị phá sản.
Thứ năm, xã hội thông tin thúc đẩy sự dân chủ hoá. Mọi người đều dễ dàng
truy cập đến các thông tin cần thiết. Dân chủ hoá các hoạt động và tổ chức điều hành
trong xã hội được mở rộng. Người dân nào cũng có thể được thông tin kịp thời về các
quyết định của cơ quan Nhà nước hoặc tổ chức có liên quan đến họ và họ có thể có ý
kiến ngay nếu thấy không phù hợp.
Thứ sáu, sự sáng tạo, đổi mới thường xuyên là động lực chủ yếu nhất thúc đẩy
sự phát triển. Công nghệ đổi mới rất nhanh, vòng đời công nghệ rút ngắn; quá trình từ
lúc ra đời, phát triển rồi tiêu vong của một lĩnh vực sản xuất, hay một công nghệ chỉ
mấy năm, thậm chí mấy tháng. Các doanh nghiệp muốn trụ được và phát triển thì
phải luôn đổi mới công nghệ và sản phẩm. Sáng tạo là linh hồn của sự đổi mới.
Thứ bảy, kinh tế tri thức là nền kinh tế phát triển bền vững. Trong kinh tế tri
thức, các công nghệ mới được sử dụng phổ biến, nhất là các công nghệ sạch, tiêu hao
ít nguyên liệu, năng lượng, lại công nghệ môi trường để bảo vệ, cải thiện môi trường,
cho nên kinh tế tri thức ít gây hại cho môi trường, bảo vệ được thiên nhiên. Nhờ trình
độ dân trí cao, nhờ sử dụng một cách phổ biến các tri thức mới trong mọi hoạt động,
từ qui hoạch, chiến lược, kế hoạch đến các hoạt động sản xuất kinh doanh, tổ chức
quản lý, đời sống hàng ngày, mọi người luôn có ý thức gìn giữ, bảo vệ các giá trị của
thiên nhiên, của truyền thống văn hoá, biết kết hợp hài hoà lợi ích trước mắt và lợi
ích lâu dài, bảo đảm được yêu cầu phát triển bền vững.
Trong nền kinh tế tri thức - xã hội thông tin, văn hoá có điều kiện phát triển
nhanh và văn hoá là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội. Do thông tin, tri
thức bùng nổ, trình độ văn hoá nâng cao, nội dung và hình thức các hoạt động văn
hoá phong phú, đa dạng. Nhu cầu thưởng thức văn hoá của người dân cũng tăng cao.
Nhờ các phương tiện truyền thông tức thời, nhất là Internet, một sáng tác ra đời tức
thời lan truyền đến mọi nơi trên thế giới. Giao lưu văn hoá hết sức thuận lợi, tạo điều
kiện cho các nền văn hoá có thể tiếp thu các tinh hoa của nhân loại để phát triển nền
văn hoá của mình. Nhưng mặt khác các nền văn hoá đứng trước những rủi ro rất lớn:
bị pha tạp, dễ mất bản sắc, dễ bị các sản phẩm văn hoá độc hại tấn công phá hoại, mà
rất khó ngăn chặn.
Sự xuất hiện nền kinh tế tri thức đánh dấu bước nhảy vọt về chất của lực
lượng sản xuất. Bước nhẩy vọt về chất này biểu hiện ở việc tri thức khoa học xâm
nhập sâu sắc vào mọi lĩnh vực, quy trình sản xuất, cách mạng hoá lực lượng sản xuất.
Tri thức trở thành đối tượng khai thác của nền kinh tế. Với một quốc gia, một dân tộc
mà khai thác được nhiều tri thức, trí tuệ thì có lợi thế trong cạnh tranh về kinh tế, tiêu
thụ sản phẩm. Trong nền kinh tế tri thức, khoa học xâm nhập vào quy trình sản xuất,
tạo ra sự hợp lý tối đa của công tác tổ chức sản xuất. Sự hợp lý này, cho phép hạn chế
thấp nhất sức lao động thừa của con người, công suất của máy móc trong sản xuất.
Điều đó không chỉ trong một chu trình sản xuất, mà còn trong toàn xã hội, và cả thế
giới. Sự hợp lý này là thước đo của trình độ phân công lao động xã hội ở trình độ cao.
Kinh tế tri thức còn làm cho giá trị hàng hoá được đo chủ yếu bằng chất xám.
