Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (170.95 KB, 16 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HỐ
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
<b>Người thực hiện: Lê Thị Phương</b>
<b>Chức vụ: Giáo viên</b>
<b>SKKN thuộc lĩnh vực (môn): Ngữ Văn</b>
THANH HÓA, NĂM 2024
</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2"><b>1. MỞ ĐẦU</b>
<b>1.1. Lí do chọn đề tài </b>
Bắt đầu từ năm học 2022-2023 thực hiện chương trình giáo dục phổ thơng2018 đối với lớp 10. So với chương trình năm 2000 và 2006, chương trình giáodục phổ thơng 2018 đối với mơn Ngữ văn có nhiều điểm mới. Cụ thể là đổi mớiphương pháp dạy học Ngữ văn theo hướng áp dụng kĩ thuật dạy học nhằm pháttriển phẩm chất, năng lực cho học sinh.
Tuy nhiên, việc vận dụng các phương pháp và kĩ thuật dạy học này vào thựctiễn còn là một thách thức lớn, khi lâu nay các em theo chương trình cũ, vẫn cịnnặng về cách học thụ động. Các tác phẩm trong chương trình học cũng chính làngữ liệu thi. Do đó, giáo viên vẫn giành quyền chủ động và áp đặt kiến thức khidạy đọc hiểu, cốt để học sinh có được kiến thức càng sâu càng tốt về văn bản ấy.Trong khi đó, mục tiêu của tiết dạy đọc hiểu văn bản của chương trình mới làhướng dẫn học sinh từ việc tìm hiểu, cảm nhận, đánh giá một văn bản cụ thểtheo đặc trưng thể loại của nó để hình thành kĩ năng đọc những văn bản kháccùng thể loại.
Chương trình mới yêu cầu dạy đọc hiểu văn bản theo đặc trưng thể loại, vàhệ thống câu hỏi hướng dẫn học bài cũng bám sát đặc trưng thể loại. Đây là cáchtiếp cận văn bản khó, nếu khơng có hướng xử lí thì dễ dẫn đến sự rời rạc giữacác ý trong bài học, dẫn đến học sinh khó tiếp nhận được đầy đủ các giá trị, ýnghĩa của văn bản.
Vì vậy, để hướng dẫn học sinh tìm hiểu văn bản dựa vào đặc trưng thể loạicần dựa vào phần Tri thức Ngữ văn, yêu cầu học sinh nắm được các đặc trưngcủa thể loại từ đó hướng dẫn học sinh phân tích các biểu hiện của đặc trưng thểloại trong văn bản theo hướng: những biểu hiện của mỗi đặc trưng? Sự biểu hiệnđó có đặc điểm gì đặc sắc? Nó thể hiện được nội dung, chủ đề, tư tưởng của tácphẩm như thế nào? So sánh sự biểu hiện đó với những văn bản cùng thể loạikhác mà học sinh đã học hoặc đã đọc. Từ đó, học sinh rút ra được phương pháptìm hiểu văn bản theo đặc trưng thể loại, hình thành được kĩ năng đọc và phântích những văn bản mới.
<b>1.2. Mục đích nghiên cứu </b>
Trang bị cho học sinh kiến thức, kĩ năng tiếp cận tác phẩm truyện từ ngơi kểvà điểm nhìn. Từ đó, học sinh có thể chủ động thâm nhập một tác phẩm truyệnkể bất kì.
<b>1.3. Đối tượng nghiên cứu</b>
Đề tài nghiên cứu về quyền năng của người kể chuyện ngôi thứ nhất và ngôithứ ba trong hai tác phẩm “Dưới bóng hồng lan” (Thạch Lam) và “Một chuyệnđùa nho nhỏ (An- tôn Sê- khốp).
