Tải bản đầy đủ (.pdf) (146 trang)

Luận văn thạc sĩ Quan hệ quốc tế: Chính sách hạt nhân IRAN - Nguyên nhân và triển vọng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (40.91 MB, 146 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

LÊ GIANG

LUAN VAN THAC Si

Chuyén nganh: Quan hé quéc té

<small>Hà Nội — 2011</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

ĐẠI HỌC QUOC GIA HÀ NỘI

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

1.2 Cấp độ quốc gia 24

<small>1.2.1 Ảnh hưởng của tơn giáo 24</small>

<small>1.2.2 Bối cảnh chính trị - xã hội ở Iran 281.2.3 Nhu cầu năng lượng dé phát triển kinh tế 30</small>

1.3. Cấp độ liên quốc gia/ khu vực 32

<small>1.3.1 Tinh hình Trung Đơng 32</small>

<small>1.3.2 Tình trạng cô lập tương đối của Iran ở khu vực 371.3.3 Sự hiện diện của quân đội Mỹ ở khu vực va mối đe dọa Israel 431.3.4 Cạnh tranh quyền lực trong khu vực 45</small>

1.4 Cấp độ toàn cầu/hệ thống 47

<small>1.4.1 Xu hướng phát triển điện hạt nhân 471.4.2 Ảnh hưởng của hệ thống quốc tế 491.4.3 Mau thuẫn Bắc - Nam và chống chủ nghĩa bá quyền 51</small>

Chương 2: Chương trình hạt nhân Iran va phan ứng của quốc té 55

<small>2.1 Chương trình hạt nhân gây tranh cãi của Iran 55</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

2.2 Các cô gang giải quyết van đề hạt nhân Iran 60

<small>2.2.1 Diễn biến quá trình giải quyết van đề hạt nhân Iran 602.2.2 Quan điểm của các nước đối với chương trình hạt nhân Iran 76</small>

Chương 3: Triển vọng chương trình hạt nhân Iran 86

3.1 Triển vọng cham dứt chương trình hat nhân Iran 86

<small>3.1.1 Chính trị nội bộ cua Iran 883.1.2 Giải pháp quân sự 93</small>

<small>3.1.2.1 Triển vọng Israel can thiệp quân sự vào Iran 943.1.2.2 Triển vọng Mỹ can thiệp quân sự vào Iran 100</small>

3.2 Triển vọng chương trình hạt nhân Iran duy trì và phát triển 107

Kết luận 119

<small>Tai liệu tham khảo 124Phụ lục 1 138Phu luc 2 140Phu luc 3 142</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

Mở đầu

1. Ly do lựa chọn đề tài: Van dé hạt nhân Iran hiện nay dang là một trong

những tâm điểm của quan hệ quốc tế, được đánh giá có tác động quan trọng tới sựơn định của khu vực Trung Đông và cuộc đấu tranh chống pho biến vũ khí hat nhân(VKHN) toản cầu. Chương trình hạt nhân (CTHN) Iran được chính quyền quân chủPahlavi lên kế hoạch ngay từ những năm 1950, khởi động trong những năm 1960 và

được đây mạnh vào đầu những năm 1970. Dưới sự lãnh đạo của chính quyền quân

<small>chủ Pahlavi, CTHN Iran đã nhận được sự ủng hộ và giúp đỡ của Mỹ và phương</small>

Tây. Tuy nhiên, sau khi được chính quyền Cộng hịa Hồi giáo Iran khơi phục vàonăm 1982, CTHN Iran gặp phải sự nghi ngờ, phản đối, từ chối hợp tác và ngăn cản

từ phía Mỹ và nhiều nước. Từ cuối năm 2002, CTHN Iran chính thức trở thành một

“vấn đề” nhận được sự quan tâm đặc biệt của Mỹ, Israel, Liên minh châu Âu (EU),

<small>các nước Arập vả nhiêu nước khác.</small>

Y nghĩa khoa học: CTHN Iran có thé được coi là một “nghiên cứu trườnghop” trong nghiên cứu quan hệ quốc tế, có thê dùng dé chứng minh cho các quanđiểm của chủ nghĩa hiện thực. Ngồi ra, qua việc phân tích chính sách hạt nhân Iran

và đánh giá triển vọng của nó, luận văn cũng muốn làm rõ hơn việc áp dụng phương

pháp phân tích cấp độ trong nghiên cứu quan hệ quốc tế vào một trường hợp cụ thểtrong quan hệ quốc tế.

Ý nghĩa thực tiễn: Về cơ bản, CTHN Iran ít có ảnh hưởng trực tiếp đến Việt

Nam. Tuy nhiên, trong bối cảnh Việt Nam hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng,chính sách hạt nhân của Iran cần được phân tích tồn diện hơn nhằm rút ra bài họcthực tiễn trong quan hệ quốc té. Ngoai ra, đối với một khu vực thiếu ôn định va

nhiều mâu thuẫn chồng chéo như Trung Đơng, việc nghiên cứu các vấn đề kinh tế chính trị - xã hội - văn hóa của các quốc gia Trung Đơng, trong đó có lran, cũng

<small>-như các van đê gây mâu thuẫn chính của khu vực có ý nghĩa quan trọng đôi với</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

quyết định tăng cường đầu tư, thâm nhập thị trường Trung Đông và hoạch địnhchính sách đối ngoại của Việt Nam với mỗi quốc gia Trung Đông. Hiện nay, CTHN

của Iran đang là một trong những van dé có nhiều ảnh hưởng đối với sự ồn định của

<small>khu vực và quôc tê cân được quan tâm nghiên cứu và dự báo.</small>

Khi nghiên cứu van đề hạt nhân Iran, chúng ta thấy xuất hiện nhiều nghịch lý

cho phép quốc tế nghi ngờ về ban chat của CTHN ma Iran đang theo đuôi: thi nhát,

chính phủ Iran khang định CTHN Iran hồn tồn dân sự nhưng luôn hợp tác hạn chếvới Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế (IAEA); tht hai, lợi ích mà CTHN dânsự thuần túy mang lại cho Iran không tương xứng với những thiệt hại mà Iran đangphải gánh chịu hiện nay; thi ba, Iran kiên quyết không từ bỏ quyền làm giàuuranium với lý do kinh tế và đảm bảo sự tự chủ hoàn toàn về năng lượng nhưng trên

thực tế, với trữ lượng và chất lượng nguồn uranium, Iran khơng có lợi thế so sánh

về sản xuất điện hạt nhân (DHN) và cũng không thé đảm bảo sự tự chủ hồn tồn về

<small>qua trình tao ra nhiên liệu cho các lị phản ứng... Ngồi ra, việc Iran không từ bỏ</small>

hoạt động làm giàu uranium cũng đồng nghĩa với việc lran bảo lưu khả năng

chuyển đôi giữa các CTHN dân sự - quân sự hoặc theo đuôi đồng thời hai CTHN:

quân sự - bí mật và dân sự - công khai. Tuy nhiên, do thiếu bằng chứng và kết luận

của IAEA về bản chất CTHN Iran và khả năng chuyên đổi giữa các CTHN dân

su-quân sự, chúng ta khơng thé khang định Iran đang tìm cách sở hữu VKHN như cáobuộc của Mỹ, Israel va nhiều nước khác. Hơn nữa, mức độ xác thực của những cáo

buộc của Mỹ và Israel đối với CTHN Iran cũng cần được xem xét do mối quan hệthù địch giữa các bên và chính sách hai mặt của Mỹ trong van đề chống phổ biến

Vì vay, về lý thuyết, phân tích chính sách phat triển hạt nhân của Iran theo bốncấp độ phân tích quan hệ quốc tế có thể giúp chúng ta nhận định đúng dan hơn vềban chất CTHN mà Iran đang theo đi và qua đó, có gắng trả lời câu hỏi: “Tai sao

<small>Iran sẵn sảng chấp nhận một cái giá khá đắt dé theo đi CTHN”. Ngồi ra, trên cơ</small>

<small>sở kêt hợp trả lời câu hỏi nói trên với diễn biên và quan diém một sô nước trong qua</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

<small>trình giải quyêt van đê hạt nhân Iran, luận văn cũng cô gang đưa ra một sô nhận</small>

định về CTHN Iran trong tương lai gan.

2. Lịch sử nghiên cứu van đề: Từ cuối năm 2002, chủ đề về CTHN Iran bắtđầu thu hút sự quan tâm nghiên cứu của giới học thuật ở nhiều nước. Cho đến nay,phan lớn các tác pham phân tích về CTHN Iran là các bài bình luận ngắn hoặc trung

<small>bình mang tính thời sự trên các báo và tạp chí chuyên ngành. Bên cạnh đó, trong vài</small>

năm gan đây, sách nghiên cứu về CTHN Iran của cá nhân và tập thé tác gia

cũng thường xuyên được phát hành. Một số tác pham tiêu biéu có thé kê đến như:

<small>- Iran trong khủng hoảng?: tham vọng hạt nhân va sự phan ứng của người Mỹ</small>

<small>(Iran in crisis?: nuclear ambitions and the American response) của Roger Howard</small>

(nhà xuất ban (NXB) Zed Book, Anh, 2004). Trong tác phẩm, thơng qua việc phântích vai trị các cá nhân, các thế lực chính trị ở lran và Mỹ; vi trí địa chính trị quantrọng của lran; mối liên hệ của Iran với chủ nghĩa khủng bố quốc tế; tham vọng hạtnhân của Iran; chính sách đối nội và đối ngoại của lran; cơ cấu kinh tế - chính trị -xã hội ở Iran và các vấn đề mà Iran đang phải đối mặt như sự yếu kém trong quản lýkinh tế vĩ mô, mâu thuẫn chính trị nội bộ, bất ơn xã hội... R.Howard đã cung cấpmột cái nhìn tương đối tồn diện, biện chứng, công bằng về Iran và quan hệ Iran -Mỹ. Theo tác giả, CTHN Iran chỉ là một trong nhiều hành động của Iran nhằm đáp

<small>trả chính sách thù dich từ phía Mỹ. Tuy nhiên, với bai học rút ra từ Iraq, tác gia cho</small>

rằng thay vì tìm cách thay đổi chế độ ở Iran hoặc kiềm chế Iran, Mỹ nên cải thiệnquan hệ và hợp tác với Iran. Nhìn chung, đây là một trong số ít các tác phâm hiệnnay đưa ra được những đánh giá tương đối công bằng và toàn diện đối với quan hệ

<small>Mỹ - Iran và CTHN của Iran.</small>

<small>- Tham vọng hạt nhân Iran („an s Nuclear Ambitions) của Shahram Chubin,</small>

do t6 chức phi chính phủ Carnegie Endowment for International Peace phát hànhnăm 2006. Đây cũng là một trong số ít tác phẩm đánh giá tồn diện và khách quan

<small>về vân đê hạt nhân Iran. Trên cơ sở phân tích các động lực, nhận thức, chính trị</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

trong nước, chính sách đối ngoại của Iran và lịch sử CTHN Iran, Shahram Chubin

cho rằng trung tâm của van dé hạt nhân Iran không han có nguồn gốc từ CTHN Iran

mà đúng hơn, có nguồn gốc từ các chính sách, hành vi cua Iran, như một nhà nướccách mạng đầy tham vọng, đã gây ra các xung đột lợi ích với các quốc gia phươngTây và các quốc gia trong khu vực Trung Đông.

- Iran, bom và sự rũ bỏ trách nhiệm của các quốc gia (L’Iran, la bombe et la

<small>démission de nations) của Thérès Delpech (NXB Autrement, Pháp, 2006). Tác</small>

phẩm tập trung khai thác ba nội dung chính: thứ nhất, khang định Iran đang pháttriển CTHN quân sự và phân tích các ảnh hưởng của nó đối với khu vực và thé giới;thứ hai, phân tích quan điểm, chính sách của các cường quốc (Mỹ, EU, Trung Quốc,Nga, Ấn Ðộ), IAEA cùng một số nước khác (Triều Tiên, Pakistan, Ai Cập, Saudi

Arabia, Israel) trong việc giải quyết van đề hạt nhân Iran; thứ ba, phân tích một số

kịch bản dé giải quyết van dé hạt nhân Iran. Nhìn chung, tác giả ủng hộ chuyên hỗsơ hạt nhân Iran lên Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc (UNSC) đồng thời, cho rằng

các cuộc đàm phan là cái bay của Iran, giúp Iran có thêm thời gian dé hồn thiệncơng nghệ chuyền đổi và làm giàu uranium. Tác giả cũng chỉ trích chính sách cứng

nhắc của một 36 quốc gia cũng như chính sách chờ đợi, chủ nghĩa cơ hội của một số

quốc gia khác đã tạo điều kiện cho Iran tiến xa hơn trên con đường sở hữu VKHN

<small>và đe dọa sự ôn định của thê giới.</small>

Ngồi ra, cịn có các tác phâm khác như: Lựa chọn hạt nhân của Iran: Sự tìm

kiếm bom nguyên tử của Tehran (Jran’s nuclear option: Tehran's Quest for the

Atom Bomb) của AI J.Venter (NXB Casemate, Mỹ, 2005); Cuộc chiến cuối cùngcủa Iran hạt nhân: Sứ mệnh cứu thế của Hồi giáo cực đoan nhằm tiêu điệt Israel và

<small>hủy hoại nước Mỹ (Showdown with nuclear Iran: Radical Islam’s messianicmission to destroy Israelan cripple the United States) của nhóm tac gia Mike Evans,Michael D.Evans va Jerome R.Corsi (NXB Nelson Current, Mỹ, 2006); Iran hat</small>

<small>nhân: Sự mở dau cho Chiến tranh thé giới thứ III (Nuclear Iran: A Prelude to</small>

WwIIl) của Anthony Kairouz (NXB AuthorHouse, Mỹ, 2007); Mối de doa Iran:

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

Tổng thống Ahmadinejad và tương lai cuộc khủng hoảng hạt nhân (The Iran

<small>Threat: President Ahmadinejad and the Coming Nuclear Crisis) của AlirezaJafarzadeh (NXB Palgrave MacMillan, Mỹ, 2008); Iran và VKHN: xung đột kéo</small>

dai và phổ biến hạt nhân (Jran and nuclear weapons: protracted conflict and

<small>proliferation) cua Saira Khan (NXB Taylor & Francis, Anh, 2009); Cuộc khủng</small>

hoảng thứ 6: Iran, Israel, Mỹ và những tin đồn về chiến tranh (The Sixth Crisis:

<small>Tran, Israel, America, and the Rumors of War) của hai tac giả Dana Allin va StevenSimon (NXB Oxford University Press, 2011)...</small>

Một số ấn phẩm tiêu biểu của các trung tâm nghiên cứu, các trường đại học,cơ quan trực thuộc chính phủ, phi chính phủ có thé kê đến như: Báo cáo “San sàng

<small>cho một Iran hạt nhân” (Getting Ready For a Nuclear Ready Iran) năm 2005 của</small>

Trung tâm giáo dục về ngăn chặn phổ biến VKHN (NPEC); Chuyên dé Vũ khí hủy

<small>diệt hàng loạt của Iran (Iran's weapons of mass destruction) của Trung tâm nghiên</small>

cứu chiến lược và quốc tế (CSIS): Mối đe dọa thực tế và tiềm năng (The real andpotential threat) năm 2006; Tiém nang, su phat triển va chiến lược không ồn định

(Capabilities, Developments, and Strategic Uncertainties) năm 2008; Sự khởi dau

<small>của cuộc chạy dua vũ trang hat nhân ở khu vực? (The Birth of a Regional Nuclear</small>

Arms Race?) năm 2009: CTHN Iran: Thực tế và hậu quả (Iran's Nuclear Program:Realities and Repercussions) của Viện nghiên cứu chiến lược Các tiêu vương quốcArập thống nhất (UAE) công bố năm 2006; Báo cáo thường niên của Hội đồng tìnhbáo quốc gia Mỹ (NIC) “Đánh giá tình báo quốc gia: Mục đích và khả năng hạt

<small>nhân của Iran” (Iran: Nuclear Intentions and Capabilities) năm 2007; Các đánh giá</small>

hệ thong của Viện nghiên cứu chiến lược quốc tế (IISS) ở London, Anh: Chươngtrình vũ khí chiến lược của Iran (Iran's strategic weapons programmes) năm 2005;

<small>Năng lực tên lửa đạn đạo cua Iran (U/ran's Ballistic Missile Capabilities) năm 2010và Năng lực (vũ khí) hạt nhân, hóa học, sinh học cua Iran (Iran s Nuclear, Chemical</small>

<small>and Biological Capabilities) năm 2011...</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

Nhìn chung, phần lớn các tác phẩm nêu trên (chủ yếu được xuất bản hoặc

công bố ở Mỹ, Anh) có xu hướng khang định Iran đang tìm cách sở hữu VKHN va

đánh giá việc Iran có VKHN như một thảm họa đối với khu vực và toàn cầu. Vớiquan điểm và nội dung như vậy, mặc dù là những tài liệu chứa đựng nhiều thông tin

nhưng được xử lý khơng thực sự khách quan và có thể, nhằm góp phần tăng tínhthuyết phục cho các cáo buộc của các chính phủ phương Tây đối với CTHN Iran

cũng như, tạo dư luận xã hội ủng hộ chính sách trừng phạt kinh tế, cô lập ngoại giao

và can thiệp quân sự nhằm ngăn chặn CTHN Iran. Vì vậy, với các nguồn nói trên,

mặc dù chứa đựng nhiều thơng tin nhưng người viết hạn chế sử dụng dé có được cái

<small>nhìn khách quan hơn về vân đê hạt nhân Iran.</small>

Ở Việt Nam, chủ đề về CTHN Iran chưa được quan tâm, nghiên cứu nhiều.Phần lớn các bài viết về chủ đề nói trên là tin tức thời sự hoặc các bài phân tích

được dịch từ các tạp chí chuyên ngành nước ngồi. Ngồi ra, cũng có một số bàiphân tích ngắn về vấn đề hạt nhân Iran trên tạp chí chuyên ngành quan hệ quốc tế

như Nghiên cứu quốc tế của Học viện Ngoại giao, Tạp chí nghiên cứu châu Phi vàTrung Đông của Viện nghiên cứu Trung Đông và châu Phi... Vấn đề hạt nhân Iran

thường chỉ được đề cập như một phần nhỏ trong tổng thê phân tích về khu vựcTrung Đông trong các tác pham: “Trung Đông trong thé ky XX - Lịch sử” của TS.Nguyễn Thọ Nhân (NXB Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, 2008); “Trung Đông:Những vấn đề và xu hướng kinh tế - chính trị trong bối cảnh quốc tế mới” do

PGS.TS. Đỗ Đức Định chủ biên (NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 2008); Một số vấn

đề kinh tế, chính trị nỗi bật của Trung Đông và xu hướng đến năm 2020 do TS. BùiNhật Quang chủ biên (NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 2010). Các tác phẩm nướcngoài nghiên cứu về van dé hạt nhân Iran nói trên cũng chưa được dịch và xuất bảnở Việt Nam. Nhìn chung, theo tìm hiểu của người viết, chưa có một cơng trình

<small>nghiên cứu trong nước hay một cơng trình nghiên cứu nước ngoài nào được giớithiệu ở Việt Nam nghiên cứu một cách toàn diện về van dé hạt nhân Iran.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu là chính sách hạtnhân của Iran: nguyên nhân, nội dung, mối quan hệ tác động qua lại với các quốc

gia trong khu vực, các cường quốc, các tổ chức quốc tế đa phương trong hệ thống

<small>quôc tê hiện nay.</small>

Phạm vi nghiên cứu: tập trung vào giai đoạn từ cuối năm 2002 đến cuối tháng12 năm 2010, có mở rộng về giai đoạn CTHN Iran dưới chế độ Pahlavi và giai đoạn

được chính quyền Cộng hịa Hồi giáo Iran khôi phục lại từ năm 1982 - 2002 khi

nghiên cứu nội dung quá trình phát triển CTHN Iran.

4. Mục tiêu nghiên cứu: Thứ nhất, cố gắng làm rõ nguyên nhân Iran theođuổi CTHN gây tranh cãi thông qua việc phân tích vai trị của một số cá nhân quantrọng trong hệ thống chính trị Iran; ảnh hưởng của các yếu tố tơn giáo, kinh tế,

chính trị, xã hội ở Iran; ảnh hưởng của nhu cầu bảo đảm an ninh, tồn tại trước sự thùđịch của các quốc gia có sức mạnh vượt trội; nhu cầu cạnh tranh quyền lực ở khu

vực; sự ảnh hưởng của hệ thống quốc tế và một số xu hướng quốc tế trong thời đại

ngày nay. Thứ hai, cố gắng làm rõ tiến trình phát triển CTHN Iran và quan điểm,chính sách của một số quốc gia trong quá trình thương lượng giải quyết vấn đề hạt

<small>nhân Iran. Thứ ba, đưa ra nhận định về tương lai của CTHN Iran trên cơ sở phân</small>

<small>tích các động lực từ bên trong Iran và các tác động từ bên ngoài như đe dọa va can</small>

thiệp quân sự, trừng phạt kinh tế, cô lập ngoại giao...

5. Phương pháp nghiên cứu: Để giải quyết những nhiệm vụ đặt ra, luận văn

<small>vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử</small>

của chủ nghĩa Marx - Lenin. Phương pháp phân tích quan hệ quốc tế theo bốn cấpđộ, lý luận quan hệ quốc tế và các phương pháp phô biến trong nghiên cứu kinh tế -chính trị - xã hội được sử dụng là phương pháp hệ thống, thống kê, phân tích - tổng

hợp, so sánh đối chiếu, logic và các phương pháp nghiên cứu thực nghiệm khác.

<small>6. Cau trúc luận văn: gôm 3 chương.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

Chương | phân tích “Nguyên nhân Iran phát triển hạt nhân”, được chia thành

bốn nội dung chính tương ứng với bốn cấp độ phân tích quan hệ quốc tế: cá nhân,

<small>quôc gia, khu vực và tồn câu/hệ thơng.</small>

Chương 2, “CTHN Iran và phản ứng của quốc tế”, gồm hai nội dung chính:thứ nhất, trình bay quá trình hình thành và phát triển của CTHN Iran; thứ hai, quátrình can thiệp của quốc tế cũng như, quan điểm, chính sách của một số nước đối

<small>với CTHN Iran.</small>

Chương 3 phân tích “Triển vọng CTHN Iran” trong tương lai gần dựa trên haikịch bản chính: bị cham dirt, hoặc tiếp tục được duy trì và phát triển dưới tác độngcủa các nguyên nhân chính như sự thay đối chính trị trong nước, tác động của cácbiện pháp trừng phạt kinh tế, sự can thiệp quân sự từ bên ngồi.

Nhìn chung, mặc dù đã cố gắng khách quan hết sức có thể nhưng chắc chắn,luận văn sẽ khơng thể đạt được sự khách quan tuyệt đối. Sự hạn chế về ngơn ngữ,trong đó khơng biết tiếng Ba Tư là một hạn chế lớn, dẫn đến sự hạn chế về sự

phong phú và chất lượng của tài liệu mà tôi có thể tiếp cận được. Tơi đã cỗ găng

<small>khách quan một cách nghiêm túc nhưng tôi không tránh khỏi những suy nghĩ chủ</small>

quan của riêng mình (xuất phát từ kinh nghiệm bản thân, tính cách cá nhân, sự hạnchế về tư duy...) khi phân tích, đánh giá và cố gắng đưa ra dự báo hợp lý từ các sựkiện. Vì vậy, luận văn sẽ không thể tránh được những thiếu sót hay sự thiếu chiềusâu và có những ý kiến gây tranh cãi cần nhận được sự phê bình, đóng góp ý kiến

<small>đê sửa chữa và hồn thiện.</small>

<small>10</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

LOI CAM ON

<small>Sự thành công của tôi không bao giờ là nỗ lực của riêng minh.</small>

Trước hết, tôi sẽ khơng thé hồn thiện luận văn này nếu khơng có những tácgiả đi trước đã cung cấp thông tin, nghiên cứu về Hồi giáo, về Iran, quan hệ Mỹ -Iran, về khu vực Trung Đơng, về vũ khí hạt nhân và rất nhiều các vấn đề khác cóliên quan đến Iran và CTHN Iran hiện nay. Vì thế, tơi dành sự cảm ơn lớn đối vớitất cả tác giả có tác phẩm hoặc bài viết mà tôi đã tiếp cận trong q trình hồn thànhluận văn. Dù tơi khơng sử dụng toàn bộ tải liệu đã tiếp cận, các quan điểm hay bàiviết mà tơi khơng đồng tình cũng giúp tơi phát triển các quan điểm, hồn thiện hơn

<small>những lập luận của mình.</small>

Tuy nhiên, tơi cũng khó có thé hồn thành luận văn nếu khơng có sự hướng

dẫn của PGS.TS Hồng Khắc Nam. Ngay từ khi làm khóa luận tốt nghiệp đại học,

tôi đã may man được Thay hướng dan và tiếp tục được Thầy hướng dẫn tận tình khi

<small>hồn thiện luận văn này.</small>

Tôi cũng dành một sự biết ơn đặc biệt đến cô Chủ nhiệm K48 Quốc tế học của

tơi, Th.s Vũ Anh Thư. Khơng có Cơ, tơi có lẽ đã không bắt đầu nghiên cứu về van

đề hạt nhân lran, không đạt được một số kết quả trong học tập và nghiên cứu như

<small>hiện nay.</small>

Tôi cảm ơn tất cả bạn bè, người thân đã giúp đỡ, góp ý và giúp tơi hồn thiện

<small>luận van, dịch một sơ tài liệu tiêng Anh và tiêng Pháp, kiêm tra va soát lơi...</small>

Ngồi ra, trong suốt q trình học chương trình đảo tạo thạc sỹ, tôi đã nhậnđược sự quan tâm, tạo điều kiện thuận lợi của các cán bộ đào tạo và giảng dạy của

khoa Quốc tế học, Trường Đại học khoa học xã hội và nhân văn, Đại học Quốc gia

Hà Nội. Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và trân trọng nhất đối với tất cả những

<small>sự giúp đỡ và quan tâm này.</small>

<small>11</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan, luận văn với dé tài: “Chương trình hạt nhân lran

-Nguyên nhân và triển vọng ” là cơng trình nghiên cứu khoa học của riêng tơi.Luận văn có sự kế thừa, tham khảo các cơng trình nghiên cứu của những

người di trước và có sự bồ sung những tư liệu, kết quả nghiên cứu mới. Cácsố liệu, trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, được sử dụng trung

<small>Tác giả luận văn</small>

<small>Lê Giang</small>

<small>12</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">

Chương 1: Nguyên nhân Iran phát triển hạt nhân

Theo Stephan Walt: “Khơng một quan điểm nao có thé nắm bắt được tat cả

sự phức tạp của nén chính trị thé giới đương đại” [132, tr.6]

Vì vậy, sự phối hợp các lý thuyết sẽ giúp phân tích tốt hơn chính sách, quyếtđịnh của các quốc gia tham gia nén chính trị thế giới đương đại. Phương pháp phântích quan hệ quốc tế theo bốn cấp độ phân tích quan hệ quốc tế có thể được coi làphương pháp phân tích tơng hợp, dựa trên sự ảnh hưởng của nhiều lý thuyết, khai

thác được các điểm mạnh của các lý thuyết. Trong đó, cấp độ cá nhân chịu ảnh

hưởng của thuyết kiến tạo (Constructivist), nhắn mạnh hành vi của quốc gia tạo ra

bởi niềm tin của giới tỉnh hoa; cấp độ quốc gia chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa đanguyên (Pluralism), kết hợp với yếu tổ được chủ nghĩa kiến tạo nhân mạnh (bản sắcxã hội) và xu hướng nghiên cứu tác động của chính trị trong nước đối với hành vicủa quốc gia; cấp độ liên quốc gia chịu ảnh hưởng chủ yếu của chủ nghĩa hiện thực

<small>va cap độ toàn câu chịu ảnh hưởng chủ yêu của chủ nghĩa hiện thực mới.</small>

Qua q trình phân tích theo bốn cấp độ, chúng ta có thể nhận thấy rằng các

yếu tố được chủ nghĩa hiện thực và chủ nghĩa hiện thực mới nhắn mạnh cho thấy TÕ

ràng nhất những nguyên nhân chính thúc đây chính quyền Cộng hồ Hồi giáo Iranxây dựng một chính sách phát triển hạt nhân nhạy cảm, mà theo Mỹ, Israel và nhiềunước khác, có thé dẫn tới việc Iran sở hữu vũ khí hạt nhân trong tương lai. Tuy

<small>nhiên, kết quả q trình phân tích chính sách hạt nhân Iran theo bốn cấp độ cũng</small>

cho thấy hai chủ nghĩa nói trên, nếu khơng kết hợp với các lý thuyết khác, khó cóthé giải thích đầy đủ chính sách của quốc gia, mà cụ thé ở đây là chính sách hạt

<small>nhân của Iran, cũng như nên chính tri thê giới đương dai.</small>

<small>13</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">

1.1 Cấp độ cá nhân

<small>1.1.1.Lãnh tụ tối cao</small>

<small>Theo Hiến pháp Iran, Lãnh tụ tối cao, được chỉ định bởi Hội đồng chuyên gia</small>

(Assembly of Experts)', là người có quyền lực cao nhất trong hệ thống chính trị và

tơn giáo Iran. Nhiệm kỳ của Lãnh tụ tối cao khơng có giới hạn về thời gian. Lãnh tụtối cao là Tổng tư lệnh các lực lượng vũ trang Iran (quân đội, Lực lượng Vệ binhCách mạng Iran (IRGC), cảnh sát); có quyền tuyên bồ chiến tranh và hịa bình; có

quyền bổ nhiệm các tư lệnh trong lực lượng vũ trang, người đứng đầu hệ thống tư

pháp và các chánh án, giám đốc đài phát thanh và truyền hình, các vị trí đứng đầucác tổ chức tơn giáo chính, 6/12 thành viên của Hội đồng giám hộ (Guardian

Council)’; có quyền quyết định cuối cùng trong việc bầu và miễn nhiệm Tổng

thống, Chủ tịch Quốc hội; ngăn chặn hoặc hợp pháp hóa các dự luật thơng qua Hội

đồng giám hộ và Hội đồng có van (Expediency Discernment Council)’. Tuy nhiên,Lãnh tụ tối cao thường không can thiệp vào các cơng việc thường nhật của chínhphủ, không vạch ra đường lối mà chỉ đặt ra các giới hạn cho hoạt động của chính

<small>phủ. Từ năm 1989, sau khi Grand Ayatollah (Đại Giáo chu) Rouhollah Khomeini</small>

qua đời, vi trí Lãnh tụ tối cao của Iran do Đại Giáo chủ Ali Khamenei đảm nhận.

<small>Đại Giáo chủ Rouhollah Khomeini (1902-1989) sinh ra trong một gia đình trí</small>

thức Hồi giáo dong Shiite 6 Khomein, Iran. Năm 1944, ông đưa ra hoc thuyết về

chính phủ Hồi giáo trong một cuốn sách đả kích chính sách thế tục của Hồng déIran Reza Pahlavi. Tuy nhiên, vi thay của ông, Giáo chủ Borujerdi, giáo sĩ lỗi lạc vàuy tín nhất của cộng đồng Hồi giáo Shiite thế hệ trước Khomeini, phản đối việc các

giáo sĩ tham gia hoạt động chính tri, Khomeini đã hạn chế các hoạt động chính tri

<small>"Co quyén chỉ định, cách chức và giám sát Lãnh tụ tối cao.</small>

<small>? Có quyền giải thích Hiến Pháp, bác bỏ Luật được Quốc hội thông qua nếu trái với Luật Hồi giáo và HiếnPháp; giám sát bầu cử, loại bỏ ứng cử viên Tổng thống, Quốc hội, Hội đồng chuyên gia không đủ điều kiện.</small>

<small>3 Có nhiệm vụ cố vấn cho Lãnh tụ tối cao, giải quyết mâu thuẫn giữa Quốc Hội Iran và Hội đồng giám hộ.</small>

<small>14</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">

của ông. Sau khi Borujerdi mất (1961), Khomeini nhanh chóng trở thành nhà thầnhọc có uy tín hàng đầu trong cộng đồng Hồi giáo Shiite. Từ đây, ơng tích cực và

cơng khai chỉ trích các chính sách của chính quyền Pahlavi. Năm 1963, sau bài diễnvăn lịch sử tố cáo chính quyền Pahlavi ủng hộ Israel và phụ thuộc vào nước ngồi,

ơng bị bắt giam. Tháng 4 năm 1964, ngay sau khi được trả tự đo, ơng tiếp tục chỉtrích chính sách cho binh lính Mỹ được hưởng quyền miễn trừ ngoại giao của chínhquyền Pahlavi. Tháng 11 năm 1964, ơng bị trục xuất khỏi Iran. Trong giai đoạnsông lưu vong ở Thổ Nhĩ Kỳ, Iraq và Pháp (1964-1978), ơng hồn thiện học thuyếtvề chính phủ Hồi giáo với nguyên tắc nền tảng là sự lãnh đạo của các nhà luật họcHồi giáo (velayat-e fagih). Cuối năm 1978, ông kêu gọi phong trào Cách mạng Héigiáo Iran từ Pháp. Thang 2 năm 1979, ông trở về Iran và lên nắm quyền với tư cách

Lãnh tụ tối cao. Với lý do VKHN không phù hợp với Luật Hồi giáo”, Khomeini

quyết định ngừng CTHN của chính quyền Pahlavi. Tuy nhiên, năm 1982, ơng thay

đơi quan điểm, tách biệt hai vấn đề năng lượng hạt nhân và VKHN đồng thời, cho

phép Iran khôi phục CTHN của triều đại Pahlavi. Sau khi ông mắt, Iran tiếp tục

<small>CTHN dưới sự lãnh đạo của Ali Khamenei.</small>

<small>Đại Giáo chu Ali Khamenei sinh năm 1939 tại Mashhad, Iran. Năm 1963, ông</small>

bắt đầu sự nghiệp chính tri với việc tham gia các hoạt động chống chế độ quân chủ

Pahlavi. Ông là một trong những nhân vật thân cận được Khomeini giao nhiệm vụthành lập Đảng Cộng hòa Hồi giáo (IRP) vào tháng 2 năm 1979 dé tập hợp lựclượng hỗ trợ cho Cách mạng Hồi giáo và thành lập Cộng hòa Hồi giáo Iran. Năm

1981, ông bị thương nặng trong vụ ám sát bằng bom được giấu trong máy cát-sét.Với việc chỉ không thé sử dụng tay phải và di lại khó khăn sau vụ ám sát nói trên,ơng được những người ủng hộ coi là “ánh sống” ở Iran. Trước khi trở thành Lãnhtụ tối cao, Ali Khamenei đã trải qua hai nhiệm kỳ Tổng thống (1981-1985; 1985-

<small>* Trên cơ sở viện dẫn quan điểm “chiến tranh công bằng” của đạo Hồi thời Trung Cổ, Khomeini cho rằng (sử</small>

<small>dụng) VKHN gây ra hành động tội lỗi và bị cắm trong Luật Hồi giáo: giết hại một số lượng lớn thường dânbao gồm những người vô tội, trẻ em, phụ nữ, những người già không thể chiến đấu trong chiến tranh.</small>

<small>15</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">

1989). Nhìn chung, Khamenei có quyền lực va uy tín lớn trong hệ thong chinh tri

Iran nhưng khơng phải tất cả câc thĩ lực chính tri ở Iran đều ủng hộ ông”.

Lênh tụ tối cao Khamenei luôn kiín trì một số quan điểm về Nha nước Hồigiâo vă chính trị thần quyền; về vị trí vă vai trò dan đầu của Iran trong thĩ giới Hồigiâo; chống Israel; đối đầu với Mỹ; không tin tưởng phương Tđy, đặc biệt lă Mỹ;

<small>hậu thuẫn Hezbollah, “xem việc hỗ trợ cho người Palestine lă một nghĩa vụ tôn giâo</small>

vă Hồi giâo” [151]... Đối với Mỹ, trong thời gian Tổng thống G.W.Bush nắm

quyền, Khamenei thể hiện quan điểm đối đầu triệt để. Tuy nhiín, sự kiện Thứ

<small>trưởng Ngoại giao Mỹ William J.Burns tham gia cuộc hội dam giữa Iran vă EU</small>

thâng 7 năm 2008 vă tuyín bố của Khamenei “sẵn săng thay đổi chính sâch nếu Mỹthay đổi trong việc lăm chứ khơng chi trong lời nói, thâi độ với Iran” [75, tr.20] cho

thấy: ông không hoăn toăn lă một nhă tư tưởng cuồng nhiệt đối với hệ tư tưởng mẵng tin theo mă còn lă một con người thực dụng vă lý trí. Một số sự kiện khâc” cũng

cho thấy, dưới sự lênh đạo của Lênh tụ tối cao Khamenei, nhiều hoạt động của lran

<small>vă câc nhóm chịu ảnh hưởng cua Iran, được thực hiện dựa trín câc tính tôn lợi ích</small>

rõ răng, khơng đơn thuần dựa trín sự cuồng nhiệt tôn giâo hay tư tưởng.

<small>Lă người ủng hộ tiến bộ khoa học, Khamenei cho rằng sự phât triển của Iran</small>

phụ thuộc văo mức độ đầu tư vă khả năng tự chủ của Iran trong lĩnh vực khoa họccông nghệ, đặc biệt lă công nghệ hạt nhđn (CNHN). Theo ông, CNHN thĩ hiện sự

tiễn bộ về mọi mặt vă cần thiết cho sự phât triển kinh tế của Iran. Ông cho rằng, vi

muốn ngăn chặn tiến bộ khoa học ở thĩ giới Hồi giâo, phương Tđy đê “chính trihóa” van dĩ hạt nhđn Iran. Trước sự lo ngại của phương Tđy đối với CTHN Iran,

<small>5 Thâng 4 năm 1989, Lênh tụ tối cao Khomeini chỉ dao sửa đồi Hiến phâp dĩ dua Khamenei văo vi tri ứng cử</small>

<small>viín kế nhiệm ông (văo thời điểm năm 1989, Khamenei vẫn chưa phải lă một Đại Giâo chủ). Năm 1994, sau</small>

<small>khi Đại Giâo chủ Ali Mohammad Araki qua đời, Hội giâo sĩ trường địng Qom tun bố ơng lă Đại Giâo chủ</small>

<small>mới. Tuy nhiín, bốn Đại Giâo chủ ở Iran (Mohammad Shirazi, Hossein Ali Montazeri, Hassan Qomi va Yasubedin Rastegar Jooybari) đê từ chĩi công nhận Khamenei lă Đại Giâo chủ. Năm 2009, một SỐnhđn vật có thĩ lực ở Iran như Ali Montazeri, Rafsanjani, Mohammad Khatami... đê chỉ trích câc quyết định</small>

<small>Tabatabai-của Khamenei liín quan đến kết qua bầu cử vă câc biện phâp chống biểu tình Tabatabai-của chính phủ.</small>

<small>5 Thâng 5 năm 2008, Hezbollah tiến văo Beirut, Lebanon nhưng không chiếm chính quyền; Hezbollah liín</small>

<small>minh với phe Thiín chúa giâo của Micheal Aoun ở Lebanon; Iran giân tiếp “giúp” Mỹ ổn định Iraq...</small>

<small>16</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">

Khamenei nhân mạnh nếu quốc tế “công nhận quyền hạt nhân của Iran, chúng tôi

sẵn sàng đối thoại về các vấn đề kiểm soát, giám sát và bảo đảm an tồn trên bình

diện quốc tế” [141]. Ơng cũng khang định “Iran khơng có ý định tìm kiếm VKHN”

<small>[150] nhưng sẽ “khơng từ bỏ chương trình làm giàu uranium” [193]. Năm 2005,</small>

ông đưa ra một sắc lệnh tôn giáo (fatwa) tuyên bố việc sản xuất, tàng trữ và sử dụngVKHN bị cam trong dao Hồi. Với sắc lệnh tơn giáo nói trên, Lãnh tụ tối cao

<small>Khamenei dường như sẽ không cho phép Iran sở hữu VKHN khi ơng cịn đươngnhiệm. Tuy nhiên, việc ơng cho phép Iran xây dựng CTHN với các hoạt động nhạy</small>

cảm có thé được sử dụng cho mục đích quân sự, đang tạo ra cơ sở nên tảng chophép Iran sản xuất VKHN trong tương lai. Ngoài ra, về mặt lý luận, sắc lệnh tơn

giáo “một quốc gia Hồi giáo có quyền bác bỏ các luật lệ cơ bản nhất của tôn giáo”của có Lãnh tụ tối cao Khomeini năm 1988 [25, tr. 406] cũng tạo cơ hội cho các thế

hệ lãnh dao sau Khamenei có thé thay đổi quan điểm về VKHN nếu việc sở hữuVKHN được xem là quan trọng và cần thiết nhằm bảo vệ quốc gia Hồi giáo.

<small>1.1.2 Tổng thống và một số nhân vật khác có ảnh hưởng ở Iran</small>

Trong hệ thống chính trị Iran, Tổng thống là người đứng đầu cơ quan hànhpháp, được lựa chọn thơng qua bầu cử, có quyền lực lớn thứ hai ở Iran sau Lãnh tụtối cao và chịu trách nhiệm trước Lãnh tụ tối cao. Tổng thống lran đồng thời là Chủ

tịch Hội đồng tối cao Cách mạng Văn hóa (SCCR) và Hội đồng tối cao An ninh

quốc gia (SNSC). Theo Hiến pháp Iran, Tổng thống có quyền ký kết các hiệp ước,hiệp định với các nước va tô chức quốc tế; thành lập nội các, chỉ định tỉnh trưởng,

các đại sứ; hoạch định chính sách và dự thảo ngân sách trình Quốc hội Iran (MajJIlis)thơng qua. Nhiệm kỳ của Tổng thống kéo dài bốn năm và được tái cử một lần.

Tổng thống Iran đương nhiệm Mahmoud Ahmadinejad không phải là một giáosĩ, khơng có xuất thân và uy tín tơn giáo cao như người tiền nhiệm MohammadKhatami. Ngồi ra, với quá khứ tham gia một tô chức Hồi giáo cấp tiến” khi còn là

<small>” Năm 1979, Tổ chức này đã tắn công và bắt giữ con tin tại Đại sứ quán Mỹ ở Tehran.</small>

<small>17</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">

sinh viên và một tô chức đặc biệt của IRGC (1980-1988), Ahmadinejad khơng có

được hình ảnh tích cực đối với phương Tây. Năm 2003, được sự ủng hộ mạnh mẽ

<small>của phe bảo thủ, ông trúng cử thị trưởng Tehran. Qua hai năm làm thị trưởng</small>

Tehran, ơng xây dựng được hình ảnh tích cực trong mắt người dân Iran: gần dân, vìdân, giản di, không tham nhũng... Trong cuộc bầu cử Tổng thống Iran năm 2005, cửtri Iran, nhất là những người có thu nhập thấp, đã bỏ phiếu cho Ahmadinejad với hivọng ông sẽ cải thiện được tình hình kinh tế - xã hội ở Iran. Năm 2009, mặc dù tìnhhình kinh tế - xã hội Iran không được cải thiện nhiều và gặp khó khăn do các biệnpháp trừng phạt quốc tế, đa số cử tri Iran vẫn bỏ phiếu cho ông.

Ahmadinejad tin rằng CNHN dân sự sẽ giúp Iran “đạt tiến bộ trên mọi lĩnh

vực”. Ông cho rằng phương Tây khơng sợ Iran có VKHN mà sợ “khả năng tự lựcvà kiến thức của Iran và việc giới trẻ Iran đang tiếp cận CNHN vì mục đích hịa

bình” [138]. Đối với Ahmadinejad, CNHN sẽ tăng cường sức mạnh cho thế giớiHồi giáo. Vì vay, Iran sẵn sang “chia sẻ với những nước trong khu vực về những

<small>kinh nghiệm quý báu cũng như những thành tựu đạt được trong lĩnh vực năng lượng</small>

hạt nhân hồ bình” [134]. Ké từ khi Ahmadinejad trở thành Tổng thống Iran, CTHNIran liên tục được đây nhanh và mở rộng về quy mơ. Chính sách đối ngoại của Iran

liên quan đến CTHN cũng thay đổi theo hướng cứng rắn hơn. Ngoài ra, một số quan

điểm (về Mỹ, Israel, về các tổ chức quốc tế...) và các chính sách của ơng khi cịn làthị trưởng Tehran cũng làm các quốc gia phương Tây lo ngại nhiều hơn về mục đíchcủa CTHN Iran. Một số quan điểm dưới đây có thé được coi là có ảnh hưởng quantrọng thúc đầy Ahmadinejad ủng hộ và quyết tâm theo đuổi CTHN hai mục đích:

Quan điểm về các giá trị Hồi giáo và giá trị phương Tây: Ở Ahmadinejad,

khó có thé tìm thấy sự dung hịa giữa các giá trị Hồi giáo và phương Tây. Khi cònlàm thị trưởng Tehran, Ahmadinejad đã từng bước “Hồi giáo hóa thủ đơ” bằng cácbiện pháp như thúc đây các hoạt động tôn giáo của người Shiite trong khi hạn chếcác hoạt động van hóa - xã hội khác; đóng cửa các cửa hang ban đồ ăn nhanh; yêucầu viên chức thành phố để râu và mặc áo dài tay; thay thế nhân sự trong bộ máy

<small>18</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">

chính quyền Tehran bằng những nhân vật bảo thủ cấp tiến... Trong chiến dịch vậnđộng tranh cử Tổng thống năm 2005, ông hứa phục hồi các giá trị truyền thống củacuộc Cách mạng Hồi giáo và sẽ trao các cơ sở văn hóa của Iran hiện nay cho cácthánh đường Hồi giáo quản lý. Ông lên án các giá trị phương Tây và phong trào cải

cách làm xói mịn các giá tri Hồi giáo và băng hoại đạo đức xã hội. Sau khi thắng

cử, Ahmadinejad nhấn mạnh chính phủ của ơng sẽ “xây dựng một mơ hình xã hộiHồi giáo kiểu mẫu tiên tiến và hùng mạnh” [197]. Đối với nhiều quốc gia phươngTây, Iran dưới sự lãnh đạo của Tổng thống Ahmadinejad đang quay về với các quanđiểm của cố Lãnh tụ tối cao Khomeini như đối đầu không khoan nhượng với các giátrị phương Tây; kích động và sẵn sàng sử dụng bạo lực để bảo vệ các gia tri Hồigiáo; tích cực chống Mỹ và Israel; xuất khâu Cách mạng Hồi giáo... Trong quá khứ,

có lãnh tụ tối cao Khomeini của Iran đã từng kêu gọi, ủng hộ người dân ở các nước

Arập - Hồi giáo thực hiện Cách mạng Hồi giáo, cùng Iran xây dựng một cộng đồngHồi giáo thống nhất... Với tiền lệ nói trên, Mỹ, Israel và nhiều nước khác khơngtránh khỏi lo ngại đối với mục đích làm chủ CNHN của Iran. Trong khi đó, đối vớiAhmadinejad và phe bảo thủ ở Iran, việc bảo lưu khả năng sản xuất VKHN trongCTHN hiện nay có thé sẽ cần thiết cho sự tồn tại của chế độ, tạo điều kiện thuận lợi

cho quá trình đưa các giá tri Hồi giáo trở lại thống trị hoàn toàn ở lran và hiện thực

hóa tham vọng xuất khâu Cách mạng Hồi giáo của Khomeini trong tương lai.

Đối với Mỹ, năm 2005, ngay trong cuộc họp báo đầu tiên sau khi trở thànhTổng thống Iran, Ahmadinejah “khăng định khơng có ý định cải thiện quan hệ ngoại

giao với Mỹ cho đến khi nào Washington từ bỏ thái độ thù địch với nước Cộng hòa

này” [133]. Sau khi Obama trở thành Tổng thống Mỹ, thái độ của Tổng thống IranAhmadinejad có phần tích cực hơn nhưng quan điểm chủ đạo vẫn là không tintưởng và chỉ trích Mỹ chính trị hóa vấn đề hạt nhân Iran. Đối mặt với khả năng canthiệp quân sự của Mỹ, ông thường xuyên khang định Iran đủ khả năng đáp trả mọi

cuộc tan công của Mỹ. Nhưng trên thực tế, cho dù đáp trả “thành công”, Iran van

phải chịu thiệt hai nặng nề về người và của mà phải mat nhiều năm, hàng chục nămhoặc không thể khôi phục lại như trước do các biện pháp cắm vận kéo dai làm tram

<small>19</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">

trọng thêm hậu quả của các cuộc tấn công. Sự đi xuống của Iraq sau Chiến tranh

vùng Vịnh 1991 và nhanh chóng sụp đỗ trong cuộc chiến năm 2003 là một bài học

đối với phe bảo thủ ở Iran. Vì thế, trong tương lai, để bảo vệ chế độ Hồi giáo vàgiảm nguy cơ bị can thiệp quân sự từ bên ngoài, Ahmadinejad và các thế hệ lãnh

đạo bảo thủ tương lai của Iran có thé sẽ nghĩ tới khả năng ran đe của VKHN.

Đối với Ahmadinejad, Israel là “một chế độ bat hợp pháp do phương Tây

thành lập và là mối de dọa thường trực đối với tat cả chính phú và quốc gia trên thé

giới” [188]. Tháng 10 năm 2005, trong cuộc gặp với các sinh viên tham gia biểutình phản đối chủ nghĩa phục quốc Do Thái, sự kiện được tổ chức hàng năm ở Iran,Ahmadinejad đã nhắc lại quan điểm của cố Lãnh đạo tối cao Khomeini rằng Israel

“phải bị xóa khỏi bản đồ thế giới” [146] và lên án các nước Hồi giáo cải thiện quan

hệ với Israel. Đầu năm 2006, trong khi Bộ Ngoại giao Iran cho rằng lỗi dịch thuật

đã khiến quốc tế hiểu sai chính sách của Iran với Israel thì, trong một hội nghị tôchức tai Tehran bàn về van dé Palestine, Ahmadinejad tiếp tục khang định quanđiểm cực đoan với Israel khi tuyên bố sớm hay muộn, chế độ của những kẻ theoChủ nghĩa phục quốc Do Thái — “một cái cây khô héo”- sẽ “bị hủy diệt bởi một cơn

bão” và “bởi những thành quả đạt được của nhân dân Hồi giáo” [199]. Đối với ơng,

chỉ khi xóa bỏ chế độ Zion thì mới có thê tìm được giải pháp lâu dài cho hịa bìnhTrung Đơng. Như vậy, nếu Ahmadinejad và phe bao thủ thực sự theo đuổi nhữngquan điểm cực đoan về Israel, họ sẽ đối mặt với ít nhất hai vẫn đề: thứ nhất, nguy

cơ bị Israel và Mỹ tan công phủ đầu và lật dé chế độ; thứ hai, nếu muốn hiện thựchóa các quan điểm và tuyên bố, Iran cần tăng cường sức mạnh quân sự. Dé giải

quyết hai vấn đề nói trên, Ahmadinejad khó tránh khỏi xu hướng ủng hộ việc sởhữu VKHN. Vì thé, quan điểm cực đoan với Israel cũng tác động không nhỏ tới

quan điểm của Ahmadinejad về việc Iran cần theo đuổi CTHN hai mục đích.

<small>Ngồi ra, Ahmadinejad thường xun chỉ trích chính sách và hành động cua</small>

các cường quốc phương Tây và các tơ chức quốc tế. Ơng cơng khai chỉ trích và cáo

<small>buộc “phân lớn các tô chức quôc tê đêu đã biên thành tơ chức chính trị và ảnh</small>

<small>20</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">

hưởng của những thé lực lớn đã khiến họ không thé đưa ra những quyết định công

<small>minh” [140]... Với những quan điểm như vậy, Ahmadinejad có xu hướng lãnh đạo</small>

Iran đi theo con đường “tự cứu mình” hơn là tin tưởng vào các thể chế quốc tế hay

<small>hợp tác với các qc gia khác đê đơi phó với các mơi de dọa từ bên ngồi.</small>

Nhìn chung, các quan điểm của Tổng thống Ahmadinejad về bảo vệ chínhquyền Hồi giáo, phát triển Hồi giáo, về Mỹ và Israel, về sự cần thiết làm chủ

CNHN... khá tương đồng với các quan điểm của có Lãnh tụ tối cao Khomeini và

Lãnh tụ tối cao Khamenei hiện nay. Tuy nhiên, CTHN qua các thế hệ lãnh đạo ởIran đã có những thay đổi nhất định theo hướng ngày một không rõ ràng giữa cácmục đích quân sự và dân sự. Trong quá khứ, sự thay đôi quan điểm của cố Lãnh tụtối cao Khomeini, từ chỗ chối bỏ hoàn toàn năng lượng hạt nhân đến chỗ tách nókhỏi phạm trù VKHN, đã mở đường cho Iran khôi phục CTHN của triều đạiPahlavi. Quan điểm đánh giá cao tầm quan trọng của CNHN và quyết tâm làm chủCNHN của Lãnh tụ tối cao kế nhiệm Khamenei đã tạo ra điều kiện thuận lợi cho sựphát triển CTHN Iran. Trong hai nhiệm kỳ của Tổng thống Ahmadinejad, Iran đã và

<small>đang đây mạnh hơn nữa các hoạt động hạt nhân nhạy cam va ngày càng đạt được</small>

nhiều thành tựu trên con đường làm chủ CNHN, tạo được cơ sở nên tảng cho khả

năng sở hữu VKHN trong tương lai. Mặc dù cô Lãnh tụ tối cao Khomeini và Lãnh

tụ tối cao Khamenei đều phản đối việc Iran sản xuất và sở hữu VKHN nhưng chúngta cần lưu tâm đến quyết định khôi phục CTHN của cô Lãnh tụ tối cao Khomeini đãdiễn ra ngay trong cuộc chiến tranh với Iraq. Ngoài ra, chúng ta cũng cần lưu tâmđến hoạt động nghiên cứu và phát triển vũ khí hóa học của Iran cũng bắt đầu đượcthực hiện trong cuộc chiến tranh nói trên (cho dù khơng sử dụng), sau khi quân độilran bị đây lùi bởi vũ khí hóa hoc cua Iraq. Như vậy, nếu an ninh quốc gia bị đe dọanghiêm trọng, Lãnh tụ tối cao của Iran trong tương lai có thé giải thích lại, thôngqua sắc lệnh tôn giáo, về sự cần thiết sở hữu VKHN như một phương tiện để bảo vệsự tồn tại của quốc gia Hồi giáo. Trên thực tế, hiện nay, van dé Iran cần hay không

cần VKHN van đang được tranh luận ở Iran.

<small>21</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">

Lãnh tụ tối cao Ali Khamenei và Tổng thống Ahmadinejad là những cá nhân

có nhiều anh hưởng nhất đối với CTHN của Iran. Tuy nhiên, do chế độ ở Iran hoạt

động trên cơ sở đồng thuận nhất định, lập trường của nhitng nhân vật khác cũng ảnhhưởng đến quá trình hoạch định chính sách hạt nhân của lran.

Ayatollah Akbar Hashemi Rafsanjani là nhân vật đại điện cho tầng lớp giáo sĩlên cam quyền năm 1979, là một trong những cô vấn được tin cậy nhất của cô lãnh

tụ tối cao Khomeini, có uy tín và ảnh hưởng chỉ sau Khamenei. Trong giai đoạn

1989-1997, Rafsanjani là Tổng thống Iran. Cho đến cuối thang 12 năm 2010, ông làChủ tịch Hội đồng cô van và Hội đồng chuyên gia. Ở Iran, Rafsanjani có quan hệtốt với hầu hết các nhóm chính trị Hồi giáo. Đối với phương Tây, ông được đánh

<small>giá là người theo chủ nghĩa thực dụng. Tuy nhiên, sự ủng hộ của giới q tộc và sự</small>

giàu có của ơng lại làm người dân Iran thấy ông xa rời quần chúng. Trong chiến

dịch tranh cử năm 2005, Rafsanjani tuyên bố ủng hộ việc Iran tự làm giàu uraniumvà khang định, nếu trúng cử, sẽ tiếp tục CTHN Iran, duy trì hợp tác với IAEA và

các cuộc đàm phán với quốc tế dé xây dựng lịng tin. Năm 2007, ơng khang định

<small>“lran sẽ không sử dụng các thành tựu hạt nhân vào cơng nghiệp qn sự” vì “việc</small>

sử dụng VKHN khơng phù hợp với văn hóa Cộng hịa Hồi giáo Iran”[171]. Nhìn

chung, dù Rafsanjani hay phe nhóm của ơng thắng cử trong tương lai, quyết tâmtheo đuổi CTHN của Iran cũng không có sự thay đổi lớn. Tuy nhiên, Iran có thé sẽ

theo đuôi CTHN một cách khéo léo hơn, đối thoại nhiều hơn và mặc cả nhiều hơn.

Cựu Tổng thống Iran Mohammad Khatami (1997-2001; 2001-2005), được coilà biểu tượng của phong trào cải cách kinh tế - chính tri - xã hội ở Iran. Xét từ xuấtthân, địa vị xã hội - tơn giáo, Khatami là một nhân vật có uy tín hàng đầu ở Iran.

Ơng ln nhắn mạnh Iran có quyền sở hữu CNHN vì mục đích hịa bình và kiên

quyết khơng từ bỏ quyền nói trên. Đồng thời, ơng cũng khang định “Tehran khơng

có tham vọng sản xuất vũ khí nguyên tử”[137]. Ong chủ trương đối thoại với quốctế về CTHN Iran và “sẵn sàng làm moi thứ cần thiết dé đảm bảo rang chúng tôikhông phát triển vũ khí nguyên tử”[139]. Đối với Khatami, Iran cần làm chủ CNHN

<small>22</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">

nhưng cũng cần cải cách và phát triển kinh tế. Vì vậy, lran cần thực hiện chính sáchhạt nhân linh hoạt nhằm tránh bị trừng phạt kinh tế, bị cơ lập chính trị; tránh để ảnhhưởng đến quá trình xin gia nhập Tổ chức thương mại quốc tế (WTO)... Trong cuộcbau cử tong thong Iran năm 2009, với lý do cần đoàn kết cử tri cho một ứng cử viên

duy nhất của phe cải cách, ông đã không tham gia tranh cử.

Ali Ardashir Larijani, là Chủ tịch Quốc hội Iran hiện nay. Larijani sinh ra

trong một gia đình trí thức Hồi giáo nổi tiếng ở Iran. Ông là nhân vật thân cận củaLãnh tụ tối cao Khamenei và được các nhóm bảo thủ chính ở Iran ủng hộ, đáng kế

nhất là Hội đồng phối hợp Lực lượng Cách mạng (CCFR) và Hiệp hội kỹ sư Hồi

giáo (SE). Khi giữ vị trí người đứng đầu Cơ quan truyền thơng Cộng hịa Hồi giáoIran (IRIB) (1994-2004), Ali Larijani liên tục gây sức ép, yêu cầu Tổng thốngKhatami nối lại hoạt động làm giàu uranium. Năm 2005, ông tham gia tranh cửTổng thống Iran nhưng that bại. Sau khi đảm nhiệm vị trí thư ky SNSC va đồng thời

<small>là Trưởng đoàn dam phán hạt nhân Iran (2005-2007), Larijani chủ trương thực hiện</small>

chính sách thương lượng cứng rắn. Tuy nhiên, qua q trình đàm phán với EU, ơng

<small>có xu hướng ơn hịa hơn, thậm chí cịn chỉ trích lập trường không thỏa hiệp và cứng</small>

rắn quá mức với phương Tây của Tổng thống Ahmadinejad. Tháng 10 năm 2007,

<small>ông từ chức Trưởng đoàn đàm phán hạt nhân nhưng vẫn tham gia các cuộc dam</small>

phán với tư cách đại diện cho Lãnh tụ tối cao Khamenei. Trong tương lai, Larijani

<small>nhiêu khả năng van giữ vai trò quan trọng trong cơ câu quyên lực ở Iran.</small>

<small>Ayatollah Mesbah Yazdi, học trò của Khomeini, hiện nay là thành viên của</small>

Hội đồng giám hộ và là chỗ dựa về uy tín tơn giáo, có van tơn giáo cho Tổng thốngAhmadinejad. Ông là người theo chủ nghĩa dân túy tôn giáo cứng rắn, là một trong

những nhân vat bảo thủ nhất, có uy tín, quyền lực nhất ở Iran. Ông cho rang Hồigiáo và thể chế cộng hịa khơng thể dung hịa vì một chính phủ Hồi giáo thực sự thì

khơng cần bầu cử. Quan điểm về hạt nhân của Yazdi rất nhạy cảm. Ông cho rằng

Iran nên thăng thắn và đừng hứa hẹn gì với quốc tế về CTHN của mình. Các nhómbảo thủ nhất ở Iran coi Yazdi là một Lãnh tụ tối cao tiềm năng.

<small>23</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">

Nhìn chung, các cá nhân lãnh đạo ở Iran tương đối thông nhất về mục tiêu làm

<small>chủ CNHN thơng qua chương trình ĐHN nhạy cảm (khơng từ bỏ hoạt động làm</small>

giàu uranium, xây dựng CSHN sản xuất nước nặng, nghiên cứu và phát triển máy lytâm (MLT)...). Trong các tuyên bố công khai, đa số cá nhân lãnh đạo đều cho biếtIran khơng tìm cách sở hữu VKHN. Tuy nhiên, về lý thuyết, do không từ bỏ cáchoạt động nhạy cảm, khả năng sản xuất VKHN của Iran mặc nhiên được bảo lưu.Ngoài ra, quan điểm của họ về vấn đề “nên hay không nên sở hữu VKHN” chịu tác

động ít nhiều từ các mục tiêu như bảo vệ chế độ Cộng hòa Hồi giáo, tăng cường ảnh

hưởng của đạo Hồi Shiite, phát triển kinh tế... Như vậy, trên cơ sở tác động của cácmục tiêu liên quan, Lãnh tụ tối cao Khamenei, người bị ràng buộc bởi sắc lệnh tôngiáo cam sản xuất, tàng trữ và sử dụng VKHN và cựu Tổng thống Khatami, người

đại điện cho phe cải cách, cũng như cựu Tổng thống Rafsanjani, nhân vật thực dụngvà đại diện cho giới giáo sĩ được hưởng nhiều đặc quyền kinh tế, sẽ ít có mong

muốn sở hữu VKHN hơn so với những nhân vật đại diện cho giới giáo sĩ Hồi giáobảo thủ, cho IRGC như Yazdi, Tổng thống Ahmadinejad... Vì vậy, sự lựa chọnphát triển CTHN hai mục đích của Iran cịn có thể được coi là sự thỏa hiệp giữa cácthé lực chính trị ở Iran hiện nay. Trong tương lai, khả năng Iran sở hữu một don vịVKHN trên thực tế sẽ phụ thuộc nhiều vào kết quả đấu tranh chính trị nội bộ ở Iran.

1.2 Cấp độ quốc gia

1.2.1 Ảnh hưởng của tơn giáo

Trong cấp độ quốc gia, vì Cộng hòa Hồi giáo Iran được xây dựng trên cơ sởnền chính trị thần quyền và vì 98% dan số Iran theo đạo Hồi, trong đó 95% thuộc

dong Shiite [143], khi phân tích các yếu tố tác động tới chính sách hạt nhân Iran,

chúng ta không thé bỏ qua yếu tô tôn giáo (Hồi giáo).

Ngay sau khi Cách mạng Hồi giáo Iran thành công, liên minh thế tục - tôngiáo chống chính quyền Pahlavi bắt đầu tan vỡ. Tháng 12 năm 1979, thông qua

<small>24</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">

cuộc trưng cầu dân ý, Hiến pháp mới mang tinh chất Hồi giáo đã được 98,2% cử tri

ủng hộ, tạo cơ sở cho sự ra đời Nhà nước Cộng hòa Hồi giáo Iran [25, tr.400]. Đề

củng có nền chính trị thần quyền, từ năm 1980 đến năm 1987, chính quyền Cộnghịa Hồi giao Iran đã thực hiện Cách mạng Văn hóa nhằm loại bỏ ảnh hưởng củavăn hóa phương Tây và các giá trị phi Hỏi giáo khỏi Iran. Dưới sự chỉ đạo của

SCCR, toàn bộ nền giáo dục Iran được định hướng lại. Từ năm 1980 đến năm 1983,

<small>các trường đại hoc ở Iran đã bi đóng cửa. Sau khi mở cửa trở lại, quá trình thanh lọc</small>

đối với giáo trình giảng dạy, sinh viên, giảng viên... vẫn được tiếp tục nhằm đảmbảo một hệ thống giáo dục Hồi giáo Shiite thuần khiết. Cho đến nay, SCCR vẫn tiếptục nhiệm vụ giám sát và thanh lọc dé đảm bao giáo dục va van hóa Iran hồn tồn

Hồi giáo như u cầu của cơ Lãnh tụ tối cao Khomeini. Nhìn chung, vì sự tơn kính

đối với Thánh Allah là trụ cột Đức tin đầu tiên và quan trọng nhất của tín đồ Hồigiáo, nên khi nền chính trị thần quyền được đảm bảo, các chính sách của chính phủ

<small>Tran “nhân danh thánh Allah”, là “ý muốn của thánh Allah”, “được thánh Allah giúp</small>

<small>đỡ” sẽ có được chỗ dựa tơn giáo và được nhân dân ủng hộ.</small>

<small>Trong lĩnh vực hạt nhân, chính sách phát triển CNHN của chính phủ Iran nhận</small>

được sự ủng hộ của nhân dân một phần cũng dựa trên cơ sở tôn giáo như vậy. Trongquá khứ, các tôn giáo, trong đó có Hồi giáo, đã từng phản đối tri thức khoa học. Tuy

nhiên, khi không thé quay ngược bước tiễn của thời đại, các tôn giáo bắt đầu timcách dung hịa tơn giáo và khoa học. Trong trường hợp Hồi giáo, các giáo sĩ đã tìmtrong kinh Koran những câu hoặc đoạn trích có thể diễn giải phù hợp với thời đạimới. Họ muốn chứng minh khơng có mâu thuẫn giữa tơn giáo và khoa học, thậmchí tơn giáo cịn chỉ ra con đường đúng đắn cho việc tìm kiếm các chân lý khoa họccủa con người. Iran hiện nay là một ví dụ về sự kết hợp chặt chẽ giữa tôn giáo vàkhoa học, nhưng “tôn giáo đứng trên khoa học và dẫn đắt khoa học” (K.Gia-min,nhà triết học tôn giáo Pakistan). Tuy nhiên, trên thực tế, Iran và các nước Hồi giáo

khác đều đang đi sau các nước phương Tây và Israel về trình độ khoa học - côngnghệ. Dé thay đổi sự thật này, Iran phải trở thành một quốc gia có nền khoa học -

cơng nghệ phát triển hàng đầu. Trong nhiều lĩnh vực khoa học - công nghệ, các lãnh

<small>25</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">

đạo Iran tập trung phat triển CNHN, xem việc làm chủ CNHN sẽ đem lại tiến bộtrên mọi lĩnh vực cho người Iran. Như vậy, quan điểm tôn giáo dẫn dắt khoa học vàđược thánh Allah khuyến khích vừa là động cơ, vừa là điểm tựa tinh thần dé Iran

quyết tâm theo đi chính sách làm chủ CNHN.

Ngồi ra, các quan điểm truyền thống của Hồi giáo Shiite, một nhánh chínhtrong Hồi giáo” và những quan điểm của Khomeini có thé là động co dẫn dắt khơng

ít nhân vật bảo thủ ở Iran nghĩ đến VKHN và khiến nhiều nước lo ngại về tham

vọng làm chủ CNHN cua Iran. Ở Iran, vào thé kỷ XV, dưới triều đại Safavid, Hồigiáo Shiite trở thành quốc giáo của Iran. Khi được hỏi về ảnh hưởng của các tưtưởng hồi giáo Shiite tới xã hội Iran, ông Bernard Hourcade, giám đốc nghiên cứu

của Trung tâm nghiên cứu khoa học quốc gia Pháp (NCSR) đã đánh giá “tư tưởng

Hồi giáo Shiite ảnh hưởng tới Iran như Thiên chúa giáo ảnh hưởng tới nướcPhap”[58]. Chủ trương gạt bỏ các giá trị Hồi giáo Shiite là một trong những nguyênnhân khiến chế độ Pahlavi bị lật đồ. Trong cuộc chiến tranh Iran-Iraq (1980-1988),Iran đứng vững nhờ kết hợp thành công tỉnh thần tôn giáo và chủ nghĩa yêu nước.

Công cuộc cải cách của cựu Tổng Thống Iran Khatami thất bại cũng do đụng chạm

<small>tới lợi ích của giới tăng lữ tôn giáo.</small>

Sau Cách mạng Hồi giáo, nhăm phục vụ cho việc xây dựng chế độ thần quyềnở Iran, Khomeini đã giải thích lại một số học thuyết của Hồi giáo Shiite. Ông chorằng các nhà luật học Hồi giáo - những người giúp việc của Imam thứ 12” - sẽ tạm

<small>8 Su phan chia Shiite-Sunni trong Hồi giáo bat nguồn từ sự tranh giành quyền lãnh đạo cộng đồng Hồi giáo.</small>

<small>Khi Muhammad mat, ông không chỉ định ai làm người kế vị nhưng chỉ định Abu Bakr làm người điều khién</small>

<small>các buổi cầu nguyện ở thánh địa Medina. Sau đó, các thủ lĩnh Hồi giáo đã chọn Abu Bakr làm Caliph đầutiên. Việc nay đã lam Ali (ho hang với Muhammad và là con rễ của ông) bat mãn. Năm 656, với sự ủng hộ</small>

<small>của thị tộc Hashemite, Ali giành được ngôi Caliph. Nhưng 5 năm sau, Ali bị ám sát ở Koufa (thuộc Iraq hiện</small>

<small>nay). Sự kiện này chính thức thúc đây sự hình thành Hồi giáo Shiite (Shiite có nghĩa là Shiat Ali, nghĩa là</small>

<small>những người ủng hộ Ali) với mục tiêu giảnh lại ngôi Caliph cho con cháu của Ali. Họ chủ trương coi các</small>

<small>Caliph Sunni là những kẻ tiếm quyền, cai trị bất hợp pháp trong cuộc sống tôn giáo và thế tục. Họ coi Ali là</small>

<small>Imam đầu tiên của cộng đồng Shiite. Sự tử vì dao cua Ali, của Hussein ibn Ali - Imam thứ ba của ngườiShiite- và cuộc dau tranh giành lại ngơi Caliph giữ vai trị quan trong trong học thuyết của người Shiite.</small>

<small>? Imam là danh hiệu đành cho người lãnh đạo cộng đồng Hồi giáo được Hồi giáo Shiite công nhận sau khi</small>

<small>nhà tiên tri Muhammad mất. Hồi giáo Shiite coi Ali là Imam đầu tiên. Dai đa số người Shiite ở Iran theo học</small>

<small>26</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">

thời đảm nhiệm quyền lãnh đạo nhân dân Hồi giáo trong “thời kỳ đen tối của Hồigiáo”, khi Imam thứ 12 chưa trở lại. Dé tập trung quyền lực, người thơng thái nhấtsẽ được các giáo sĩ uy tín nhất trong cộng đồng Hồi giáo chỉ định vào vị trí Lãnh tụtối cao. Quan điểm nói trên của Khomeini là cơ sở nền tảng của nền chính trị thầnquyền ở Iran hiện nay. Sau khi Khomeini mắt, Iran ít nhiều thay đổi các quan điểmcủa Khomeini để phù hợp với tình hình khu vực và quốc tế. Nhưng về cơ bản,chúng vẫn được kế thừa và bảo vệ. Hiện nay, về đối nội, phe bảo thủ cực đoan ở

Iran đang có gang đưa tư tưởng Hồi giáo Shiite của Khomeini trở lại thống trị trong

đời sống xã hội - tôn giáo. Về đối ngoại, nếu phe bảo thủ Iran quyết tâm chốngIsrael; các giá trị phương Tây; xuất khâu Cách mạng Hồi giáo... theo tư tưởng củaKhomeini (Phụ lục 1) thì họ có thể nghĩ đến khả năng răn đe của VKHN. VKHN

góp phần tăng cường an ninh cho chế độ trước các thế lực thù địch bên ngoài và quađó, cũng đem lại khả năng tự do hành động nhất định cho lran trong việc thực hiện

tư tưởng của Khomeini. Vì vậy, chủ trương kế thừa tư tưởng của Khomeini và khơiphục vai trị của nó trong định hướng chính sách đối ngoại của phe bảo thủ là động

cơ quan trọng dan dat Iran theo đuôi CTHN hai mục dich.

Ngoài ra, học thuyết của người Shiite về sự trở lại của Imam thứ 12 đượcKhomeini giải thích lại cũng có thé là một yếu tố thúc day Iran phát triển CTHNnhạy cảm. Trong học thuyết Shiite nguyên gốc, tín đồ có nhiệm vụ bảo vệ tơn giáovà chờ đợi Imam thứ 12 trở về. Tuy nhiên, khi kêu gọi Cách mạng Hồi giáo Irannăm 1979, Khomeini đã giải thích lại học thuyết nói trên. Ong cho rằng bang cách

hành động (lật đỗ chế độ quân chủ) xây dựng chế độ thần quyền Hồi giáo, người

Iran sẽ thúc day Imam thứ 12 trở về sớm hơn. Sau khi Cách mạng Hồi giáo Iranthành công, ông tiếp tục kêu gọi, ủng hộ người Hồi giáo ở các quốc gia khác thựchiện Cách mạng Hồi giáo, cùng Iran xây dựng một cộng đồng Hồi giáo thống nhất.Tuy nhiên, cho đến nay, Cách mạng Hồi giáo mới chỉ thành cơng ở Iran. Ngồi ra,

mặc dù chế độ Cộng hòa Hồi giáo đã ton tại hơn 30 năm ở Iran nhưng Imam thứ 12

<small>thuyết Twelver Shiite, công nhận 12 Imam trong số con cháu của Ali. Họ tin rằng, Imam thứ mười hai, biếnmat vào năm 874, chưa chết và sẽ quay lại dé đưa Hồi giáo trở lại thời đại hoàng kim.</small>

<small>27</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">

vẫn chưa trở lại. Với thực tế nói trên, những người ủng hộ tư tưởng Khomeini cóthể cho rằng cần “hành động” nhiều hơn, trên phạm vi rộng hơn để đưa Imam thứ

12 trở lại. Trong bối cảnh quốc tế và khu vực hiện nay, với quyền lực của Iran, khảnăng “hành động” của Iran khá hạn chế. Dé tăng cường khả năng “hành động”, Iran

có thê cần đến khả năng răn đe và mặc cả của VKHN.

<small>1.2.2 Bối cảnh chính trị - xã hội ở Iran</small>

Sự thống nhất giữa các phe phái chính trị ở Iran về sự cần thiết làm chủ

<small>CNHN là một động lực quan trọng cho CTHN Iran. Hiện nay, ở Iran có hai khuynh</small>

hướng chính về chính sách phát triển hạt nhân:

- Khuynh hướng cứng rắn: quyết tâm làm chủ CNHN, bắt chấp bị áp đặt trừngphạt kinh tế và cơ lập chính trị. Khuynh hướng này gồm những người theo đường

lối bảo thủ như Lãnh tụ tối cao Khamenei, Tổng thống Ahmadinejad, Ayatollah

<small>Yazdi, các thành viên IRGC, các nhóm tơn giáo bảo thủ. Ali Larijani và các nhân</small>

vật thân cận trong nhóm “bảo thủ mới” cũng có thể xếp vào khuynh hướng này.

- Khuynh hướng thực dụng - linh hoạt: muốn theo đuổi CTHN nhưng đồng

thời, chủ trương duy trì được lợi ích kinh tế, chính trị của Iran, tránh bi cắm vận, cô

lập. Đây là khuynh hướng của phe cải cách với những đại diện nổi bật như cựuTổng thống Khatami, Mir-Hossein Mousavi và phần nào đó là Rafsanjani.

Nhu vậy, các nhóm chính tri ở Iran, dù cải cách hay bảo thủ, đều ủng hộ quyếtđịnh xây dựng và phát triển CTHN. Họ chỉ tranh luận về các vấn đề liên quan nhưcó cần quan tâm đến phản ứng của quốc tế hay không, hi sinh hay không hi sinh cáclợi ích kinh tế - chính trị Iran vì mục tiêu làm chủ CNHN, hợp tác với IAEA ở mức

độ nào... Sau các cuộc bầu cử Quốc hội (2004) và Tổng thống (2005), phe bảo thủ

kiểm sốt trở lại tồn bộ các cơ quan quyén lực Nhà nước ở Iran, mở đường choviệc đây nhanh CTHN theo hướng nhạy cảm hơn. Bên cạnh đó, quan điểm Iran cần

xây dựng quân đội mạnh, có khả năng răn đe băng vũ khí tiên tiến, “đủ sức làm cho

<small>28</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">

những cường quốc ngạo mạn phải từ bỏ ý đồ xấu” [128] dé bảo vệ an ninh quốc giacủa phe bảo thu là một quan điểm nhạy cảm trong bối cảnh Iran vẫn bảo lưu kha

năng sản xuất VKHN. Sự kiện Iraq dùng vũ khí hóa học gây thiệt hại nặng nề choquân đội Iran cuối chiến tranh Iran-Iraq (1980-1988) trở thành nỗi ám anh lịch sử

được phe bảo thủ viện dẫn khi bảo vệ quan điểm Iran cần có VKHN. Việc Iraqkhông bị quốc tế trừng phạt cũng được viện dẫn như một bằng chứng cho thấy Iran

phải tự vệ băng khả năng răn đe hạt nhân độc lập trước khi cầu viện tới Luật pháp

quốc tế. Rafsanjani, với tư cách Chủ tịch Quốc hội Iran (1980-1989), đã phát biểu

“... Ít nhất chúng ta cũng nên nghĩ về các loại vũ khí huỷ diệt hàng loạt dé tự vệ.

Mặc dù việc sử dụng những loại vũ khí như vậy là vơ nhân đạo, cuộc chiến này đãdạy chúng ta rằng luật pháp quốc tế chỉ là những giọt mực trên giấy mà thôi”[172].Ngay trong chiến tranh với Iraq, Iran đã nghiên cứu, phát triển vũ khí hóa học vàkhơi phục CTHN của chế độ Pahlavi. Như vậy, với việc phe bảo thủ chiếm ưu thế

<small>trong hệ thống chính tri Iran, Iran sẽ tiếp tục đây mạnh CTHN hai mục đích.</small>

<small>Ngồi ra, dưới tác động của ÿ thức dân tộc, CTHN lran cũng nhận được sự</small>

ung hộ của nhân dân Iran. Đỗi với nhân dân Iran, phát triển DHN là “quyền khôngthé tước đoạt” của Iran theo Hiệp ước Không phổ biến VKHN (NPT). Ở Iran,

CTHN là niềm tự hào dân tộc, là sự khang dinh vi thé cuong quéc ở khu vực vatrong thế giới Hồi giáo... Ngoài ra, các vấn đề khác như “tiêu chuẩn kép” của Mỹ vàphương Tây trong van đề không phô biến VKHN; mối quan hệ giữa Mỹ và Israel;việc phương Tây dựng lên chế độ Pahlavi trong quá khứ ở Iran; các chính sách thù

địch của Mỹ với Iran hiện nay cùng sự tuyên truyền của chính quyền Iran... cũng

góp phan tăng cường sự ủng hộ của nhân dân Iran đối với CTHN như một biểutượng của sự không khuất phục trước bá quyền Mỹ và phương Tây.

Các tổ chức sinh viên ở Iran là một trong những lực lượng xã hội ủng hộCTHN mạnh mẽ nhất. Trong những năm qua, lực lượng sinh viên Iran đã nhiều lầntổ chức biểu tình phản đối chế độ, địi tăng cường tự do dân chủ, cơng khai lên ánTổng thống. Tuy nhiên, đối với CTHN, họ luôn thé hiện sự ủng hộ. Tháng 10 năm

<small>29</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32">

2003, khi Iran ký Nghị định thư bổ sung Hiệp ước NPT (sau đây gọi tắt là Nghị

định thư bổ sung), nhiều cuộc biểu tinh đã nỗ ra ở các trường đại học Iran. Ở Dai

học Kỹ thuật Sharif, sinh viên đã lên án việc ký kết Nghị định thư bổ sung là “sự

phản bội”[128]. Thậm chí, Ebrahim Shamshiri, thủ lĩnh của Hiệp hội sinh viên Hồi

giáo (Student’s Islamic Association) cịn cơng khai tun bố “Iran cần có VKHN dérăn đe ý đồ de dọa hoặc tiến công của Mỹ”[128]. Bên cạnh sự ủng hộ của sinh viên,

CTHN Iran cũng nhận được sự ủng hộ mạnh mẽ của các nhà khoa hoc hang đầu ởIran, ngành công nghiệp quốc phịng, các cơng ty thuộc quyền sở hữu của giới giáo

<small>sĩ bảo thủ, IRGC...</small>

Một tâm lý khác trong xã hội có lợi cho chính phủ Iran là sự thiếu quan tâmđến chính sách hạt nhân của một bộ phận nhân dân Iran. Những người thu nhập thấpkhông quan tâm tới chính sách hạt nhân nếu chính phủ đảm bảo được điều kiện kinhtế tối thiêu và các khoản trợ cấp cho họ. Cịn tang lớp trung lưu, tuy chính sách pháttriển hạt nhân cứng răn của chính phủ gián tiếp ảnh hưởng tới lợi ích kinh tế của họ,nhưng những ám ảnh về kinh nghiệm cách mạng của thế hệ trước, nỗi lo sợ rơi vàosự hỗn loạn như Iraq hay nguy cơ bị đàn áp bằng bạo lực, họ khơng sẵn sàng chốnglại chính phủ. Nhìn chung, chính sách hạt nhân của chính phủ Iran nhận được nhiều

sự ủng hộ và ít gặp phải sự phản đối cơng khai từ phía nhân dân Iran.

<small>1.2.3 Nhu cầu năng lượng để phát triển kinh tế</small>

Nhu cầu điện năng đề phát triển kinh tế cũng được coi là một động cơ thúc đâyIran xây dựng và phát triển CTHN. Với lý do Iran sẽ cạn kiệt dau mỏ trong tươnglai gần; có nhu cầu năng lượng cao do tốc độ phát triển nhanh và dân số đông (hon99 triệu người năm 2025 [201]); hạn chế ô nhiễm môi trường do khai thác cácnguồn năng lượng hóa thạch..., Iran cho rằng phát trién DHN là cần thiết. Hơn nữa,với quan điểm tự làm giàu uranium sẽ kinh tế hơn so với việc nhập khẩu uranium và

tự chủ về năng lượng DHN, chính phủ Iran đã đầu tư hàng triệu USD cho việc thăm

<small>dò, phát triên các mỏ uranium ở Iran và kiên quyết tự làm giàu uranium. Tuy nhiên,</small>

<small>30</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">

trên thực tế, các hoạt động nói trên gặp nhiều khó khăn và chi phí cao do thiếu cơng

nghệ khai thác và khơng có sự hợp tác quốc tế. Ngồi ra, trữ lượng uranium của

Iran cũng chỉ mức trung bình và chất lượng khơng cao. Vì vậy, theo Hadi Zamani,nhà kinh tế học người Iran, xét về hiệu quả kinh tế, với trữ lượng khí đốt lớn thứ haithế giới, giá điện được sản xuất từ khí đốt ở Iran sẽ thấp hơn so với được sản xuất từnăng lượng hạt nhân. Chính phủ Iran nên tập trung đầu tư cho các dự án xây dựngđường ống dẫn khí và phát triển cơng nghiệp hóa lỏng khí thay vi phát triên DHN.

Sự đầu tư này một mặt giúp cho Iran tránh được cấm vận kinh tế, cơ lập về chính

trị, đồng thời giúp Iran hưởng lợi từ sự phát triển của thị trường khí đốt trong tươnglai [243]. Như vậy, nếu khí đốt có lợi thế cạnh tranh trong sản xuất điện, tại sao

chính quyền Iran vẫn theo đi CTHN tốn kém và bị chỉ trích?

Dé giải thích van dé này, có thé dựa trên lý luận “những ảnh hưởng tiêu cựccủa dầu mỏ với q trình dân chủ hóa” của Michael L.Ross [183]. Theo Michael

L.Ross, ngoại tệ thu được từ hoạt động xuất khẩu dầu mỏ tạo ra các hiệu ứng (thuế;

chỉ tiêu quốc gia; nhóm xã hội; đàn áp; hiện đại hóa) giúp các quốc gia có trữ lượng

dầu mỏ lớn giữ cho qua bom kinh tế - chính trị - xã hội khơng phát nỗ. Xuất khẩu

khí đốt cũng tạo ra các hiệu ứng tương tự như xuất khâu dầu mỏ. Vì vậy, trong mụctiêu phát triển DHN đến năm 2021, chính phủ Iran chủ trương giảm tỷ lệ sản xuấtđiện bằng khí đốt từ 75% xuống 65% và dầu mỏ từ 18% xuống 5% và tăng tỷ lệthủy điện từ 7% lên 20% và ĐHN chiếm 10% tổng sản lượng điện quốc gia [243].

Như vậy, mục tiêu giảm tỷ lệ dầu mỏ và khí đốt được sử dụng trong sản xuất điệndé tăng cường tỷ lệ dầu mỏ, khí đốt trong hoạt động xuất khẩu thu ngoại tệ cũng là

một nguyên nhân quan trọng thúc day chính phủ Iran phát triển DHN.

Nhìn chung, nếu đánh giá CTHN Iran dưới góc độ thuần túy kinh tế như nhàkinh tế học Iran Zamani, quyết định phát trién DHN của chính phủ Iran có vẻ khơngkinh tế. Tuy nhiên, nếu kết hợp với lợi ích duy trì các hiệu ứng được sinh ra từ xuấtkhẩu dầu mỏ và khí đốt, CTHN có vẻ khơng phải là một cái giá q đắt đối với

chính phủ Iran. Và nếu kết hợp với những tham vọng của Iran và nhu cầu chống lại

<small>31</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34">

những mối đe doa từ bên ngoài đối với an ninh quốc gia của Iran, việc chính quyền

bảo thủ Iran theo đuôi CTHN hai mục dich mang lại những lợi ích vượt ra ngồikhn khổ các lợi ích kinh tế hay chính trị - xã hội nội bộ đơn thuần.

1.3 Cấp độ liên quốc gia/ khu vực

<small>1.3.1 Tinh hình Trung Đơng</small>

Trung Đơng là khu vực ln tiềm ân nguy cơ xung đột vì những mâu thuẫn đủloại chồng chéo lên nhau. Một khu vực với các tổ chức cấp tiến được các quốc giabí mật tài trợ phục vụ cho các mục đích khác nhau. Với tình trạng các quốc giatrong khu vực không xây dựng được lịng tin và ln đề phịng lẫn nhau, chạy đuavũ trang là đặc điểm dễ nhận thấy của khu vực Trung Đơng. Từ đầu năm 2003,những cáo buộc Iran tìm kiếm VKHN; những căng thắng quanh vấn đề hạt nhân

Iran; sự tăng cường ngân sách quốc phòng, đặc biệt là phát triển công nghệ tên lửacủa Iran đang làm cuộc chạy dua vũ trang ở Trung Đông thêm căng thăng. Theo

<small>nghiên cứu của Viện nghiên cứu Hịa bình Stockholm (SIPRI), từ năm 2003, chi phí</small>

quốc phịng khu vực Trung Đơng liên tục tăng:

Bảng 1.1: Chi phí quốc phịng khu vực Trung Đông (2003-2009)

Dựa trên báo cáo của SIPRI năm 2010 [192], ta có thê tính được chỉ phí qnsự trung bình hàng năm tính theo Tổng sản lượng quốc nội (GDP) trong giai đoạntừ năm 2000 đến 2008 của một số nước ở Trung Đông như sau: Bahrain 3,9%; Ai

Cập 2,95%; Iraq 3,1% 10. Israel 7,86%; Jordan 5,59%; Kuwait 5,5%; Lebanon

4,65%; Oman 11,2%; Qatar 3,1% 'l. Saudi Arabia 9,10%; Syria 5,03%; UAE

<small>10 Chi phi quân sự trung bình hang năm tinh theo GDP cua Iraq dựa trên số liệu từ năm 2004 đến 2008.Chi phi quân sự trung bình hang năm tinh theo GDP của Qatar dựa trên số liệu từ năm 2002 đến 2007.</small>

<small>32</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35">

7,56%; Iran 3,3%. Số liệu chi phí qn sự trung bình hàng năm tính theo GDP nóitrên cho thấy tâm lý khơng tin tưởng và đề phòng lẫn nhau ở khu vực. Ngoài ra, sự

khác nhau về GDP của các nước dẫn đến sự khác biệt về mức chi thực tế cho quốcphòng, khiến các nước nhỏ hơn buộc phải chi nhiều phần trăm GDP hơn cho quốc

phịng dé khơng bị thụt lùi quá xa trong cuộc chạy đua vũ trang. Ví du: Iran chỉ chi

2,9% GDP năm 2007 cho quốc phòng nhưng số tiền thực tế chi cho quốc phòng củaIran trong năm 2008 là hơn 9 ty USD, cao hơn rất nhiều lần so với Oman (10,4%

<small>GDP năm 2007, tương đương 4,6 tỷ USD) hay Jordan (6,1% GDP năm 2007, tươngđương 1,2 tỷ USD)... Trong năm 2008, chỉ có Saudi Arabia (9,2% GDP năm 2007</small>

<small>tương đương khoảng 38 tỷ USD) và Israel (7,2% GDP năm 2007, tương đương</small>

khoảng 14 tỷ USD) có mức chỉ thực tế cho quốc phịng lớn hơn Iran [192]. Dưới tác

động của “tình thế lưỡng nan về an ninh”, những khoản chi khổng 16 cho quân sựcủa Israel, Saudi Arabia và các nước Arập khác tác động đến quyết định tăng chỉ

<small>phí quốc phịng của Iran. Trong khi đó, chi phí quốc phịng của Israel va Iran tác</small>

động mạnh đến ngân sách quốc phòng của các nước Arập, đặc biệt là Saudi Arabia.

Còn đối với Israel, tổng chi phí quân sự của các nước Arập va Iran luôn được coi là

mối de doa nghiêm trọng đối với an ninh quốc gia. Nhìn chung, những mâu thuẫnchồng chéo, tình trạng thiếu tin tưởng lẫn nhau và “tình thế lưỡng nan về an ninh”đã biến chạy đua vũ trang ở Trung Đơng thành vịng ln quan mà khơng nước nào

có thé thốt ra được. Trong cuộc chạy đua vũ trang này, một số nước đã tìm cách tốiđa hóa quyền lực thơng qua việc tìm mua VKHN hoặc theo đuổi CTHN hai mục

<small>đích, bao gơm các hoạt động bí mật có mục đích qn sự.</small>

Trước hết là Israel, ngay từ khi thành lập quốc gia năm 1948, Israel đã chủtrương xây dựng CTHN. Năm 1952, Ủy ban năng lượng nguyên tử của Israel được

<small>thành lập. Năm 1964, Pháp hỗ trợ Israel xây dựng lò phản ứng hạt nhân cỡ nhỏ 24</small>

MW tại Dimona, trong sa mạc Néguev. Các sự kiện mat uranium được làm giau caoở Mỹ và châu Âu trong các năm 1965 và 1968 đặt ra những nghi ngờ về khả năng

Israel có đủ số uranium cần thiết để chế tạo VKHN. Ngoài ra, sự kiện kỹ sư

Mordechai Vanunu cung cấp những bức ảnh và thông tin liên quan tới kho VKHN

<small>33</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36">

tại nhà máy Dimona cho Sunday Times năm 1986 củng có thêm nghi ngờ của các

nước về khả năng Israel có VKHN. Theo Liên đoàn các nhà khoa học Mỹ (FAS),

cuối những năm 1990, Israel đã sản xuất khoảng 75 đến 130 đơn vị đầu đạn hạtnhân có thé trang bị cho các tên lửa đạn đạo Jericho và một số vũ khí khác [168].Việc Israel từ chối tham gia Hiệp ước NPT, đồng nghĩa với việc IAEA không thê

<small>thanh sát các cơ sở hạt nhân (CSHN) và giám sát các hoạt động hạt nhân của Israel,</small>

càng làm các nước tin rằng Israel là cường quốc hạt nhân thứ sáu trên thế giới với

khoảng 60 - 80 đầu đạn hạt nhân [191]. Cho đến nay, chính quyền Israel ln thực

<small>hiện chính sách không thừa nhận nhưng cũng không phủ nhận những thơng tin liên</small>

quan tới CTHN bí mật và sé luong đầu dan hat nhân của Israel. Thang 12 năm

<small>1995, trong cuộc họp báo tai Tel Aviv, Thu tướng Israel lúc đó là Shimon Peres đã</small>

bất ngờ đưa ra một thơng điệp nhạy cảm: “Hãy cho chúng tơi nền hịa bình, chúngtơi sẽ từ bỏ CTHN” [205]. Đây có thể coi là tuyên bố đầu tiên và duy nhất của một

lãnh đạo Israel về VKHN của nước này. Trong tương lai, Israel nhiều khả năng sẽ

tiếp tục duy trì chính sách mập mờ về khả năng hạt nhân quân sự của minh’.

CTHN Iraq bắt đầu vào giữa những năm 1960, được đây mạnh vào cuối những

<small>năm 1970 với việc mua một lò phản ứng hạt nhân nghiên cứu “lớp Osiris” của</small>

Pháp. Pháp, Iraq và IAEA đều tuyên bố lò phan ứng Osirak khơng thé sử dung chomục đích qn sự. Tuy nhiên, ngày 7 tháng 6 năm 1981, Israel vẫn tiễn hành Chiếndich Opera phá hủy nặng nề CSHN Osirak ngay trước khi các thanh nhiên liệu đượcđưa vào lò phản ứng. Cuộc khơng kích của Israel và chiến tranh Iran-Iraq (1980-

1988) đã làm CTHN của Iraq bị đình trệ. Sau Chiến tranh vùng Vịnh năm 1991, với

<small>việc CSHN Osirak bị phá hủy hoàn toàn, CTHN quân sự bi mật bị phát hiện, phải</small>

chấp nhận Nghị quyết 687 của UNSC và chịu sự thanh sát của Ủy ban đặc biệt của

Liên Hợp Quốc (UNSCOM) va IAEA, Iraq hầu như khơng cịn khả năng hiện thực

<small>hóa tham vọng sở hữu VKHN.</small>

<small>!? Cuối tháng 5 năm 2010, tại Hội nghị Kiểm điểm Hiệp ước NPT, các nước tham dự Hội nghị đưa ra Tuyênbố chung kêu gọi Israel ký Hiệp ước NPT, cho phép IAEA thanh sát các CSHN và tham gia Hội nghị Hướng</small>

<small>tới một khu vực Trung Đông phi hạt nhân sẽ được tổ chức vào năm 2012. Tuy nhiên, Israel đã bác bỏ khả</small>

<small>năng tham dự Hội nghị nói trên cũng như các yêu cầu khác trong Tuyên bố chung.</small>

<small>34</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37">

Libya tìm cách mua VKHN một cách khá ồn ào. Trong các năm 1970, 1975 và1978, Libya thất bại trong việc tim mua VKHN từ Trung Quốc. Cũng trong những

năm 1970, đề nghị của Tổng thống Libya Gadhafi cung cấp tài chính cho CTHNcủa Pakistan để nhận được VKHN từ Pakistan không đem lại kết quả như mongmuốn. Ngoài ra, đề nghị của Libya dùng dầu đổi lay sự giúp đỡ của An Độ về côngnghệ chế tạo VKHN cũng bị từ chối. Đầu thập kỷ 1980, Libya bắt đầu hợp tác vớiLiên Xô xây dựng CTHN dân sự. Năm 1995, Libya bắt đầu tiến hành mua bán hạtnhân bí mật với mạng lưới của tiễn sĩ Abdul Qadeer Khan (A.Q.Khan), cha đẻCTHN Pakistan. Từ năm 1997 đến năm 2003, Libya đã đạt được một số tiễn bộ

trong CTHN". Tuy nhiên, dưới tác động của cuộc chiến tranh Iraq và mạng lưới

của A.Q.Khan bị phá vỡ, Libya chấp nhận từ bỏ CTHN quân sự dé đổi lay các lợiích kinh tế và an ninh. Nhìn chung, CTHN của Libya chỉ ở mức sơ khai.

CTHN của Syria là một an số. Năm 1976, Syria thành lập Uy ban năng lượngnguyên tử. Tổng thống Syria Bashar al-Assad từng đề nghị Pháp cung cấp CNHNnhưng bị từ chối. Sau khi không thuyết phục được Ấn Độ cung cấp CNHN, Syriaký Hiệp ước hữu nghị với Liên Xô năm 1980. Tháng 9 năm 2007, Israel bất ngờkhơng kích một địa điểm trên lãnh thé Syria. Năm 2008, mục đích của cuộc tấn

công được Mỹ công bồ là nhằm vào một CSHN đang xây dựng của Syria. Hiện nay,

dường như CTHN Syria vẫn chỉ ở giai đoạn phơi thai và khơng có nhiều thơng tin.

Về phía Ai Cập, dưới thời Tổng thống Gamal Nasser, Ai Cập từng mua một lò

<small>phản ứng hạt nhân 2 MW của Liên Xô, gửi kỹ sư tới Liên Xô và xây dựng hai trung</small>

tâm nghiên cứu nguyên tử. Sau cuộc chiến tranh Kippur (1973), các sự kiện AI Cập

<small>liên minh với Mỹ; ký hiệp định hịa bình với Israel; tham gia Hiệp ước NPT làm</small>

giảm đáng kế khả năng theo đuổi chương trình chế tạo VKHN của Ai Cập. Tuynhiên, dưới sự lãnh đạo của Tổng thống Hosni Mubarak, Ai Cập đã day manh

<small>8 Trong 5 nam, Libya da nhan được từ mang lưới cua Khan các linh kiện đầu tiên, nhiều MLT P-1, vật liệu</small>

<small>hạt nhân dưới dạng UF6, nhiêu loại Cylinder có kích cỡ khác nhau dé chứa UF6 và đưa vào MLT, các tài</small>

<small>liệu, các bản thiết kế liên quan đến VKHN và sản xuất các linh kiện cần thiết... Năm 2002, Libya lắp đặt 3hệ thống cascade nhưng chỉ có hệ thống nhỏ nhất với 9 MLT hoạt động được.</small>

<small>35</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38">

CTHN và tiến hành nhiều hoạt động nghiên cứu hạt nhân bí mật trong những năm

1980. Năm 2006, Ai Cập thông báo kế hoạch xây dựng 10 nhà máy DHN ở khu vực

El-Dabaa. Năm 2009, IAEA tìm thấy dau vết uranium được làm giàu cao hơn mứccần thiết phục vụ mục đích làm nhiên liệu cho nhà máy DHN tại CSHN Inshas củaAi Cập. Cho đến nay, Ai Cập vẫn từ chối ký Nghị định thư bé sung. Những sự kiệntrên và hoạt động hạt nhân bí mật trong quá khứ cho thấy tham vọng hạt nhân củaAi Cập có thé lớn hơn một CTHN dân sự thuần túy.

Tham vọng hạt nhân của Saudi Arabia cũng có thê khơng dừng ở việc pháttriển ĐHN dân sự. Năm 1975, Saudi Arabia xây dựng một trung tâm nghiên cứu hạtnhân tại khu liên hợp quân sự ở sa mạc Al-Suleiyel, gần thành phố Al-Kharj. Năm

1988, Viện nghiên cứu về năng lượng nguyên tử Saudi Arabia được thành lập. Năm1994, London Sunday Times công bố một số tài liéu'* cho thấy tham vọng vũ trang

hạt nhân của Saudi Arabia. Năm 2003, trong Đánh giá chiến lược bí mật, SaudiArabia để ngỏ khả năng sở hữu VKHN (là một trong ba lựa chọn chiến lược cùnghai lựa chọn khác là dựa vào một nước có VKHN hoặc thúc đây hình thành khu vựcTrung Đơng phi hạt nhân). Ngoài ra, theo thiếu tướng Aharon Ze'evi-Farkash, người

đứng đầu Cơ quan tình báo quân đội Israel (2002 - 2006), Saudi Arabia đã tìm cáchmua đầu đạn hạt nhân của Pakistan dé trang bị cho tên lửa đạn đạo phóng từ mặt đất

của mình [173]. Năm 2006, Saudi Arabia thông báo kế hoạch cùng các nước thuộcHội đồng Hợp tác các nước Arập vùng Vịnh (GCC) xây dựng chương trình DHNchung. Tuy nhiên, tháng 8 năm 2009, Saudi Arabia quyết định xây dựng chươngtrình ĐHN riêng và để ngỏ khả năng vũ trang hạt nhân nếu Iran có VKHN.

Như vậy, tham vọng làm chủ CNHN của Iran có thé là tham vọng chung của

<small>nhiêu nước trong khu vực. Trên phương diện dân sự, với ý thức cường quôc khu</small>

<small>'4 Mohammed al-Khilewi, nhân vật đứng thứ hai trong phái đoàn Saudi Arabia ở Liên Hợp Quốc đã phát tán</small>

<small>hơn 10.000 tài liệu chính phủ lưu hành nội bộ mà ơng ta có được khi cịn tại chức. Theo các tài liệu nói trên,</small>

<small>Saudi Arabia đã tài trợ khoảng 5 tỷ USD để Iraq phát triển CTHN. Đổi lại, Saudi Arabia yêu cầu Iraq chuyển</small>

<small>cho họ một vai đơn vị VKHN nếu Iraq phát triển thành công VKHN. Những tai liệu cũng cho thấy Saudi</small>

<small>Arabia đã cung cấp tài chính cho CTHN Pakistan và ký một Hiệp ước an ninh với Pakistan. Theo hiệp ướcnày, nếu Saudi Arabia bị tan công bởi VKHN, Pakistan phải trả đũa thay bằng VKHN của mình.</small>

<small>36</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 39</span><div class="page_container" data-page="39">

vực, Iran khó có thé chấp nhận các quốc gia khác trong khu vực vượt qua mình

trong lĩnh vực CNHN. Trên phương diện quân sự, do mối quan hệ thù địch giữa

<small>Iran với Israel và Iraq (dưới thoi Saddam Hussein), khả năng vũ trang hạt nhân của</small>

Israel và CTHN quân sự bí mật của Iraq có thé đã tác động mạnh đến quyết địnhxây dựng CTHN hai mục dich của Iran ngay từ khi khôi phục CTHN của chế độ

<small>Pahlavi năm 1982. Bên cạnh đó, tham vọng hạt nhân của Ai Cập va Saudi Arabia có</small>

thể khơng dừng ở một CTHN dân sự thuần túy cũng là yếu tố kích thích Iran theođuổi CTHN hai mục đích. Hơn nữa, đối với Iran, một quốc gia luôn đứng trướcnguy cơ bị can thiệp quân sự từ các quốc gia phương Tây có sức mạnh quân sự vượttrội, khả năng răn đe của VKHN là một thứ “trái cam” quyén ru. Hién nay, dudi tacđộng của “tinh thé lưỡng nan về an ninh”, trong bối cảnh bị cô lập tương đối, trong

mối quan hệ thù địch với một Israel được cho là đã có VKHN, với nhu cầu cạnh

tranh quyền lực với Ai Cập va Saudi Arabia, Iran đã và đang không ngừng tăngcường sức mạnh quân sự, biện pháp quan trọng hàng đầu nhằm tăng cường sứcmạnh tông hợp quốc gia. Trong tương lai, nếu các điều kiện an ninh của Iran khôngthay đôi theo hướng tích cực, trong khi duy trì thành cơng CTHN hai mục dich, Iran

có thể sẽ áp dụng các thành tựu hạt nhân vào mục đích qn sự.

<small>1.3.2 Tình trạng cơ lập tương đối của Iran ở khu vực</small>

Iran gần như khơng có bạn bè đúng nghĩa ở khu vực. Họ rất khó tăng cườngquyền lực bằng liên minh. Khi phe bảo thủ chiếm wu thé ở Iran, Iran càng khó tìmliên minh hơn. Một cường quốc khu vực thường xuyên bị đề phòng và lo ngại:

Thử nhất, về mặt dân tộc, Iran không phải Arập, lran là Ba Tư (Persian). Sựcạnh tranh giữa hai dân tộc Arập và Ba Tư là một vấn dé có tinh lịch sử. Khi ngườiArập chinh phục lãnh thé Iran-Ba Tư, người Ba Tư chấp nhận theo Hồi giáo nhưngkiên quyết chống lại âm mưu “Arập hóa”. Thơng qua văn hóa và tơn giáo, người BaTư cố gang thoát khỏi sự thong trị cua Arập va hướng đến phục hưng dân tộc. Trên

<small>37</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 40</span><div class="page_container" data-page="40">

phương điện tôn giáo, các đế chế Ba Tư Ở ln tìm cách cạnh tranh vai trị lãnh daocộng đồng Hồi giáo với người Arập. Ở các thế kỷ IX và XI, Ba Tư là trung tâm của

Thời đại Hoàng kim Hồi giáo. Đến thế kỷ XV, dưới triều đại Safavid, Hồi giáoShiite trở thành quốc giáo của Iran, mở ra sự cạnh tranh mới với người ArậpSunni°. Va chạm giữa người Arập và Ba Tư rất dé xảy ra do tham vọng mở rộngảnh hưởng hay thu hồi những phần lãnh thô mà các bên đều cho rằng thuộc về mìnhtrong lịch sử. Hiện nay, giữa Iran và các nước Arập vẫn tồn tại những tranh chấp cótính lịch sử chưa thê giải quyết:

Van dé tên Vinh là một vẫn đề lịch sử tồn tại cho đến ngay nay (Iran gọi khu

<small>vực Vịnh là Vinh Ba Tu trong khi các nước Arap gọi là Vinh Arập). Tên Vinh</small>

không đơn thuần chỉ là cách gọi mà còn là nền tang cho quan niệm về lãnh thỏ, về

<small>vùng ảnh hưởng và cho những sự lựa chọn chính tri.</small>

Van dé tranh chap ba hòn đảo trong vùng Vinh (Abu Musa, Greater và Lesser

Tunbs) giữa Iran va UAE. Từ năm 1992, ba đảo này nằm dưới sự kiểm soát của

<small>Iran. Sau khi Iran mở văn phòng hàng hải tai một trong ba đảo nói trên năm 2008,</small>

quan hệ ngoại giao giữa hai nước đã xấu đi nhiều. Tháng 3 năm 2008, Liên đồn

<small>Arập đã khiếu nai Iran và đệ trình tun bố về chủ quyền của UAE đối với ba đảo</small>

nói trên lên ƯNSC. Trong bản kiến nghị có cả chữ ký của các nước Arập có quan hệgần gũi với Iran như Syria, Qatar. Tháng 4 năm 2010, Ngoại trưởng UAE Zayed al-

Nahayan so sánh việc Iran kiểm sốt ba hịn đảo trên với việc Israel xâm chiếm lãnhthé Arập năm 1967 và kêu gọi Iran “ngừng hành động chiếm đóng” [122].

<small>1 Dân tộc Iran - Ba Tư được xác định bởi địa lý, ngơn ngữ, Hồi giáo. Tính liên tục của lịch sử Iran - Ba Tưkhông dựa trên sự duy trì các triều đại của dân tộc Ba Tư mà được quy định dựa trên văn hóa và tơn giáo (cácdé chế Ba Tư kể từ triều dai Sassanid đến Safavid thực chat không phải do người gốc Ba Tư xây dựng nên</small>

<small>ma là những dân tộc khác cai tri vùng đất Iran - Ba Tư).</small>

<small>!* Nguyên nhân chính dẫn đến sự thay đơi tơn giáo chính thức của Iran ở thế kỷ XV là do Triều dai Safavidmuốn xác lập ranh giới chính trị và tơn giáo với Dé chế Ottoman, ủng hộ và lấy dong Sunni là tơn giáo chính</small>

<small>thức. Tuy nhiên, sự lựa chọn này cũng tao ra sự phân chia ranh giới giữa người Iran Shiite và người Arập</small>

<small>Sunni. Theo thời gian, nguyên nhân chính của sự thay đổi trở nên mờ nhạt do sự sụp đồ của đế chế Ottomanvà chính sách thế tục hóa của Thổ Nhĩ Kỳ. Trong khi đó, hệ quả của sự thay đổi nói trên lại trở nên sâu sắc,</small>

<small>góp phần thúc đây những mẫu thuẫn, những cuộc đấu tranh giành quyền lực, quyền lãnh đạo cộng đồng Hồi</small>

<small>giáo giữa người Ba Tư va người Arập ở khu vực Trung Đông.</small>

<small>38</small>

</div>

×