Quốc phòng - an ninh ở nước ta hiện nay là vấn đề liên quan đến bảo về Tổ
quốc, thực hiện ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội…Nước ta hiện nay đang diễn
ra quá trình phát triển nền quốc phòng toàn dân, thế trận chiến tranh nhân dân, chiến
đấu trong khu vực phòng thủ, quân đội là lực lượng nòng cốt ,dưới sự lãnh đạo của
đảng…Đó là những vấn đề có tính quy luật của bảo vệ tổ quốc hiện nay. Với một qúa
trình khó khăn, phức tạp như quốc phòng - an ninh càng chịu sự tác động to lớn của
kinh tế tri thức. Sự tác động đó vừa có thuận lợi , vừa có khó khăn, vừa tích cực, vừa
có tiêu cực. Nó được biểu hiện trên một số nội dung sau:
Thư nhất, kinh tế tri thức đã cách mạng hoá vũ khí trang bị quân đội đế quốc
làm cho xây dựng nền quốc phòng ở nước ta phải có nội dung mới để sẵn sàng đối
phó thắng lợi với cuộc chiến tranh xâm lược bằng vũ khí công nghệ cao
Nền kinh tế tri thức phát triển đã đem lại những kỳ diệu trong lĩnh vực khoa
học, chứng minh trình độ nhận thức, khả năng chinh phục tự nhiên của con người là
vô cùng to lớn. Thành tựu của cuộc cách mạng khoa học hiện đại, kinh tế tri thức
được áp dụng trước hết vào lĩnh vực quân sự. Hàng loạt các loại vũ khí tối tân, hiện
đại ra đời khẳng định khả năng huỷ diệt đối phương vô cùng lớn. Các thế hệ vũ khí
hiện đại liên tiếp thay thế nhau một cách công khai. Các nước lớn trên thế giới muốn
khẳng định thế mạnh của mình thông qua việc chinh phục vũ trụ. Chỉ thông qua
Trung Quốc thực hiện thành công phóng tầu vũ trụ có người lái Thần Châu V và VI
đã làm cho Mỹ và Nga phải thay đổi chiến lược bố phòng. Tác chiến vươn cao đến vũ
trụ. Trên mặt đất, các nước cũng phải liên tục xây dựng, bố phòng, luyện quân …thể
hiện sức mạnh trong phòng thủ đất nước. Trên biển tưởng như là tĩnh lặng, nhưng
bên dưới các nước lớn cũng đang có những con tầu ngầm thi nhau về tốc độ, trình độ
lặn dài hơi và phát huy khả năng công dụng. Toàn bộ những cái đó, chứng minh kinh
tế tri thức làm cách mạng hoá vũ khí trang bị quân sự nhanh chóng. Hậu quả của sự
ra đời liên tiếp các thế hệ mới về cũ khí trang bị ở các nước lớn đã tác đông sâu sắc
đến phòng thủ, xây dựng nền quốc phòng, an ninh ở nước ta.
Một vấn đề đặt ra là, với cơ bản vũ khí hiện có làm thế nào có thể bảo vệ vững
chắc Tổ quốc trong điều kiện có những đặc điểm mới và phải sẵn sàng đối phó thắng
lợi cuộc chiến tranh xâm lược vũ khí công nghệ cao của chủ nghĩa đế quốc. Như vậy,
xây dựng nền quốc phòng ở nước ta hiện nay phải hoàn thiện khu vực phòng thủ;
phát triển chiến tranh nhân dân, quốc phòng toàn dân; Phải xây dựng quân theo mô
thức là lực lượng nòng cốt, thực hiện tốt chức nằng của đội quân công tác, tuyên
truyền. Bên cạnh phải có chiến lược phát triển vũ khí tối tân, hiện đại một cách phù
hợp. Đây là một sự điều chỉnh có tính căn bản khi kinh tế tri thức phát triển.
Kinh tế tri thức cùng với cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại phát
triển mà chủ nghĩa đế quốc đã tận dụng được thành tựu làm cho nó thích nghi, điều
chỉnh, trong khi chủ nghĩa xã hội chủ nghĩa Đông Âu, Liện Xô sụp đổ. Kinh tế tri
thức đã tạo ra hậu thuẫn có lợi cho chủ nghĩa đế quốc trong phát triển chiến lược diễn
biến hoà bình chống chủ nghĩa xã hội và bất lợi cho chủ nghĩa xã hội. Điều đó làm
cho bảo vệ tổ quốc có nội dung mới , bảo vệ tổ quốc không chỉ bảo vệ toàn vẹn lãnh
thổ, mà còn bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ chính trị , an ninh chính trị
Thứ hai, Kinh tế tri thức cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao cho quốc
phòng - an ninh và quân đội.