<b>1.4. Phương pháp nghiên cứu</b>
</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4"><i><b>Phương pháp</b></i>
- Nghiên cứu lí luận chung
- Khảo sát điều tra từ thực tế dạy và học.- Tổng hợp so sánh, rút kinh nghiệm
</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5"><b>2. NỘI DUNG</b>
<b>2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm</b>
Xuất phát từ đặc trưng của truyện kể:
Với bất kì một truyện kể nào, người kể chuyện cũng đồng thời đảm nhiệmhai vai trò: vai trò giới thiệu, dẫn dắt câu chuyện và vai trò điều khiển, kiểm sốtcâu chuyện (người kể chuyện có vai trị trần thuật và điều khiển truyện kể).Truyện khơng thể tồn tại nếu thiếu đi người kể chuyện. Nhờ người kể chuyện,người đọc được dẫn dắt vào thế giới nghệ thuật của truyện kể để tri nhận vềnhân vật, sự kiện, không gian, thời gian. Và ở mỗi một truyện kể sẽ hiện hữumột kiểu người kể chuyện. Có thể người kể chuyện ở ngôi thứ nhất hoặc ngôithứ ba.
Người kể chuyện ngôi thứ nhất là người kể xưng “tôi” hoặc một hình thức tựxưng tương đương. Tùy theo mức độ tham gia vào mạch vận động cốt truyện,người kể chuyện ngơi thứ nhất có thể là nhân vật chính, nhân vật phụ, ngườichứng kiến, người kể lại câu chuyện được nghe từ người khác hay xuất hiện vớivai trò tác giả “lộ diện”. Người kể chuyện ngôi thứ nhất thường là người kểchuyện hạn tri (không biết hết mọi chuyện), trừ trường hợp ở vai trò tác giả “lộdiện” vận dụng quyền năng “biết hết” của mình.
Người kể chuyện ngôi thứ ba là người kể chuyện ẩn danh, không trực tiếpxuất hiện trong tác phẩm như một nhân vật, không tham gia vào mạch vận độngcủa cốt truyện và chỉ được nhận biết qua lời kể. Người kể chuyện ở ngôi thứ bamặc dù không trực tiếp tham gia sự kiện trong câu chuyện nhưng người kểchuyện dường như thấu suốt mọi diễn biến, kể cả những gì thuộc thế giới nộitâm sâu kín của con người. Người kể chuyện có khi xác lập điểm nhìn bên ngồikhách quan để tái hiện bức tranh cuộc sống, có khi lựa chọn điểm nhìn bên trong(để cho cảnh vật, con ngi hiện ra qua nỗi niềm, trạng thái tâm lí của một nhânvật nào đó trong truyện). Sự chuyển dịch điểm nhìn linh hoạt như vậy thêm mộtlần nữa xác nhận quyền năng của kiểu nhân vật kể chuyện toàn tri.
Người kể chuyện dù ở ngôi thứ nhất hay thứ ba, đều kể chuyện từ điểm nhìnnhất định, qua hệ thống lời kể. lời người kể chuyện là lời kể, tả, bình luận củangười kể chuyện, có chức năng khắc họa bối cảnh, thời gian, không gian, miêutả sự việc, nhân vật, thể hiện cách nhìn nhận, thái độ đánh giá đối vói sự việc,nhân vật. Lời của người kể chuyện phân biệt với lời nhân vật (thuật ngữ chỉ lờinói gắn với ý thức và cách thể hiện của nhân vật bằng hình thức lời nói trực tiếphay gián tiếp)
Từ điểm nhìn và hệ thống lời người kể chuyện, lời nhân vật, các phương diệncủa bức tranh đời sống và nhân vật được thể hiện để người đọc tri nhận. Quyềnnăng của người kể chuyện thể hiện ở phạm vi miêu tả, phân tích, lí giải và mứcđộ định hướng đọc trong việc cắt nghĩa, đánh giá sự kiện, nhân vật được khắc
</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">học trong tác phẩm văn học.
Từ tri thức trên, vận dụng vào việc tìm hiểu hai tác phẩm trong chương trìnhđọc hiểu để thấy được vai trò và quyền năng của người kể chuyện ở ngôi thứnhất và ngôi thứ ba trong mỗi tác phẩm.
<b>2.2 Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm</b>
Học sinh vốn đã quen với cách học thụ động từ cấp dưới, phụ thuộc rất nhiềuvào thầy cô giáo. Các em chưa quen với cách tiếp cận văn bản theo hướng pháttriển phẩm chất và năng lực.
