Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (29.63 MB, 111 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">
<small>PHAYOM NAHORKHAM</small>
<small>Hà Nội - 2017</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2"><small>PHAYOM NAHORKHAM</small>
<small>Luan van Thac si chuyén nganh Viét Nam Hoc</small>
<small>Hà Nội - 2017</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">Tôi xin cam đoan nội dung luận văn “Truyền thống thả hoa đăng tronglễ hội ở Thái Lan và Việt Nam” là kết quả nghiên cứu của riêng tôi, khơng
<small>Học viên</small>
<small>Phayom Nahorkham</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4"><small>Lan cua ngài tại Hà Nội năm 2015, ngài đã mở cánh cửa đón nhận những</small>
thông tin về Lễ hội này mà tôi trởng đã phải đóng lại. Tơi xin được bày tỏ sự
<small>cảm ơn chân thành tới Ngài.</small>
Trong suốt thời gian từ khi bắt đầu học đến khi kết thúc khóa học Cao
của cư dân Huế lúc tôi đến khảo sát, cảm ơn bạn Tran Văn Dũng-phòng quảnlý Di sản văn hóa, Sở văn hóa và thể thao tỉnh Thừa Thiên Huế, vừa giúp tơithực hiện phịng vấn, vừa cung cấp cho tôi những tài liệu quan trọng, tặngcho tôi những quyển sách có giá trị. Tơi cũng xin được cảm ơn Thượng tọa
<small>khảo sát này đã mang lại cho tôi những cảm nhận đặc biệt. Đó là cảm giácnhư tơi đang ở trong một ngôi chùa ở Thái Lan chứ không phải ở Việt Nam.</small>
<small>Và tôi cũng xin được cảm ơn bac sĩ Hemmawat Kansauwapakkul người đãgiúp tôi quay phim, ghi hình và chụp ảnh trong thời gian khao sát. Tôi cũng</small>
muốn dành nhiêu lời cảm ơn cho bạn bè mà tơi khơng thé nói hết tại đây,những người đưa thêm thơng tin và ln cổ vũ tơi hồn thành luận văn này.
Đặc biệt, tôi muốn gửi tới TS. Đặng Thị Van Chỉ, người hướng dan
</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5"><small>tháng tôi làm luận văn này, tôi luôn nhận được sự giúp do quý báu của cô. Cô</small>
đã cung cấp cho tôi những kiến thức, những thông tin quan trọng, và đã dànhrất nhiều thời gian hướng dẫn, đọc và góp ý cũng như chính sửa bản thảo
<small>luận văn này.</small>
Cuối cùng, tôi muốn được tưởng nhớ cô giáo Siriwong Hongsawan, côgiáo tiếng Việt dau tiên của tơi, người đã khơi dậy tình u đổi với tiếng Việt,
<small>hồn thành luận văn thạc sĩ này, cô đã không con ở đây nữa, nhưng tơi tin</small>
<small>như trước đây.</small>
<small>Phayom Nahorkham</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6"><small>MỤC LỤC</small>
<small>LOT CAM ĐOAN... 5c tt ren 1</small>
<small>LOT CAM 0008000880880... ... 20967.1000015 ... 3</small>
<small>1.Lý do chọn đề tài...---- 2c 5c s2 E2 2121127111211 211 21111211211 11111 eee 3</small>
<small>2.Tong quan nghiên cứu... ---¿- 2 % t+St+kE EEEEEEEEEXEE1211211111111 11111111 re.4</small>
<small>3.Muc ti€ur mghi€m COU na BH... 84, Pham vi mghién Ctru nnn ... ee...Ả... 8</small>
<small>5.Phương pháp nghiên cứu va các nguồn tư liệu...-- - 2 5 s+c+zczzsz 86.Dự kiến đóng góp của đề tài... - 22-55 St St t2 E2 2122121121111 1c 97. Bố cục luận vănn...--- 2-2 £+E2+EE£EEE2E2E1221271711211271111211211 1121 1.11 9</small>
<small>Chương 1: TRUYEN THONG THA HOA ĐĂNG TRONG LE HOI THÁI LAN... 11.1Khái quát về Thái Lan ...- 2-2-2522 SE£EE£EESEE2EEEEEEEEEEEEEEErrkerkerkrree 11</small>
<small>1.2Một số đặc trưng văn hóa và lễ hội ở Thái Lan ...-- 2-5-5555 52 141.2.1 Đặc trưng văn hóa và Lễ hội ở miền Trung Thái Lan...- 151.2.2 Đặc trưng văn hóa và Lễ hội của vùng Đông Bắc (hay I-san)... 17</small>
<small>1.2.3 Đặc trưng văn hóa và và lễ hội miền Nam...-5-©52©52+cccccccce+ 24_—_ 1.2.4 Đặc trưng văn hóa và lễ hội miền Bắc ...--- 5c ©5c©cs+ccccceccee 27</small>
<small>1.3 Lễ hội thả hoa đăng ở Thái Lan ... 2-5 25 SS+S>xezzxerxzrerxee 29</small>
<small>1.3.1 Nguồn gốc của lễ thả hoa đăng ...- - +5: 5c ccceccterererererrree 3113.2 Lễ hội thả hoa đăng ở Thái Lan trong lịch sử...---5-©55<: 341.3.3 Lễ hội thả hoa đăng hiện Iay...- 55c SccSscccEctcterkererererrree 391.3.4 Nghỉ lễ thả hoa đăng trong lễ hội hiện nay...-5--5+©52©5sccscc5cc: 40</small>
<small>1.3.5 Một số khác biệt trong Lễ hội thả đèn hoa đăng ở các vùng miền khác nhau ...411.3.6 Ý nghĩa của lễ thả đèn hoa đăng Thái Lan...-©5-©52©cs+cscccecce+ 42</small>
<small>Chương 2: LE HỘI THA HOA ĐĂNG Ở VIỆT NAM...---cs-c+ 452.1 Khái quát về Lich sử và Văn hóa Việt Nam...--2-2cs+csccxeccee 45</small>
<small>2.2 Khái quát về Lễ hội ở Việt Nam...-- 2-2-2 2 EEEEEEEErrrrerkerree 49</small>
<small>2.2.1 Sơ lược về Lễ hội Việt Nam trong lịch sử ...---5--- 49</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7"><small>2.2.2 Một số loại hình Lễ hội ở Việt Nam hiện nay...---5-©55-: 51</small>
<small>2.2.3 Một số lễ hội tiêu Did oe. ceccecceccecceseeseesseesesseessessessesssssessessesseesesseesees 56</small>
<small>2.3 Tha Hoa đăng trong Lễ hội ở Việt Nam...-2- 52-5 SscSzcxczecxczz 66</small>
<small>2.3.1 Tục thả hoa đăng trong Lễ hội Phật giáo ...-- 5-55 ccccccccses662.3.2 Tuc thả Hoa dang trong Lễ hội Phật giáo ở Việt Nam... 692.3.3 Lễ hội thả hoa đăng ở HuẾ... 5c 5S E2 Eteererrey73Chương 3: MOT SO NHẬN XÉT VE TRUYEN THONG THẢ HOA ĐĂNG</small>
<small>TRONG LE HOI Ở THÁI LAN VA VIỆT NAM...---©5c+ccsccsrecces 793.1 Lễ hội truyền thống Việt Nam và Thái Lan - sản phẩm của cơ tầng văn</small>
<small>hóa lúa nước và giao thoa văn hóa Trung-Ấn...-- 2-2 2+scxe£xezxersscez 793.2 Lễ hội tha hoa đăng — một lễ hội tiêu biểu cho sự kết hợp giữa văn hóa</small>
<small>của cư dân nơng nghiệp trồng lúa nước với văn hóa Phật giáo... 82</small>
<small>3.3 Lễ hội thả hoa đăng và sự phản ánh vai trò của dao Phật trong đời</small>
<small>song văn hóa, tín ngưỡng hai nước Thái Lan và Việt NÑam... 84</small>
<small>3.4 Lễ hội hoa đăng - sản phẩm đặc trưng của văn hóa du lịch... 86</small>
<small>3.5 Sự tương đồng và khác biệt trong lễ hội tha hoa đăng ở Thái Lan va</small>
<small>Việt Nam hiện may. oo... cece ee eeceeseceeceeessceesecesececeeseeeaeccecseeeseceaececeseeeaeeeneeaees 88</small>
<small>KET LUAN 0... 4... 91</small>
<small>TÀI LIEU THAM KHAO oooiooccccccccssscsssesssessssssssssecssessssesecssecssessssssesssessusssesesesssecs 94</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">MỞ DAU
đến nay, tơi ln gặp nhiều câu hỏi về văn hóa Thai Lan. Ban thân tơi đã cố
<small>khác biệt giữa văn hóa Thái Lan và văn hóa Việt Nam, và việc nghiên cứu tìm</small>
thích về văn hóa hai nước mỗi khi bạn bè hỏi tới.