Kinh tế tri thức phát triển làm cho con người, người lao động được đào tạo cơ
bản hơn. Quá trình tri thức hoá cong nhân, người lao động diễn ra trong toàn xã hộị.
Trong khi xã hội lại là nới cung cấp nhân lực cho quân đội và tổ chức quốc phòng.
Thực chất kinh tế tri thức đã tạo cho nguồn nhân lực cho quốc phòng an ninh có trình
độ tri thức cao.
Phát triển kinh tế tri thức, nền quốc phòng - an ninh và quân đội có điều kiện
tri thức hoá ngày càng cao. Cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa nếu
xảy ra trong tương lai, chúng ta sẽ phải đối phó với kẻ thù có tiềm lực kinh tế; tiềm
lực khoa học – công nghệ; tiềm lực quân sự hùng mạnh, được trang bị vũ khí -
phương tiện kỹ thuật hiện đại, tinh xảo hơn ta rất nhiều lần. Đây cũng là cuộc đọ sức
về trình độ trí tuệ và tri thức cao giữa các bên tham chiến. Từ đó đặt ra yêu cầu cao
đối với chất lượng nguồn nhân lực của quân đội trong bối cảnh mới. Mỗi cán bộ,
chiến sĩ không chỉ có tinh thần cách mạng, bản lĩnh chính trị vững vàng, ý trí kiên
cường, lòng dũng cảm vô song, thể lực dẻo dai khoẻ mạnh, tâm lý bền vững mà còn
phải giàu chất trí tuệ, hiểu biết sâu sắc tri thức khoa học, nghệ thuật quân sự hiện
cảnh, có khả năng làm chủ vũ khí trang bị hiện đại, có như vậy mới đáp ứng được
yêu cầu sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu trong điều kiện chiến trang hiện đại, kẻ thù
sử dụng vũ khí công nghệ cao. V.I. Lênin từng chỉ rõ: Cuộc chiến tranh hiện đại đòi
hỏi phải có con người có chất lượng cao cũng như cần phải có kỹ thuật hiện đại.
Phát triển kinh tế tri thức tạo ra nguồn nhân lực bậc cao dồi dào, nghĩa là nguồn
nhân lực có tri thức cao, làm chủ khoa học - công nghệ hiện đại, tư duy năng động
sáng tạo, dám nghĩ, dám làm vì sự phồn vinh của đất nước. Theo đó, quân đội có điều
kiện tuyển chọn nguồn nhân lực này cho phù hợp với hoạt động đặc thù quân sự.
Quá trình phát triển kinh tế tri thức, khoảng cách phát triển giữa nước ta với
khu vực và thế giới được thu hẹp, sản phẩm hàng hoá và nền kinh tế đất nước ngày
càng có ưu thế cạnh tranh trên thương trường quốc tế, đời sống của con người lao
động không ngừng được cải thiện và nâng cao. Những chuyển biến tích cực trong đời
sống kinh tế - xã hội tác động mạnh mẽ và trực tiếp đến đời sống vật chất, tinh thần
của quân nhân và gia đình họ. Điều đó, có sức mạnh thuyết phục, cổ vũ to lớn đối với
cán bộ, chiến sĩ trong quân đội; làm tăng thêm lòng tin, sự gắn bó với Đảng, với chế
độ, nhiệt tình và trách nhiệm cao trong thực hiện nhiệm vụ của cán bộ, chiến sĩ lúc
thời bình cũng như thời chiến tranh; tích cực xây dựng quân đội vững mạnh về mọi
mặt. Như vậy, phát triển kinh tế tri thức vừa trực tiếp, vừa gián tiếp chi phối đến chất
lượng và số lượng nguồn nhân lực cung cấp cho quốc phòng- an ninh và quân đội,
góp phần nâng cao sức mạnh nền quốc phòng - an ninh , chất lượng tổng hợp, khả
năng sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu của quân đội.
Thứ ba, kinh tế tri thức làm cho khoa học - kỹ thuật quân sự đáp ứng yêu cầu
của chiến tranh công nghệ cao.
Sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại, đặc
biệt là công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới…công nghệ
năng lượng mới…không chỉ xâm nhập mạnh mẽ vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội,
mà còn thúc đẩy vũ khí công nghệ cao ra đời. Vũ khí công nghệ cao xuất hiện góp phần
quan trọng làm thay đổi hình thái và phương thức tiến hành chiến tranh hiện đại.
Hiện nay, một số ngành công nghệ cao ở Việt Nam đang hình thành và có
những bước tiến đáng khích lệ. Vai trò và sự đóng góp của nó đối với tăng trưởng
kinh tế, phát triển xã hội ngày càng to lớn. Theo đó, nền khoa học kỹ thuật quân sự
nước ta từng bước được phát triển theo hướng hiện đaị, cải tiến, nâng cấp các trang
thiết bị và vũ khí hiện có, đồng thời đi vào nghiên cứu chế tạo vũ khí, phương tiện kỹ
thuật hiện đại, bảo đảm cung cấp cho quân đội đáp ứng quá trình xây dựng nền quốc
phòng toàn dân, gắn với nền an ninh nhân dân vững mạnh, chính quy, tinh nhuệ, từng
bước hiện đại. Ngày nay, việc tăng cường trang thiết bị kỹ thuật và vũ khí hiện đại
cho quốc phòng- an ninh và quân đội trở thành nhu cầu bức thiết, luôn được Đảng và
Nhà nước ta hết sức quan tâm. Nghị quyết Đại hội Đảng IX khẳng định: “Đầu tư
thích đáng cho công nghiệp quốc phòng, trang bị kỹ thuật hiện đại cho quân đội, công
an”
1
. Chủ trương này không những đáp ứng nhu cầu đổi mới vũ khí trang bị để hiện
đại hoá lực lượng vũ trang, quân đội, mà còn đáp ứng yêu cầu đánh thắng cuộc chiến
tranh xâm lược bằng vũ khí công nghệ cao mà các thế lực thù địch có thể tiến hành
đối với nước ta.
Phát triển kinh tế tri thức sẽ đẩy nhanh sự phát triển trên tất cả các lĩnh vực đời sống
kinh tế - xã hội, nhờ đó có điều kiện tốt hơn để đầu tư phát triển khoa học- công nghệ quấn
sự, nhanh chóng tiếp cận với trình độ công nghệ tiên tiến của khu vực và thế giới , tạo ra
những biến đổi cơ bản trong nghiên cứu và ứng dụng các thành tựu khoa học - công nghệ
hiện đại, nâng cao chất lượng đời sống của bộ đội và nhân dân.
Việc đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin sẽ giúp cho công tác quản lý, chỉ
huy bộ đội, quản lý vũ khí, khí tài và các phương tiện kỹ thuật quân sự đạt chất lượng
và hiệu quả cao hơn. Kinh tế tri thức phát triển, cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội từng
bước được xây dựng theo hướng hiện đại và đồng bộ, hệ thống bưu chính viễn thông
không ngừng phát triển, mạnh Intểnt được sử dụng rộng trong đời sống kinh tế - xã
hội. Hệ thống giao thông vận tải: đường bộ, đường sắt, đường thuỷ, đường không
được mở rộng, có sự liên kết chặt chẽ các vùng miền của đất nước cũng như các nước
trong khi vực và thế giới. Cơ sở hạ tầng xã hội như: y tế, văn hoá, các trung tâm giáo
dục - đào tạo, các viện nghiên cứu khoa học, các khu công nghệ cao cũng từng bước
phát triển. Toàn bộ hệ thống cơ sở hạ tần kinh tế - xã hội đó vùa thoả mãn nhu cầu
phát triển kinh tế tri thức, vừa phục vụ cho nhiệm vụ quốc phòng - an ninh và xây
dựng quân đội trong thời bình và cả trong thời chiến.
Thứ tư, kinh tế tri thức tác động đến xây dựng nền công nghiệp quốc phòng
hiện đại.
1
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, H. 2001, tr. 119.