Tâm lí ngại học văn, học văn khó (cho rằng phải có năng khiếu mới học đượcvăn). Nhất là khi ở chương trình mới thì văn bản trong sách giáo khoa chỉ mangtính tham khảo chứ khơng cịn là pháp lệnh. Dẫn đến việc các em xem nhẹ, thậmchí bỏ qua những văn bản trong sách giáo khoa. Do đó sẽ khơng rút ra đượcphương pháp tìm hiểu văn bản theo đặc trưng thể loại để mà hình thành được kĩnăng đọc và phân tích những văn bản mới.
<b>2.3. Vận dụng tri thức “Quyền năng của người kể chuyện” vào việc tiếp cậnhai tác phẩm “Dưới bóng hồng lan” (Thạch Lam) và “Một chuyện đùanho nhỏ” (An-tôn Sê-khốp)</b>
<b>2.3.1. Ngôi kể và điểm nhìn trong câu chuyện.</b>
<b>- “Dưới bóng hồng lan” được kể bằng lời của người kể chuyện ngôi thứ ba.</b>
Ngơi kể này nhất qn trong tồn bộ tác phẩm, tuy trần thuật bằng lời của ngườikể chuyện ẩn danh (giấu mình sau nhân vật, quan sát nhân vật từ bà, Thanh, Ngađể kể lại câu chuyện) nhưng hầu như trong cả tác phẩm điểm nhìn và lời kể lạitheo giọng điệu nhân vật Thanh. Tác giả đã để cho người kể chuyện di chuyểnđiểm nhìn của mình, điểm nhìn mang tính khách quan của người kể chuyện ngơithứ ba ẩn danh vào nhân vật Thanh để quan sát, cảm nhận, miêu tả. Và trongtrường hợp này, nhân vật đáng lẽ chỉ là đối tượng được quan sát và thể hiện quangười kể chuyện ẩn danh bỗng nhiên trở thành người quan sát và trực tiếp bộc lộcảm nhận, tình cảm, tâm tư nỗi niềm của mình với những con người, với nhữngsự việc mà anh ta quan sát.
<b>- “Một chuyện đùa nho nhỏ” người kể chuyện xuất hiện ở ngôi thứ nhất.</b>
Người kể chuyện xưng tôi đồng thời cũng là nhân vật chính của câu chuyện- làchàng trai tạo ra “một chuyện đùa nho nhỏ” trong lần đi trượt tuyết của cô bạnNađia, cũng là người kể lại câu chuyện trong hồi ức của chính mình từ ngơi thứnhất. Nhân vật tơi có sự di chuyển điểm nhìn: nhập vào vai của chính bản thânmình- một chàng thanh niên trẻ trung trong một năm tháng khá xa trong quákhứ, một hồi ức sống động khi sự việc như đang diễn ra ngay trước mắt. Câuchuyện ấy được triển khai từ đầu đến cuối mạch truyện kể và di chuyển từ anhthanh niên lúc đó sang một người đàn ông từng trải, đã hiểu biết, đã thấu trải bâygiờ sau rất nhiều năm, khi sự việc ngày hôm qua đã trở thành quá khứ. Và độ
</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">chênh giữa điểm nhìn lúc đó với điểm nhìn bây giờ đã tạo ra một sự gián cáchrất cần thiết cho những suy ngẫm và trăn trở.
<b>2.3.2. Quyền năng của người kể chuyện ngôi thứ ba trong tác phẩm Dướibóng hồng lan.</b>
<b>Người kể chuyện nhập thân vào thế giới cảm xúc của nhân vật (di chuyển</b>
vào cái nhìn của Thanh, di chuyển vào cảm xúc, sự xúc động cũng như nhữnglời đối thoại của Thanh) để tạo nên lời kể chuyện về thế giới thân thuộc xungquanh chàng: từ khu vườn, căn nhà đến bà, cơ hàng xóm… Lời người kể chuyệnđan xen với lời độc thoại nội tâm của nhân vật.