Tuy nhiên, có một phong tục mà suốt từ năm 2006 đến năm 2014, tơi
Việt Nam, đó là phong tục “thả hoa đăng” trong lễ hội, hay còn thường đượcgọi là Lễ hội thả hoa đăng.
Vào năm 2007, năm đầu tiên Hội doanh nhân Thái Lan tổ chức ngàyhội “Thailand Day”, trong đó có cả hội thả hoa đăng nhằm quảng bá tới bạnbè Việt Nam về lễ hội thả hoa đăng này, và trong ngày Hội đó, tơi vinh dựđược làm người dẫn chương trình. Dé làm tốt cơng việc được giao tơi đã cốgăng tìm hiểu các từ ngữ giải thích về lễ hội này bằng tiếng Việt thông quamang internet và bạn bè người Việt Nam, tôi được biết rằng ở Việt Nam<small>khơng có lễ hội tương tự. Đây là câu trả lời mà tôi đã ghi nhớ mỗi khi trả lời</small>
cho bạn bé người Việt Nam và quốc tế. Tuy nhiên, tơi vẫn hồi nghi khơngbiết mình đã thực sự hiểu đúng về Lễ Hội Hoa đăng này hay chưa?
Hà Nội, Việt Nam. Trong buổi Lễ hội này, tôi được giao nhiệm vụ là dẫnchương trình tại buổi lễ. Tơi đã phải tìm hiểu từ ngữ để giải thích về phan lễhội cho người Việt Nam và khách mời nước ngồi hiểu rõ về phần lễ hội này.
có một lễ hội tại Việt Nam cũng tương tự với lễ hội thả hoa đăng của Thái
mong muốn. Cho đến khi có cơ hội được làm luận văn thạc sĩ, tơi nhận thayđây chính là một cơ hội q giá dé tơi có thé nghiên cứu, so sánh hai lễ hộinày của Thái Lan và Việt Nam. Từ nghiên cứu này, tôi hi vọng có thể mang
Nam hiểu rõ hơn về Lé hội này từ nội dung, các nghi lễ đến ý nghĩa của lễhội, và từ việc so sánh đối chiếu sự giống và khác nhau giữa hai lễ hội có thé
đó, chúng tơi cũng muốn góp phan gin giữ, kế thừa và quảng bá phong tụcvăn hóa này như là một di sản của nhân loại. Đây chính là lý do tơi chọn đềtài nghiên cứu: Truyền thống thả hoa đăng trong lễ hội ở Thái Lan và Việt
trường xã hội, thiên nhiên, quan điểm, đặc trưng, thị hiếu thê hiện qua niềm
<small>hậu và những sự việc xảy ra mà con người khơng thê lí giải được. Khi xảy ra</small>
<small>4</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">giúp mình. Khi thiên tai qua đi, con người liền thể hiện lịng biết ơn của mình
thân theo niềm tin và hiểu biết của mình. Khi những hành động đó được phần
gồm hai yếu tố Lễ và Hội gắn bó chặt chẽ với nhau, khơng thể bỏ đi một yếu
hoạt văn hố mang tính tơn gido/tinh than của một cộng đồng dân cư.
hành nhằm đánh dấu hoặc ky niệm một sự việc, sự kiện có ý nghĩa nào đó).Lễ ở đây được hiểu là phép tắc, cung cách ứng xử của người trên, kẻ dưới. Lễ
của con người với tự nhiên và con người với xã hội và với niềm tin tơn giáotín ngưỡng của họ. Lễ vì vậy thường chứa đựng nhiều yếu tố thần bí và cácnghi thức của Lễ ln tốt lên sự cầu mong sự phù hộ độ trì của các dang than
Hội: Theo từ điển Tiếng Việt, là “cuộc vui tổ chức chung cho đông đảo
trung đông người trong một địa điểm để vui chơi. Hội nhằm đem lại lợi íchtinh thần cho mọi thành viên của cộng đồng, mang tính cộng đồng cả tư cáchtổ chức lẫn mục đích của nó. Có khi tính cộng đồng đó được mở rộng đến các
làng, bản khác. Đây là sự cộng cảm cần thiết về phương diện tâm lý saunhững ngày tháng lao động vất vả với những dồn nén cần được giải toả vàthăng bang trở lại. Như vậy, Hội là một cuộc vui với nhiều hoạt động giải trí
sự hoan hỉ của một cộng đồng khi tham gia nó.
thành viên trong một cộng đồng nhằm vươn tới những điều tốt đẹp. Những
</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11"><small>khát vọng của con người được khái quát hoá, nhân cách hoá hoặc lý tưởng</small>
<small>đẹp hơn.</small>
<small>trọng trong kho tang di sản văn hóa dân tộc, là nơi chứa đựng mọi giá tri và ý</small>
xử của con người trong tiến trình phát triển của mình. Lễ hội truyền thống là
các dân tộc trong suốt chiều dài lịch sử đấu tranh dựng nước, giữ nước, mởnước của dan tộc. Với lich sử hình thành và phát triển hàng ngàn năm, Thái
cả dân gian và chốn cung đình qua các thời kỳ lịch sử của đất nước và đã trởthành một nét văn hóa đặc sắc trong truyền thống văn hóa lâu đời của dân tộc.
<small>Hoa đăng là đèn có hình hoa.</small>
Thả hoa đăng là nghi lễ thả những chiếc hoa đăng (đèn đã thắp nến)xuống nước trên các dòng sông, hoặc thả lên trời trong các ngày hội lễ lớn củamột số dân tộc ở Đông Nam Á như Thái Lan, Việt Nam...
Lễ hội thả hoa đăng là những lễ hội mà ở đó người dân thực hiện nghỉlễ thả những chiếc hoa đăng xuống sông hoặc thả cho hoa đăng bay vào
<small>không trung.</small>
2.2 Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Lễ hội là một bộ phận quan trọng của đời sống văn hóa của nhân loại,
trình nghiên cứu về lễ hội và văn hóa dân gian.
như Hội hè đình đám của Toan Anh với Quyển thượng và Quyền ha, do nhà<small>6</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">Minh tái bản năm 1992. Toan Ánh tập trung miêu tả các lễ hội cổ truyền trên
<small>phân loại lễ hội riêng qua việc khảo sát thực địa các lễ hội dân gian Thừa</small>
<small>cho việc tra cứu và khách du lịch như: Hội hè Việt Nam do Trương Thìn chu</small>
Trung Vũ; Lê Trung Vũ và Nguyễn Hồng Dương công bố cuốn Lich lễ hội
<small>Việt Nam của Ngơ Duc Thọ, Tạp chí Van hóa nghệ thuật biên soạn và cho ra</small>
mắt độc giả cuốn Kho tàng lễ hội cổ truyén Việt Nam với 212 lễ hội của các
Tây Nguyên va Nam Bộ; Tổng cục du lịch Việt Nam ấn hành sách hướng dandu lich Non nước Việt Nam; Minh Anh - Hải Yến - Mai Ky đã tập hop 25 /é
hóa và du lịch Việt Nam. Phạm Trình - Trần Minh tập hợp, chọn lọc 322 lễhội cả nước cho ra mắt độc giả cuốn sách Hanh trình lễ hội Việt Nam, trong
của 10 tinh vùng đồng băng sông Hong, 57 lễ hội của 6 tinh vùng Bắc Trung<small>Bộ, 60 lễ hội của § tỉnh vùng duyên hải Nam Trung Bộ, 22 lễ hội của 5 tỉnh</small>
<small>Tây Nguyên, 40 lễ hội của 6 tỉnh vùng Đông Nam Bộ.</small>
Vệ việc nghiên cứu lễ hội ở Thái Lan phần lớn các cơng trình cũng đi
dần mất đi như một cách để lưu giữ, bảo tồn những hoạt động văn hóa củadân tộc như bài nghiên cứu Biểu Diễn Kan Trưm — song ca dân gian của
<small>người Thai-Khmer của PSGTS Phumjit Ruangdej và cộng tác, (2007) nhà</small>
xuất bản văn hóa Thái Lan, Bộ Văn Hóa, hoặc bài nghiên cứu Phong cảnh
<small>văn hóa Việt Nam trong làng xã ở làng Na Jok, phượng Nong Yart, huyện</small>
Muang, tỉnh Nakorn Phanom, (2015) của Methee Piyiyakarnnon, Khoa Kiến
<small>7</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13"><small>tỉnh Nakorn Phanom.</small>
Phần lớn việc nghiên cứu liên quan đến Thái Lan và Việt Nam thường
<small>3.Mục tiêu nghiên cứu</small>
và Việt Nam, từ nguồn gốc, ý nghĩa cho đến các nghỉ lễ trong lễ hội và phong
<small>gia Thái Lan và Việt Nam, chúng tôi đặt lễ hội này trong khung cảnh chung</small>về lịch sử, văn hóa và các đặc điểm về văn hóa và lễ hội ở Thái Lan cũng như
tôi muốn so sánh những nét tương đồng và khác biệt giữa hai lễ hội này và
<small>thử lý giải chúng.</small>
<small>4. Pham vi nghiên cứu</small>
Do khuôn khổ của luận văn chúng tôi sẽ giới hạn phạm vi nghiên cứutập trung vào lễ hội thả Hoa đăng ở Thái Lan và Việt Nam, về lễ hội thả hoađăng ở các quốc gia khác thuộc khu vực Đông Nam Á, nếu có chúng tơi xinđược giới thiệu có tính khái qt dé có thé làm rõ hơn xu hướng giao lưu vàtiếp biến văn hóa ở các quốc gia trong khu vực.