Sự nghiệp xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân và xây dựng
quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại đặt ra nhu
cầu cần phải được trang bị vũ khí, phương tiện kỹ thuật công nghệ cao. Phát triển
kinh tế tri thức ở nước ta sẽ tạo cơ hội thuận lợi để xây dựng một nền công nghiệp
quốc phòng hiện đại, đáp ứng yêu cầu đó, đồng thời phục vụ trực tiếp cho nhiệm vụ
xây dựng nền quốc phòng toàn dân và xây dựng quân đội; thoả mãn các yêu cầu của
quân đội về huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, công tác trong thời bình và phần lớn nhu
cầu hoạt động quân sự khi chiến tranh xảy ra (sản xuất và cung cấp lương thực, thực
phẩm, thuốc men, quân trang, quân dụng, vũ khí, phương tiện kỹ thuật, đáp ứng nhu
cầu tiêu dùng của lực lượng vũ trang nói chung, quân đội nói riêng).
Thông qua quá trình tham gia vào thị trường vũ khí và các sản phẩm quân sự
trong khu vựcvà thế giới, công nghiệp quốc phòng nước ta có điều kiện tiếp thu, cải
tiến, nâng cấp công nghệ, hướng xa hơn là sáng tạo ra công nghệ hiện đại. Các sản
phẩm quân sự của ta có điều kiện nâng cao sức cạnh tranh ở thị trường quốc tế, đem
lại nguồn thu đáng kể cho ngân sách quốc gia. Với nguồn thu này, có thể tái trang bị
cho quân đội các loại vũ khí, phương tiện kỹ thuật hiện đại hơn và đẩy mạnh nghiên
cứu khoa học quân sự.
Bên cạnh những tác động tích cực, kinh tế tri thức cũng có những tác động tiêu
cực đến quốc phòng - an ninh và xây dựng quân đội.
Sự phát triển của kinh tế tri thức làm tăng thêm khoảng cách giữa các vùng,
miền; gia tăng sự chênh lệch về thu nhập và mức sống của các tầng lớp nhân dân ảnh
hưởng đến quốc phòng - an ninh và xây dựng quân đội về nhiều mặt.
Thực tế cho thấy, ở các đô thị và thành phố lớn có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã
hội và dịch vụ tốt hơn, tập trung nhiều cơ sở đào tạo nhân lực, nhiều trung tâm nghiên
cứu khoa học - công nghệ của đất nước, nhiều doanh nghiệp trong và ngoài nước sản
xuất kinh doanh sản phẩm thuộc các lĩnh vực công nghệ cao. Do đó, thu hút được
nhiều nhân lực bậc cao, lao động có tri thức; có điều kiện phát triển nhanh và mạnh
mẽ hơn so với khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa. Sự cách biệt về khoảng cách
phát triển giữa các vùng, miền tác động ảnh hưởng đến việc bảo đảm cơ sở vật chất -
kỹ thuật, lương thực, thực phẩm, huy động nguồn nhân lực bậc cao để thực hiện yêu
cầu xây dựng và sẵn sàng chiến đấu của quân đội nhất là vùng sâu, vùng xa, biên giới
hải đảo hoặc trong những nhiệm vụ đòi hỏi sự hy sinh, gian khổ sẽ gặp nhiều khó
khăn trở ngại.
Gia tăng khoảng cách vùng miền, chênh lệch giàu nghèo. Phát triển kinh tế tri
thức, khoảng cách thu nhập giữa những người giàu và người nghèo trong xã hội ta
ngày càng tăng lên. Xu thế phân hoá giàu nghèo và tính chất khá phức tạp của cơ cấu
xã hội - giai cấp biến đổi, sẽ tác động đến nhận thức, tư tưởng, lối sống trong nhân
dân cũng như trong quân đội. Hàng năm, có một lực lượng lớn thanh niên thuộc
nhiều tầng lớp dân cư trong xã hội nhập ngũ, phục vụ trong quân đội. Về mặt tâm lý,
tình cảm, nhận thức chính trị cũng như hành động cách mạng trong lực lượng thanh
niên này có sự khác biệt không nhỏ, gây nhiều khó khăn và ảnh hưởng tiêu cực đến
quá trình xây dựng quân đội về chính trị. Mặt khác, sự phân hoá trên cũng ảnh hưởng
xấu đến xây dựng kỷ luật tự giác nghiêm minh, xây dựng niềm tin và ý trí sắt đá của
cán bộ, chiến sĩ trong quân đội. Thực trạng đó tác động bất lợi đến sức mạnh chiến
đấu và khả năng hoàn thành nhiệm vụ của quân đội trong thời kỳ mới.