Hình ảnh thiên nhiên, con người, cảnh sinh hoạt hiện lên qua đôi mắt củanhân vật Thanh. Mọi đối tượng đều trở nên gần gũi, thân thiết dưới cái nhìnchan chứa tình cảm của Thanh. Từ điểm nhìn của Thanh, ta nhận ra nhữngkhông gian nghệ thuật trữ tình êm ả, thơ mộng. Đó là thiên nhiên, là làng quê, làtình cảm với những đồ vật thân thuộc, tình cảm bà cháu và tình u đơi lứa. Màqua cách cảm nhận đó, ta khám phá được vẻ đẹp tâm hồn Thanh, cũng như chấttrữ tình của câu chuyện- vốn là một nét nổi bật trong bút pháp truyện ngắn củaThạch Lam.
<i><b>Không gian làng quê, khu vườn và ngôi nhà của bà</b></i>
Theo điểm nhìn và cảm nhận của Thanh, không gian làng quê, đặc biệt là khu
<i>vườn và ngôi nhà của bà hiện lên sống động, chi tiết: “con đường gạch Bát</i>
<i>Tràng rêu phủ, những vòng ánh sáng lọt qua vịm cây xuống nhảy múa theochiều gió. Một mùi lá tươi non phảng phất trong khơng khí” Vẻ đẹp của thiên</i>
nhiên, hương thơm hoa lá được cảm nhận sống động qua thị giác, khứu giác củanhân vật. Những từ ngữ miêu tả tinh tế, những so sánh gợi cảm làm hiện lên
<i>hình ảnh ngơi nhà xưa cũ, thân thuộc “Nước mát rợi và Thanh cúi nhìn bóng</i>
<i>chàng lay động trong lòng bể với những mảnh trời tan tác”. “Trên trường kỉ,ngọn đèn con và cái điếu cũ kĩ. Con mèo già trịn mình nằm bên cạnh, mắt limdim trong sự bình n và nhà nhã”. “Ngồi khung cửa sổ, trời xanh ngắt ánhsáng, lá cây rung động dưới làn gió nhẹ. Một thân cây cao vút trước mặt, mùihương thoang thoảng đưa vào”. Tất cả cảnh vật, đồ vật, tới cả con mèo già cũng</i>
đều đem tới cho con người cái cảm giác được thả mình trong bình yên, thư một cảm giác mà con người hiện đại như chúng ta vẫn khao khát vô cùng!
<i>thái-Trở về với không gian “mát mẻ và hiền lành ấy”, Thanh thấy “mát hẳn cả</i>
<i>người”, thấy “bình yên và thong thả” “tựa như bao nhiêu sự ồn ào ở ngoài kiađều ngửng lại trên bực cửa”, “tâm hồn nhẹ nhõm và tươi mát như vừa mới tắmở suối”. Hình ảnh so sánh giúp thể hiện cảm giác nhẹ nhõm của nhân vật khi</i>
tâm hồn được nâng đỡ, xoa dịu sau những ồn ào, mệt mỏi của đời sống phố thị,được thanh lọc trong trẻo, nguyên sơ giữa không gian thân thuộc, an lành.
Mỗi cảm xúc được Thanh thể hiện khiến độc giả đồng cảm với tình yêu, nỗi
</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">nhớ và sự gắn bó sâu sắc với quê hương. Hai năm xa nhà đi ra tỉnh mà những ấntượng của chàng với q hương vẫn khơng dễ gì phai nhạt.
