Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (190.47 KB, 20 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">
<b>1. MỞ ĐẦU </b>
<b>1.1. Lí do chọn đề tài </b>
Kể từ khi gia nhập ASEAN năm 1995 đến nay, Việt Nam luôn là quốc giathành viên tích cực, có trách nhiệm và đóng góp quan trọng đối với quá trìnhphát triển của Cộng đồng Cộng đồng ASEAN.
Quyết định gia nhập ASEAN là quyết sách chiến lược của Đảng và Nhà nướcta; là bước đi đầu tiên mang tính đột phá của tiến trình hội nhập khu vực và quốctế của Việt Nam. Trong 25 năm tham gia hợp tác ASEAN với phương châm“tích cực, chủ động và có trách nhiệm”, Việt Nam đã có những đóng góp quantrọng cho sự phát triển và thành cơng của ASEAN.
Việt Nam đã đóng vai trị nịng cốt trong việc xác định mục tiêu, phươnghướng phát triển và hình thành các quyết sách lớn của ASEAN, như Tầm nhìn2020 và các kế hoạch triển khai Tầm nhìn, Hiến chương ASEAN, Lộ trình xâydựng Cộng đồng ASEAN 2015 và nhiều thỏa thuận quan trọng khác, trong đócó kết nối và thu hẹp khoảng cách phát triển. Việt Nam cũng đã tích cực thamgia xây dựng Tầm nhìn Cộng đồng ASEAN 2025, với mục tiêu làm cho liên kếtASEAN sâu rộng hơn và có vai trị quan trọng hơn ở khu vực.
Trong việc xây dựng Cộng đồng Chính trị-An ninh ASEAN (APSC), ViệtNam đã tích cực cùng ASEAN ưu tiên thúc đẩy các hoạt động hợp tác cụ thể vàcác công cụ bảo đảm hịa bình, an ninh khu vực. Bên cạnh việc tăng cường đốithoại và hợp tác về các vấn đề chính trị - an ninh để nâng cao hiểu biết và tin cậygiữa các quốc gia, ASEAN sẽ cần đẩy mạnh việc xây dựng các chuẩn mực vàquy tắc ứng xử chung trong quan hệ quốc tế, tiếp tục phát huy giá trị của Hiệpước Thân thiện và Hợp tác ở Đông Nam Á (TAC), Hiệp ước Đông Nam Ákhơng có vũ khí hạt nhân (SEANWFZ), Tun bố về cách ứng xử của các bên ởBiển Đông (DOC)… Hoạt động của Diễn đàn Khu vực ASEAN (ARF) cũng sẽđược đẩy mạnh để tiếp tục phát huy vai trò là diễn đàn đối thoại và hợp tác vềcác vấn đề chính trị - an ninh hàng đầu ở khu vực Châu Á-Thái Bình Dương,nhất là chuyển từ giai đoạn xây dựng lòng tin sang ngoại giao phòng ngừa vớinhững biện pháp cụ thể. Đẩy mạnh hợp tác nhằm đối phó với những thách thứcan ninh phi truyền thống như khủng bố, tội phạm xuyên quốc gia, an ninh trênbiển… cũng sẽ là một ưu tiên cao mà Việt Nam cùng ASEAN thúc đẩy.
Quá trình 25 năm tham gia ASEAN đã mang lại cho Việt Nam những lợi íchquan trọng và thiết thực, mà bao trùm là có được mơi trường hịa bình và ổnđịnh thuận lợi cho an ninh và phát triển của đất nước, hỗ trợ đắc lực cho việctriển khai chính sách đối ngoại độc lập tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa, hộinhập khu vực và quốc tế của Đảng và Nhà nước ta.
Gia nhập ASEAN đã giúp ta phá thế bị bao vây về kinh tế và cơ lập về chínhtrị khi đó. Chấm dứt tình trạng chia rẽ, đối đầu ở khu vực, tạo dựng mối quan hệmới về chất giữa các nước Đông Nam Á theo chiều hướng hữu nghị, ổn định vàlâu dài, hợp tác toàn diện và chặt chẽ cả về đa phương và song phương. ViệtNam đã trực tiếp tham gia và đóng góp quan trọng trong việc xác định phươnghướng phát triển và các quyết sách lớn của ASEAN cũng như giữ vững cácnguyên tắc cơ bản của Hiệp hội, phù hợp với yêu cầu và lợi ích của Việt Nam;
</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">xác lập được vai trò quan trọng và có uy tín của Việt Nam trong hợp tácASEAN, góp phần duy trì vai trị chủ đạo của ASEAN đối với hịa bình và pháttriển ở khu vực, hạn chế sự can thiệp và chi phối của các nước bên ngồi. ViệtNam cũng có điều kiện thuận lợi để phối hợp lập trường và hợp tác với các nướctrong việc xử lý các vấn đề khu vực và quốc tế phức tạp, hỗ trợ đáng kể cho tatrong việc bảo vệ chủ quyền và lợi ích ở Biển Đơng. Xuất phát từ những lí do
<i>trên, tơi quyết định chọn vấn đề “Đóng góp của Việt Nam trong cộng đồngChính trị - An ninh ASEAN từ 2003 đến 2018” làm đề tài sáng kiến kinh</i>
<b>1.2. Mục đích nghiên cứu</b>
Hướng dẫn học sinh tìm hiểu về Cộng đồng chính trị - an ninh ASEANchương trình 12 năm học 2024 – 2025, chủ đề 2: ASEAN: những chặng đườnglịch sử, bài 5. Cộng đồng ASEAN từ ý tưởng đến hiện thực để dạy học cho họcsinh các lớp 12 trường PT Nguyễn Mộng Tuân. Trong một thời gian ngắn cácem có khả năng nắm được kiến thức về những đóng góp của Việt Nam trongCộng đồng chính trị - an ninh ASEAN như: Định hướng xây dựng Cộng đồngchính trị - an ninh ASEAN; Cùng ASEAN tiến đến các mục tiêu đã đề ra; Đẩymạnh hành động hướng tới xây dựng thành công Cộng đồng ASEAN.
<b>1.3. Đối tượng nghiên cứu</b>
Đề tài tập trung nghiên cứu về những đóng góp của Việt Nam trong Cộngđồng Chính trị - An ninh ASEAN.
<b>1.4. Phương pháp nghiên cứu</b>
Vận dụng cách tiếp cận hệ thống, phương pháp nghiên cứu như phươngpháp lịch sử, phương pháp lơgích, phương pháp nghiên cứu quan hệ quốc tế.Trong đó, phương pháp biện chứng Mác xít là nền tảng lý luận cho nghiêncứu vấn đề đặt ra. Ngồi ra, tơi sử dụng các phương pháp khác như phươngpháp mơ tả, thống kê, tổng hợp, phân tích, so sánh để làm sáng tỏ nội dung.
<b>2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm</b>
<b>2.1.1. Cơ sở xây dựng Cộng đồng Chính trị - An ninh ASEAN</b>
Những năm gần đây, hợp tác khu vực ASEAN không ngừng được tăngcường và củng cố. ASEAN có thuận lợi về mặt địa lý và cơ sở hạ tầng; đồngthời, mức độ hợp tác và lệ thuộc nhau về kinh tế ngày càng rõ nét; cuối cùng làniềm tin và mong muốn xây dựng một khu vực hịa bình thịnh vượng. Đây chínhlà tiền đề quan trọng để ASEAN xây dựng Cộng đồng Chính trị - An ninh theocách của riêng mình.
<b>* Thuận lợi về mặt địa lý tự nhiên </b>
Yếu tố địa lý có ảnh hưởng khơng nhỏ đối với q trình hợp tác phát triểnkinh tế của các quốc gia thành viên. Vị trí địa lý càng gần thì quan niệm, ý chívề hội nhập khu vực càng rõ nét. Lịch sử đã chứng minh, các quốc gia trongvùng khi có sự liên hệ mật thiết về kinh tế và tương đồng về an ninh, chính trịthì họ dễ dàng thừa nhận các giá trị chung như vấn đề lịch sử và cả những quanđiểm về nhận thức khu vực. Họ dễ tìm ra tiếng nói chung, hợp tác khu vực vì thếsẽ từng bước hình thành.
</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">Về vị trí địa lý, khu vực ASEAN phần lớn giáp với biển. Phía Tây giápẤn Độ Dương, phía Đơng giáp Thái Bình Dương, phía Nam tiếp giáp Châu ĐạiDương, phía Bắc tiếp giáp Trung Quốc đại lục. Điều này làm cho ASEAN đượcchia cắt với các khu vực khác một cách tự nhiên. Các thế lực bên ngồi rất khóđể có thể tấn cơng hoặc gây tổn hại về mặt an ninh đối với ASEAN. Đây có thểxem là ưu thế và là sự khác biệt giữa ASEAN với các khu vực còn lại trên thếgiới.
Về giao thông vận tải, khu vực ASEAN với thế đất bằng phẳng, sơng ngịichằng chịt, hệ thống cao tốc, đường sắt và vận tải hàng không của các quốc giathành viên cơ bản đã được kết nối. Ngoài ra, khu vực ASEAN nằm giữa Ấn ĐộDương và Thái Bình Dương, vì vậy giao thơng đường biển được xem là thếmạnh. Điều kiện giao thông thuận lợi như trên giúp các quốc gia trong vùng hợptác mọi mặt trở nên dễ dàng hơn. Điều kiện tự nhiên thuận lợi không chỉ tăngcường sự kết nối giữa các quốc gia thành viên, mà còn tạo cơ sở để mở rộng sựgiao lưu hợp tác giữa ASEAN với các quốc gia ngoài khu vực.
<b>* Thành quả của hội nhập kinh tế khu vực ASEAN</b>
Từ những năm 80 của thế kỷ XX, để nhanh chóng thích ứng với xu hướngtồn cầu hóa kinh tế, các quốc gia trong ASEAN đã tích cực thúc đẩy tiến trìnhhội nhập kinh tế khu vực và đã gặt hái được những kết quả nhất định. Một mặt,số lượng các nước thành viên trong khối không ngừng tăng. Ngày 8 tháng 8 năm1967 khi ASEAN thành lập chỉ có năm nước gồm Indonesia, Malaysia,Philippines, Thái Lan và Singapore. Bắt đầu từ những năm 1984, Brunei, ViệtNam, Myanmar, Lào và Campuchia lần lượt xin gia nhập tổ chức này.Mặt khác,trình độ hội nhập kinh tế khu vực ASEAN không ngừng được nâng cao và cảithiện. Năm 1992 sau khi ký kết Hiệp định khu thương mại tự do ASEAN, cácquốc gia thành viên đã đạt nhiều thỏa thuận chung về giảm thuế quan, tự do hóađầu tư, …
Nhằm đẩy nhanh tiến trình hội nhập của ASEAN, năm 2007 lãnh đạo cácnước ASEAN đi đến thống nhất và ký kết Hiến chương ASEAN. Hiến chươngcũng nhấn mạnh ý thức về một đại gia đình ASEAN cũng như xây dựng cộngđồng an ninh ASEAN, đồng thời khẳng định ASEAN sẽ tiếp tục đẩy mạnh vàmở rộng quan hệ với các đối tác bên ngồi, vì mục tiêu chung là hịa bình, ổnđịnh và hợp tác cùng có lợi ở khu vực. Trong hơn 50 năm qua, các quốc giathành viên đã không ngừng củng cố và phát triển, tích cực hội nhập sâu rộng vớimong muốn đưa ASEAN chính thức trở thành một cộng đồng gắn kết về chínhtrị, liên kết về kinh tế, cùng chia sẻ trách nhiệm xã hội, tạo nền tảng quan trọngđể ASEAN tiếp tục củng cố và làm sâu sắc các mối liên kết, mang lại lợi íchchung cho tất cả các nước thành viên: Tăng trưởng GDP của ASEAN duy trì ởmức 4,8% năm 2017. Tổng thương mại hàng hóa của ASEAN đạt 2,22 nghìn tỷUSD năm 2016, trong đó 23,5% là thương mại nội khối. Tổng thương mại dịchvụ của ASEAN là 643,4 tỷ USD trong đó 16,6% là thương mại nội khối. Đầu tưtrực tiếp nước ngoài (FDI) vào ASEAN đạt 96,72 tỷ USD năm 2016, trong đó24,8% là đầu tư nội khối ASEAN. Từ đó cho thấy mức độ phụ thuộc giữa cácnền kinh tế trong ASEAN ngày càng lớn. Điều này ít nhiều sẽ khiến các quốc
</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">gia trong khối ASEAN khi xử lý các vấn đề trong khu vực sẽ trở nên thận trọngvà cân nhắc kỹ hơn, hạn chế tối đa xảy ra xung đột.
<b>* Tăng cường niềm tin và khát vọng một nền hịa bình khu vực</b>
Trong lịch sử ASEAN khơng chỉ bị các thế lực phương Tây xâm lược màchiến tranh và xung đột trong nội bộ khu vực cũng thường xuyên xảy ra. Trongđó có thể kể đến cuộc chiến Mỹ – Việt, chiến tranh Đông Dương,… môi trườngkhu vực còn chứa đựng nhiều thách thức đối với mục tiêu duy trì hịa bình, ổnđịnh và an ninh của ASEAN. Hậu quả của các cuộc chiến tranh này khiến nhândân các nước ASEAN càng khát khao một nền chính trị ổn định, tin cậy nhautrong khu vực và xa hơn là một nền hịa bình cho cả thế giới. Bởi nếu cả khu vựckhơng hịa bình ổn định thì hội nhập kinh tế khu vực ASEAN sẽ khó triển khaimột cách hiệu quả.
Cơ chế an ninh khu vực ASEAN đã được hình thành, chủ yếu bao gồm: cơchế an ninh khu vực nội khối như hội nghị cấp cao ASEAN; cơ chế an ninh ngoàikhu vực như ASEAN+1, ASEAN+3, ASEAN+6, ASEAN+x,… Có thể thấy cáccơ chế an ninh của ASEAN vẫn chưa đủ độ chín mùi và có chiều sâu, nhưngASEAN đã phát huy được vai trò trung tâm của mọi sự hợp tác.
Trong quá trình xây dựng Cộng đồng an ninh ASEAN, mong muốn tăngcường niềm tin với nhau đã được các quốc gia thành viên chủ động đẩy mạnh.Họ ln tìm kiếm những biện pháp hịa bình nhằm giải quyết các vấn đề mâuthuẫn và chia rẽ nội bộ. Mục tiêu là bảo đảm không để xảy ra chiến tranh trongnội khối, hướng đến một Cộng đồng an ninh thịnh vượng trong tương lai. Vềtổng thể, lãnh đạo các nước ASEAN luôn hiểu rằng mọi cơ chế hợp tác trong vàngoài khu vực đều phải lấy ASEAN làm trung tâm, đẩy mạnh hợp tác toàn diệnvới 6 quốc gia ngồi khu vực, đồng thời duy trì vai trị, vị trí trung tâm củaASEAN trong các cơ chế hợp tác khu vực.
<b>2.1.2. Khái niệm Cộng đồng chính trị - An ninh * Khái niệm Cộng đồng</b>
Đây là một khái niệm khá trừu tượng. Theo Ernst Hass, một cộng đồng có
<i>hai đặc điểm chính: “1) là tập hợp các thành viên có lịng tin, tình bạn bổ trợlẫn nhau và có trách nhiệm về nhau; 2) các thành viên trong cộng đồng tintưởng vào cộng đồng, tôn trọng cộng đồng và tự gắn bó bản sắc của mình vớicộng đồng”. Một cộng đồng có thể xuất hiện do các thành viên có quan hệ gần</i>
gũi (như có quan hệ huyết thống, có chung đặc điểm văn hóa hoặc địa lý), hoặckhi các thành viên của cộng đồng liên hiệp lại nhằm một mục đích chung mộtcách có ý thức, có tổ chức.
<b>* Khái niệm Cộng đồng Chính trị - An ninh </b>
Về nội hàm của Cộng đồng An ninh hay Cộng đồng Chính trị - An ninhthì ít trừu tượng hơn. Dựa trên lơgíc cộng đồng, Karl Deutsch và các đồng sựcủa ông đưa ra khái niệm Cộng đồng An ninh trong một cơng trình nghiên cứuvề “Cộng đồng chính trị và khu vực Bắc Đại Tây Dương” xuất bản năm 1957.Theo họ Cộng đồng An ninh là một nhóm các nước “đã hội nhập” với nhau bằngcác thể chế chính thức hay phi chính thức, đủ mạnh, có sức lan tỏa để đảm bảosự thay đổi một cách hịa bình và phát triển bền vững giữa các nước thành viên.
</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">Cũng theo họ, cộng đồng an ninh được chia thành hai dạng cơ bản khác nhau là:Cộng đồng An ninh hợp nhất (amalgamated) và Cộng đồng An ninh đa nguyên(pluralistic). Cộng đồng An ninh hợp nhất là loại cộng đồng được thiết lập trêncơ sở hợp nhất giữa hai hay nhiều thực thể tồn tại một cách độc lập trước đóthành một cộng đồng lớn hơn dưới hình thức Liên bang (giống như Hợp chủngquốc Hoa Kỳ hay Liên bang Cộng hịa XHCN Xơ Viết trước đây); Còn Cộngđồng An ninh đa nguyên hay liên kết được thiết lập trên cơ sở liên kết giữa cácquốc gia có chủ quyền, trong đó các thành viên vẫn duy trì sự độc lập về luậtpháp của các thành viên riêng lẻ, giống như mối liên hệ của Mỹ với Canada, củaEU hiện nay...
Một học giả nổi tiếng Amitav Achayrya - một học giả nổi tiếng nghiêncứu về chính trị, an ninh người Inđơnêxia đã phát triển khái niệm trên và chorằng trong Cộng đồng Chính trị - An ninh đa nguyên, động cơ hợp tác khơngphải là lợi ích về mặt quyền lực chính trị hay kinh tế, mà chính là bản sắc đượcchia sẻ, là “cảm nhận về chúng tôi”. Họ cho rằng, một Cộng đồng An ninh đanguyên là “một khu vực bao gồm các nước có chủ quyền mà người dân củanhững nước đó duy trì những kỳ vọng có căn cứ về một sự thay đổi hịa bình”.Một cộng đồng như vậy không chỉ không xảy ra chiến tranh giữa các nước thànhviên, mà cịn khơng có sự chuẩn bị nào cho chiến tranh. Nói một cách khácCộng đồng An ninh tồn tại khi một nhóm quốc gia có chủ quyền đã tạo dựngđược ý thức cộng đồng hay một bản sắc tập thể, nghĩa là họ giải quyết bất đồngmà không dùng vũ lực. Cách tiêp cận trên đang được các nhà hoạch định chínhsách cũng như giới thuật ASEAN xem xét, đã và đang trở thành một trongnhững nền tảng lý thuyết cơ bản cho việc xây dựng Cộng đồng Chính trị - Anninh ASEAN.
<b>2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm2.2.1. Tình hình đặc điểm trường PT Nguyễn Mộng Tuân </b>
Trường PT Nguyễn Mộng Tuân được sự quan tâm của Sở GD&ĐT, Huyện uỷ, HĐND, UBND và các ban, ngành trong huyện; nhân dân trong huyệnđã có nhận thức tích cực về giáo dục, tạo điều kiện thuận lợi cho công tác giảng dạy và học tập.
Đội ngũ giáo viên có năng lực chuyên môn tốt, yêu nghề; thường xuyênhọc hỏi để nâng cao trình độ chun mơn nghiệp vụ; cán bộ, giáo viên trênchuẩn có 28/65 cán bộ, giáo viên đạt 43,1%.
Nhà trường tiếp tục duy trì được nền nếp kỷ cương trong các hoạt động,đặc biệt là hoạt động dạy và học, xây dựng môi trường sư phạm, tạo uy tín trongcha, mẹ học sinh.
Bên cạnh những thuận lợi, nhà trường cũng gặp nhiều khó khăn như: Thiếtbị thí nghiệm, tủ sách tham khảo chưa được nhiều; Chưa có phịng học bộ mơn,nhà tập đa năng; Việc thực hiện Chương trình Giáo dục 2018 cịn gặp nhiều khókhăn…
<b>2.2.2. Vài nét khái quát về tình hình giảng dạy và học tập môn Lịch sửkhối 12 của học sinh trường PT Nguyễn Mộng Tuân</b>
</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">Công tác giảng dạy – học tập môn Lịch sử trường PT Nguyễn Mộng Tuânnhìn chung đạt kết quả ngày càng khả quan. Các em có ý thức trong học tập vàhiểu được ý nghĩa của môn học, chất lượng các bài kiểm ta ngày càng cao. Tuynhiên, chất lượng giảng dạy và học tập bộ mơn cịn hạn chế; Một bộ phận khơngnhỏ cha, mẹ học sinh và học sinh còn nhận thức khơng đúng về vai trị của bộ
<b>mơn cho đó là môn phụ đã ảnh hưởng đến việc học tập. 2.3. Đóng góp của Việt Nam trong APSC</b>
<b>2.3.1. Định hướng xây dựng Cộng đồng</b>
<i>* Khái quát định hướng xây dựng Cộng đồng APSC</i>
Từ việc ra đời Diễn đàn khu vực ASEAN ARF năm 1994, đến ý tưởngxây dựng Cộng đồng An ninh ASEAN vào năm 2003, và quyết định của Hội
<b>nghị Cấp cao ASEAN 2007 về việc xây dựng Cộng đồng Chính trị - An ninh</b>
ASEAN (APSC), như là một trong ba trụ cột chính của Cộng đồng ASEAN làcả một bước tiến dài của các nước thành viên ASEAN. APSC được hình thànhnhằm mục tiêu tạo dựng một mơi trường hịa bình và an ninh cho phát triển ở
<b>khu vực Đơng Nam Á thơng qua việc nâng hợp tác chính trị - an ninh ASEAN</b>
lên tầm cao mới, với sự tham gia và đóng góp xây dựng của các đối tác bênngồi. Hợp tác trong khn khổ APSC bao gồm hợp tác kiến tạo một nền anninh toàn diện ở khu vực, ứng phó với các thách thức an ninh phi truyền thốngnhư tội phạm xuyên quốc gia, khủng bố, ứng phó thiên tai khẩn cấp và hợp tácvề an ninh hàng hải… APSC khơng hướng tới hình thành liên minh quân sự haymột khối phòng thủ chung ở khu vực. Các nước thành viên có quyền tự do theođuổi chính sách đối ngoại riêng, bố trí phịng thủ riêng.
Năm 1994, bắt đầu từ sáng kiến của Indonesia, APSC là bước phát triển
<b>cao hơn của các nỗ lực hợp tác chính trị - an ninh của ASEAN. Trong tuyên bốBali II, thông qua tại Hội nghị cấp cao ASEAN tháng 9 năm 2003 tại Bali,</b>
Indonesia, Cộng đồng An ninh ASEAN (ASC) sau đổi tên thành Cộng đồng
<b>Chính trị - An ninh (APSC) được xác định là một trong 3 trụ cột của Cộng đồngASEAN, nhằm đưa hợp tác chính trị - an ninh khu vực lên tầm cao mới, để các</b>
quốc gia trong khu vực sống hịa bình trong một mơi trường bình đẳng, dân chủvà hịa hợp.
<b>Để tiến tới hình thành Cộng đồng Chính trị - An ninh ASEAN (APSC),</b>
các nước thành viên đã xây dựng một Kế hoạch tổng thể, xác định 157 hoạtđộng hợp tác cụ thể, trong đó tập trung vào 14 lĩnh vực ưu tiên: Việc triển khaiKế hoạch tổng thể APSC được ASEAN nhất trí cao từ các nhà Lãnh đạoASEAN cho tới cấp Bộ trưởng, quan chức cao cấp (SOM) và cấp làm việc thôngqua các cơ chế trong ASEAN như Cấp cao ASEAN, Cộng đồng điều phốiASEAN (ACC), Cộng đồng APSC, Diễn đàn Biển ASEAN (AMF) và nhiều cơquan chuyên ngành khác nhau. Bên cạnh đó, ASEAN cũng tăng cường hợp tácvới các nước đối thoại và đối tác của ASEAN tại các diễn đàn/cơ chế khu vựcnhư Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF), ASEAN+3, Cấp cao Đông Á (EAS), Hộinghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN mở rộng (ADMM+), Diễn đàn BiểnASEAN mở rộng (EAMF).
Kế hoạch hành động xây dựng APSC được thông qua tại Hội nghị Cấp
</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">cao ASEAN lần thứ 10 vào tháng 11 năm 2004 đã khẳng định lại các mục tiêuvà nguyên tắc cơ bản của Hiệp hội và đề ra 6 lĩnh vực hợp tác chính gồm: Hợptác chính trị; Xây dựng và chia sẻ chuẩn mực ứng xử; Ngăn ngừa xung đột; Giảiquyết xung đột; Kiến tạo hịa bình sau xung đột và Cơ chế thực hiện. Kèm theođó là danh mục 75 hoạt động cụ thể để xây dựng APSC.
Là bộ phận gắn bó khăng khít, một thành viên có trách nhiệm trongASEAN, tương lai phát triển của Việt Nam sẽ tiếp tục gắn với ASEAN. Mộtcộng đồng ASEAN vững mạnh, liên kết chặt chẽ chính là ưu tiên và lợi ích màViệt Nam theo đuổi.
Trước những hoạt động tôn tạo, bồi đắp quy mô lớn ở biển Đông, ảnhhưởng nghiêm trọng đến niềm tin, sự tin cậy giữa các nước liên quan, ảnh hưởngđến hịa bình và an ninh trong khu vực, Việt Nam luôn nêu cao tinh thần đồnkết trong ASEAN, kiên trì tn thủ các ngun tắc tự kiềm chế, khơng làm phứctạp thêm tình hình, giải quyết các tranh chấp bằng biện pháp hịa bình, trên cơ sởluật pháp quốc tế, trong đó có Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển 1982; thựchiện nghiêm túc, đầy đủ Tuyên bố về ứng xử của các bên ở biển Đông (DOC) vàsớm thông qua Bộ Quy tắc Ứng xử ở biển Đông (COC).
Việt Nam cũng tích cực triển khai các sáng kiến của Hội nghị Bộ trưởngQuốc phòng ASEAN (ADMM) về thiết lập đường dây liên lạc trực tiếp giữa Bộtrưởng Quốc phòng các nước ASEAN; chủ trì tổ chức thành cơng Diễn đàn BiểnASEAN (AMF) và Diễn đàn biển ASEAN mở rộng (EAMF), góp phần nângcao vai trò của diễn đàn đối với hòa bình, ổn định, an ninh, an tồn biển cũngnhư tự do hàng hải trong khu vực và tham gia các hoạt động cụ thể của ASEANcũng như giữa ASEAN với các đối tác về phòng, chống khủng bố và các loại tộiphạm.
Là một thành viên tích cực của ASEAN, Việt Nam đã đưa ra nhiều đềxuất, trong đó có những đề xuất liên quan đến xây dựng lòng tin, đưa nhữngchuẩn mực của ASEAN như Tuyên bố về Hiệp ước thân thiện ASEAN,… thànhmột trong những chuẩn mực của toàn khu vực với mục tiêu xây dựng một khuvực hòa bình, ổn định.
Việt Nam hiện đang tiếp tục cùng các nước thành viên ASEAN đẩy mạnhđoàn kết, tăng cường hợp tác để hiện thực hố thành cơng tầm nhìn về một cộngđồng ASEAN gắn kết về chính trị, liên kết về kinh tế và có trách nhiệm xã hội,nơi người dân các quốc gia thành viên được sống trong hoà bình, an ninh và ổnđịnh bền vững, tăng trưởng kinh tế lâu dài, thịnh vượng chung và tiến bộ xã hộiViệt Nam đã nhanh chóng nối lại, nâng cấp và thiết lập quan hệ ngoại giao vớitất cả các nước ASEAN sau năm 1975. Năm 1976, Cộng hòa xã hội chủ nghĩaViệt Nam chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao với 2 nước cuối cùng củaASEAN là Thái Lan và Philippin. Các chuyến thăm cấp cao của Đảng và Nhànước, trong đó có thủ tướng Phạm Văn Đồng trong những năm 1977 – 1978 đếnhàng loạt nước ASEAN đã khởi động, nối lại các mối quan hệ truyền thống. Tuynhiên, cho tới cuối những năm 1980 của thế kỷ XX, Việt Nam chưa đặt mục tiêutham gia ASEAN.
Sau năm 1979, khi Việt Nam đưa quân tình nguyện vào Campuchia thì
</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">quan hệ Việt Nam – ASEAN trở nên căng thẳng. Các nước ASEAN phản đốimạnh mẽ vấn đề này. Thế nhưng từ năm 1982 khi Việt Nam đơn phương tuyênbố rút quân khỏi Campuchia thì thái độ của nhiều nước ASEAN trở nên mềmdẻo, mở lại các cuộc đối thoại với Việt Nam. Tất cả những nỗ lực mới này đãđưa đến ký kết Hiệp định Pari năm 1991 về Giải pháp Chính trị tồn bộ cho vấnđề Campuchia.
Bắt đầu từ cuối những năm 1980, đặc biệt từ đầu những năm 1900, khi sựđối đầu của chiến tranh lạnh kết thúc, Việt Nam đã trở nên linh hoạt trong mởrộng hợp tác với các nước trên thế giới, trước hết là các nước ASEAN. Với Hiệpđịnh Pari về Campuchia được ký kết, các nước ASEAN đã có những động tháimới.Về phần mình, các nước Đơng Dương trong đó có Việt Nam đã có nhữngđáp ứng tích cực: Ngày 22 tháng 07 năm 1992, Việt Nam cùng với Lào đã kývăn kiện thm gia Hiệp ước TAC nhân Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN25 tổ chức tại Philippin (AMM 25). Đồng thời hai nước này cũng trở thành quansát viên của ASEAN, mở đầu trang mới trong quan hệ hợp tác Việt Nam trongASEAN. Tuy mới chỉ là quan sát viên, Việt Nam đã trở thành một trong nhữngnước sáng lập Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF) vào năm 1993. Tiếp đến vàongày 28 tháng 07 năm 1995, do nỗ lực từ hai phía và tác động của xu hướng khuvực hóa, Việt Nam chính thức gia nhập ASEAN, mở đầu trang sử mới củaASEAN cũng như bước ngoặt lịch sử hội nhập khu vực.
<b>ASEAN từ một Hiệp hội đã trở thành Cộng đồng với ba trụ cột: chính trị an ninh, kinh tế, văn hóa - xã hội. Trụ cột chính trị - an ninh được xây dựng từ</b>
-nền tảng các cơ chế an ninh - chính trị khu vực. Từ Diễn đàn khu vực ASEANARF (1994), đến ý tưởng xây dựng Cộng đồng An ninh ASEAN (ASC - 2003),và Cộng đồng Chính trị - An ninh ASEAN (APSC - 2007), là bước tiến quantrọng của ASEAN. Theo kế hoạch tổng thể, APSC khi hình thành sẽ gồm 3 đặcđiểm chính: (1) Một cộng đồng hoạt động theo luật lệ trên cơ sở các giá trị vàchuẩn mực chung; (2) Một khu vực gắn kết, hịa bình, ổn định và tự cường, chiasẻ trách nhiệm vì một nền an ninh tồn diện; (3) Một khu vực năng động, rộngmở với bên ngoài trong một khu vực ngày càng liên kết chặt chẽ và tùy thuộclẫn nhau.
<i>* Định hướng cho sự tham gia của Việt Nam trong cộng đồng Chính trị An ninh ASEAN</i>
-- Một là, Vai trị của AC nói chung, APSC nói riêng đối với việc duy trìhịa bình, ổn định, an ninh đối với khu vực, cần nâng cao nhận thức hơn nữa.Hiện tại việc hoàn thành xây dựng các nội dung, mục tiêu của APSC vẫn chưamang lại các kết quả như mong đợi như nâng cao tình đồn kết, xây dựng tínhcố kết trong ASEAN. Tuy nhiên, xu hướng tới xây dựng một AC nói chung, mộtAPSC với nội dung trụ cột như hợp tác chính trị, xây dựng lịng tin, ngăn ngừaxung đột, vẫn đang được tất cả các nước thành viên hướng tới và là một xu thếchủ đạo. Việt Nam và các nước thành viên cần tiếp tục đẩy mạnh hợp tác hơnnữa nhằm hoàn thành càng nhiều cái tốt, nhưng mục tiêu, nội dung đã đề ra:Cộng đồng Chính trị - An ninh ASEAN trở thành hiện thực sẽ là một thể chế,một công cụ hữu hiệu duy trì hịa bình, ổn định khu vực. Thơng qua đó, APSC
</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">trở nên một phương tiện có lợi chi Việt Nam trong việc bảo vệ lợi ích quốc gia,dân tộc và hội nhập quốc tế có hiệu quả.
- Hai là, cùng với các nước thành viên ASEAN cần tập trung vào việc xâydựng và định hình rõ nét hơn về xu hướng, vị thế được hầu hết các cường quốc,các đối tác đối thoại chủ yếu của ASEAN thừa nhận, đó là xây dựng ASEAN trởthành một trung tâm một thể chế dẫn dắt trong các hoạt động hợp tác chính trị,an ninh giữa ASEAN với các đối tác trong khu vực và trên thế giới. Với ViệtNam mục tiêu của Cộng đồng chung ASEAN là: xây dựng Hiệp hội thành mộttổ chức liên chính phủ vững mạnh với mức độ liên kết sâu sắc hơn và trên cơ sởpháp lý Hiến chương ASEAN, không phải một tổ chức siêu quốc gia, khép kínmà vẫn mở rộng hợp tác với bên ngồi. Trong đó, các thiết chế để ASEAN trởthành trung tâm, một thể chế dẫn dắt được thể hiện trước hết trong các hội nghịARF, trong các thể chế ASEAN+1 với Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, trongASEAN+3, hợp tác Đông Á với các đối tác khác. Mặt khác, với tư cách là làmột tổ chức giữ vai trò trung tâm, dẫn dắt, Việt Nam cùng các nước thành viêncần chủ động đưa ra các sáng kiến hợp tác để có thể lơi kéo các nước lớn, đưahọ cùng ngồi lại với nhau để có thể thúc đẩy hợp tác có hiệu quả. Mặc dù, giữacác nước lớn, nhất là Mỹ và Trung Quốc, đang cạnh tranh ảnh hưởng rất lớn vàcó xu hướng lấn át ASEAN nhưng tất cả cũng đang rất cần ASEAN trong cạnhtranh chiến lược và nâng cao vai trò ảnh hưởng của họ đối với khu vực. Thực sựđây đang là một lợi thế để ASEAN nói chung, Việt Nam nói riêng có thể pháthuy và xây dựng ASEAN trở thành một thể chế trung tâm, dẫn dắt trong cáchoạt động hợp tác chính trị an ninh, góp phần duy trì hịa bình, ổn định trongkhu vực: Việt Nam tạo dựng bản sắc đối ngoại, hội nhập quốc tế sâu rộng càngcần thể hiện rõ bản sắc đối ngoại để khơng bị hịa tan và xác định rõ vị trí, giá trịcủa quốc gia trên trường quốc tế.
- Ba là, Việt Nam nằm ở vị trí chiến lược trong cạnh tranh ảnh hưởng giữacác nước lớn trong khu vực, nhất là cạnh tranh chiến lược Mỹ - Trung Quốc.Việc cân bằng ảnh hưởng Mỹ - Trung và giữa các cường quốc tại khu vực đượcđặt ra đối với toàn bộ các nước thành viên ASEAN nhưng trọng tâm lại là cácnước có tranh chấp chủ quyền với Trung Quốc trên biển Đơng, nhất là Việt Namvà Philippin. Vì vậy: Việt Nam phải thực sự là nước đi đầu trong việc thực hiệnchính sách đối ngoại cân bằng và vậm động các nước thành viên khác trongASEAN cùng duy trì chính sách cân bằng ảnh hưởng giữa các nước lớn đối vớikhu vực. Do đó, Việt Nam cùng các nước thành viên khác phải coi sự can dựcủa các nước lớn tại khu vực là điều cần thiết. Đây là cách thức không thể nàokhác bởi trên thực tế giữa các nước trong ASEAN đã có những quan điểm khácnhau về vai trò và sự can dự của Mỹ trên biển Đông.
<b>2.3.2. Cùng ASEAN tiến đến các mục tiêu đã đề ra </b>
Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 16, Cấp cao đầu tiên của ASEAN doViệt Nam chủ trì trong nhiệm kỳ Chủ tịch ASEAN diễn ra tại Hà Nội đã thànhcông tốt đẹp, thể hiện một bước khởi đầu quan trọng trong các nỗ lực của nướcChủ tịch và ASEAN nhằm hiện thực hóa ưu tiên đẩy mạnh hành động hướng tớixây dựng Cộng đồng. Lãnh đạo các nước ASEAN đạt nhất trí cao và quyết tâm
</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">mạnh mẽ thúc đẩy triển khai có hiệu quả và đúng tiến độ Lộ trình xây dựngCộng đồng, đưa Hiến chương ASEAN thực sự đi vào cuộc sống, cũng như đề racác cam kết và hành động thiết thực nhằm tăng cường hợp tác ứng phó với cácthách thức đang nổi lên, trong đó có thúc đẩy phục hồi kinh tế, phát triển bềnvững và ứng phó với biến đổi khí hậu. Đồng thời, ASEAN cũng khẳng địnhquyết tâm duy trì và tăng cường vai trị trung tâm của Hiệp hội ở khu vực bằngviệc tăng cường đoàn kết, liên kết và xây dựng Cộng đồng, nâng cao tính chủđộng trước những địi hỏi to lớn của nhiệm vụ và những biến chuyển nhanhchóng của tình hình khu vực và quốc tế. Những kết quả tích cực của Hội nghịnày sẽ tạo đà thuận lợi để ASEAN tiếp tục các nỗ lực đẩy nhanh liên kết khuvực, góp phần tạo một xung lực phát triển mới mạnh mẽ và hiệu quả hơn, tiếngần hơn đến mục tiêu xây dựng Cộng đồng đã đề ra.
Nhiệm vụ của Việt Nam trên cương vị Chủ tịch ASEAN, nhất là để đẩymạnh mục tiêu xây dựng Cộng đồng ASEAN như Lộ trình đã đề ra là khơng đơngiản. Lộ trình xây dựng Cộng đồng ASEAN đề ra: khoảng 800 mục tiêu hành
<b>động cho tiến trình xây dựng cả 3 trụ cột Chính trị An ninh, Kinh tế, Văn hóa </b>
-Xã hội và Thu hẹp khoảng cách phát triển trong khi thời gian trước mắt đối vớiASEAN chỉ còn 5 năm. Đây là khối lượng công việc to lớn, địi hỏi cam kếtchính trị mạnh mẽ cùng với nỗ lực và nguồn lực đáng kể của ASEAN. Là nướcChủ tịch, Việt Nam sẽ cùng các nước thành viên trong Hiệp hội đề ra cácphương hướng và biện pháp cụ thể nhằm triển khai thực hiện nghiêm túc vàđúng tiến độ các mục tiêu hành động của ASEAN.
Việt Nam luôn xác định một ASEAN liên kết chặt chẽ, đoàn kết và thốngnhất, có vai trị và vị thế quốc tế quan trọng là phù hợp với lợi ích cơ bản và lâudài của chúng ta. Việt Nam đã nỗ lực cùng ASEAN thúc đẩy và triển khai mụctiêu xây dựng Cộng đồng ngay từ những ngày đầu, và nhất là trong giai đoạnbản lề quan trọng hiện nay, khi ASEAN đang gấp rút đẩy mạnh tiến trình xâydựng Cộng đồng, đồng thời khi Việt Nam đang đảm nhiệm vai trò Chủ tịchASEAN. Cam kết của Việt Nam đối với ASEAN và mục tiêu xây dựng Cộngđồng ASEAN là nhất quán và kiên định. Theo đó, chúng ta quyết tâm tập trungnguồn lực cần thiết, có kế hoạch và lộ trình cụ thể để cùng các nước thành viênkhác đẩy mạnh việc thực hiện các thỏa thuận về xây dựng Cộng đồng ASEAN.Hoàn thành tốt nhiệm vụ Chủ tịch ASEAN 2010 sẽ giúp nâng cao vai trò và vịthế quốc tế của Việt Nam, đề cao hình ảnh một nước Việt Nam đổi mới và năngđộng, có đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hịa bình, hợp tác và phát triển.
</div>