Phát triển mạnh mẽ khoa học - công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin và
công nghệ sinh học có thể làm gia tăng sự mất ổn định về an ninh của đất nước, đặt
quân đội trước nhiệm vụ phức tạp hơn.
Bởi vì, nhờ sự phát triển của công nghệ thông tin, các hình thức quảng bá
thương hiệu, giới thiệu sản phẩm, giao dịch mua - bán, kinh doanh trên mạng diễn
ra ngày càng phổ biến hơn. Đây là mặt tích cực, song cũng là điều kiện cho kẻ xấu
lợi dụng kỹ thuật cao để kiếm lợi bất chính, lừa đảo khách hàng bằng cách bán
hàng xấu, hàng giả; lập các công ty ma để ky kết hợp đồng kiếm lợi của đối tác,
bạn hàng; hoặc chúng còn vượt qua “hàng rào” bảo vệ, hệ thống mật của máy tính
cá nhân, máy chủ của các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế để lấy cắp tư liệu và
tiền bạc. Từ đó đặt an ninh kinh tế đứng trước những thách thức và khó khăn mới.
Mạng Internet trải rộng khắp toàn cầu, nó chứa đựng một khối lượng tri thức
khổng lồ và đa dạng, ngoài dung lượng lớn về thông tin hữu ích còn xuất hiện nhiều
thông tin xấu độc, nhiều trò chơi, phim ảnh bạo lực, đồi truỵ( sex games) gây tác hại
không nhỏ đến đạo đức, lối sống, tư tưởng của nhân dân và cán bộ, chiến sĩ trong
quân đội.
Làm ảnh hưởng đến an ninh quốc gia, và quốc phòng toàn dân.Các thế lực thù
địch lợi dụng để chống phá nước ta. Các thế lực thù địch triệt để lợi dụng mạng Internet
để gieo rắc, tuyên truyền nhiều thông tin xấu chống phá chế độ xã hội chủ nghĩa, xuyên
tạc đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước ta, bôi nhọ lãnh tụ. Phát tán thông tin
trên mạng dưới chiêu bài “nhân quyền”, “dân chủ”, “dân tộc”, “tôn giáo” để nhằm quốc
hoá các vấn đề nội bộ của ta; lôi kéo, kích động các phần tử bất mãn chống đối cách
mạng. Một số kẻ khác vì lợi ích cá nhân dẫn đến sự “rò rỉ” , “thất thoát” các thông tin, bí
mật về kinh tế, khoa học - công nghệ, quốc phòng của đất nước và quân đội, làm hại đến
an ninh quốc gia. Lợi dụng kỹ thuật cao, các thế lực thù địch, phần tử phản động, cơ hội
có thể thu thập, đánh cắp thông tin trên đường truyền hệ thống mạng và hệ thống máy
tính của các cơ quan, các tổ chức trong và ngoài quân đội; hoặc có thể gây hỏng hóc, rối
loạn hệ thống mạnh và hệ thống thông tin liên lạc của ta trong thời bình, thời chiến.
Cùng với nguy cơ mất an ninh mạng là nguy cơ kẻ xấu lợi dụng thành tựu của
công nghệ sinh học, tạo ra các loại vũ khí sinh học để tiến hành các hoạt động chống
phá nước ta. Sự phát triển của khoa học- công nghệ là điều kiện thuận lợi để hiện đại
hoá quốc phòng – an ninh và quân đội, song trước sự chống phá ngày càng quyết liệt
của các thế lực thù địch, cũng đặt ra cho quân đội nhiều yêu cầu nhiệm vụ mới cao
hơn, phức tạp hơn.