<i><b>Khơng gian bình yên, thương mến của cuộc sống gia đình</b></i>
Hai năm xa cách, Thanh trở về và cảm nhận tình thân với bà, dấu yêu từ
<i>những chi tiết nhỏ. Hình ảnh bà với “mái tóc bạc phơ, chống gậy trúc” “đơi mắt</i>
<i>hiền từ dưới làn tóc trắng đưa lên nhìn cháu, âu yếm và mến thương”. Lời nói</i>
<i>cử chỉ dịu dàng, trìu mến “cháu đã về đấy ư? Đi vào trong nhà không nắng</i>
<i>cháu” “con rửa mặt đi, rồi đi nghỉ không mệt. trời nắng thế này mà con khôngđi xe ư” “bà cụ không thôi phẩy chiếc phất trần lên đầu giường…sửa chiếu vàxếp lại gối” “bng màn, nhìn cháu và xua đuổi muỗi”. bà giục cháu nghỉ ngơi</i>
<i>cịn mình thì “xuống bếp làm cơm”. Hình ảnh bà với mái tóc, dáng vẻ, nụ cười,</i>
ánh mắt, lời nói, cử chỉ, hành động…tất cả đều hiện lên trong điểm nhìn củaThanh, vì thế sẽ dễ khiến người đọc nương theo cảm xúc của nhân vật mà xúcđộng thấm thía. Tình cảm hai bà cháu dành cho nhau nhẹ nhàng, thân yêu, trìu
<i>mến. “Bà chàng vẫn tóc bạc phơ và hiền từ… Bà chàng lúc nào cũng sẵn sang</i>
<i>chờ đợi để mến yêu chàng”. Chàng “cảm động và mừng rỡ” “cảm động gần ứanước mắt” “cảm thấy chính bà chở che cho chàng, cũng như những ngày chàngcòn nhỏ”. Dường như sự xa cách về thời gian (2 năm), về không gian (Thanh</i>
công tác ở tỉnh, bà ở quê) không hề làm đổi thay, phai nhạt tình yêu thương sâuđậm với bà, khơng làm mất đi sự thiêng liêng của tình cảm bà cháu.
<i><b>Không gian thơ mộng, ngọt ngào cho những rung động đầu đời trongsáng, đẹp đẽ</b></i>
Dưới bóng hồng lan là một không gian thơ mộng, ngọt ngào, gợi cảm. là nơibắt đầu và ni dưỡng tình cảm nhẹ nhàng, tự nhiên trong sáng, những rungđộng đầu đời tươi mới, lạ lùng, bỡ ngỡ, mơ hồ khi trong cảm nhận của Thanh,hình ảnh Nga ln quấn qt gắn liền với hương hoa hồng lan. Bóng cây hồng
<i>lan đã gợi nhắc anh về cô bé Nga ngày trước “chàng chợt nhớ, chạy xuống nhà</i>
<i>ngang gọi vui vẻ: cô Nga”. Những chi tiết miêu tả lời nói, thái độ, cử chỉ của cả</i>
<i>hai nhân vật đều nhẹ nhàng, trìu mến: Thanh- tự nhiên ân cần “nhìn cơ thiếu nữ</i>
<i>xinh xắn…nhìn đơi mơi thắm của Nga…chuyện trò dưới bóng đèn mãi tớikhuya…cầm lấy tay Nga, để yên trong tay mình”, Nga dịu dàng, trong sáng.</i>
<i>Cảm giác của Thanh với Nga khi gần gũi như tình thân “có lúc chàng lầm tường</i>
<i>Nga chính là em gái ruột”, khi xao xuyến dịu dàng, vương vấn với những cảm</i>
<i>xúc mơ hồ “có cái gì dịu ngọt chăng tơ ở đâu đây, khiến chàng vương phải”.</i>
Những rung cảm trong sáng, nhẹ nhàng ấy đã dần trở thành niềm tin của Thanhvào tình cảm của Nga dành cho chàng, chờ đợi chàng, tình cảm ấy khiến quê
<i>hương và ngôi nhà thân thuộc sẽ ngày càng thêm gắn bó với chàng: “Thanh biết</i>
<i>rằng Nga sẽ vẫn đợi chàng, vẫn nhớ mong chàng như ngày trước. Mỗi mùa cơlại giắt hồng lan trong mái tóc để tưởng nhớ mùi hương”</i>
</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9"><b>Lời kể: trong truyện ngắn “Dưới bóng hồng lan”, ưu tiên hàng đầu làm nên</b>
nét đặc sắc trong văn phong Thạch Lam không phải là cốt truyện mà là lời kểdịu dàng, thương mến. Lời kể bao hàm kể và tả, giới thiệu nhân vật, dẫn dắtdòng sự việc, miêu tả nhân vật, tập trung những biểu hiện tinh tế trong tâmtrạng, tả cảnh thiên nhiên, cảnh sinh hoạt. Lời kể và tả thể hiện thái độ trân quý,dịu dàng trước vẻ đẹp trong tâm hồn con người: tình yêu thương sâu nặng giữabà và cháu, tình cảm tự nhiên trong sáng giữa Thanh và Nga, cách cư xử ân tình,chu đáo, ân cần giữa các nhân vật với nhau, sự nâng niu trân trong đối với từngcảnh vật, từng kỉ niệm (con đường, bóng đèn, chiếc trường kỉ, cây hồng lan).Chính vì thế, quyền năng biết hết của người kể chuyện tồn tri ở ngơi thứ ba cóthể làm giảm tính hấp dẫn cho cốt truyện nhưng lại giúp người đọc nhanh chóngtheo dõi dịng tâm tư nhân vật để có sự cảm thông, chia sẻ, mến thương.
<b>2.3.3. Quyền năng của người kể chuyện ngôi thứ nhất trong truyện ngắn“Một chuyện đùa nho nhỏ” (An-tơn Sê- khốp)</b>
Trong “Dưới bóng hồng lan” và “Người cầm quyền khôi phục uy quyền”người kể chuyện đều ở ngôi thứ ba, dù quyền năng của họ khác nhau. Còn ởtruyện “Một chuyện đùa nho nhỏ” người kể chuyện xuất hiện ở ngôi thứ nhất,đồng thời người kể chuyện cũng là một trong hai nhân vật chính của câu chuyện.Người kể chuyện di chuyển điểm nhìn theo dòng hồi ức và trở về hiện tại.
Từ đầu đến “cịn tơi trở vào nhà thu xếp đồ đạc” là câu chuyện trong hồi ứccủa nhân vật. Còn lại là những suy tư, nuối tiếc, trăn trở của nhân vật tơi nhiềunăm sau, khi tất cả chỉ cịn là kỉ niệm.
<b>Câu chuyện bắt đầu từ điểm nhìn “lúc ấy”:</b>
<i><b> Từ lần trượt tuyết đầu tiên và những lời yêu thương chân thành. Nhân vật</b></i>
tôi không chỉ là người chứng kiến mà còn trực tiếp tham gia vào diễn biếntruyện. Lần trượt tuyết đầu tiên là một tình huống nguy hiểm, đáng sợ, là thờikhắc hệ trọng đối với cuộc đời họ khi họ dường như đang đối diện với sự sống
<i>và cái chết (giờ khắc hệ trọng của sinh tử) “Làn khơng khí bị xé ra quật vào mặt,</i>
<i>gào rít bên tai dữ tợn đâm vào da buốt nhói, gió như muốn giật phăng đầu rakhỏi vai. Gió ép mạnh, đến nghẹt thở. Tưởng chừng như có một con quỷ nàođang giơ tay nắm lấy chúng tôi và vừa rú lên vừa kéo xuống địa ngục. Mọi vậtchung quanh nhập lại thành một vệt dài vun vút lao về phía sau...Chỉ một giâylát nữa thơi có lẽ chúng tơi sẽ chết!” Xuất phát từ tình huống đặc biệt nguy</i>
hiểm, đáng sợ, hệ trọng khi con người có thể tiếc nuối cả đời nếu khơng kịp làm,
<i>nói những điều mình mong muốn, nên câu “Nađia, anh yêu em” là lời yêu</i>
thương chân thành, tuyệt đối không phải là lời đùa cợt, không thể là lời đùa cợt.
<i><b>Tuy nhiên, những lần sau nhân vật tôi đã biến câu chuyện thành “chuyệnđùa nho nhỏ”</b></i>
</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">Lúc đầu, khi đỡ Nađia rời khỏi xe trượt tuyết, nhân vật tơi vẫn có sự đồngcảm với tâm trạng sợ hãi của Nađia, vẫn lắng nghe, quan sát và có những cử chỉtrìu mến, ân cần. Nhưng khi cảm giác sinh tử qua đi, khi nhận ra tâm trạng xúcđộng, bối rối của Nađia, thay vì xúc động, thay vì giãi bày chân thành, thay vìbiến nó thành cơ hội để cho tình cảm của hai người có thể đi xa hơn thì một néttâm lí mới đã xuất hiện trong lịng nhân vật tơi. Khi nhận ra câu nói của mìnhtrên xe trượt tuyết có tác động mạnh tới Nađia, khiến nàng băn khoăn, bối rối
<i>cực độ, nhân vật tôi thấy “gương mặt nàng mới ngộ nghĩnh làm sao”. Đó là cảm</i>
giác thú vị, là tâm lí hiếu thắng của ngùời đàn ơng khi ý thức được sức mạnh củamình. Tâm lí hiếu thắng đàn ơng làm mất đi sự chân thành trong tình cảm nhânvật tơi dành cho Nađia, đó cũng là lúc anh ta dù rất hiểu Nađia nhưng khơng cịnđồng cảm với nàng nữa.
Những lần trượt tuyết sau đó, nhân vật tơi rất quan tâm tới tâm trạng củaNađia, anh ta quan sát tất cả những biểu cảm nhỏ nhất trên gương mặt, dáng vẻNađia, đọc được từ gương mặt, ánh mắt của nàng về sự hồ nghi, băn khoăn, đaukhổ, hiểu cả khao khát tuyệt vọng của nàng khi muốn biết sự thật bằng mọi giá,kể cả việc chấp nhận nỗi sợ hãi tột cùng trong những lần trượt tuyết tiếp theo.Nađia không chỉ cảm thấy hạnh phúc được nghe lời tỏ tình mà cịn băn khoănliệu lời yêu ấy có tồn tại khách quan từ một con người cụ thể nào đó khơng, haychỉ là ảo giác, là tiếng vọng của tiềm thức sâu kín trong lịng nàng. Đối vớiNađia, đó là câu hỏi của lòng tự trọng, của danh dự, của cuộc đời và niềm hạnhphúc- một câu hỏi rất hệ trọng, hệ trọng nhất trên đời này. Nhưng sự quan tâmvà thấu hiểu không hề giúp nhân vật tôi đồng cảm với Nađia. Khơng cịn thànhthực, xúc động như lần trượt tuyết đầu tiên, “tơi” đã tính tốn, sắp đặt một cách
<i>đầy thích thú, biến câu nói chân thành của chính mình thành trò đùa cợt: “cũng</i>
<i>đúng vào lúc chiếc xe lao nhanh nhất, tiếng gió gào rít ghê ghớm nhất, tơi lạinói…”, “tôi lấy chiếc khăn tay che miệng đi, rồi khẽ đằng hắng lên mấy tiếng,và khi xe lao xuống lưng chừng đồi, tơi cịn kịp nói…”, “mỗi lần xe lao từ trênđồi xuống, tơi lại thì thào nhắc lại những lời đó…”. Những quan sát tinh kĩ của</i>
nhân vật tơi khơng xuất phát từ sự lo lắng, xót thương cho nỗi sợ hãi, băn khoăncủa Nađia mà chỉ vì sự tị mị, thích thú kiểm chứng tác động câu nói của mìnhđối với nàng. Sự thấu hiểu của nhân vật tôi với những diễn biến day dứt, đaukhổ trong tâm trạng Nađia khơng giúp anh ta có thêm sự cảm thơng với Nađiamà chỉ để tăng thêm niềm thích thú trong cái tôi đàn ông khi đồng nhất nhữngtác động ấy với sức mạnh của anh ta. Những quan sát tinh sắc giúp nhân vật vẫnđặt điểm nhìn trong ý thức của Nađia để hiểu rõ tâm trạng nàng nhưng khôngnhằm tới sự cảm thông với Nađia mà chỉ nhằm thỏa mãn tâm lí hiếu thắng trongcái tơi của chính mình. Từ đây, nhân vật tơi đã tự đánh mất sự đồng cảm vớiNađia, khơng cịn xót thương cho nỗi sợ hãi, sự băn khoăn đau khổ của Nađia,
</div>