5.Phương pháp nghiên cứu và các nguồn tư liệu
<small>5.1 Phương pháp nghiên cứu:</small>
Đề thực hiện đề tài này, chúng tôi sử dụng các phương pháp lịch sử đểtìm hiểu nguồn sốc của lễ hội, các phương pháp mô tả, phân tích các nghi lễtrong Lễ hội nhằm giúp người đọc hiểu một cách chân thực về Lễ Hội, đồng
việc tơ chức lễ hội tại các địa phương hiện nay.
1. Tim hiéu về lịch sử, nguồn gốc, và văn hoá của lễ hội Thả hoa đăng của
<small>ban, và các hỉnh ảnh, video tìm hiệu được trên trang web va trong quá trình đithực địa...</small>
chọn Huế là nơi nghiên cứu do Huế là kinh đô cuối cùng của Việt Nam trước
<small>khi bi Pháp thuộc, cho nên các tài liệu, văn hóa hoặc văn nghệ liên quan có</small>
là nơi được nhiều người biết đến có tô chức lễ thả hoa đăng ở Việt Nam.6.Dự kiến đóng góp của đề tài
<small>Giới thiệu và làm rõ lễ Hội thả hoa đăng ở Thái Lan và Việt Nam, bước</small>đầu so sánh sự giống nhau và khác nhau của Lễ hội này ở hai quốc gia, từ đó
quốc gia trong khu vực.
gồm các nội dung sau:
1.1 Khái quát về Thái Lan
1.2 Một số đặc trưng văn hóa và lễ hội ở Thái Lan
1.3 Lễ hội thả hoa đăng ở Thai Lan
2.1 Khái quát về lịch sử và văn hóa Việt Nam2.2 Khái quát về Lễ hội ở Việt Nam
2.3 Thả hoa đăng trong Lễ hội ở Việt Nam
3.1 Lễ hội truyền thống Việt Nam và Thái Lan - sản phẩm của cơ
</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">3.3 Lễ hội thả hoa đăng và sự phản ánh vai trò của dao Phật trong
3.5 Sự tương đồng và khác biệt trong lễ hội thả hoa đăng ở Thái Lan
<small>và Việt Nam hiện nay.</small>
<small>10</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">Chương 1: TRUYEN THONG THA HOA ĐĂNG TRONG LE HỘI
1.1 Khai quat vé Thai Lan
Thái Lan là một Vuong quốc nằm ở vùng Đơng Nam A, phía bắc
<small>giáp Lào và Myanma, phía đơng giáp Lào và Campuchia, phía nam giáp vịnh</small>
<small>Thái Lan phía đơng nam giáp với lãnh hải Việt Nam ở vịnh Thái Lan, phía tây</small>
nam giáp với lãnh hải Indonesia và An Độ ở biển Andaman.
Pháp “Thailande” và tiếng Anh là “Thailand”, tên gọi này thé hiện đúng theo
“đất nước của người Thái”. Đây là tên gọi xuất hiện khá muộn, và chỉ được sử
<small>dụng chính thức vào năm 1939. Trước đây, các nước phương Tây và Việt</small>
<small>Thái, các sử gia Thái Lan thường mơ tả lịch sử của mình theo tên của các</small>
vương triều.
của người Thái cô là ở vùng tây bắc tỉnh Tứ Xuyên, (Trung Quốc) cách ngàynay khoảng 4,500 năm. Sau đó, do sự gia tăng dân số, người Thái đã di cưdần theo hướng đông nam để mở rộng vùng đất canh tác của mình, tức làvùng đất Tứ Xuyên ngày nay, và lấy dịng sơng Trường Giang làm phương
<small>hướng mở rộng bờ cõi.</small>
Sự mở rộng lãnh thé của tộc người Thái là nhằm mục đích có thêmvùng đất canh tác phù hợp, sự di cư này diễn ra một cách tự phát, theo nhiềunhóm người, nhóm nào tự lo cho nhóm đó. Vì vậy lịch sử của Vương QuốcThái Lan thời kỳ đầu là lich sử của các tiêu quốc, độc lập với nhau. Có thé kê
1. Vương Quốc Lan Xang "(Ai Lao hay Lão Qua) được thành lập bởinhững tộc người Thái do bị quân Mông Cổ xâm chiếm nên đã phải rời bỏ
<small>*_ Nguồn cốc của người Thai</small>
<small> c/historym1/unit02_01.html</small>
<small>11</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">này thường có chiến tranh với Trung Quốc và đến năm 365 thì bị TQ chiếm.
Theng - Xiéng, Xi - Lang va Mung - Xé. Các nhóm này sau đó cũng bị Trung
3. Vương quốc Sukhothai (1249-1583). Đến thế kỷ thứ VIII, nhữngngười Thái đã di cư vào khu vực thuộc lãnh thé Thái Lan ngày nay và thànhlập những quốc gia riêng của họ. Khi người Thái mới di cư vào khu vực này,thì tại đây đã có các vương quốc của người Khmer năm ở vùng thuộc phía
Lào và Vương quốc Dharavati của người Môn nam ở vùng đồng bang sôngChaophraya đang rất hưng thịnh. Tuy nhiên, khi quyền lực của người Môn và
mới vào năm 1238. Vương quốc này tồn tại đến năm 1358, tức là 120 năm.Trong thời kỳ này nhà nước được tơ chức theo mơ hình phụ quyền. Một ơngvua Sukhothai tên là Vua Ramkhaeng là đã có cơng mở rộng lãnh thổ về phíaNam và đã tạo ra bảng chữ cái Thái đầu tiên. Sukhothai là một nước có vai trịcực kì quan trọng trong lịch sử với vai trò là nhà nước đầu tiên kiên quyết bảovệ nền độc lập và chủ quyền của mình. Mặc dù Sukhothai chỉ là một nhà nướcnhỏ ở phía Bắc của Thái Lan, nhưng cũng có sự phát triển đến mức trở thànhtrung tâm thương mại và là nơi đông dân cư nhất, đồng thời đây còn là trung
<small>tâm Phật giáo trong khu vực</small>
khoảng trên 400 năm. Nhà nước Ayuddhaya có những đặc trưng riêng. vềmặt tư tưởng và văn hoa, Ayuddhaya chịu ảnh hưởng và tiếp thu cách tổ chức
<small>nhà nước cua Dé chê Ankor. Đức Vua được coi là vi chúa tê của mọi thân dân</small>
<small>? Vương quốc Nàn Chao class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">
thành phố Angkor Thôm của Đề chế Ankor và buộc những người Khmer phải
Đề chế Ankor. Vì lý do có chung biên giới, Ayuddhaya thường xuyên cóchiến tranh với Miến Điện. Năm1767, trong lần chiến tranh với Miến Điện,khi bị Miễn Điện thiêu rụi kinh đô, Vương quốc cũng tan rã.
hợp những người ủng hộ mình để thành lập một đội quân và đã chiếm lại
đô xuôi theo dịng sơng đến Thonburi và lập ra vương quốc Thonburi. Tuynhiên, thời đại Thonburi chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn ngủi và kết thúc
<small>vào năm 1782.</small>
6. Từ năm 1782 đến nay là sự hiện diện của Vương quốcRattanakosin kinh đô tại Bangkok. Thiết chế nhà nước của Vương quốc này
quân chủ tuyệt đối và hùng mạnh. Vương quốc này có các nước chư hầu nhưCampuchia, Lào, một số vương quốc Mã Lai, và thường xuyên tranh giànhảnh hưởng với Miễn Điện và Việt Nam.
7. Hệ thống vương triều của Thái Lan trải qua sự thay đổi lớn vào năm1932 khi Thái Lan chuyên từ chế độ quân chủ chuyên chế sang chế độ quân
khoảng 60 năm. Nền dân chủ của Thái Lan được thành lập sau sự kết thúc của
Hiện nay, Thái Lan là một vương quốc theo chính thể qn chủ lập
số Thái Lan là dân tộc Thái, 14% là người gốc Hoa và 3% là người Mã Lai,phần còn lại là những nhóm dân tộc thiểu số như Mơn, Khmer và các tộcngười khác. Ngơn ngữ chính thức là tiếng Thái. Thủ đô là Bangkok
<small>13</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">Về mặt kinh tế, Thái Lan phát triển nhanh từ 1985 đến 1995 và trở
quan trọng với những địa điểm du lịch nổi tiếng như Ayutthaya, Pattaya,
<small>Bangkok, Phuket, Krabi, Chiang Mai, Koh Sami va có đóng góp lớn cho nên</small>
kinh tế.
có sự canh tranh của tôn giáo khác. Đạo Phật ở Thái Lan là Phật giáo tiểu
việc phát triển và bảo vệ Phật giáo.
Nhìn chung, bản sắc dân tộc Thái hiện đại được gắn kết bởi 3 yếu tố:
tưởng Phật giáo có ảnh hưởng sâu đậm tới bản sắc văn hóa dân tộc Thái. Đólà người dân Thái bắt buộc phải tuân theo đạo Phật và tuân theo những lời dạycủa Phật. Đạo Phật khơng chỉ là tín ngưỡng quan trọng trong đời sống tâmlinh của người Thái mà còn in dấu ấn sâu đậm lên truyền thống văn hóa của
<small>người Thái.</small>
1.2 Một số đặc trưng văn hóa và lễ hội ở Thái Lan
Văn hóa như là hệ thống các giá trị được đề cao trong cộng dong, làcách thức thực hiện, là lối sống và là sự cùng chung sống với nhau của con
đặc trưng của cộng đồng hoặc xã hội đó. Văn hóa được hình thành từ sự tích
<small>cách rõ nét. Trong trường hợp Thái Lan, đặc trưng của văn hóa Thái Lan,</small>
những điều mà chỉ có ở Thái Lan, cả về mặt ngơn ngữ, tính cách của conngười Thái Lan có thé nhận diện đó là hay cười, những cử chỉ ngọt ngào, nhẹnhàng, và tắm lòng nhân hậu hay giúp đỡ lẫn nhau... Tuy nhiên, văn hóa của
<small>14</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20"><small>địa lí, tài ngun...</small>
hội truyền thống ở Thái Lan cũng mang nhiều yếu tố Phật giáo.
<small>Văn hóa Thái Lan phân chia thành các vùng văn hóa dựa vào vi trí dia</small>
lí, điều kiện tự nhiên và môi trường sinh thái. Cả Thái Lan có 4 vùng văn hóa
miền Đơng thì hợp với việc gộp vào văn hóa của miền Trung). Ở mỗi vùngmiền có nhiều tộc người sinh sống và mỗi tộc người đều có văn hóa, phong
hóa khác nhau tùy theo điều kiện địa lí, tài ngun thiên nhiên và mơi trường.
Miễn Trung Thái Lan là khu vực có dân cu sinh sống đơng đúc nhất,và có số tỉnh thành nhiều hơn so với các khu vực khác. Tiếng Thái Lan đượccoi là ngôn ngữ quốc gia trong giao tiếp. Do có vị trí địa lí nằm ở đồng bằngsơng Chaophraya màu mỡ nên người dân nơi đây có cuộc sống gắn liền vớinông nghiệp, phan lớn người dân sống bằng nghề làm ruộng, các đồ dùng sinh
gốm. Tại miền trung có rất nhiều tộc người, như dân tộc Thái Đen, dân tộcKaren, Lào, Thai Phuan, Khơ Me, có đặc trưng với những ngơi nhà truyền
<small>Phetburi. Những người dân ở đây có đơi bàn tay khéo léo, tỉ mỉ trong việc</small>
lĩnh vực khác như thợ vàng, thợ điêu khắc các họa tiết trang trí hoa văn Thai,<small>tac tượng.</small>
<small>3 Văn hóa 4 mùa Thai Lan, class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">
Miền Trung vốn là trung tâm của Thái Lan từ lâu, cộng với vi trí dialí thuận lợi cho việc đi lại giao thương bằng đường thủy trong thời kì trước.
Cũng chính vì lẽ đó rất nhiều nền văn hố của những tộc người khác nhau
miền Trung. Các loại hình biểu diễn vì thế đã có sự kế thừa và phát triển
múa là dùng tay, cánh tay, và cả thân mình để múa. Một số bài dân ca đã được
miền có nhiều làn điệu dân ca đặc trưng nhất và được biểu diễn trong rấtnhiều dip, nhiều sự kiện trong cuộc sông hàng ngày.
việc, đời sống sinh hoạt hàng ngày, nghỉ lễ và các lễ hội khác nhau như:
<small>a.) Các bài hát thường hát vào những mùa nước dâng cao như bài</small>
<small>299 66 k</small>
“Plêng rưa”(bài thuyền), “pléng roi pan sả”, “ pléng ram pa khao ^ sản”,
<small>‘pléng na giay”, “pléng Khrung thon”...</small>
b.) Các bai hát thường hát vào mùa gặt hái như “pléng kiều khao (gặt
<small>lúa)”, “plêng tên ram căm khiêu”, “pléng chạc” là những bài hát được hat</small>
<small>trong khi gặt lúa.</small>
c) Các bài hát thường được hát vào dịp tết Songkran gồm
đ.) Các bài hát thường được hát vào tat cả các dip nhăm tạo sự vui vẻ
mình sẽ cắt lúa khi nào, khi tới ngày cắt lúa chủ nhà sẽ phải cắm cờ tại ruộng
<small>16</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">đón những người đến giúp. Trong khi cắt lua mọi người cũng vừa cắt vừa hat
<small>mỏi của công việc gặt lúa.</small>
thắt chặt tình làng xóm. Chính những hoạt động này đã làm nên nét văn hoá
<small>ca hát đặc trưng của những người làm nông nghiệp.</small>
từ thời xa xưa cho đến ngày nay với mục đích nhằm dé người dân chuẩn bị đỗlễ đi lễ chùa và cũng là dịp để người dân được nghỉ ngơi thư giãn liên hoancùng nhau sau một mùa vụ làm việc vất vả.
Thông thường, sau mỗi mùa thu hoạch dân làng lại tụ tập nhau lại tổ
ngơi sau một mùa làm việc vat vả và đồng thời cũng là dé tăng thêm sự gắnbó, tình đồn kết giữa những người dân trong làng. Cuộc thi “đua trâu” này
làng ai cũng trang trí con trâu của mình cho thật đẹp, nhằm tạo thêm sắc màu
<small>cho cuộc “đua trâu”. Sau này cịn có cuộc thi “ hoa khơi trâu” nữa! Ngồi thi</small>
“hoa khơi trâu” ra, cịn có lễ cầu nguyện cho trâu nữa!
Lễ hội đua trâu là lễ hội được tổ chức vào ngày 14 tháng 11 âm lịchhàng năm. Sở dĩ tổ chức vào ngày này vì đây là ngày lễ Phật. Dân làng sẽ cho
thành phó, thị tran mua về nau một món cháo có tên là : “ Khao ^ Tơm ^Hang” (bánh làm từ nếp sống như bánh trưng), làm lễ dang d6 ăn lên cho nha
đãi các nhà sư tại các chùa vào những ngày sát ngày lễ Phật hoặc sát ngày
mãn hạ. Ngày nay, lễ hội “đua trâu” đã trở thành lễ hội truyền thống của tỉnh
<small>17</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23"><small>Nongkhai, Loei, Nakhon Phanom, Mukdahan, Ubonratchathni có sự giao lưu</small>
Surin, Buriram, Sisaket, Nakhon Ratchasima có giao lưu với nền văn hóa
chiến tranh cũng tạo ra sự giao lưu về văn hóa giữa người Việt Nam và ngườidân ở nhiều tỉnh phía Bắc I-san, đặc biệt là ở các tỉnh như: Nongkhai,
một trong những biểu hiện rõ rệt nhất về tinh đa dang này là lễ hội phóng hỏatiễn Bun Bang Fai, Lễ hội thả thuyền hoa đăng, Lễ hội ma Phi Ta Khốn, Lễ
<small>hội rước lâu dai sáp, Hat dân gian Molam. Ngoài ra người dân I-san cịn có</small>
những lễ và hội cơ truyền rất đặc trưng của minh trong suốt 12 tháng của 1năm theo năm Âm lịch như:
Lễ tháng Giêng ( tháng 12 theo dương lịch) hay còn gọi là Lễ tu thiện,
<small>hành thiện. Tháng Giêng là tháng mà các nhà tu hành phải thực hành tu tập,hành thiện tích đức. Cịn họ hàng, người dân thì làm tích cơng đức, hành</small>
thiện, nghe những điều răn dạy của các vị sư tăng đang ở trong tháng hànhthiện. Người ta hay tổ chức vào ngày mùng | hoặc ngày ram. Tuy nhiên, ngày
Lễ tháng 2 ( Tháng 1 đương lich) hay còn gọi là Lễ tế đồng thóc, tế sân
<small>Cách thức được thực hiện như sau: chuẩn bị một cái sân để làm lễ, sau đó mời</small>
<small>18</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">họ hàng anh em đến tham gia buổi lễ. Tiếp đến là mời các vị sư đến làm lễ.Khi mọi người đến đơng đủ thì họ tập trung lại giúp nhau sắp xếp bục lễ tế.
<small>Sau đó là tụng kinh, niệm phật, cúng dường các chư tăng, nghe chư tăng</small>
giảng giải về Phật pháp. Cuối cùng, buổi lễ sẽ kết thúc bằng các tiết mục biểu
diễn vui vẻ.
Lé tháng 3 ( tháng 2 dương lịch) hay còn gọi là Lễ xơi nướng. Xơi
nướng là món xơi được năm thành những nắm nhỏ sau đó rắc muối lên, quétmột lớp trứng gà lên rồi nướng trên bếp lửa cho chín thơm. Sau khi làm Lễ,
<small>xơi nướng được dâng lên chùa. Ngồi ra tháng Ba cũng là một tháng quan</small>
trọng vì cịn có một ngày lễ rất lớn của Phật giáo đó là ngày Makha Bucha,
dường vào buổi sáng và tham gia nghi lễ thắp nến tại chùa vào buổi tối.
Lễ tháng 4 ( Tháng 3 đương lịch) hay còn gọi Lễ tế Pra Wet. Đây là lễ
cho lợi ich chung của chúng sanh. Trong ngày lễ đó, các vị sư sẽ kế về PraWet. Các Phật tử sẽ cùng nhau vào chùa, chuẩn bị nơi ăn chốn nghỉ chonhững người đến tham gia. Người ta lấy hoa xâu lại thành những chuỗi đểtrang trí địa điểm tơ chức. Tiếp theo là chuẩn bị cau trầu têm sẵn, cờ dải làmtừ vải hoặc giấy màu, lá cọ, lá nón, xơi nắm, hoa, bỏng gạo đề cúng. Ngồi racịn phải chuẩn bị 8 lang hoa kết bang lá chuối, 4 vai đựng nước dé gần chỗ
<small>vừng, hoa Sal, hoa sen, hoa cúc bạch nhật và lá sen...Người dân cùng nặn các</small>
<small>con vật được như con chim, con bò, con trâu, con voi, con ngựa...và dat</small>
chúng phía dưới chỗ ngồi của các vị sư. Xung quanh chịi làm lễ, được trang
vực an tồn, ma quỷ khơng thể xâm phạm. Dọc theo các cột cờ là cơm nắm,
làm lễ. Trên chòi làm lễ, ngồi việc trang trí cho thật đẹp, có một số nơi cịn
<small>côc nước, hai bộ cà sa. Trong bi lễ, cịn có các vị sư kê vê Pra Wet cho</small>
<small>19</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25"><small>Lễ hội tháng 5 (tháng 4 dương lịch) hay là Lễ té nước. Đây là một lễ</small>
là tết năm mới và là ngày dé làm phúc. Do tháng này là tháng nông nhàn, nên
đó sẽ là các hoạt động vui chơi mà người ta gọi là chơi tết Songkran. Hiện
dài 3 ngày. Ngày 13 tháng 4 là ngày bắt đầu, ngày 14 là ngày thứ 2 và ngày15 là ngày kết thúc và cũng là ngày Tết năm mới. Tết Songkran được coi là
được coi như là Tết năm mới, là sự khởi đầu cho một năm. Các hoạt độngđược tô chức phần lớn là các hoạt động như tắm tượng Phat, xin lời chúc phúc
<small>cát ở trong khuôn viên chùa.</small>
Lễ tháng 6 hay cịn gọi là Lễ phóng hỏa tiễn Bun Bang Fai. Lễ hội này
tập hợp tat cả người dân trong làng dé tổ chức làm hỏa tiễn. Hỏa tiễn được<small>làm từ diêm tiêu trộn với than đem rang nóng lên, hỗn hợp này được giã</small>nhuyễn đem nhôi thật chặt vào trong lịng 1 đoạn tre. Sau đó, người ta khtlỗ, làm một cái đi trang trí thật đẹp cắm vào. Lễ rước được tổ chức trước,sau đó người ta đem hỏa tiễn ra chỗ đất trông, châm lửa cho hỏa tiễn bay vútlên trời. Đây được coi là một việc làm dé cung tế các vị than, cầu mưa đến dé
ban, sâu bo gay ra mam méng bệnh tật. Tuc này được thực hiện ở cả 2 việc đólà làm sạch bên ngoài bao gồm thân thé, quan áo, đồ ăn thức uống chỗ ở, chỗ
<small>20</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26"><small>Lễ tháng 8 hay là Lễ nhập hạ. Đây là khoảng thời gian mà người dân</small>
<small>sẽ đi làm công đức ở chùa đem những vat dụng cúng sư, vì các vi sư sẽ nhậphạ, không được ra khỏi chùa trong một khoảng thời gian là 3 tháng, thường</small>
vào ngày 14 tháng Chín âm (tức tháng 8 Dương lịch). Người ta lay com, đồ
chuối gói lại thành những gói nhỏ. Sau đó, đặt ở dưới đất đưới những gốc cây
linh hồn người chết. Từ đời này qua đời khác, người ta tin rằng vào đêm ngày
tha chúng ra dé cho về thăm họ hang vẫn đang sống ở cõi trần vào đúng mộtđêm duy nhất trong năm. Vì vậy, người dân mới cùng nhau chuẩn bị cơm gạo
họ hàng anh em người mất sẽ chuẩn bị đồ mặn, đồ ngọt, trầu cau, thuốc láchia ra làm 4 phan. Phan thứ nhất dé cúng trong nha, phan thứ hai dé phânphát cho người thân, phần thứ 3 là phần cho người đã mất và phần thứ 4 làcúng dường cho các sư. Sau khi đã chuẩn bị xong, người dân sẽ về nhà chuẩnbị đồ ăn cho vào bát để cúng dường sư sẽ đi khất thực vào sáng ngày 12. Saukhi cúng dường, mọi người sẽ được nghe các vị sư giảng giải về ý nghĩa của
tục rải cơm dưới đất. Các vị sư chúc phúc cho mọi người xong, người dân sẽvề nhà cúng cho những người thân họ hàng đã mat.
Lễ tháng 10 hay còn gọi là Lễ phát bong gạo. Đây là lễ dé cho các vịsư, chú tiểu trong chùa bốc thăm dé nhận vật phẩm cúng dường mà người dân
được gọi là Lễ tháng Mười. Vào ngày 14 tháng Mười âm, người dân chuẩn bị
thanh gỗ dé tập hợp mọi người. Mọi người đem đồ ăn để cùng dường đến,
nhiêu cặp cũng được nhưng phan lớn mọi người làm 10 cặp dé mang đi đãi
<small>21</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">khan cho những người thân họ hàng đã mắt của họ.
Mười Một âm. Là lễ liên quan đến Lễ nhập hạ diễn ra vào tháng 8 khi mà cácvị sư, tiểu tìm chỗ yên tĩnh dé dưỡng dao tâm trong vòng ba tháng. Thời gianbắt đầu từ ngày mồng Một tháng Tám âm và kết thúc vào ngày rằm thángMười Một âm. Như vậy là kết thúc khoảng thời gian phải ngồi dưỡng tâm của
Đây cũng là cơ hội dé các vị sư trong chùa gặp gỡ, nhắc nhở nhau trong việctu tập. Đối với người dân, đây là một ngày lễ quan trọng. Trong ngày này,
trung để tụng kinh niệm Phật, nghe sư giảng dạy, thả đèn trời ở sân chùa vàthắp nến cầu may. Ở một vài nơi thì cịn nặn các lâu dai bang sáp ong dé dângcúng. Còn những nơi ở gần khu vực sơng nước thì họ sẽ thả những chiếcthuyền hoa đăng dé dâng cúng vị thần sơng. Sau đó tổ chức đua thuyền để vuichơi, giải trí và dé tăng tình đồn kết của mọi người tham gia lễ hội.
Lễ tháng chạp hay còn gọi là Lễ dâng vải cà sa Kathina. Từ “Kathina”là tiếng Bali có nghĩa là khung gỗ, là một khung làm bằng gỗ. Trước kia, nó
Việc làm ra một chiếc áo cà sa hay y phục của các vụ sư là việc đem gomnhững miếng vải nhỏ sau đó khâu lại như hình những ơ ruộng nhỏ nối liền vớinhau. Vì vậy, cần phải dùng khung gỗ dé căng ra thì mới có thé khâu được dé
<small>dàng. Sau khi khâu xong thì người dân đem dâng cho các vi sư. Việc dâng áo</small>
<small>những người theo đạo được làm những việc tích cơng đức cho mình. Vì trong</small>
<small>22</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28"><small>một năm, khi vào mùa mưa, các vi sư sẽ ở trong chùa, khơng di ra ngồi trong</small>
<small>ngày, vải nay được gọi là vải cà sa. Việc đặt vải trước mặt các vi sư mà không</small>
đứng ra nhận. Lễ dâng áo cà sa được thực hiện ngay sau lễ ra hạ, và đến nay
Vùng Đơng Bắc cịn có một loại hình văn hóa dân gian đặc sắc là Hát
<small>dân ca Molam. Dân ca Molam là một loại hình nghệ thuật mà nội dung lời</small>
những bài thơ có vần điệu và được sáng tác bằng ngôn ngữ I-san. Những bàihát Molam như vậy được gọi là những bài Molam cổ, mà sau này Molam đã
có hát đối đáp nam - nữ; Molam Klon Sing thường kết hợp với các bài hátđồng quê hay các bài hát hiện đại để tạo ra một cuộc cách mạng đối vớiMolam. Việc sử dụng các loại nhạc cụ quốc tẾ cũng làm cho Molam vui nhộnhơn, tiết tau vui tươi dé đi vào lịng người hơn; Molam nhóm gồm rat nhiềungười và được phân các vai khác nhau dé thé hiện một câu chuyện. Bên cạnh
phục vụ cho việc biểu diễn; Molam Phlơn, phát triển từ Molam nhóm có nhịp
người đến xem. Thậm chí có cả dàn vũ cơng nhảy múa minh họa, sử dụng các
<small>loại nhạc cụ hiện đại ví dụ như guitar, đàn organ, kèn saxophone, kèn</small>
Trumpet và trống...
<small>23</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">Miền Nam Thái Lan là khu vực có sự đang đa dạng về văn hóa. Người
Malaixia. Vi vậy, có rất nhiều phong tục và lễ hội có sự giao thoa văn hóa
nữ miền Nam thường là váy dài đến mắt cá chân, có hoa văn gọi là “Vải batíc” (người dân địa phương gọi là Pa tệ), cịn áo bó theo đường nét cơ thê, vạtáo dài để ra ngồi. Đàn ơng thích mặc xà rơng, áo thả vạt ra ngồi. Về văn
hóa, điệu múa Manora, Ronggeng, lễ kéo tượng Phật, lễ rước vải lên bảo tháp
xá lợi... là những nét văn hóa đặc sắc. Lễ - Hội miền Nam Thái lan thườnggan với đời sống của cư dân miền ven biển như:
tỉnh Krabi và những tỉnh lân cận. Khi đến thời gian quy định, các thành viêntrong cộng đồng và họ hàng anh em sinh sống làm ăn ở những vùng giáp biểnhoặc các đảo nằm trong vùng biển Andaman sẽ quay trở về quê hương củamình dé tham gia budi lễ. Vào sáng ngày 13 Âm lịch, người dân sẽ đi đến nơilàm lễ. Phụ nữ thì làm bánh, đàn ông thì xây dựng, sửa chữa chỗ ở tạm thời.Budi chiều, cả nam và nữ sẽ tập hợp nhau tại nhà thờ Tổ dé dâng đồ ăn, vậtcúng tế dé làm lễ mời tổ tiên về tham gia lễ thả thuyền.
Sáng ngày hôm sau, tức ngày 14 Âm lịch. Một số người đàn ông sẽ đichặt cây dé lấy gỗ làm thuyền. Phụ nữ sẽ hát múa trong lúc chờ đợi gỗ đượctrở về. Sau đó mọi người sẽ rước gỗ về đến nhà thờ Tổ dé chuẩn bị làm
thành. Trong đêm hơm đó, người dân quây vòng tròn quanh thuyền và nhảymúa để dâng lên linh hồn tổ tiên. Những người tham gia buổi lễ được chialàm 2 nhóm. Một nhóm hat múa theo nhịp trong Rebana, cịn một nhóm kháchát múa theo kiểu hiện đại. Thầy cúng sẽ làm lễ vào lúc bắt đầu người dân ăn
<small>24</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">đến tín ngưỡng cũng như lối sống của người dân Orang Laut. Việc tô chức lễ
tế những con vật dé cứu nhân độ thế. Những người tham gia vào budi lễ cũng
tồn gặp những điều may mắn, hạnh phúc.
<small>Điệu múa Manora là một loại hình nghệ thuật dân gian được lưu</small>
hình nghệ thuật bao gồm cả hát và múa. Đơi khi, cịn biểu diễn theo tình tiếtkể truyện. Và một số nơi, cịn biéu diễn như mơt nghi lễ tín ngưỡng.
Cái nơi hình thành lên loại hình này được giả thuyết cho rằng khởinguồn từ sự thâm nhập của các điệu múa của Ấn độ cô xưa, vào thời Siwichaicụ thé là từ những thương lái Ấn độ. Vì vậy, bộ nhạc cụ như: chim chọc,
Manora. Một số điệu múa Manora cũng rất giỗng với những điệu múa của Ấn
<small>Naga và các tam vải mau đẹp mắt, cây chi, cây mía, dừa, hoa tươi ket thành</small>
<small>25</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">nhỏ. Bên cạnh tượng là ghế dành cho các vị sư ngồi. Tượng Phật được dùng
tâm dé thực hiện nghi lễ. Có hai sợi dây dài được nối với bục dựng tượng
Bên cạnh đó là tiếng trống, tiếng chiêng được đánh theo nhịp điệu vui tươi, hồ
<small>hởi. Những người cịn lại thì nhảy múa hoặc cùng nhau hát hò một cách vui</small>
vẻ. Khi đã kéo đến địa điểm, người dân làm lễ rước tượng Phật xuống thuyềnPhật. Lễ kéo tượng Phật được thực hiện vào ngày ra hạ, đến sáng ngày mồng
Phong tục tranh lộc ma là phong tục được thực hiện trong ngày Rămtháng Mười. Đây là một lễ cúng cho tổ tiên, những người đã khuất và cảnhững hồn ma không nơi nương tựa. Nghỉ lễ dựng giàn giáo dé tranh lộc mađược thực hiện trong ngày mồng Một hoặc ngày Ram của tháng Mười. Ngườidựng giàn giáo sẽ đem một phần đồ ăn đem để lên trên giàn giáo. Đồ ăn phầnlớn sẽ là đồ ăn mà người thân đã mắt thích ăn, và làm mỗi thứ một ít cùng vớibánh trái, đồ khơ sẽ được gói trong lá chuối thành hình tam giác có chóp nhọnhoặc những hình thù khác tùy vào người chuẩn bị. Sau khi đã chuẩn bị đồ ănxong, người dân sẽ tập trung ở chùa để cùng nhau dựng giàn giáo. Giàn giáo
cao và nối đài tới chịi mà các vị sư ngồi chủ trì buổi lễ. Các vị sư sẽ ngồi đọc
sẽ tập trung lại phía dưới giàn giáo hỗ hoi tranh bánh được ném từ trên xuống.
thêm phúc đức cho bản thân mình và gia đình. Ngồi ra, họ cịn tin rằng,
<small>26</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32">những chiếc bánh này, nếu đem rắc ở trong vườn thì sẽ giúp cây cối tốt tươi,
những người muốn làm phúc sẽ tung những đồng tiền xu bọc lại trong nhữngbông hoa làm từ ruy băng dé cho mọi người tranh nhau nhặt một cách vui vẻ.
1.2.4 Đặc trưng văn hóa và lễ hội miền Bac
Miền Bắc cịn có tên gọi khác là Lanna, là vùng đất có nền văn hóa rất
những đặc điểm địa lý là vùng đồi núi xen kẽ vùng đồng bằng. Người dân
nhau, trong đó có một nhóm có thể gọi là nhóm văn hóa Lanna và các nhóm
<small>tộc mình. Ngồi những nét đặc trưng của riêng mình, các nhóm cịn có những</small>
nét tương đồng với nhau ví dụ giọng nói, các bài hát hay điệu múa dân gian,
thờ thần linh và tơ tiên hay việc sùng tín Phật giáo nguyên thủy (Theravada).
nhạc Salo. Trong những ban nhạc này vừa biểu diễn nhạc cụ, vừa hát múa,những điệu múa mà người nghệ sĩ đeo những móng tay dài (gần giống vớiMolam của vùng I-san). Những buổi biểu diễn thường là ké về một câu truyệnnào đó và thường xuất hiện trong các lễ hội. Mặc dù ngày nay, việc biểu diễnloại hình dân gian này đã ít dan nhưng vẫn là loại hình được nhiều người yêu
<small>đời thường với Phật giáo, tín ngưỡng tin vào ma quỷ đã làm cho lễ hội nơi</small>đây mang những nét rất đặc trưng theo từng thời điểm. Người dân miền Bắccó lễ hội gần như ở tất cả mọi tháng trong năm. Vì vậy, xin giới thiệu một sốví dụ về phong tục miền Bắc như sau:
<small>Lễ hội Songkran được coi là lễ hội của sự khởi đâu năm mới diễn ra</small>
<small>27</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33"><small>như sau:</small>
Ngày 13 tháng 4 đương lịch hay còn được gọi là ngày Sang-khan-long.
<small>là ngày phải quét dọn nhà cửa và làm vệ sinh chùa.</small>
Ngày 14 tháng 4 hay còn gọi là ngày Nau. Buổi sáng, người dân sẽ
chiều, sẽ lấy cát từ sông đem về trước chùa dé làm những lâu đài cát dé thay
<small>Ngày 15 tháng 4 hay còn gọi là ngày Pha-ya-văn. Là ngày của sự khởi</small>
dau mới và cũng là ngày đi chùa cầu phúc. Người dân chuẩn bị cơm gạo demlên chùa, tắm cho tượng Phật và xin lời chúc phúc từ những người lớn tuổi
<small>được kính trọng trong làng.</small>
<small>Ngày 16-17 tháng 4 hay còn gọi là ngày Pakpi hoặc Pakđươn(nghĩa là</small>
ngày đầu năm), là ngày làm lễ trừ tà ma và lễ thần thánh. Người dân Lanna tinrằng việc làm những nghỉ lễ “nối mệnh” sẽ giúp bản thân, họ hàng anh em vàdân làng sẽ sống lâu, làm ăn phát đạt và gặp những điều tốt đẹp. Nghỉ lễ nốimệnh được chia ra làm 3 loại: nối mệnh người, nối mệnh nhà và nối mệnh
Lễ hội Poy noi hay còn gọi là Lễ tiểu tu. Đây là lễ đi tu của người dânmiền Bắc, thường được tổ chức vào tháng 2, tháng 3 hoặc tháng 4. Budi sáng,trong lễ tu sẽ tổ chức ăn mừng rất linh đình. Sẽ có đám rước Lukkaeo hay chútiêu mặc trang phục nhiều màu sắc giống hoàng tử Tất Dat Da. Theo truyền
vậy người dân thường dé cho các chú tiểu cưỡi ngựa, cưỡi voi hoặc cưỡi cô
Lễ hội Yi Peng (rằm tháng Hai) hay còn gọi là lễ hội hoa đăng. Người
Priang” hoặc “thả ma trời”. Đây là lễ hội rất nổi tiếng ở tỉnh Sukhothay.
<small>28</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34">Ngoài ra trong lễ hội này có có tục thả đèn trời của người dân Lanna tại tỉnh
Chiang Mai. Người dân nơi đây tin rằng việc thả những chiếc đèn trời được
<small>tháng Hai hoặc tháng Yi theo lịch của người Lanna là tháng Mười Một dương</small>
sẽ bắt đầu lễ hội vào sáng ngày 14 âm. Đến đêm ngày 15, sẽ đem hoa đăng đi
thả dọc các bờ sông. Lễ hội Yi Peng của người Lanna cũng có những tin
ngưỡng giống lễ hội thả hoa đăng ở các miền khác. Mục đích quan trọng nhất
phù hộ cho cuộc sống của họ. Việc t6 chức lễ hội thả hoa đăng theo kiểu củangười Lanna là việc trang trí những chiếc đèn treo trước nhà, làm công chào
giảng dạy về đạo lý, điều này khác hoàn toàn so với những miền khác khingười dân thường tập trung vào các hoạt động buổi tối, đốt nến, thả đèn hoa
Những phong tục của người dân Lanna trong lễ hội Yi Peng chủ yếu làđi lễ chùa làm công đức để cầu mong những điều tốt lành đến với bản thân vàgia đình hay việc trang trí địa điểm băng các công chào gắn đèn sáng. Vàobuổi tối, người dân sẽ cùng nhau đốt nến dé nối vận tốt và xua đuổi những thứxấu xa bằng ánh sáng của nền. Số sợi bắc trong ruột nến sẽ bằng đúng số tuổicủa người làm lễ hoặc họ dé chừa ra một ít giấy làm đèn trời để viết ngàytháng năm sinh của mình. Khi về đến nhà sẽ dùng để đốt lửa hoặc làm mồi
1.3 Lễ hội thả hoa đăng ở Thái Lan
Ngoài sự hình thành những phong tục đặc trưng của các vùng miền đã được
được thưc hiện hàng năm. Trong đất nước Thái Lan, vua là người đứng đầu,
<small>29</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35">chủ trì việc thực hiện các phong tục hoàng gia và các nghi lễ này đều đượcghi chép lại trong lịch sử. Vào triều đại thứ 5, vua đã soạn một cuốn sách
vùng miền ra, Thái Lan vẫn còn những phong tục hoàng gia được lưu truyền
phải thực hiện nữa ví dụ như lễ tế trước khi xuất trận vì hiện nay khơng cịnchiến tranh nữa. Nhưng bên cạnh đó, những nghi lễ hồng gia quan trọng thì
vẫn được lưu giữ và trở thành đặc trưng của Thái Lan đó là: Lễ hồng gia
tháng 3: Lễ Phật Đản; Lễ hoàng gia tháng 6: Lễ Tịch Điền; Lễ hoàng gia
Ngọc; LỄ hoàng gia tháng 11: Lễ hội đua thuyền , Lễ Ra Hạ, Lễ dang áo ca
sa; Lễ hoàng gia tháng 12: Lễ tha hoa đăng.
Hiện nay, Lễ hội thả hoa đăng là một phong tục chung của mọi người
dân ở trên khắp mọi miền đất nước Thái Lan. Đây là lễ hội lớn được ngườidân thực hiện qua nhiều thế hệ và đã trở thành một lễ hội nổi tiếng được nhiều
người Thái). Đây là thời điểm trăng tròn trong tháng và cũng là thời điểmnước ở sông hồ dâng cao. Các hoạt động được tô chức trong ngày này thường
là người dân sẽ tập trung nhau lại làm những chiếc đèn hoa với chất liệukhơng bị chìm dưới nước có những hình dạng khác nhau như: thuyền hoađăng, đèn hoa làm bằng lá chuối, bè hoa sen...Mỗi một loại hoa đăng phụ
<small>thuộc vào sự khéo tay của người làm hoặc thời gian của người làm có ít hay</small>
nhiều. Tùy vào mỗi người dân, họ có thê đốt hương, cầu nguyện sau đó đem
chương trình vui chơi, giải trí. Lễ hội thả hoa đăng được tổ chức hàng năm vàlà lễ hội lớn của nhiều tỉnh. Có một số tỉnh trong ngày này cịn tô chức cuộc
động để giữ gìn những nét đẹp văn hóa Thái như mặc váy truyền thống củaThái trong ngày thả hoa đăng, những nơi khác cịn trang trí những chiếc
<small>30</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36">thuyền bằng điện hoặc những chiếc đèn lồng và tha sông dé cúng tế Nữ than
1.3.1 Nguồn gốc của lễ thả hoa đăng
<small>Lễ hội thả hoa đăng đã trở thành Lễ hội chung của người dân Thái Lan</small>
từ lâu, tuy nhiên ở mỗi địa phương LỄ hội thả hoa đăng lại có những ý nghĩa
và nghỉ lễ khác nhau. Hiện nay một số địa phương hiện nay vẫn còn lưu giữ
1.3.1.1 Nguồn gốc Phật giáo
thành bắt nguồn từ Phật giáo. Đó là trước khi đắc đạo, đức Phật đã ngồi thiền
cho người hầu gái mang cháo gạo ma-thu-pa-ya (loại cơm ngọt nau với mặtong hoặc nước mia) dé vào khay đến dâng cho đức Phật ăn, sau khi đức Phật
thành Phật, thì cái khay này sẽ trơi ngược dịng bằng sức mạnh của lời thề vàphước bảo. Chiếc khay đó đã trơi ngược dịng đến tận xốy nước ở biên rồi bị
chìm xuống trúng phải gốc đi của thần ran Naga, người tri vì thé giới củacác loài răn, làm thần tỉnh dậy, thần rắn như nhìn thấy điều gì đó và đã thơngbáo vang khắp nơi răng tại thời điểm này đã xuất hiện một đức Phật rồi. Sau
đó tất cả các vị thần tiên đã cùng thần rắn Naga đến diện kiến đức Phật. Thầnrắn Naga đã xin đức Phật bước đi dé in lại dấu chân trên bãi cát doc theo bờ
đó về kế cho bà Suchada nghe, từ đó về sau, cứ tới ngày đó hang năm, ba
thuyết ở một số địa phương” còn kể răng, thần ran Naga đã tau với đức Phật,
<small>“ ngồn cốc của thả đèn hoa đăng, a</small>
<small>Nhu trén.</small>
<small>31</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37">phước xong, thần rắn Naga đã xin được làm một bức tượng Phật dé thờ, đức
Việc thả hoa đăng vào ngày rằm tháng 11 hoặc ngày khai hạ còn được
thường sau 3 tháng an cư kiết hạ trên thiên giới, cũng là thé hiện đức hiểu
tử nhà Phật đã cùng nhau ra tiếp đón và dâng lễ vật lên đức Phật. Cũng trongngày hơm đó, đức Phật đã cho mn dân được nhìn thấy thiên giới và địangục, nên sau đó mọi người đã cùng nhau thả hoa đăng để nghênh đón đức
Một truyền thuyết khác lại kế rằng việc thả đèn lồng là dé tưởng niệm
mà đức Phật khai hạ bên bờ sông A Lô Ma, đức Phật đã dùng đoản kiếm cắtbúi tóc của mình thả bay lên trên khơng và cầu nguyện. Thần Indra đã lấy
<small>chỏm tóc đó đựng vào tháp xá lợi va dem đặt vào trong tháp Chulamani (Tên</small>
gọi một ngơi tháp trên thiên giới có chứa đựng búi tóc của Phật tổ) trên thiêngiới. Ở vùng Chiang Mai, phía Bắc của Thái Lan có lễ hội thả đèn lồng, hay
tóc của đức Phật tơ.
<small>A-bị những tên quỷ ma vương ln ln tìm cách phá phách. Nhà vua bèn tìm</small>
đến đức Phật A La Hán, đó là ngài Tất Đạt Đa Cồ Đàm nhờ đức Phật giúp đỡ.Đức phật Tất Đạt Da Cô Đàm liền nhờ thần ran Naga giúp đỡ. Than rắn Naga
<small>A-Dục —Vuong đã xây tháp thành công theo đúng như nguyện vọng của mình.</small>
<small>32</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38"><small>tôn thờ.</small>
1.3.1.2 Nguồn gốc đạo Hin ẩu
là nghi lễ của dao Hin Du, dùng dé tưởng niệm 3 vị thần là Thần Vishnu Than
Trước khi thả hoa đăng thì phải châm lửa trước. Theo kinh Veda cô xưa quyđịnh theo thuật chiêm tinh là, giờ châm lửa là thời khắc khi mà mặt trời quay
giờ hồng đạo để châm lửa, khi đã cúng đủ theo số ngày quy định thì mangđèn lồng đó đi thả trơi trên sơng nước. Sau này các Phật tử thay đó là việc làm
và để nghênh đón đức Phật như đã đề cập ở trên, mà phan lớn nghỉ lễ nàyđược tổ chức vào tháng 12 hoặc tháng Yi Peng (Do sự khác biệt giữa lịchLanna cô và lich Thái mà thời gian Yi Peng được t6 chức lại là ngày ramtháng 2 theo lịch cô Lanna ("Yi" co nghĩa là "thứ hai" và "Peng" nghĩa là
"tháng" theo tiếng Lanna)
1.3.1.3 Ngn gốc tín ngưỡng dân gian
người đã lập gia đình ở đó. Sau khi trận đại dịch qua đi, một số người đã quay
<small>®Nguồn cốc lễ hội tha hoa đăng class="text_page_counter">Trang 39</span><div class="page_container" data-page="39">
nghi thức tụng kinh, hay cịn gọi là nghi thức thuyết pháp Mahachat, một bài
thực hiện một cách phổ biến hơn. (Việc thả hoa đăng ở thời Lán Na cô được
<small>gọi là Loi Khamot, từ Khamot được đọc là kha - một, Khamot là tên cua một</small>
loại ma chơi, hay đi kiếm ăn vào ban đêm va có ánh sáng như ánh lửa lap lánh
hoa đăng cũng là thả một vật có đốt hương, thắp nến sáng, khi thả dưới dịngsơng, hoa đăng trơi ra xa chi dé lại ánh sáng lấp lánh như ma Khamot)
mùa mưa hàng năm là nước lại ngập lụt khiến cho hàng trăm nghìn người dânqua đời nhưng khơng tìm thấy xác, nên dân chúng đã làm hoa đăng (krathong)trong đó có dé thêm thức ăn và thả trơi theo sơng dé cúng những con ma đó.Cịn việc thả hoa đăng vào ban đêm, ông đã đưa ra giả thuyết rang, có thé dânchúng muốn can thận hon, làm vào ban đêm tối để thêm phan linh thiêng, vinhững việc làm này đều liên quan đến ma quỷ nên không thé làm qua loađược. Hơn nữa ma quỷ cũng khơng thích xuất hiện vào ban ngày. Việc đốtnến, hương cũng là dé thắp sáng đường tiễn ma quỷ về được thuận lợi hon.
Trong tiếng Trung, dùng từ Pang — chúi — têng tức là thả đèn dưới nước, cũngtrùng với từ thả đèn của tiếng Thái.
13.2 Lễ hội thả hoa đăng ở Thái Lan trong lịch sử
Phật giáo từ An độ được du nhập vào Thái Lan cách ngày nay khoảng
biết dưới thời Suvanabumi lễ tế “ma” dé xin xá tội với đất và nước đã đượcđiều chỉnh cho phù hợp với tôn giáo mới được du nhập vào. Điều này đã
<small>“Nguồn gốc lễ hội thả hoa đănghtip://www.siam1.net/article-9113--3.html</small>
<small>34</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 40</span><div class="page_container" data-page="40">việc người dân Ayutthaya dưới triều đại Phra Narai Maharat: “Dân chúng tỏ
trong nhiễu đêm... Tôi đã thấy cả một dịng sơng thắp sáng bằng những chiếc
Tuy nhiên,các tài liệu lịch sử cho thấy, hầu hết các nghi lễ Hồng giaThái Lan khơng đề cập đến nghi lễ thả hoa đăng mà chủ yếu viết về các nghi
hoàng gia tiễn nước vào tháng 12 và lễ hồng gia đi nước vào tháng Giêng,
<small>tức thang 1.</small>
Lễ hoàng gia trong tháng 11 là lễ hội dua thuyền giữa thuyền rồng củavua và thuyền của các vương tần để xem điềm báo. Nếu như thuyền rồng củavua thang thì có nghĩa vụ mùa năm đó sẽ khơng tốt, nhưng nếu mà thuyền của
các vương tần thắng thì có nghĩa là năm đó sẽ ni trồng thuận lợi.
Lễ hồng gia tháng 12 là lễ mà vua sẽ đích thân xuống thuyền ngồi détiễn nước. Ý nghĩa của việc này là cầu mong cho nước rút đi. Đến tháng
không bị ngập nước mà chết.
Lễ hoàng gia tháng 12 là lễ tiễn nước của triều đại Ayutthaya. Lễ này được tổ
là một hiện tượng tự nhiên lại xảy ra duy nhất 1 lần trong năm nên người xưa
<small>“Sujit Wongthet (2002), Khơng có nang nopphamas, khơng có tha đèn hoa dang trong thời dai Sukhothai, nha</small>
<small>xuât bản Matichon.</small>
<small>° Vua Rama 5, (2012), Các nghỉ lễ hoàng gia mười hai tháng trong năm, nhà xuất bản Phết-ka-rặt, lần thứ 2 ,</small>
<small>Trang 6-41</small>
<small>35</small>
</div>