Đặc biệt, hiện nay, chủ nghĩa đế quốc, đứng đầu là đế quốc Mỹ và các thế lực thù
địch đang lợi dụng ưu thế về kinh tế tri thức để can dự xâm nhập, khống chế các nước
khác trong đó có Việt Nam. Chúng luôn tìm cách lợi dụng tiềm lực kinh tế, tiềm lực
khoa học - công nghệ và quân sự hùng mạnh, thông qua hợp tác phát triển kinh tế, khoa
học - công nghệ để thực hiện chính sách can dự, xâm nhập, khống chế và chuyển hoá
đối với nước ta. Bằng các trương trình hợp tác về khoa học - công nghệ hỗ trợ đầu tư,
chuyển giao - xuất khẩu công nghệ kết hợp với xuất khẩu tư bản để xâm nhập, khống
chế, buộc ta phải lệ thuộc vào công nghệ, lệ thuộc vào kinh tế, từ đó lệ thuộc vào chính
trị; lôi cuốn nước ta vào vòng xoáy của chủ nghĩa tư bản, Thời gian qua, chúng ta đã
phát hiện có trường hợp gián điệp nước ngoài lợi dụng hình thức hợp tác khoa học- công
nghệ, hợp tác kinh tế, hoặc giả danh nhà khoa học tham gia các cuộc hội thảo khoa học
nhằm khai thác thông tin, tài liệu mật của ta phục vụ cho lợi ích của chúng. Do vậy, phải
nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng, kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế tri thức
với củng cố quốc phòng - an ninh và xây dựng quân đội; kết hợp giữa lợi ích kinh tế
từng doanh nghiệp, từng địa phương với lợi ích của cả quốc gia, không chủ quan, ảo
tưởng.
Để phát huy những tác động tích cực, hạn chế những khó khăn, thách thức của
quá trình phát triển kinh tế tri thức đến củng cố quốc phòng – an ninh và xây dựng
quân đội trong thời kỳ mới, đòi hỏi phải thực hiện đồng bộ và có hiệu quả các giải
pháp sau đây:
Thứ nhất, kịp thời bắt nhịp với mỗi bước tiến của kinh tế tri thức để có phương
hướng, biện pháp phù hợp trong xây dựng và phát triển nền quốc phòng ở nươc ta hiện
nay. thống nhất nhận thức trong toàn xã hội về sự kết hợp giữa phát triển kinh tế tri
thức với củng cố quốc phòng – an ninh và xây dựng quân đội trong thời kỳ mới. Bởi
vì, kinh tế tri thức còn là vấn đề mới mẻ, không phải tất cả mọi người, mọi tổ chức
trong xã hội đều nhận thức đúng đắn, đầy đủ về nó, cũng như mối quan hệ chặt chẽ
giữa phát triển kinh tế tri thức với quốc phòng – an ninh và xây dựng Quân đội nhân
dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Vì vậy, phải tuyên
truyền, giáo dục thường xuyên, sâu rộng, nhằm tạo ra sự chuyển biến mạnh mẽ trong
nhận thức tư tưởng và hành động, tạo ra sự đồng thuận cao trong toàn xã hội.
Hai là, Chủ động xây dựng chiến lược, lộ trình phát triển kinh tế tri thức gắn với
chiến lược quốc phòng – an ninh và xây dựng quân đội, giải phóng mọi năng lực sản
xuất và sức sáng tạo của mọi tầng lớp nhân dân trong phát triển kinh tế và củng cố
quốc phòng – an ninh. Bởi vì, để phát triển kinh tế tri thức đòi hỏi phải xây dựng một
chiến lược tổng thể, một kế hoạch và chính sách đồng bộ ở tầm vĩ mô, mang tính lâu
dài, xác định rõ mục tiêu, nội dung cơ bản, giải pháp chủ yếu phát triển kinh tế tri thức;
gắn chặt chiến lược phát triển kinh tế tri thức với quốc phòng – an ninh và xây dựng
quân đội trong thời kỳ mới.
Ba là, phát triển nguồn nhân lực bậc cao đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế tri
thức và củng cố quốc phòng – an ninh và xây dựng quân đội trong tình hình mới. Phải
tiến hành cải cách sâu rộng trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo. Đồng thời, xây dựng một
xã hội học tập, đi liền với mở rộng quy mô và cách thức là nâng cao chất lượng giáo
dục - đào tạo, liên thông và gắn bó chặt chẽ giữa giáo dục - đào tạo dân sự với quân sự
tạo nguồn nhân lực dồi dào cho phát triển kinh tế tri thức gắn với quốc phòng – an ninh
và xây dựng quân đội.
Bốn là, nâng cao năng lực nội sinh về khoa học – công nghệ, tập trung phát triển
các ngành công nghệ cao để phát triển kinh tế tri thức, hiện đại hóa quốc phòng – an ninh
và quân đội. Bởi vì, năng lực nội sinh về khoa học – công nghệ của nước ta tuy đã có
bước cải thiện, song nhìn chung còn nhiều bất cập trước yêu cầu phát triển kinh tế tri thức,
hiện đại hóa quốc phòng – an ninh. Vì vậy, phải nhanh chóng xây dựng và phát triển các
lĩnh vực như: nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng dụng và triển khai công nghệ, chuyển
giao và cải tiến công nghệ từ nước ngoài. Đồng thời nhanh chóng phát triển các ngành
công nghệ cao của đất nước, tạo đà cho sự phát triển toàn bộ nền kinh tế và hiện đại hóa
quốc phòng – an ninh và quân đội.
Năm là, phát huy vai trò của quân đội trong phát triển kinh tế tri thức, kết hợp phát triển
kinh tế tri thức với củng cố quốc phòng – an ninh và xây dựng quân đội. Bởi vì, quân đội là lực
lượng nòng cốt trong bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, tạo môi trường hòa bình, ổn định cho quá
trình phát triển kinh tế tri thức. Quân đọi phải chủ động phối hợp với các cấp, các ngành và địa
phương trong xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội, quy hoạch phát triển các khu công
nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, thẩm định các dự án đầu tư trong và ngoài nước. Đồng
thời, tích cực tham gia đào tạo nguồn nhân lực cho đất nước đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế tri
thức; tích cực tham gia sản xuất, kinh doanh ở các lĩnh vực công nghệ cao nhằm tăng nguồn thu
cho ngân sách quốc phòng.
Tóm lại, kinh tế tri thức là vấn đề mới mẻ. Việc nghiên cứu, tìm hiểu sâu sắc vấn đề này có ý
nghĩa hết sức quan trọng góp phần giải đáp những vướng mắc trong nhận thức và hành động
trước một số vấn đề về kinh tế tri thức ở nước ta hiện nay. Phát triển kinh tế tri thức tất yếu tác
động đến nhiều lĩnh vực, nhiều mặt của đời sống xã hội trong đó có quốc phòng – an ninh và
quân đội. Sự tác động của quá trình phát triển kinh tế tri thức đến củng cố quốc phòng – an ninh
và xây dựng quân đội diễn ra nhiều chiều, cả tác động tích cực và tác động tiêu cực, cả thuận lợi
và khó khăn, thách thức”
Trong bối cảnh kinh tế tri thức phát triển, Việt Nam trên con đường tiến lên tất
yếu phải phát triển kinh tế tri thức, coi đó là điều kiện cơ bản bảo đảm cho sự thắng
lợi của cách mạng nước ta hiện nay. Tính tất yếu đó được luận chứng trên cơ sở là sự
phát triển kinh tế tri thức càng thúc đẩy quá trình quốc tế hoá đời sống kinh tế, nó
không cho phép một quốc gia dân tộc nào tách rời quỹ đạo đó. Phát triển kinh tế tri
thức là điều kiện để nước ta hội nhập được với quốc tế trong sự phân công lao động
quốc tế và để phát triển; là động lực phát triển kinh tế và nâng cao chất lương nguồn
nhân lực Việt Nam; là tiền đề cơ bản nâng cao vị thế Việt Nam và tiến vững chắc trên
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Mặc dù phát triển kinh tế tri thức vừa có mặt tích
cực, vừa có mặt tiêu cực, nhưng không cho phép lé trách sự phát triển này. Như vậy,
kinh tế tri thức hiện nay tác động sâu sắc đến tất cả các quốc gia, dân tộc, các hoạt
động và quá trình xã hội. Nước ta nói chung và vấn đề quốc phòng – an ninh nói
riêng cũng đang phải chịu tác động sâu sắc. Nhận thức vấn đề này, Văn kiện Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ XI viết; Phát triển kinh tế tri thức trên cơ sở phát triển giáo
dục, đào tạo, khoa học, công nghệ; xây dựng đồng bộ cơ sở hạ tầng khoa học, công
nghệ, trước hết là công nghệ thông tin, truyền thông, công nghệ tự động, nâng cao
năng lực nghiên cứu - ứng dụng gắn với phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao.
Phát triển mạnh các ngành và sản phẩm công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ công nghệ
cao, có giá trị gia tăng cao, dựa nhiều vào tri thức. Phát huy và sử dụng có hiệu quả
nhất nguồn tri thức của con người Việt Nam và khai thác nhiều nhất tri thức của nhân
loại. Xây dựng và triển khai lộ trình phát triển kinh tế tri thức đến năm 2020
2
.
2
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI.