Tải bản đầy đủ (.pdf) (200 trang)

Luận án tiến sĩ Lịch sử: Quá trình hình thành nhà nước Cộng hoà Liên bang Đức sau chiến tranh thế giới thứ hai (1945-1949)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (67.7 MB, 200 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

NGUYÊN THỊ LIÊN HƯƠNG

Q TRÌNH HÌNH THÀNH NHÀ NƯỚC CỘNG HỒ

LIÊN BANG ĐỨC SAU CHIẾN TRANH THẾ GIỚI THỨ HAI

<small>Ha Nội-2001</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

CHƯƠNG 1: HẬU QUA CUA CUOC CHIẾN TRANH THE GIỚI THỨ II 14

ĐỐI VỚI NƯỚC ĐỨC VÀ HIỆP ƯỚC POTSDAM

1.1 HẬU QUA CUA CHIẾN TRANH THẾ GIỚI THỨII ĐỐI VỚI NƯỚC ĐỨC 14 14

¡ h lR. Đế chế III và Chiến tranh thế giới thứ II 14

L15 Hậu quả của Chiến tranh thế giới thứ II đối với nước Đức 23

L5 CHÍNH SÁCH CUA CÁC NƯỚC DONG MINH ĐỐI VỚI NƯỚC ĐỨC SAU CHIẾN 30

TRANH THẾ GIỚI THỨII VÀ HIỆP ƯỚC POSDAM

1.2.1 Những thoả thuận của các nước Đồng minh về chính sách đối 32

với nước Đức trước khi Chiến tranh thế giới thứ II kết thúc

L228 Hiệp ước Potsdam 4]

CHƯƠNG 2: THỜI KỲ TẠO TIỀN ĐỀ CHO SỰRA ĐỜI 54CỦA NHÀ NƯỚC CHLB ĐỨC

24 MỤC TIÊU CHIẾN LUGC CUA CAC NƯỚC THÀNH VIÊN KHOI DONG MINH 54

TRONG VIỆC HOẠCH ĐỊNH CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI NƯỚC ĐỨC

SAU CHIẾN TRANH THẾ GIỚI THỨII

211 ] Chính sách “open door” và chiến thuật trì hỗn các kế hoạch 54hậu chiến cụ thể của Mỹ

212 Chính sách “giới hạn” của Anh ea

313 Chính sách đa chiều của Liên Xơ 63

99 CUỘC “CHIẾN TRANH LẠNH” VÀ SUPHAN CHIA NƯỚC ĐỨC 682.2.1 Su khởi phat của cuộc “Chiến tranh lạnh” 68

22.2 Hoàn thiện tổ chức BIZONE, cải cách tiền tệ ở phía Tây và 78

<small>“xung đột Berlin”</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

2026-3 Quá trình phân chia nước Đức

2.3 SỰ PHỤC HOI ĐỜI SONG CHÍNH TRI, KINH TẾ, VĂN HOA-XA HỘI 6 DUC

<small>SAU CHIẾN TRANH THẾ GIỚI THỨII</small>

2.3.1 Về tổ chức quản lý hành chính ở khu vực chiếm đóng

pa) Q trình trừng phạt tội phạm chiến tranh va dân chủ hố

<small>đời sống chính trị, xã hội ở Đức</small>

<small>2.3.2.1 Toà án trừng phạt tội phạm chiến tranh Numberg và q trìnhthanh tốn những ảnh hưởng của tư tưởng Quốc xã</small>

<small>2.3.2.2. Q trình dân chủ hố đời sống chính trị, xã hội Đức</small>

<small>2.3.3 Qúa trình tái thiết kinh tế</small>

<small>2.3.4 Sự khởi phát của văn học - nghệ thuật</small>

CHƯƠNG 3: SỰRA ĐỜI CỦA NHÀ NƯỚC CỘNG HOÀ LIÊN BANG ĐỨC

<small>3.1 “Các van ban Frankfurt”</small>

<small>33 Hội đồng Nghị viện và Bộ luật co ban</small>

<small>99</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

PHẦN MỞ ĐẦU

1. MỤC ĐÍCH,Ý NGHĨA VÀ YÊU CẦU CUA ĐỀ TÀI

Nam ở trung tâm Châu Au, nước Đức là một trong những trung tâm

văn hoá của nhân loại. Dân tộc Đức đã sản sinh ra nhiều nhân vật lịch sử

nổi tiếng, nhiều nhà bác học vĩ đại, nhiều lãnh tụ cách mạng kiệt xuất (KarlMarx, F.Engels, K.Liebnecht), nhiều nha tư tưởng lớn (L.Feuerbach,

<small>G.W.Hegel, J.G.Herder, I.Kant...), danh nhân van hoá thế giới (J.W.Von</small>

Goethe, Schiller, Bach...). Lịch sử Đức có nhiều sự kiện tác động mạnh mẽ

đến lịch sử thế giới, nhất là trong thế kỷ XX. Lịch sử Đức là biểu hiện sinh

động về sự tương phản sâu sắc giữa các mặt đối lập: Tiến bộ và phản động.

Nhân đạo và bạo tàn, Văn minh và dã man, Phồn vinh và đổ nát...Lịch sử

<small>Đức là một bộ phận cấu thành quan trọng của Lịch sử thế giới. Đặc biệt là ở</small>

thời kỳ Can-Hién đại, các sự kiện lịch sử diễn ra ở Đức đã khắc hoa rõ nét

<small>các trào lưu Cách mạng, những mâu thuẫn đối kháng và cuộc đấu tranh gay</small>

gắt giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản, giữa hai phe Xã hội chủ

<small>nghĩa và Tư bản chủ nghĩa. Những sự kiện lịch sử như Cách mạng tư sản</small>

<small>Đức, sự ra đời của nhà nước Cộng hoà đầu tiên ở Đức (Cộng hồ Weimar),</small>

<small>sự hình thành chủ nghĩa quân phiệt hiếu chiến và chủ nghĩa phát xít Đức,hai cuộc chiến tranh thế giới, cuộc "chiến tranh lạnh" giữa hai phe, sự phânchia nước Đức và sự hình thành đồng thời hai Nhà nước Đức sau Chiếntranh thế giới thứ II ...đã là những đề tài lôi cuốn bao thế hệ các nhà sử họcthế giới. Những bài học lịch sử có ý nghĩa lớn được rút ra từ những sự kiệntrên đã đưa Lịch sử Đức vào vị trí quan trọng trong chương trình giảng dạy</small>

<small>Lịch sử thế giới ở các trường Đại học, Cao đẳng và Phổ thơng trung học ởnhiều nước trên thế giới, trong đó có nước ta.</small>

<small>Việt Nam và Đức (cả CHDC Đức trước đây và CHLB Đức ngày nay)vốn có mối quan hệ hữu nghị và hợp tác từ lâu. Do hoàn cảnh lịch sử, Việt</small>

<small>Nam là nước có nhiều người sử dụng tiếng Đức nhất ở khu vực Đông Á và</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

Đông Nam Á. Trong thời kỳ đổi mới ở Việt Nam hiện nay, Cộng hồ Liênbang Đức có mong muốn tăng cường quan hệ kinh tế, văn hoá, khoa học

cơng nghệ với Việt Nam. Do đó cũng có rất nhiều người có nhu cầu nghiêncứu, tìm hiểu về Việt Nam. Tương tự như vậy, ở Việt Nam cũng có nhiều

người, đặc biệt là những người làm cơng tác nghiên cứu khoa học và giảngdạy, quan tâm đến lịch sử, văn hố Đức, đến hệ thống chính trị của Nhà

<small>nước CHLB Đức.</small>

Trong khi đó ở Việt Nam, ngoại trừ một số bài báo, một số thông tin

dịch từ tài liệu của Đức, hầu như chưa có cơng trình nào nghiên cứu sâu về

lịch sử nước Đức. Nghiên cứu về Trung Âu, nhất là về Đức dường như là

mảng trống. Điều đó hiển nhiên dẫn đến tình trạng thiếu sách vở, tư liệu

phục vụ cho người học, người đọc, người có nhu cầu tìm hiểu về lich sử

nước Đức. Vì vậy, một Luận án nghiên cứu về lịch sử Đức chắc chắn sẽ có

ích cho việc tìm hiểu, nghiên cứu, học tập và giảng dạy chuyên ngành Lịch

sử thế giới ở các trường Đại học và Cao đẳng. Nó góp phần bổ sung cho hệ

thống giáo khoa, giáo trình, hệ thống tư liệu cho sinh viên ở các trường Đạihọc, làm nguồn tư liệu tham khảo cho các đồng nghiệp khi nghiên cứu

những đề tài liên quan. Ngồi ra, nó cịn phục vụ cho các độc giả có nhu

cầu tìm hiểu về nước Đức và góp phần tạo nên sự hiểu biết lẫn nhau về lịch

<small>sử và văn hoá giữa hai dân tộc Việt Nam và Đức.</small>

<small>Thời kỳ hau Chiến tranh thế giới thứ II từ 1945 đến 1949 là thời kỳ</small>

có nhiều sự kiện, sự việc lịch sử trọng đại quyết định vận mệnh của dân tộc

<small>Đức và là thời kỳ hình thành những yếu tố cơ bản quyết định sự ra đời và</small>

định hướng phát triển của hai Nhà nước Đức sau này. Đây cũng là thời kỳ

<small>có quan hệ quốc tế phức tạp, thời kỳ đánh dấu sự tan rã của Liên minhchống phát xít được hình thành trong Chiến tranh thế giới thứ I, là thời kỳ</small>

bắt đầu những mâu thuẫn nghiêm trọng giữa hai hệ tư tưởng chủ yếu của

<small>thời đại, giữa hai hệ thống Xã hội chủ nghĩa và Tư bản chủ nghĩa. Không</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

chỉ các sự kiện xảy ra ở Đức mà nhiều sự kiện liên quan đến các mối quan

hệ quốc tế diễn ra trong suốt thời kỳ "chiến tranh lạnh” được bat đầu từ việc

hình thành đồng thời hai nhà nước Đức sau Chiến tranh Thế giới thứ II.

<small>Chính vì vậy mà chúng tơi đã chọn đề tài "Q trình hình thành Nhà</small>

<small>nước Cộng hồ Liên bang Đức sau Chiến tranh Thế giới thứ II </small>

(1945-1949)" làm đề tài cho Luận án Tiến sĩ chuyên ngành Lịch sử của mình.

<small>Đề tài Luận án đã đặt ra các yêu cầu cần được giải quyết sau:</small>

<small>- Lam sáng tỏ hoàn cảnh lịch sử, các nguyên nhân chủ quan vakhách quan dẫn đến việc chia cắt nước Đức và sự hình thành đồng</small>

<small>thời hai Nhà nước Đức sau Chiến tranh Thế giới thứ II, trong đó</small>

<small>có Nhà nước Cộng hồ Liên bang Đức.</small>

<small>- Néu bật những yếu tố cơ bản (truyền thống và hiện đại) cấu thànhnên hệ thống chính trị của Nhà nước CHLB Đức.</small>

<small>- Đánh giá sự ra đời của Nhà nước CHLB Đức trong bối cảnh lịch</small>

<small>sử đương thời.</small>

Nhằm giải quyết tốt các yêu cầu đặt ra của đề tài chúng tơi đã phải

<small>tìm chọn cho mình một phương pháp nghiên cứu có hiệu quả và phải tập</small>

<small>hợp, hệ thống một khối lượng tư liệu, tài liệu đa dạng và phong phú bằng</small>

<small>tiếng Việt và tiếng nước ngoài, chủ yếu là tiếng Đức.</small>

2. LỊCH SỬNGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ, CÁC NGUỒN TƯ LIỆU VÀ PHƯƠNG

PHÁP NGHIÊN CÚU

<small>2.1.Lịch sử nghiên cứu vấn đề và các nguôn tư liệu:</small>

<small>Các vấn dé của lịch sử Đức hầu như chưa được nghiên cứu chunsâu ở nước ta. Chúng tơi chưa tìm thấy và cũng không được biết một Luậnán Tiến sĩ hoặc một Luận văn Cử nhân, hay một đề tài nghiên cứu khoa họcnào đã nghiên cứu về "Quá trình hình thành Nhà nước Cộng hoà Liên bangĐức sau Chiến tranh Thế giới thứ II (1945-1949)" từ trước đến nay tại ViệtNam. Những đề tài có tính chất liên quan cũng chỉ giới hạn ở một vài bài</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

đăng báo, tạp chí chuyên ngành hoặc tạp chí của trường Đại học Tổng hợp

Hà Nội cũ. Nguồn tư liệu bằng tiếng Việt chủ yếu bao gồm một số chương

mục mang tính đại cương trong một số cuốn sách giáo khoa, giáo trình

đang được sử dụng trong việc giảng dạy tại một số trường Đại học, ví dụ

như cuốn "Lịch sử thế giới hiện đại (1917-1995)" của tập thể tác gia do

Nguyễn Anh Thái làm chủ biên được Nhà xuất bản Giáo dục ấn hành năm1998, cuốn "Lịch sử nhà nước và pháp luật thế giới", "Luật Hiến pháp các

<small>nước tư ban" của Khoa Luật, Dai học Quốc gia Hà Nội, cuốn tư liệu được</small>

dich từ tiếng Anh " Những bí ẩn của Chiến tranh Thế giới thứ H"...Một số

sách, bài báo viết về Chiến tranh Thế giới thứ II và các mối quan hệ quốc

<small>tế thời kỳ sau chiến tranh như cuốn "Chiến tranh Thế giới thứ II” của Giáo</small>

sư Nguyễn Huy Quý, NXB Sự Thật 1985, "Thế giới trong 50 năm qua

<small>(1945-1995)..." của cố Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch do Nhàxuất bản Chính trị quốc gia phát hành, "F.D.Roosevelt và Chiến tranh Thếgiới thứ II (1939-1945)” của Giáo sư Nguyễn Quốc Hùng, Tạp chí Châu Mỹngày nay số 26-1995...</small>

<small>Đương nhiên là người Đức rất quan tâm đến những đề tài liên quan đến</small>

việc chia cắt nước Đức và sự hình thành đồng thời hai Nhà nước Đức sau

<small>Chiến tranh Thế giới thứ II và cũng có tương đối nhiều người đã đi sâu nghiêncứu khía cạnh này hay khía cạnh khác của những vấn đề trên song giữa họ vẫn</small>

<small>còn rất nhiều quan điểm bất đồng. Các kết quả nghiên cứu đã được công bố</small>

cho thấy, quan điểm nghiên cứu của người Mỹ khác với của người Nga, của

<small>người Anh, người Pháp khác với của người Đức, của người Tây Đức khác với</small>

<small>của người Đông Đức...Đặc biệt là sự kiện tái thống nhất nước Đức vào năm</small>

<small>1990 đã buộc nhiều người phải nhìn lại việc chia cắt nước Đức trước đây. Năm</small>

<small>1991, khi có dịp qua Cộng hồ Liên bang Đức, có cơ hội tiếp xúc với mộtGiáo sư chuyên về Lịch sử Đức hiện đại tại Trường Đại học Tổng hợp Passau,Giáo sư P.Steinbach, tôi đã được ông gợi ý nghiên cứu về thời kỳ hậu chiến ở</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

<small>Đức với tư cách là người Việt Nam. Bởi nếu tác giả không phụ thuộc vào một</small>

u cầu chính trị nào, khơng thuộc phe Đồng minh và cũng chẳng phải là

người Đức, ông hy vọng nghiên cứu sẽ khách quan hơn chăng. Đồng quan

điểm với ông là ý kiến của Giáo sư R.Steininger, người mà tơi có dịp gặp khi

<small>ơng qua thăm Khoa Lịch sử, trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà</small>

Nội một năm sau đó. Đề tài luận án cụ thể của chúng tôi được tập thể các

Giáo sư, giảng viên thuộc Bộ môn Lịch sử thế giới, Khoa Lịch sử Trường Đại

<small>học Khoa học Xã hội và Nhân văn thơng qua. Trước khi hồn thành Luận án</small>

<small>này, tơi đã thực hiện với tư cách chủ trì một cơng trình nghiên cứu khoa học</small>

cấp trường (Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn) đề tài "Chính sách của các

<small>nước Đồng minh đối với nước Đức sau Chiến tranh Thế giới thứ II qua tài liệu</small>

lưu trữ đã được công bố" (đã được nghiệm thu) và một bài báo về "Hậu quả

<small>của Chiến tranh Thế giới thứ II đối với nước Đức" trên tạp chí Lịch sử Quân</small>

<small>sự. Một trong những khó khăn khi thực hiện đề tài Luận án là chúng tơi hầu</small>

như khơng có tư liệu bằng tiếng Việt (các cơng trình có liên quan của người đi

<small>trước hoặc tài liệu tham khảo đã được dịch ra tiếng Việt). Nguồn tư liệu chủyếu phục vụ Luận án này là tài liệu lưu trữ, sách, bài báo, tranh, ảnh của các</small>

nhà sử học người Đức viết bằng tiếng Đức được Nghiên cứu sinh mang về

<small>bằng con đường cá nhân, sau đó phải tự xử lý thơng qua vốn tiếng Đức của</small>

<small>mình. Ngồi ra cịn có một số khơng nhiều tài liệu bằng tiếng Anh (của các</small>

<small>nhà nghiên cứu người Anh và Mỹ) được (cá nhân) dịch ra tiếng Việt. Các tư</small>

liệu bằng tiếng Đức chủ yếu là các tài liệu lưu trữ của các nước Đồng minh đã

<small>được công bố, hồi ký của các chính khách cao cấp đã trực tiếp tham dự các sự</small>

<small>kiện như : "Erinnerungen 1945-1953" của K. Adenauer, Stuttgart 1965,</small>

<small>"Memoiren" của Churchill , Stuttgart 1954, "Memoiren" của H. Truman,</small>

<small>Stuttgart 1955, "Uber den Grossen Vaterlandischen Krieg der Sowjetunion",</small>

<small>cua W.Stalin, Berlin (O) 1952, "Memoiren eines Diplomaten" của G.F</small>

<small>Kennan, Govert Verlag, Stuttgart 1968...Những cuốn sách nay có chứa dung</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

nhiều tài liệu lưu trữ quan trọng, có tính chính xác cao về tư liệu song nhiều

khi cịn có những bình luận, đánh giá chưa thật sự khách quan, thiên về chỉ

trích đối phương và bảo vệ những quan điểm của quốc gia mà họ đại diện.

<small>Những tài liệu chủ yếu khác được sử dụng làm tài liệu tham khảo trongcơng trình nghiên cứu là hồi ức của người Đức; kỷ yếu các hội nghị, hội thảovề các đề tài liên quan đến thời kỳ hậu chiến ở Đức; các bài báo, ảnh lưu trữ</small>

<small>được công bố trên các sách báo, các tạp chí khoa học giáo dục... và đặc biệt là</small>

<small>sách thông sử, sách chuyên đề, các cơng trình nghiên cứu có liên quan đến đề</small>

<small>tai được xuất ban ở ca Đông-và Tây Đức như "Deutsche Geschichte" của Giáosư sử học CHDC Đức J.Streisand, (Ost ) Berlin 1984, một cuốn thông sử Đức</small>

<small>được các nha sử học của ca Đông- và Tây Đức đánh giá cao. Cuốn "Deutsche</small>

Geschichte 1945-1961" của Giáo sư người Áo R.Steininger, người đã từng qua

<small>làm việc tại Khoa Lịch sử-Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà</small>

<small>Nội được xuất ban tại Frankfur/M năm 1983 hoặc cuốn "Die doppel</small>

<small>Staatsgrudung” của nhà sử học CHLB Đức C.Klessman do NXB</small>

<small>Vandenhoeck & Ruprecht xuất ban năm 1991, cuốn "Entscheidung in</small>

<small>Deutschland" của L.D.Clay, Frankfurt/M 1950, cuốn "Die Alliierten und die</small>

<small>Teilung Deutschlands, Konflikt und Entscheidungen 1941-1948" củaH.Graml, Fischer Taschenbuch Verlag, Frankfurt/M 1985, "Die Teilung der</small>

<small>Welt 1941-1945" của W.Loth, Munchen 1985, "Westdeutschlands Weg zur</small>

<small>Bundesrepublik 1945-1949", Beitraege von Mitarbeitern des Instituts fur</small>

<small>Zeitgeschichte, Munchen 1976 ...là những cuốn sách đã được tái ban nhiều lần</small>

<small>ở Đức và những tài liệu được sử dụng với tần số cao trong các bài báo, các</small>

cơng trình nghiên cứu khoa học lịch sử ở Đức và Châu Âu.

<small>Hệ thống hoá các tài liệu tham khảo ta sẽ nhận thấy rằng quan điểm</small>

<small>nhận thức của các tác giả rất khác nhau. Đương nhiên trong quá trình nghiên</small>

<small>cứu, tác gia Luận án chỉ lựa chọn và sử dụng những số liệu, thông tin cần thiết</small>

chứ không bị phụ thuộc vào quan điểm của bất kỳ tác giả nào.

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

<small>2.2.Phương pháp nghiên cứu</small>

Nghiên cứu lịch sử nhằm mục đích làm sáng tỏ những sự kiện, sự việc,

những vấn đề đã xảy ra trong quá khứ để trong phạm vi có thể tái hiện lại

những dấu ấn của quá khứ một cách tương đối đây đủ, tương đối khách quan.

<small>Nhằm thực hiện được những yêu cầu đặt ra của đề tài, chúng tôi phải sử dụngcác nguồn sử liệu và các tri thức cơ sở chuyên ngành và liên ngành. Một trong</small>

những phương pháp thực hiện đề tài của chúng tôi là phân tích sử liệu học

<small>gồm hai hướng chủ yếu là mở rộng tối đa các nguồn sử liệu : chữ viết, hình</small>

ảnh, hiện vật...và xây dựng một hệ thống phương pháp và kỹ thuật để khai

<small>thác và xử lý ở mức tối đa các nguồn sử liệu. Trên cơ sở các nguồn sử liệu có</small>

<small>được, chúng tơi phân tích, lý giải, đánh giá, so sánh, bình luận và rút ra kết</small>

<small>luận nhằm phục dựng lại những nét cơ bản của đối tượng nghiên cứu. Đồng</small>

thời phương pháp hệ thống cũng được sử dụng để sắp xếp, trình bày các kết

<small>luận một cách có chọn lọc, có logic phù hợp với yêu cầu của đề tài. Mọiphương pháp nghiên cứu được vận dụng dựa trên các nguyên tắc phương pháp</small>

<small>luận của chủ nghĩa Mác-Lênin: nguyên tắc tính đảng, nguyên tác lịch sử,</small>

ngun tắc tổng hợp và tồn diện.

3. ĐĨNG GĨP CỦA LUẬN ÁN

<small>Luận án của chúng tơi hy vọng sẽ có một số đóng góp chủ yếu sau:</small>

<small>* Tập hợp và xử lý một cách có hệ thống các tài liệu, tư liệu phần lớn là</small>

<small>bằng tiếng nước ngoài liên quan đến vấn đề phân chia nước Đức cũ và hình</small>

<small>thành hai Nhà nước Đức mới sau Chiến tranh Thế giới thứ II, một đề tài lần</small>

<small>đầu tiên được nghiên cứu chuyên sâu ở Việt Nam.</small>

<small>* Luận án góp một phần lấp khoảng trống mảng nghiên cứu các đề tài</small>

lịch sử về Đức ở nước ta

<small>* Kết quả nghiên cứu của Luận án có thể được bổ sung vào giáo trình,làm tài liệu giảng dạy chuyên đề cho sinh viên chuyên ngành Lịch sử thế giới,</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

làm tài liệu tham khảo cho các đồng nghiệp khi nghiên cứu về những vấn đề

<small>liên quan.</small>

Luận án có bố cục như sau:

Ngoài phan Mở dau và Kết luận, Luận án được chia thành 3 chương:

Chương 1 trình bày về hậu quả do cuộc Chiến tranh Thế giới thứ II đối với

nước Đức và các chính sách đối với nước Đức của các nước Đồng minh đặcbiệt là văn bản Hiệp ước Potsdam. Đây có thể được coi là chương trình bày

hồn cảnh lịch sử nước Đức thời điểm sau Chiến tranh Thế giới thứ II.

Chương 2 có nội dung phản ảnh và phân tích tồn bộ q trình hình thành

<small>các tiền đề chủ quan và khách quan cho sự ra đời của Nhà nước CHLB Đức.</small>

Phan dau của chương này trình bày về mục tiêu chiến lược thực chất là những

toan tính của các nước thành viên khối Đồng minh cụ thể là của Liên Xô và

<small>các cường quốc phương Tây (Anh, Pháp, Mỹ) trong việc hoạch định chínhsách đối với nước Đức sau Chiến tranh Thế giới thứ II. Day là một trong</small>

những nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn sâu sắc giữa Liên Xô và các nước

<small>phương Tây mà hậu quả trực tiếp nước Đức phải gánh chịu là sự phân chianước Đức. Chương này đồng thời trình bày sự phục hồi đời sống các mặtchính trị, kinh tế, văn hoá-xã hội ở Đức sau Chiến tranh Thế giới thứ II. Thànhtựu của quá trình này được coi là điều kiện chủ quan cho sự ra đời của nhà</small>

<small>nước CHLB Đức.</small>

Chương 3 trình bày tồn bộ q trình chuẩn bị các cơ sở pháp lý cho sự ra

<small>đời của Nhà nước Cộng hoà Liên bang Đức như các Văn bản của lực lượng</small>

<small>chiếm đóng, Bộ Luật cơ bản của CHLB Đức, việc thành lập các cơ quan chính</small>

<small>quyền Đức...và đánh giá ý nghĩa của sự kiện thành lập Nhà nước Cộng hoa</small>

<small>Liên bang Đức trong bối cảnh lịch sử đương thời.</small>

<small>Đây là một đề tài phức tạp không chỉ đối với người nghiên cứu nướcngồi mà cịn gây nhiều tranh cãi trong giới nghiên cứu lịch sử ở Đức. Một</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

trong những khó khăn chúng tơi gặp khi thực hiện đề tài là việc tiếp cận, tậphợp và xử lý các nguồn tư liệu, tài liệu, sách báo bang tiếng nước ngoài, chủ

yếu là tiếng Đức trong khi tài liệu bằng tiếng Việt hau như khơng có. Cũngbởi khơng có điều kiện tiếp xúc nhiều với các chuyên gia về Lịch sử Đức và

chưa có nhiều người nghiên cứu chuyên sâu về các đề tài có liên quan nên việc

<small>học hỏi kinh nghiệm, tham khảo kiến thức của người đi trước là rất hạn chế.Luận án của chúng tơi được hồn thành cùng với nỗ lực của bản thân nghiên</small>

<small>cứu sinh là sự giúp đỡ tận tình của các Giáo sư, Giảng viên và các đồng nghiệp</small>

<small>thuộc Khoa Lịch sử và Khoa Lưu trữ học và Quản trị văn phòng-Trường Đại</small>

<small>học khoa học Xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia Hà Nội) đặc biệt là của</small>

<small>hai Phó giáo sư Nguyễn Quốc Hùng và Nguyễn Văn Hàm là những thày trựctiếp hướng dẫn nghiên cứu sinh thực hiện đề tài.</small>

<small>Tôi xin chân thành cảm ơn tất cả các thày, các bạn đã giúp tơi hồn</small>

<small>thành Luận án này và rất mong muốn nhận được những ý kiến bổ sung</small>

nhằm làm cho Luận án của tôi được hoàn thiện hơn.

<small>Ha Nội, thang 5 năm 2001</small>

Nguyên Thị Liên Huong

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

CHƯƠNG 1: HẬU QUA CUA CUỘC CHIẾN TRANH THE GIỚI

THỨ II ĐỐI VỚI NƯỚC ĐỨC VÀ HIỆP ƯỚC POTSDAM

1.1. HẬU QUẢ CỦA CHIẾN TRANH THẾ GIỚI THỨ II ĐỐI VỚI NƯỚC

1.1.1.Dé chế III và Chiến tranh thế giới thứ II

Cuộc Cách mạng dân chủ tư sản Đức tháng Mười Một năm 1918 đã

đánh dấu chấm hết cho Dé chế Dé nhị, một Nhà nước Liên bang dưới sự thốngtrị của Phổ? được Bismarck” lập nên vào tháng 01.1871. Ra khỏi cuộc Chiến

tranh thế giới thứ I (1914-1918), nước Đức tuy bại trận, suy yếu nhưng chưa

hoàn tồn bị diệt vong. Các nước phương Tây cịn muốn sử dụng nước Đức

như là một con đập ngăn làn sóng cách mạng đang có khả năng tràn sang phía

Tây từ nước Nga Xô viết, Nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới ra

đời sau Cách mạng Tháng Mười 1917. Trong bối cảnh đó, Cộng hồ

WeimarẺ), một nước Cộng hồ có nền dân chủ kiểu phương Tây chính là cơhội để nước Đức tồn tại và phát triển. Song Hitler và đảng Quốc xã của hắn đã

<small>phá bỏ cơ hội đó. Các thế lực phản động cực đoan đã làm tan rã Cộng hoà</small>

Weimar, thể chế Nhà nước dân chủ đầu tiên ở Đức sau 14 năm tồn tại.

<small>Dé chế Đệ tam, Nhà nước chuyên chế của Hitler được hình thành bat</small>

đầu từ việc lên nắm quyền của Hitler vào ngày 30.01.1933 với tham vọng hình

<small>thành một Nha nước Đại Đức, một đế quốc Đức hùng mạnh nắm vi trí thống</small>

trị ở châu Âu. Về bản chất, Đế chế Đệ tam là Nhà nước độc tài chuyên chế

của liên minh tư bản độc quyền và chủ nghĩa phát xít, trong đó các quyền tựdo, quyền dân chủ, quyền con người hoàn toàn bị triệt tiêu. Khủng bố công

khai và tuyên truyền mị dân là hai công cụ cơ bản để duy trì hệ thống thống trị

của Hitler.Theo đuổi học thuyết phân biệt chủng tộc phản động, lạm dụng

quyền tự quyết dân tộc và tư tưởng đại Đức, hiếu chiến và tàn bạo, Hitler đã

<small>buộc các nước trên thế giới liên minh chống lại nước Đức phát xít trong Chiến</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">

hồ mà khơng cần phải thông qua Nghị viện. Đảng Công nhân xã hội chủ

nghĩa dân tộc Đức (Nationalsozialistische Deutsche Arbeiterpartei-gọi tat là

NSDAP hoặc NAZI) của Hitler lên cầm quyền trong lúc phan lớn xã hội Đứckhơng cịn quan tâm đến việc bảo vệ nền dân chủ : Quân đội của Cộng hoa

Weimar ngay từ những ngày đầu đã tồn tại như một “nhà nước trong nhà

nước”; tầng lớp tư sản đã đứng đằng sau Hitler từ trước khi y lên làm Thủ

tướng; nền nông nghiệp Đức đã từ lâu chịu sự ảnh hưởng của Dang NAZI;

hàng ngũ quan chức thì làm như thể việc Hitler lên làm Thủ tướng là hợp

pháp; các dang công nhân và nghiệp đồn suy yếu nghiêm trong vì nạn thấtnghiệp triền miên trong khi đảng Xã hội và đảng Cộng sản lại coi nhau như

thù địch...Mặt khác đảng NAZI ngày càng gây được ấn tượng tốt đối với các

<small>cử tri Đức. Nó đã trở thành một phong trào độc lập, một phong trào đã từng</small>

tuyên bố quyết rửa được “vết nhục Versailles”

<small>, một phong trào không liên</small>

<small>quan, không phụ thuộc vào Nghị viện, vốn là một cơ quan nhà nước đang bị</small>

chỉ trích là khơng có khả năng khắc phục được tình trạng khủng hoảng kinh tế

<small>trầm trong của nước Đức. Chương trình hành động của đảng này được xâydựng trên cơ sở của chủ nghĩa dân tộc cực đoan, tư tưởng “cộng đồng dân tộc”và chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, đặc biệt là bài trừ người Do thái. Tư tưởng</small>

của đảng Quốc xã được tuyên truyền sâu rộng trong moi tang lớp xã hội. Ví

dụ: Trong một cuốn sách dạy nhạc của học sinh tiểu học có bài hát có lời như

" Tran đẫm mồ hơi, bụng đói cồn cào. Bàn tay day than và bụi bẩn. Hãy đứng

</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">

dậy gia nhập đoàn quân, san sàng chiến đấu vì chủng tộc. Khi bọn Do thái do

máu là lúc chúng ta được tự do..."[58,tr. 123].

Ngày 27.02.1933, Hitler cho tay chân gây ra vụ cháy Nhà quốc hội

Đức'® rồi vu khống cho những người Cộng sản, tao cơ hội để y sử dụng "Chỉ

thị về tình trạng khẩn cấp" để vơ hiệu hố các Đạo luật cơ bản. Tuy vậy, đảng

của Hitler vẫn chưa giành được đa số phiếu trong lần bau cử Nghị viện ngày

5.3.1933. Sau đó, bằng thủ đoạn khống chế, de doa, Hitler đã kiếm được đủ số

phiếu cân thiết để cho ra đời "Luật toàn quyền hành động”. Luật này cho

phép Chính phủ, một cơ quan khơng có thẩm quyền ban hành Luật, trongkhoảng thời gian 4 năm được ban hành Luật và sửa đổi Luật mà không cần sự

phê chuẩn của Nghị viện và Hội đồng nhà nước. Đó là cở sở pháp lý để Hitler

vơ hiệu hố hệ thống chính quyền ở các bang và xây dựng một hệ thống quảnlý riêng của dang NAZI bên cạnh hệ thống quản lý Nhà nước ở trung ương.

Ngay từ thời kỳ này, về mặt quyền hạn, Nhà nước đã được coi là Nhà nướccủa đảng NAZI trong đó Hitler đóng vai trò là một Thủ tướng độc tài. Mùa hè

năm 1933, sau khi đập tan các nghiệp đoàn và các đảng khác, dang NAZI đã

độc quyền chiếm giữ quyền lực chính trị ở Đức. Bằng cách đưa ra kế hoạchtrang bị hỗ trợ cho các cơ sở kinh tế và huỷ bỏ quyền tự quyết khi đưa ra cácbiểu thuế suất, Hitler đã giành được sự ủng hộ của những tập đồn kinh tế cịn

lại. Bằng việc cho các tập đồn kinh tế vay tín dụng của Nhà nước, Hitler đã

làm được một việc mà trước đó Nghị viện Weimar khơng thể làm được là làm

<small>sống lại các hoạt động sản xuất đang bị tê liệt và từng bước thanh toán được</small>

<small>nạn thất nghiệp. Tiếp đó, vào năm 1936, Kế hoạch 4 năm nhằm trang bị quân</small>

đội và phát triển kinh tế phục vụ chiến tranh đã được Hitler tuyên bố tại Đại

hội Dang Quốc xã vào ngày 9.9.1936 với mục tiêu do Hitler đề ra là chuẩn bitiềm năng sắn sàng tiến hành cuộc chiến phục thù. Lúc này Hindenburg đã

qua đời và Quân đội Đức đã nằm trong vòng kiểm soát của Hitler. Quyền lực

của Hitler ngày càng được củng cố và hắn đã có đủ các điều kiện để thực hiện

</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">

các ý tưởng điên rồ của mình. Nhằm tập trung quyền lực kinh tế vào tay Nhànước, đảng Quốc xã thực hiện việc kiểm sốt các tập đồn sản xuất tư nhân,hạn chế quyền tự chủ của các doanh nghiệp và tịch thu tài san của người Đức

gốc Do thái. Bắt đầu từ tháng 4 năm 1933, các cửa hiệu Do thái đã bị tẩy chay,

người Đức gốc Do thái bị phân biệt đối xử và việc bài trừ Do thái đã đạt đỉnh

điểm vào đêm 9.11.1938, một đêm đi vào lich sử nước Đức với cái tên

“Reichskristallnacht-dém thuỷ tinh của Dé chế”, một đêm được đánh dấu

bằng sự giết chóc, đốt phá day máu và nước mat đối với người Đức gốc Dothái. Đêm mùng 9 rạng ngày 10.11.1938, theo lệnh của J.Goebbels, Bộ trưởng

Tuyên truyền Quốc xã, tất cả cửa hàng và nhà ở của người Do thái trên toàn

nước Đức đều bị bao vây và đốt cháy, tất cả những ai chống cự đều bị giết, tra

tấn hoặc bắt vào các trại tập trung. Chỉ riêng đêm hơm đó đã có khoảng hơn

26.000 người bị bat đi, thiệt hai vật chất lên tới hàng trăm tỷ mark.

Về đối ngoại, mục tiêu cụ thể duoc Hitler dé ra từ những nam

1924/1925 khi hắn viết trong cuốn “Mein Kampf-Cuộc chiến đấu của tôi” là

"giành lại những phần đất đã mất bằng một cuộc chiến đẫm máu và khôngphải chỉ khôi phục lại đường biên giới năm 1914 mà còn lấy lại đất đai của Đế

quốc German thần thánh cách đây 6 thế kỷ...Hướng về phía Đơng, trước hết là

nước Nga và các vùng lân cận. Kết cục của quyền lực của người Do thái ở Nga

cũng là kết cục của Nhà nước Nga...Sau khi đã chiếm được khơng gian sinh

<small>tồn ở phía Đơng, nước Đức sẽ chiếm được vi trí xứng đáng trên thế giới, một</small>

ngày nào đó sẽ trở thành bá chủ hồn cầu..."[61, tr.283]. Nhằm che giấu ý đồ

của mình, lúc đầu Hitler tuyên bố trước công luận rằng y nhân danh nước Đức

yêu cầu xoá bỏ những ràng buộc của Hiệp ước Versailles đối với nước Đức và

đòi quyền tự quyết cho người Đức. Điều này phù hợp với nguyện vọng củađông đảo người dân Đức nên y đã nhận được sự hưởng ứng cuồng nhiệt ở

trong nước. Trong khi đó, các cường quốc thắng trận trong Chiến tranh thế

</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">

nghĩ rằng không thể tước bỏ vĩnh viễn quyền tự quyết của người Đức nên đãkhơng có sự phản đối cương quyết khi Hitler lên cảm quyền. Hitler còn ký

một Hiệp ước về Hải quân với Anh. Bằng chiến thuật đó Hitler đã có được một

thời gian dài chuẩn bị cho chiến tranh mà không gặp phải sự chống đối nào

đáng kể cả ở trong và ngoài nước. Sau khi hình thành khối Trục Berlin-Rom

và liên minh với Nhật vào năm 1936, Hitler đã bắt đầu kế hoạch phục thù

bằng việc ban hành qui chế quân dịch, kiện toàn quân đội, đặc biệt là tăngcường sức mạnh của không quân; đưa quân vào khu vực phi quân sự

Rheinland; “sáp nhập” nước Áo vào nước Đức, không công nhận Nhà nước

Tiệp và định kế hoạch chiếm đóng vùng Sudeten của Tiệp. Nhằm thực hiện

âm mưu đó, chúng kích động cho 3,5 triệu kiều dân Đức sống ở vùng Sudeten

đòi quyền tự quyết, gây mâu thuẫn căng thẳng với Chúnh phủ Tiệp dẫn đến

cuộc "Khủng hoảng Sudeten". Lợi dung cơ hội đó, Hitler quyết định phát

động chiến tranh xâm lược, địi cắt Sudeten trả về Đức. Hitler cơng khai tuyên

bố với hàng ngũ chỉ huy quân đội Đức "quyết định dứt khoát sẽ đánh gục Tiệp

bằng hành động quân sự trong thời gian gần nhất". Theo đề nghị của Thủ

tướng Anh Chamberlein, Mussolini đã thuyết phục Hitler đồng ý ngồi vào bàn

thương thuyết. Anh và Pháp đã thuyết phục được chính phủ Tiệp đồng ý cát

bỏ vùng Sudeten với hy vọng món quà đó có thể làm nguội cái đầu hiếu chiến

<small>của Hitler. Ngày 30.9.1938, đại diện bốn nước Anh, Pháp, Italia và Đức làChamberlein, Thủ tướng Pháp E.Daladier, Mussolini va Hitler đã ký kết Hiệp</small>

<small>ước Munchen, Sudeten ngay lập tức bị quân đội Đức chiếm đóng và nước Tiệp</small>

nhỏ bé nhận được một "bảo đảm về biên giới" cho mình. Song, tháng 3 năm

1939, nước Đức phát xít đã đánh chiếm Tiệp Khắc, giành được vị trí chiến

lược quan trọng để có thể phát động chiến tranh về phía Đơng. Lúc đầu Đứccũng tìm cách liên minh với Ba Lan để tiến hành một cuộc chiến tranh chống

<small>lại Liên Xơ, nhưng khi khơng đạt được mục đích thì Hitler quyết định tấn</small>

công Ba Lan. Dé tránh được sự tham chiến của Liên Xô ngay từ dau, Hitler dé

</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">

nghị ký Hiệp ước bất khả xâm phạm với Liên Xô, một nước được coi là kẻ thù

chính của nước Đức phát xít. Trong khi đó, nhằm tránh phải đụng đâu đồng

thời với hai kẻ thù lớn là Đức và Nhật ở hai mặt trận phía Tây và phía Đơng.Liên Xơ đã đồng ý ký Hiệp ước này vào ngày 23.8.1939. Những ngày cuối

tháng 8 năm 1939, nhận thức được nguy hiểm của cuộc chiến tranh đang đến

gần, các nước Italia, Anh, Pháp đã liên lạc với các nhà cầm quyền nước Đức

đề nghị tổ chức một Hội nghị quốc tế để bàn bạc những vấn đề liên quan đến

địi hỏi của Đức với mục đích là ngăn chặn nguy cơ chiến tranh thế giới songkhông được chấp nhận. Sự kiện Đức tấn công Ba Lan ngày 01.9.1939 đã mở

<small>dau cho cuộc Chiến tranh thế giới thứ II, một cuộc chiến tranh tàn bạo nhấttrong lịch sứ thế giới hiện đại. Chi hai ngày sau đó, Anh và Pháp đồng thời</small>

tuyên chiến với Đức, song cả hai đều khơng có một động thái qn sự nào để

<small>giúp Ba Lan vốn là đồng minh của họ. Bằng cuộc chiến chớp nhoáng, Đức đãđánh bại Ba Lan chỉ vài tuần sau đó và bắt đầu thực hiện chính sách cai trị dã</small>

man đối với người Ba Lan. Chúng tiến hành tàn sát các trí thức để khơng cịn

người có thể lãnh đạo các phong trào phản kháng; trục xuất dân Ba Lan đang

<small>sinh sống ở các vùng phía Tây nước này ra khỏi nơi ở của họ và đưa kiều dânĐức từ các vùng giáp Liên Xô đến nhằm sáp nhập các khu vực này vào Đức;</small>

tổ chức các cuộc tàn sát, khủng bố đối với người Ba Lan và người Do thái...

<small>Vào tháng 4 năm 1940, sau khi chính phạt được các nước Nauy va Dan mach,</small>

phát xít Đức bat đầu tấn cơng các nước trung lập phía Tây là Hà Lan, Bi và

<small>Luxemburg. Ngay sau đó, ngày 5.6.1940, qn đội Đức đã chọc thủng phịng</small>

<small>tuyến Paris, Chính phủ Pétain quá hèn nhát đã đâu hàng quân đội Đức vàongày 14.6.1940.</small>

<small>Trong số các chính khách phương Tây duy có Thủ tướng Anh WinstonChurchill là cương quyết dùng hết khả năng và ý chí để chống lại nước Đứcphát xít xâm lược. Sau khi chiếm được Pháp, Hitler đề nghị ký một Hồ ướcvới Anh nhưng khơng được phía Anh chấp nhận, Hitler ra lệnh chuẩn bị tấn</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">

công Anh. Cuộc không chiến của Đức đối với Anh bat đầu vào tháng 8 nam

1940 và kết thúc vào tháng 5 năm 1941 với sự thiệt hại to lớn của cả hai bên.

Không quân Đức bị thiệt hại nặng nề, 2265 máy bay bị bắn rơi, hàng ngàn phi

công được đào tạo một cách tốt nhất đã bị chết hoặc bị bắt giam, nước Đức

phải từ bỏ ý định làm chủ bầu trời nước Anh. Vào thời điểm này, Hitler nhận

định chỉ có Liên Xơ là nước duy nhất có khả năng trở thành đồng minh của

Anh ở lục địa Châu Âu và là kẻ thù chính của nước Đức phát xít nên y quyết

định lên kế hoạch tấn công Liên Xô. Kế hoạch lẽ ra đã được thực hiện sớm

hơn song y đã quyết định lui lại để tấn công Nam Tư và xâm lược Hy Lạp vào

tháng 4 năm 1941 nhằm hỗ trợ phát xít Italia, đồng minh của Đức trong khối

Trục. Ngày 22.6.1941, vi phạm "Hiệp ước bất khả xâm phạm” đã ký giữa Liên

Xô và Đức, Hitler đã quyết định tấn công Liên Xơ, bắt đầu thực hiện mục tiêu

chính trị đã ấp ủ từ lâu của hắn là chinh phạt và tiêu diệt Nhà nước xã hội chủnghĩa đầu tiên trên thế giới, kẻ thù chính của chủ nghĩa phát xít Hitler. Đồng

thời với việc kéo quân sang đánh Liên Xô, phát xít Đức đã thực hiện nhữngbiện pháp cực kỳ dã man hịng tiêu diệt các dân tộc phía Đơng bị chúng coi là

các dân tộc hạ đẳng. Chúng lập một hệ thống các trại tập trung ở Đức, Ba Lan,Tiệp Khắc và ở các vùng do chúng kiểm soát để giam giữ và tra tấn họ. Theo

thống kê chưa đây đủ, cho đến hết chiến tranh, trong số hơn 7,2 triệu người bị

giam giữ ở các trại tập trung chỉ có khoảng 500 nghìn người sống sót. Điển

hình như trại Auschwitz ở Ba Lan có khoảng ba triệu người Do thái bị chết

trong các buồng xả ga. Ngoài mặt trận, diễn biến cuộc chiến có biến đổi, mùa

Đơng nam 1941, quân đội Đức bị Hồng quân Liên Xô chặn lại trước Moskva

<small>cùng lúc Đức tuyên chiến với Mỹ sau vụ quân đội Nhật tiến công Mỹ tại Pearl</small>

Harbor. Cục diện chiến tranh thay đổi và thất bại của Đức đầu năm 1943 tại

Stalingrad đánh dấu bước ngoặt mới trong cuộc chiến tranh Vệ quốc vĩ đại củaLiên Xơ ở phía Đông và mở đường cho quân đội Liên Xô tiến qn phản cơng

về phía Tây. Sau khi các nước Đồng minh phương Tây đổ bộ và chiếm đóng

</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">

các kế hoạch “vĩ đại” của y để có quyền tồn tại như một dân tộc thượng đẳng

song bản thân y đã tự sát để trốn chạy trách nhiệm của mình tại boong-ke của

hắn vào ngày 30.4.1945. Một tuần sau đó, ngày 8.5.1945, đại diện quân đội

Đức đã ký vào "Văn kiện tuyên bố đầu hàng không điều kiện” trước sự có mặt

của các đại diện Đồng minh, chấm dứt cuộc Chiến tranh thứ giới thứ II ở

Châu Âu.

Đối với nhân dân Đức, thời kỳ tồn tại chế độ độc tài phát xít Hitler làthời kỳ đen tối nhất trong lịch sử nước Đức và thất bại của nước Đức trong

Chiến tranh Thế giới thứ II là thất bại nặng nề nhất trong lịch sử nước Đức. Dĩ

nhiên người ta không thể tách rời thời kỳ này với lịch sử nước Đức mà ngượclại người ta có thể tìm thấy ở những Dé chế trước đó những gốc rễ sâu xa của

<small>chế độ bạo tàn này. Ngay từ nửa cuối thế kỷ thứ XIX, sau thất bại của Cách</small>

mạng Tư sản Đức 1848/49 và sau khi nước Ao bị sáp nhập với Phổ 1866, Dé

<small>chế Đức II được thành lập (1871) và đã thơn tính được các nước ở Tây Nam</small>

Phi (1884), những kẻ cầm quyền ở Đức đã ra sức đàn áp phong trào công nhân

và những người dân chủ xã hội Đức. Dù đã có thời điểm là đảng chính tri lớn

nhất ở Đức, có cơng đầu trong việc lật đổ Bismarck (3.1890) song đảng Xã

hội dân chủ Đức vẫn bị lực lượng cơ hội chia rẽ thành nhiều trào lưu khác

<small>nhau dẫn đến sự suy yếu của phong trào cơng nhân Đức. Trong khi đó chủ</small>

nghĩa tư bản Đức đã bước vào thời kỳ phát triển của chủ nghĩa đế quốc, chúng

<small>đòi phải phân chia lại thế giới, lập kế hoạch thơn tính các nước ở Cận Đông,</small>

Bắc Phi nhằm vơ vét tài nguyên thiên nhiên, hòng nắm giữ quyền lực thế giới.

Cổ xuý cho tư tưởng bá quyền Đức, một số người nghiên cứu khoa học xã hội

</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">

Đức như G. Ratzenhofer, L.Woltmann...đã vận dụng học thuyết Tiến hoá của

sinh vật (học thuyết Darwin) để giải thích xã hội và lịch sử xã hội loài người.

Hai nguyên tắc được họ vận dụng nhiều nhất là đấu (ranh vi sự sinh tôn vàchọn lọc tự nhiên. Họ cho rằng, cũng như các loài sinh vật khác, con người

phải chiến đấu với nhau để giành giật không gian sinh tồn; chiến tranh, dịch

bệnh huỷ diệt con người, những kẻ mạnh thắng kẻ yếu (cá lớn nuốt cá bé)...là

điều tất yếu phù hợp với quy luật phát triển tự nhiên. Tư tưởng phản động này

gắn liền với thuyết phân biệt chủng tộc, phân chia loài người thành các dan

tộc thượng đẳng và dân tộc hạ đẳng, trong đó dân tộc thượng đẳng như dân

<small>tộc Đức có quyền tiêu diệt và nơ dịch các dân tộc khác. Đó là mầm mống của</small>

<small>chủ nghĩa bài trừ Do thái cực đoan, là giấc mộng xây dựng một Nhà nước Đại</small>

<small>Đức, một xã hội cộng đồng khơng có mâu thuẫn đối kháng mà chỉ có một trật</small>

<small>tự xã hội theo hệ thống mệnh lệnh và phục tùng, là tham vọng giành giật</small>

<small>quyền lực thế giới... Tất cả những yếu tố trên đã được Hitler kết hợp lại tronghoàn cảnh mâu thuẫn xã hội gay gắt của những năm 30 và càng trở nên cực</small>

<small>đoan hơn sau khi Hitler lên cầm quyền. Cuộc Chiến tranh Thế giới thứ II do</small>

bọn NAZI phát động đã để lại cho thế giới những hậu quả vô cùng nặng nề :

<small>Trong số 110 triệu binh lính tham gia chiến tranh thì có 1/7 tổng số bị thiệtmạng, từ 20 đến 30 triệu dân thường bị chết trong các trận ném bom và trongcác trại tập trung của phát xít, trong số đó có hơn 5,5 triệu người Do thái [58,</small>

<small>tr.45]. Ngày 7.12.1970, trong một chuyến thăm Ba Lan, Thủ tướng Đức Willy</small>

<small>Brandt đã đến đặt vòng hoa và quỳ trước Đài tưởng niệm những người Do tháiđã chết trong các trại tập trung của phát xít - các "Ghetto" ở Balan. Hành độngnày được coi là hành động tạ lỗi của nước Đức với các nước nạn nhân củaChiến tranh Thế giới thứ II. Các nước Liên Xô, Ba Lan, Nam Tư bị mất hơn1/4dan số, hàng triệu người khơng có nha ở; phố xá, đường cầu bị phá huỷ</small>

nặng nề, ôtô, tàu hoa hầu như khơng cịn hoạt động; phan lớn các nhà máy

<small>công nghiệp ngừng hoạt động; lương thực, thực phẩm, thuốc men thiếu thốn</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">

nghiêm trọng... <sup>Và nước Đức, nước phải chịu trách nhiệm hoàn toàn về cuộc</sup>

chiến tranh này cũng không tránh khỏi những thiệt hại nặng nề.

1.1.2. Hậu quả của Chiến tranh Thế giới thứ II đối với nước Đức bại

Năm 1999, người dân Cộng hoà Liên bang Đức đã long trọng kỷ niệm

50 năm ngày thành lập CHLB Đức. Người Đức có thể tự hào về một nước Đức

dân chủ, có nền kinh tế phát triển vào bậc nhất ở châu Âu. có mức sống bình

quân được xếp thứ hạng cao trên thế giới, song cũng không thể quên được

rằng Nhà nước này đã được dựng lên từ đống tro tàn của cuộc Chiến tranh Thế

giới thứ H, từ nỗi thống khổ của người dân Đức sau 12 năm chịu sự thống trị

của chế độ phát xít và nỗi mặc cảm của một dân tộc đã châm ngòi cho cuộc

<small>chiến tranh tàn bạo nhất trong lịch sử lồi người. Cuộc chiến tranh nhằm</small>

chiếm “khơng gian sinh tồn” và nhằm tạo dựng một “đế chế Đại Đức hùngmạnh” đã kết thúc bằng sự đầu hàng không điều kiện của quân đội Đức ngày

<small>8.5.1945 trước quân đội Đồng mitih. Cho dù là nước gây chiến nhưng những</small>

<small>người dân vô tội Đức cũng phải chịu bao hậu quả chiến tranh nặng nề. Trước</small>

hết đó là sự tàn phá vật chất của chiến tranh có thể thống kê được:

<small>8,3 triệu người bị thiệt mạng,</small>

<small>12 triệu người phải rời bỏ quê hương bản quán ra đi để tránh sự khủng</small>

bố của chế độ phát xít, để tránh chiến tranh,

<small>7,5 triệu người khơng có nhà ở,</small>

24 % lãnh thổ (so với năm 1937) bị cắt ra, nhập vào các nước khác,

<small>131 thành phố, thị xã bị ném bom, trong đó có những tran để lại hậu</small>

<small>quả khủng khiếp như trận Mỹ ném bom thành phố Dresden ngày 13.2.1945</small>

<small>làm ít nhất là 35 nghìn người bị thiệt mạng; trận Hamburg, con số đó là 40nghìn người.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">

Ngay từ tháng 5 năm 1942, không quân Mỹ-Anh đã bat đầu tiến hành

ném bom xuống các thành phố của Đức, các cuộc ném bom càng được tăng

cường trong năm 1943 và các trái bom Mỹ đầu tiên đã rơi xuống Berlin vàotháng 11 năm 1943. Cho đến đầu năm 1944, không quân Mỹ-Anh đã làm chu

bầu trời nước Đức. Thậm chí, trước khi tiến hành ném bom Berlin, Chính phủ

Mỹ đã cho dựng một Làng Đức (German Village) ở vùng sa mạc hoang vắng

của tiểu bang Utah của Mỹ đề làm mô hình cho máy bay Mỹ tập ném

<small>bom.Tác giả của cơng trình này là một kiến trúc sư người Đức gốc Do thái tên</small>

là Erich Mendelsohn và nhân công lao động là các tù nhân của nhà tù tiểu

<small>bang Utah. Mô hình là thành phố Berlin được thu nhỏ một cách chính xác từ</small>

cấu trúc cho đến vật liệu xây dựng nhằm thử nghiệm khả năng, hiệu quả của

các trận ném bom thật. Mặc dù ngay từ đầu chiến tranh, người Mỹ luôn khẳng

<small>định là không quân của họ không bao giờ tấn cơng vào những dân thường màchỉ có nhiệm vụ huỷ diệt những mục tiêu quân sự hoặc công nghiệp qn sự</small>

nhưng trên thực tế, ở mơ hình của họ có cả 6 tiểu khu nhà ở tiêu biểu cho

<small>những khu lao động của Berlin, nơi tập trung đông người nghèo nhất ở Châu</small>

Âu. Kế hoạch ném bom các thành phố Đức được Mỹ và Anh phối hợp, họ sẽ

<small>tấn công thành hai đợt: đợt đầu tiên nhằm "chiếm Berlin bằng không chiến"của không quân Hoang gia Anh(RAF) từ tháng 11.1943 đến tháng 3.1944 và</small>

<small>đợt hai là "trận tấn cơng sấm sét” vào tháng 2.1945. Tướng khơng qn</small>

<small>A.Harris cịn hứa với dân Anh rằng sẽ "ném bom Berlin không ngơi không</small>

<small>nghỉ cho đến khi trái tim của nước Đức phát xít ngừng đập". Kết quả của đợt</small>

<small>đầu là 1,5 triệu người Berlin trở thành vô gia cư và khoảng một vạn người thiệtmạng. Sau trận Hitler cho ném bom London, Churchill yêu cầu Mỹ cung cấp</small>

thêm bom để tiếp tục tấn công Berlin và Roosevelt đã đồng ý. Roosevelt cịn

<small>nói với Bộ trưởng Tài chính Mỹ Morgenthau: "Chúng ta phải cứng rắn với</small>

<small>nước Đức, tơi muốn nói là nước Đức chứ khơng phải chỉ riêng bọn phát xít.</small>

<small>Hoặc là chúng ta phải "triệt san" dân tộc Đức, hoặc là chúng ta phải cư xử sao</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">

cho nó khơng thể đẻ ra những hậu duệ lại tiếp tục lặp lại những trò trong quá

<small>khứ”[58, tr. 157]. Trận tấn công tháng 2.1945 làm 3000 người Berlin thiệtmạng. 10 ngày sau đó, thành phố Dresden chim trong lửa khói và trận némbom Hamburg tiếp theo đã cướp đi mạng sống của gần 4 vạn người dân Đức.</small>

<small>Thật ra, bên cạnh mục đích tiêu diệt các cơ sở kinh tế quân sự Đức, việc némbom dữ dội các thành phố Đức của khơng qn Anh-Mỹ cịn nhằm mục đích</small>

để cho Liên Xô và các nước khác thấy được "sức mạnh của khơng qn

<small>Anh-My" và chính khía cạnh nay đã trở thành vết đen trong cuộc chiến tranh"chính nghĩa" của Anh và Mỹ. Sau chiến tranh, tại các thành phố lớn, tỷ lệ nhàở bị phá huỷ được thống kê như sau :</small>

<small>Thành phố Berlin : đại 'ấiThành phố Hamburg : 53,5 %Thành phố Koeln: 70 %</small>

<small>Thanh phố Dortmund : 65,8 % ...</small>

<small>Hệ thống giao thông bi tan phá nang nề : Cho đến tháng 5 năm 1945 chỉ</small>

<small>có 1.000 km trong tổng số 13.000 km đường cịn có thể đi lại được : hầu như</small>

<small>toàn bộ đường thuỷ và các cảng bị phong toả...</small>

<small>Các nhà máy, xí nghiệp một phần bị phá huỷ, một phần bị tháo dỡ thiết bịrơi vào tình trạng hồn tồn tê liệt cho đến cuối năm 1946. Sản phẩm côngnghiệp năm 1946 chỉ bằng 1/4 sản lượng công nghiệp năm 1936. Tổng thu</small>

<small>nhập quốc nội năm 1946 là 32 ty RM so với 76 tỷ RM của nam 1939 [31,</small>

<small>Tuy vậy, điều mà người dân cảm nhận rõ nhất sau chiến tranh chính là cáiđói. Tại các thành phố bị tàn phá, lượng lương thực, thực phẩm dự trữ cạn kiệt,người ta tràn về các làng quê và các thành phố nhỏ để tìm kiếm, để đổi những</small>

đồ có giá trị lấy miếng ăn hàng ngày. Lương thực, thực phẩm, quần áo, thuốc

<small>men và các vật dụng sinh hoạt hàng ngày đều phải mua bằng tem phiếu.</small>

<small>Những chuyến hàng viện trợ của Liên Xô, một nước cũng đang phải chịu hậu</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">

quả chiến tranh vô cùng nặng nề, va của Mỹ chi phan nào giảm bớt nguy cơ

nạn đói đang hồnh hành. Nạn đầu cơ tích trữ và chợ đen phát triển, người ăn

xin nhan nhản ngồi đường phố. Bình qn dinh dưỡng tính theo đầu người làdưới 1.000 calorien một ngày. Lấy ví dụ ở Munchen, thuộc vùng do Mỹ kiểm

soát, là vùng tương đối khá hơn so với các vùng khác, khẩu phan của một

người lớn được cung cấp trong một tuần là :

<small>350 gam thịt</small>

<small>100 gam mỡ</small>

1500 gam bánh mì đen và 400 gam bánh mì trắng

<small>15,5 gam pho-mat31,5 gam vang stta</small>

<small>25 gam “vi ca-phé” va2,5 kg khoai tay</small>

Điều đó có nghĩa là người dân khơng có ăn sáng va bữa trưa là nửa lít

cà-phê lỗng với một lát bánh mì nướng, bữa tối có thể là cháo bột hoặc khoai tây

hoặc một lát bánh mì tuỳ điều kiện trong nhà và người ta lúc nào cũng có cảm

giác đói. Lương một cơng nhân kỹ thuật là 230 RM thì giá nửa cân bơ là 240

RM, giá một đôi giày là 700 RM. Học sinh tiểu học mỗi tuần được ăn kẹohoặc mứt hai lần và phải uống thêm vitamin thay thức ăn để chống suy dinh

dưỡng. Khơng chỉ đói mà tất cả những gì cần thiết cho cuộc sống đều thiếu :

<small>điện, củi đốt sưởi, quần áo, sách vở, xăng dầu và nhất là nhà ở. Chính cái đói</small>

và tình trạng sinh hoạt thiếu thốn đã gây ra các bệnh dịch và nạn trộm cắp ở

khap nơi trên đất Đức. Lấy ví dụ trong vùng do Mỹ kiểm sốt, năm 1938 cứ

trong một vạn người thì có 39,1 người mắc các bệnh lao, tả, ly thì năm 1946

<small>con số nay đã lên tới 72,1 người. Số thanh thiếu niên phạm tội tăng chưa từng</small>

có, riêng ở Berlin năm 1937 có khoảng hơn 12 nghìn vụ trộm cắp, đến năm

<small>1946 con số nay đã là hơn 110 nghìn vụ. Có người cịn cho rằng tỷ lệ phạmpháp của thanh thiếu niên giữa thời kỳ hậu chiến của Chiến tranh Thế giới thứ</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">

I và thời kỳ hậu chiến của Chiến tranh Thế giới thứ II bằng đúng với tỷ lệ hậu

quả chiến tranh của hai cuộc chiến mà nước Đức phải gánh chịu.

Một hậu quả chiến tranh nặng nề khác đã trở thành vấn đề xã hội khi đó

là việc hồi hương của người Đức từ nước ngoài trở về. Trước và trong chiến

tranh có khoảng 12 triệu người Đức di cư dưới ba hình thức chủ yếu : Một là

những người sinh sống ở các nước Trung và Đông Âu, hai là những người bị

trục xuất hoặc trốn ra khỏi nước Đức thời ky Hitler cầm quyền và ba là những

người di tản tránh các trận ném bom từ các thành phố lớn. Theo Hiệp ước

Potsdam, tất cả người Đức đang cư trú tại khu vực phía đơng sơng Oder và

sơng Neisse, ở các nước Tiệp Khác, Nam Tư, Rumani và Hungari đều phải trở

về Đức. Lan sóng hồi hương gây nên sự xáo trộn về dia lý chưa từng có trong

lịch sử nước Đức. Hơn II triệu người Đức hồi hương đã trở thành vấn đề xã

hội khơng chỉ vì họ cần có nhà ở, lương thực, thực phẩm, chăm sóc xã hội mà

cịn vì họ cần cả việc làm để ni sống gia đình và bản thân trong khi họ

khơng phải là lực lượng lao động cần thiết đối với thời kỳ hậu chiến vì phân

<small>lớn họ là người già, phụ nữ và trẻ em. Lý do đơn giản là số lượng đàn ông</small>

thanh niên đã ngã xuống trong chiến tranh đã làm thay đổi tương quan giữa

<small>đàn ông và phụ nữ : cứ 100 đàn ơng thì có 125 phụ nữ và số đàn ông thiếu lại</small>

rơi vào lứa tuổi từ 25 đến 40. Làn sóng hồi hương trở thành gánh nặng đối với

<small>nước Đức và làm tình trạng xã hội trở nên xấu hơn. Ngồi ra cịn hàng triệu</small>

binh lính Đức bị bắt làm tù binh, bị đi đày, bị lao động khổ sai ở các vùng

khác nay trở về q. Những người này cịn bị cơ lập trong xã hội, việc hồ

<small>nhập với cộng đồng của họ cịn phải kéo dài nhiều năm sau đó. Hầu hết</small>

những người hồi hương chỉ được sắp xếp ở trong những ngôi nhà thiếu tiện

<small>nghi sinh hoạt, khơng có việc làm, khơng có thu nhập, khơng có tương lai,</small>

ngày hai bữa họ được phát một khẩu phần ăn ít ỏi ở các bếp ăn công cộng.

<small>Những nạn nhân chiến tranh này đã làm dân số tăng vọt mặc dù chiến tranh đã</small>

cướp đi sinh mạng của hàng triệu con người.

</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">

Hậu quả chiến tranh còn để lại dấu ấn nặng nề cho mỗi gia đình người

Đức. Người ta cho rằng tính đến tận ngày nay chưa bao giờ gia đình người

Đức lại chao đảo như thời ky sau Chiến tranh thế giới thứ II. Trong số 14 triệu

gia đình thì chỉ có 8 triệu gia đình có nhà ở. Hầu hết các gia đình đều bị xé lẻ,phân tán hoặc thiếu vắng người cha trong chiến tranh do bị bắt, do chết bom,

chết trận... Trải qua nhiều năm xa cách, thói quen và tình cảm gia đình thay

đổi các thành viên trong gia đình phải đấu tranh với cuộc sống khổ cực, vớinhững đòi hỏi tâm sinh lý khác nhau của mỗi người để tồn tại. Nhiều trẻ em

cảm thấy xa lạ ngay trong gia đình minh; Uy tín của cha mẹ thay đổi, người

cha vắng nhà lâu ngày, mọi trách nhiệm đổ lên vai người mẹ, người mẹ qvất vả khơng cịn thời gian để giáo dục con cái. Tỷ lệ ly hôn tăng : năm 1939

cứ 10 nghìn người dân thì có 8,9 vụ ly hơn, năm 1948 con số này đã là 18,8

<small>vụ. Con số các gia đình khơng có đàn ơng (khơng có người cha) cũng tăng</small>

theo và trong những gia đình này nguồn thu nhập chủ yếu phụ thuộc vào công

<small>việc của người me và những đứa con lớn trong nhà [57, tr.59].</small>

<small>Sự nghèo đói sau chiến tranh cịn tác động đến thái độ chính trị của</small>

người dân. Đối với một bộ phận người Đức thì rõ ràng là thất bại hồn tồn

của phát xít Đức đồng thời cũng là kết thúc cua Đế chế Dé tam, là sự sụp đổcủa chủ nghĩa phát xít, là cơ hội để nước Đức làm lại từ đầu, là hy vọng về

một nền dân chủ lâu dài và bền vững trên mảnh đất này. Song đa số người Đức

qua phút mặc cảm tội lỗi ban đầu đã trở nên thờ ơ với chính trị, thất vọng với

<small>lực lượng tiếp quản, không tin tưởng vào tương lai sáng sua hơn của nước Đức,</small>

thậm chí có đến một nửa số dân Đức được hỏi đã cho rằng chủ nghĩa xã hội

dân tộc của Hitler có ý tưởng tốt song được thực hiện một cách tồi tệ. Theobáo cáo của cơ quan tình báo Mỹ thì có đến 67% người Đức trả lời rằng họ

khơng quan tâm đến chính trị vì chính trị dẫn đến chiến tranh, 90% cho rằng

trong tương lai người Đức chẳng cần đến chính trị. Điều đó cho thấy rằng

cuộc đấu tranh chính trị tư tưởng ở nước Đức sau chiến tranh không chỉ là

</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">

truyền thống, như văn hoá, những giá trị chuẩn mực như Dân tộc, Uy tín, sựCần cù, Nề nếp...sau khi đã bị chế độ phát xít lợi dụng. Người Đức sẽ phải làm

lại từ đầu với con số 0. Cũng có thể hiểu “thời điểm số khơng” là thời điểm tư

<small>tưởng và hệ thống của chủ nghĩa phát xít vơ nhân tính đã hồn tồn bị tiêu</small>

diệt, là cơ hội để người Đức giã từ quá khứ, làm lại từ đầu, cùng nhau xây

<small>dựng một xã hội hoàn toàn mới. Thái độ chung của người Đức là muốn quên</small>

<small>đi tất cả những gì thuộc về quá khứ song khơng dễ gì qn được.Bốn mươi</small>

năm sau chiến tranh, Tổng thống Đức Richard Weizsaecker tun bố :“Khơng ai có thể quên được những đau khổ nặng nề mà nhiều người phải

<small>hứng chịu từ ngày 8.5.1945 và những ngày sau đó. Nhưng chúng ta không</small>

<small>được phép coi kết cục cuộc chiến là nguyên nhân dẫn đến việc phải di tản, bịtrục xuất và bị mất tự do. Nguyên nhân sâu xa nằm ở thời kỳ trước khi xảy ra</small>

cuộc chiến và xa hơn nữa ở thời điểm bat đâu của chế độ bạo tàn đã gây ra

<small>cuộc chiến. Chúng ta không được phép tach rời ngày 8.5.1945 với ngày30.1.1933”158, tr. 1221.</small>

<small>Song hậu quả nặng nề nhất mà chính sách hiếu chiến và các hành động</small>

bạo tàn của Hitler để lại cho nước Đức là sự mất lòng tin của các quốc gia

<small>khác đối với nước Đức. Không một quốc gia nào, cả phương Đông và phương</small>

Tây và cả nhiều người Đức có thể tin rằng một nước Đức đã hai lần châm ngịi

cho hai cuộc chiến tranh thế giới lại có thể trở thành một nước Đức thống

<small>nhất, hồ bình và hữu nghị. Đó cũng là một trong những cơ sở để các nước</small>

Đồng minh thắng trận hoạch định chính sách hậu chiến đối với nước Đức mà

<small>hệ quả trực tiếp của nó là sự phân chia nước Đức. Thực ra có thể nói rằng,</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">

Chiến tranh Thế giới thứ II đã kết thúc được hơn nửa thế kỷ nhưng hậu quả

của nó thì vẫn cịn tồn đọng cho đến tận những năm 2000. Kể từ khi chiến

tranh kết thúc, những nạn nhân của chế độ phát xít, đặc biệt là những người

Do thái, không ngừng đấu tranh địi có sự đền bù hợp lý cho những gì họ đã

mất trong thời kỳ phát xít và trong chiến tranh. Để có thể tránh một vụ kiện

tập thé của người Do thái, vừa qua 16 doanh nghiệp lớn của nước Đức đã lập

ra một quỹ và cam đoan bồi thường cho bất kỳ ngươì Do thái nào đã từng bị

cưỡng chế lao động trong thời kỳ Chiến tranh Thế giới thứ II với tổng số tiên

khoảng 1,7 tỷ USD. Đây cũng chỉ là một phần vật chất rất nhỏ thuộc về trách

nhiệm của người Đức trước lịch sử còn những mất mát, thiệt hại phi vật thể

của những người Do thái và người dân các nước Đơng Âu thì họ chẳng thể nào

<small>đền bù được [24].</small>

1.2. CHÍNH SÁCH CỦA CÁC NƯỚC ĐỒNG MINH ĐỐI VỚI NƯỚC ĐỨC BẠI

TRAN SAU CHIẾN TRANH VÀ HIỆP UOC POTSDAM

<small>Chiến tranh thế giới thứ II do nước Đức phát xít châm ngịi kéo dài từ</small>

<small>năm 1939 đến năm 1945 được coi là cuộc chiến tranh tan bạo nhất trong lịchsử thế giới hiện đại. Cuộc chiến tranh này đã kết thúc bằng sự đầu hàng khơng</small>

điều kiện của phát xít Đức trước các đại diện của các cường quốc Đồng minh

vào ngày 8.5.1945. Từ thời điểm đó cho đến khi thành lập hai Nhà nước Đức,

nước Đức, nước phải chịu trách nhiệm hoàn toàn về cuộc chiến tranh này,

khơng thể tự mình quyết định vận mệnh tương lai của mình mà hồn tồn phụ

thuộc vào những quyết định và chính sách của các nước Đồng minh.Các nướcĐồng minh bao gồm các nước thuộc khối chống phát xít, chống khối Trụcgồm các nước phát xít Đức, Nhật, Italia và các nước tay sai của chúng trong

<small>Chiến tranhThế giới thứ II mà lực lượng trụ cột và đại diện chủ yếu là các</small>

nước Liên Xô, Mỹ, Anh và Pháp. Đây cũng là lực lượng thể hiện sự đoàn kết

của các nước và các dân tộc yêu chuộng hồ bình trên thế giới chống lại nguy

cơ diệt chủng các dân tộc nhược tiểu, chống lại chế độ phát xít tàn bạo, cùng

</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">

nhau bảo vệ nền hoa bình thế giới. Một trong những ý nguyện chung của các

nước Đồng minh là tìm ra biện pháp nhằm tiêu diệt hoàn toàn nguy cơ gâychiến của các lực lượng hiếu chiến Đức, khơng để chúng có thể làm tổn hai

đến nền hồ bình thế giới một lần nữa.

Chính sách đối với nước Đức đã được các nước Đồng minh họp bàn

chuẩn bị từ trước khi Chiến tranh Thế giới thứ II kết thúc. Các nước Liên Xô,

Mỹ, Anh đã gặp nhau nhiều lần để bàn về việc đầu hàng khơng điều kiện của

nước Đức phát xít, về tương lai nước Đức, về chính sách đối với nước Đức bại

<small>trận sau chiến tranh ... Các cuộc hội đàm, hội nghị quan trọng như gặp gỡ giữa</small>

Roosevelt, Tổng thống Mỹ và Churchill, Thủ tướng Anh tại Casablanca vào

<small>tháng 2.1943 (Đại ngun sối Stalin vì diễn biến phức tạp của cuộc chiến</small>

<small>tranh Vệ quốc chống phát xít xâm lược đang diễn ra trong nước nên khôngđến dự); Hội nghị các Ngoại trưởng tại Moskva vào tháng 10.1943; Hội nghịThượng đỉnh các nguyên thủ quốc gia gồm Stalin, Roosevelt và Churchill tạiTeheran vào cuối tháng II và đầu tháng 12.1943; Hội nghị Jalta vào tháng</small>

<small>2.1945 và Hội nghị Potsdam vào tháng 8.1945 đã bàn về kế hoạch đối với</small>

<small>nước Đức trong thời hậu chiến. Sau này người ta cũng nhắc nhiều đến mộtngười đã có cơng lớn trong việc thiết lập và bảo tồn mối quan hệ mang tính</small>

<small>lich sử giữa Anh-Mỹ-Liên Xô trong Chiến tranh Thế giới thứ H, đó là Harry</small>

Hopkins, trợ lý của Tổng thống Mỹ Roosevelt trong khoảng thời gian 6 năm.

<small>Trong khi người Anh phân vân trước những chiến thắng dồn dập của phát xít</small>

<small>Đức thì chính Hopkins đã có mặt ở London, dùng lời lẽ khơn khéo khơi dậy</small>

lịng tự tơn dân tộc của họ. Ông đã chiếm được được sự ngưỡng mộ của Thủ

<small>tướng Anh Churchill. Khi Đức tấn công Liên Xô, ông đã khẳng định rằng,</small>

Hồng qn Liên Xơ có thể đánh bại quân đội Đức. Bằng sự thẳng thắn và hiểu

<small>biết của mình, ơng được Stalin thực sự tơn trọng. Cũng chính ơng là người</small>

thuyết phục Tổng thống Mỹ rằng, nước Pháp láng giéng cận ké của nước Đức

<small>cũng sẽ có vai trị quan trọng trong việc chiếm đóng nước Đức thời hậu chiến.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">

Hon cả vai trò một Bộ trưởng ngoại giao, ông là người được Tổng thống phái

đi gặp Churchill và Stalin trước mỗi cuộc gặp gỡ và là người chủ trương hợp

tác lâu dài với Liên Xơ.

Việc dựng lại và phân tích một cách tổng thể và rõ ràng chính sách củacác nước Đồng minh đối với nước Đức là một vấn đề không đơn giản vì cácnước Đồng minh tuy trên thực tế đã có lúc ké vai sát cánh bên nhau chốngphát xít nhưng có nhiều bất đồng về quan điểm vì họ là đại diện cho các lực

lượng chính trị, các quyền lợi giai cấp và các hệ tư tưởng khác nhau. Các cuộc

gặp gỡ, các văn bản được ký kết một mặt thể hiện sự thống nhất đồng thời làmlộ rõ sự bất đồng ngày càng sâu sắc giữa các nước thành viên khối Đồng minh.Mỗi thành viên của khối Đồng minh, cụ thể là các nước Liên Xô, Mỹ, Anh,

Pháp đều có những suy tính nhằm bảo vệ quyền lợi riêng của dân tộc mình

trong việc hoạch định và thực hiện sách lược hậu chiến đối với nước Đức sau

1.2.1. Những thoả thuận của các nước Dong minh về chính sách đối

với nước Đức bại trận trước khi Chiến tranh Thế giới thứ II kết thúc

Năm 1943 được coi là năm bản lề của Chiến tranh thế giới thứ II. Trong

khoảng nửa năm đầu, lực lượng của khối Trục vẫn còn gặt hái được một vài

thắng lợi : Ở châu Á, sau khi chinh phục được Đông Nam Á, Nhật đã vào đến

trước cửa ngõ Ấn Độ và Úc Đại Lợi; Quân đoàn đánh chiếm châu Phi của Đức

đã vào cách Alexandria 100km, kênh đào Suez và khu vực dầu mo Cận Đôngđã ở trong tam tay quân Đức. Đợt tấn công mùa hè vào Liên Xô đã đưa quân

đội Đức đến Stalingrad bên sông Wolga và đến tận Kaukasus. Song nửa năm

sau, chiến cục thay đổi, Liên Xô đã là lực lượng chiến đấu chủ yếu ở châu

Âu.Trong tháng 11, Hồng qn Liên Xơ đã choc thủng tồn bộ chiến tuyến

của Đức sau đó vây chặt các cánh quân gồm 220 ngàn tên phải tử thủ theolệnh của Hitler. Ngày 2.2.1943, các đội quân phát xít buộc phải đầu hàng ở

khu vực cuối cùng của Stalingrad: tròn 100 ngàn tên bị tiêu diệt, 90 ngàn tên

</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32">

bị bắt sống, chỉ có 35 ngàn tên bị thương vượt vịng vây chạy thốt.Từ sau

trận này qn Đức chỉ cịn tính đường rút lui. Cùng trong năm 1943, Liên Xơ

giải phóng Ukraina. Tại Châu Au, cũng trong tháng 11.1942, Mỹ và Anh đã

sử dụng những đạo quân lớn để đánh quân Đức ở Marốc và Angiêri. Tháng

5.1943, Quân đoàn châu Phi của Đức gồm 250 ngàn tên đã phải dau hàng ở

Tuynidi. Kết cục chiến tranh đang đến gần đặt các nước Đồng minh trướcnhiệm vụ phải chuẩn bị kế hoạch nhằm bảo đảm cho nền hồ bình thế giới và

kế hoạch sắp xếp lại trật tự thế giới sau chiến tranh, đặc biệt là ở khu vực

Trung Âu. Hàng loạt Hội nghị được nhóm họp, ở đó có những quyết định

<small>được nhất trí thơng qua, nhưng cũng có rất nhiều điều phải bỏ sang một bên vì</small>

<small>bất đồng giữa các nước Phương Tây và Liên Xô lớn hơn khả năng thoả hiệp</small>

giữa hai phe. Song nhìn chung các văn bản các Hội nghị này đã thể hiện gần

<small>như đây đủ nội dung cơ bản chính sách của các nước Đồng minh đối với nước</small>

Đức bại trận thời kỳ sau Chiến tranh Thế giới thứ II. Có thé kể đến các văn

<small>bản quan trọng như "Văn bản Hội nghị Teheran", các văn bản của "Hội đồng</small>

Tư vấn Châu Âu" và "Tuyên bố và Thoả thuận Jalta".

<small>Tiếp theo Hội nghị của các Ngoại trưởng tai Moskau vào tháng 10 nam</small>

<small>1943, từ ngày 28.11. đến 01.12.1943, ba nguyên thủ quốc gia của Liên Xô,Anh và Mỹ là Stalin, Churchill và Roosevelt đã gặp nhau tại Teheran để bàn</small>

về kế hoạch phối hợp tấn công những cuồng vọng cuối cùng của chủ nghĩa

phát xít và chuẩn bị chính sách cho thời hậu chiến. Phát xít Đức đã tìm mọi

cách để phá hoại cuộc gặp gỡ này, ví dụ: chúng đã vạch ra kế hoạch ám sát

<small>các nguyên thủ rất tinh vi, đã có những dự định ném bom khu vực Hội nghị...</small>

<small>nhưng không thành công do lực lượng an ninh các nước Đồng minh làm việc</small>

<small>rất có hiệu quả. Ba cường quốc tranh cãi nhiều về các vấn đề như việc cắt trảmột số phần đất của nước Đức cho nhiều quốc gia : Đơng Phổ và phần đấtphía đơng sơng Oder sẽ vĩnh viễn bị cắt khỏi lãnh thổ Đức, dân Đức hiện đangsinh sống ở những vùng đó sẽ phải di chuyển về Đức; nước Phổ sẽ bị chia nhỏ</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">

và không được phép quản lý vùng Ruhr và các trung tâm sản xuất than và

thép; nước Đức phát xít sẽ khơng bao giờ có thể hồi sinh. Những vấn đề này

còn tiếp tục được đưa vào chương trình nghị sự của Hội nghị Jalta tháng2.1945 và rất ít khi các ý kiến được thống nhất ngay từ đầu. Ngay trong nội bộ

chính phủ của Mỹ và Anh cũng cịn có những ý kiến rất khác nhau về mục

đích của việc phân chia nước Đức. Trong buổi gặp đầu tiên tại Teheran, Tổng

thống Mỹ Roosevelt đã đưa ra một kế hoạch nhằm chia nước Đức thành 5 nhà

nước độc lập và 2 khu vực đặt dưới quyền kiểm sốt của qn Đồng minh. Bộ

trưởng Tài chính Mỹ Morgenthau” thì lập một chương trình gọi là cần thiết đểngay chặn khả năng nước Đức có thể châm ngịi cho cuộc chiến tranh thế giới

thứ ba. Theo đó, tiềm năng công nghiệp của Đức sé bị triệt tiêu, một phan

rộng lớn đất đai của Đức sẽ bị cắt trả về cho Balan và Pháp, phần đất còn lại sẽ

<small>được chia thành hai Nhà nước và một khu vực quốc tế, thực chất là do quân</small>

Đồng minh kiểm soát. Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ J.F.Byrnes thì phản đối kế

<small>hoạch phân chia nước Đức mà chỉ muốn làm suy yếu nước Đức thơng qua việc</small>

phân tán về kinh tế và chính trị và thành lập tổ chức Liên bang. Còn Thủ tướngAnh Churchill thì chỉ lo sợ nghĩ rằng nếu ý tưởng của Roosevelt được thựchiện thì sau khi Mỹ rút quân về nước (khoảng sau 2 năm) chỉ có Liên Xơ là

lực lượng chính trị và qn sự mạnh nhất ở Châu Âu, ông ta không tán thành

<small>việc thành lập những Nhà nước khơng có khả năng tồn tại độc lập tại Trung</small>

Âu vì rất lo sợ những Nhà nước này có thể sẽ bị ảnh hưởng của Liên Xơ.

Churchill đề nghị để các Bang phía Nam Đức gồm Sachsen, Bayern, Pfalz,

<small>Baden và Wuerttemberg lập thành một cực đối trọng với Phổ. Những Nhà</small>

nước này sẽ kết hợp với Áo và Hungari tạo thành "Liên minh Donau" (gồm

<small>các nước bên bờ sông Danuyp). Stalin cực lực phản đối một kiểu Nhà nước</small>

<small>như vậy. Các nhà ngoại giao Anh cũng phản đối việc chia cắt nước Đức, chỉ</small>

<small>có các tướng linh Anh là đồng tình vì họ cho rằng một nước Đức thống nhất sẽ</small>

dễ dàng tấn công các nước khác kể cả Liên Xô, ngược lại nếu chia nhỏ nước

</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34">

Đức ra thi một mặt nó sé làm suy yếu nước Đức, mat khác nó cũng là “sự bao

đảm của bảo đảm một khi có nguy cơ Xô viết”. Một mặt họ lo sợ một nước

Đức hùng mạnh sẽ là nguy cơ đối với họ, mặt khác họ muốn sử dụng nước

Đức như là một lá chắn để chống lại ảnh hưởng của Liên Xô ở châu Âu. Song

khi chiến sự tiếp diễn ngày càng ác liệt thì người ta dan dan ít quan tam hơnđến kế hoạch phân chia nước Đức. Sau này, tại Hội nghị Jalta, Stalin một lần

nữa đề cập đến vấn đề này, tuy nhiên ông không đưa ra một kế hoạch cụ thể(ông là người duy nhất không đưa ra một kế hoạch chia cất nước Đức cụ thể

nào) mà chỉ yêu cầu đưa thêm vào "Van ban đầu hang không điều kiện” củaĐức một câu “Các nước Đồng minh sẽ đề ra các biện pháp nhằm giải trừ quânbị, phi quân sự hoá và chia cắt nước Đức nếu họ thấy cần thiết cho hồ bình và

ổn định trong tương lai ”. Nhưng Văn bản trên trong thực tế cũng không được

đem ra sử dụng vào ngày 8.5.1945. Cịn Roosevelt thì van nhac lại tại Jalta

rằng ông ta vẫn thấy kế hoạch của ông ta là hợp lý song cũng không làm gì

thêm để đi đến một quyết định cụ thể. Ngồi ra, Hội nghị cịn bàn về một số

<small>vấn đề liên quan đến biên giới Ba Lan và Đức, ví dụ như việc Liên Xô đề nghị</small>

kéo dài biên giới Ba Lan về phía Tây để bù vào phần đất phía Tây Liên Xơ có

<small>khoảng 6 triệu người Ukraina và Bạch Nga sinh sống đã bị Ba Lan chiếm giữ</small>

<small>từ những năm 1920/1921 nay sẽ được Liên Xô thu hồi... Nhìn chung, Hội nghịTeheran chỉ là khúc dạo đầu, cịn quyết định cuối cùng của các Nguyên thủ</small>

quốc gia nằm ở các văn bản cuộc gặp gỡ Jalta và Hội nghị Potsdam sau này.

Vào tháng 01 năm 1944, Héi đồng Tu vấn Chau Ai (European Advisory

Commission-EAC) bao gồm dai diện của ba cường quốc đã nhóm hop tạiLondon. Hội nghị này bàn về những kế hoạch cho thời gian ngay sau khi phátxít Đức đầu hàng. Những kế hoạch được thoả thuận trong Hội nghị London

sẽ được Churchill, Roosevelt va Stalin phê chuẩn tại Hội nghị Jalta vào tháng

2.1945. Theo các kế hoạch hậu chiến, nhằm bảo đảm có thể kiểm soát chặt

chẽ nước Đức, trước mắt, các nước Đồng minh sẽ chiếm đóng hồn tồn lãnh

</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35">

thổ Đức trong khoảng thời gian chưa xác định. Ngày 12.9.1944, ba nước Mỹ,

Anh và Liên Xô đã ký một Nghị định thư chia nước Đức thành ba vùng do ba

nước chiếm đóng. Theo đó, lãnh thổ nước Đức được giới hạn theo đường biên

<small>giới được định từ trước chiến tranh, ngày 31.12.1937, tức là trước khi Đức</small>

thực hiện việc chiếm đóng các quốc gia khác. Điều đó có nghĩa là cả Áo, vùng

Sudeten và các vùng đất khác đã bị Đức sáp nhập vào lãnh thổ của mình năm

1938 và trong suốt thời gian chiến tranh sẽ được trả về cho "chu cũ". Liên Xơ

sẽ chiếm đóng phần “phía Tay’’ gồm cả tỉnh Đơng Phổ nằm ở phía Đơng

<small>đường biên được định trên tấm bản đồ “Map A” kèm theo (xem phụ lục).Đường biên này đồng thời đã là ranh giới giữa các Bang và các tỉnh của nước</small>

<small>Đức, sau này là đường biên giới chính thức giữa Cộng hoà Dân chủ Đức và</small>

Cộng hoà Liên bang Đức, là ranh giới giữa hai khối Đông- và Tây Au, ranh

giới giữa hai phe Xã hội chủ nghĩa và Tư bản chủ nghĩa ở châu Âu. Đối với

<small>Thủ đô Berlin, Nghị định thư có dành ra những điều khoản đặc biệt: Berlin</small>

khơng thuộc vào vùng kiểm sốt của Liên Xơ (mặc dù nằm ở phía Đơng và

<small>thành phố sau này hồn tồn do Hồng qn Liên Xơ đánh chiếm), mà bị chia</small>

<small>thành ba khu vực chiếm đóng của ba nước Anh, Mỹ, Liên Xô. Trên thực tế,</small>

Nghị định thư bát đâu có hiệu lực sau ngày phát xít Đức đầu hàng, ngày

<small>9.5.1945. Sau ngày 26.7.1945, một Hiệp định bổ sung đã công nhận nước</small>

<small>Pháp cũng là một nước thắng trận do tính đến những chiến tích của Pháp dưới</small>

sự chỉ huy của Tướng De Gaulle đã tổ chức nhiều đơn vị lớn đánh sang Đức

<small>sau khi nước Pháp được giải phóng vào tháng 8 năm 1944. Và nước Pháp cũng</small>

nhận được quyền kiểm soát một phần nước Đức va một phân Berlin từ các

vùng kiểm soát của Anh và Mỹ.

<small>Một văn bản khác của EAC được ban hành ngày 14.11.1944 qui định cụ</small>

thể việc tổ chức hệ thống kiểm soát nước Đức: Tại các khu vực chiếm đóng

của mỗi nước, các Tổng chỉ huy sẽ thực hiện quyền tối cao của mình căn cứ

<small>vào sự chỉ đạo của Chính phủ họ. Để quản lý các vấn đề chung của nước Đức,</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36">

một Hội đồng Kiểm soatTM được thành lập bao gồm các Tổng tư lệnh quân đội

các nước Đồng minh. Hội đồng này có chức năng bảo đảm sự thống nhất hànhđộng của các Tổng tư lệnh các khu vực chiếm đóng ở mức độ có thể, giám sát

<small>hoạt động của cơ quan hành chính Trung ương Đức sẽ làm việc dưới sự chỉ</small>

đạo của Hội đồng Kiểm sốt và lãnh đạo các cơ quan hành chính Berlin. Các

<small>quyết định của Hội đồng này phải được các thành viên Hội đồng nhất trí thơng</small>

<small>qua. Sau này, khi nước Đức bị chia thành các khu vực chiếm đóng, Hội đồng</small>

Kiểm sốt đã được tun bố thành lập và chính thức đi vào hoạt động.

<small>Ngày 4.2.1945, khi nguyên thủ của ba nước Liên Xô, Anh, Mỹ gặp</small>

nhau tại Krim để nhóm họp Hội nghị Jalta thì quan đội ba nước đã tiến vào sát

<small>cửa ngõ của Đức. Trước đó, ngày 21.10. 1944, Aachen là thành phố đầu tiêncủa Đức đã bị chiếm đóng, Hồng qn Liên Xơ đã bắt đầu tấn công Đông</small>

Phổ, Schlesien và Berlin. Trong Hội nghị này các thành viên đều có chung

<small>một cảm giác tận hưởng chiến thắng đầu tiên.</small>

<small>Các nước Đồng minh đã thảo luận và đi đến kết luận về những kế hoạch</small>

<small>quân sự của ba nước Đồng minh nhằm đánh bại kẻ thù chung là phát xít Đức.</small>

<small>Bộ chỉ huy quân sự của ba nước Đồng minh đã có các cuộc gặp gỡ hàng ngày</small>

<small>trong thời gian Hội nghị. Những cuộc thảo luận này được coi là thoả mãn vềmọi mặt và đi đến kết luận là mọi cố gắng quân sự của ba nước Đồng minh</small>

<small>sẽ được phối hợp chặt chẽ hơn và các cuộc trao đổi thông tin giữa các Bộ chỉ</small>

<small>huy quân sự các nước sẽ tiếp tục được tiến hành. Việc ấn định thời gian, phạmvi và phối hợp các cuộc tấn công mới với hiệu quả lớn hơn của các lực lượngbộ binh và không quân từ 4 phía Đơng, Tây, Bắc, Nam vào trung tâm nước</small>

<small>Đức đã được hoạch định chi tiết với sự nhất trí tuyệt đối. Các kế hoạch quân</small>

<small>sự chung sẽ được công bố vào giờ “G” và họ đều rất tin tưởng rằng sự hợp tác</small>

<small>chặt chế của ba Bộ chỉ huy quân sự đã đạt được trong hội nghị này sẽ rút ngắnthời gian chiến tranh lại. Các Tổng Tư lệnh quân đội ba nước đã thoả thuận</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37">

với nhau về việc tiếp tục tiến hành các cuộc thảo luận trong tương lai nếu các

nước cho là cần thiết .

Hội nghị cũng đã ra tuyên bố: Nước Đức phát xít đã bị cáo chung và

quân đội phát xít Đức sẽ phải trả giá đắt hơn cho thất bại của mình nếu chúng

tiếp tục tim cách phản khang một cách vơ vọng.

Về việc chiếm đóng và kiểm sốt nước Đức, các nước Đồng minh đã

thống nhất về chủ trương và kế hoạch để buộc nước Đức phát xít phải dau

hàng khơng điều kiện sau khi bị đánh bại hồn tồn. Theo kế hoạch đã thoả

thuận, lực lượng của ba cường quốc sẽ chiếm đóng các khu vực đã được phân

chia. Có thể sẽ có một Hội đồng trung ương được lập ra nhằm quản lý và kiểm

soát phối hợp gồm các tư lệnh của ba nước với trụ sở chính đóng tại Berlin.

Bên cạnh đó ba nước thống nhất việc mời Pháp nhận kiểm soát một khu vực

và là thành viên thứ tư của Hội đồng nếu Pháp muốn. Ranh giới khu vực kiểm

sốt của Pháp sẽ được bốn Chính phủ quyết định thơng qua đại diện của mình

tại Hội đồng Tư vấn Châu Âu.(Cùng trong Hội nghị này, các nước Đồng minh

cũng phân chia Triều Tiên vừa được giải phóng khỏi ách thống trị của phát xít

Nhật thành hai khu vực chiếm đóng với phương thức tương tự như vậy. Bán

đảo Triều Tiên bị chia thành hai miền, phía Bắc vĩ tuyến 38 do Liên Xơ kiểm

sốt, phía Nam vĩ tuyến 38 do Mỹ kiểm soát. Năm 1948, ở khu vực do qn

đội Mỹ chiếm đóng, Cộng hồ Triều Tiên được thành lập. Cùng năm đó, ởmiền Bắc cũng tuyên bố thành lập Cộng hoà Dân chủ nhân dân Triều Tiên).

Một trong những mục tiêu không thay đổi của các nước là tiêu diệt chủ

nghĩa quân phiệt và chủ nghĩa phát xít Đức, làm cho Đức khơng bao giờ có

thể xâm hại nền hồ bình thế giới một lần nữa; quyết giải trừ và xố bỏ tồnbộ lực lượng quân sự Đức, đập tan vĩnh viễn Bộ chỉ huy quân sự Đức, thủphạm phục hồi chủ nghĩa quân phiệt Đức, tiêu diệt toàn bộ cơ sở quân sự Đức,

phá huỷ hoặc kiểm sốt tất cả các cơ sở cơng nghiệp Đức phục vụ chiến tranh;

<small>tất cả các tội phạm chiến tranh sẽ bị trừng trị một cách công minh, nhanh</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38">

chóng đưa ra yêu cầu bồi thường vật chất các thiệt hại chiến tranh do Đức gây

ra; xố bỏ các đảng phát xít, luật phát xít, tổ chức phát xít; Tất cả ảnh hưởng

của chủ nghĩa phát xít và chủ nghĩa quân phiệt sẽ được loại bỏ khỏi các cơ sở

công cộng và đời sống văn hoá, kinh tế Đức; cùng nhau thực hiện biện pháp

cần thiết cho hồ bình và ổn định thế giới tương lai. Họ tun bố khơng có ý

định tiêu diệt dân tộc Đức song chỉ khi chủ nghĩa phát xít và chủ nghĩa quân

phiệt bị thủ tiêu tận gốc thì người Đức mới có hy vọng có được cuộc sống ổn

định và một vị trí xứng đáng trong cộng đồng các dân tộc.

Về sự bồi thường thiệt hại chiến tranh do Đức gây ra, các nước đã xác

định mức độ thiệt hại do Đức gây ra với các nước Đồng minh va thống nhất

cho rằng Đức có nhiệm vụ bồi thường vật chất trong phạm vi có thể. Những

<small>nước được nhận bồi thường đầu tiên là các nước phải gánh chịu hậu quả nặng</small>

nề của cuộc chiến tranh đồng thời có cơng lớn trong việc đánh bại phát xít

Đức. Việc bồi thường có thể được tiến hành bằng ba hình thức: thanh toán một

<small>lần từ tài sản quốc gia của Đức, cung cấp hàng hoá hằng năm trong thời hạn</small>

<small>nhất định hoặc sử dụng nhân công Đức. Một Hội đồng chuyên giải quyết việcbồi thường thiệt hại chiến tranh sẽ được thành lập. Hội đồng này sẽ bàn bạc về</small>

<small>phạm vi và biện pháp bồi thường thiệt hại do Đức gây ra đối với các nướcĐồng minh. Hội đồng bao gồm đại diện của các nước Liên Xô, Mỹ và Anh sẽ</small>

<small>được thành lập tại Moskva trong thời gian thích hợp.</small>

Về vấn đề Ba Lan: Các nước khẳng định một lần nữa ý nguyện chung

là đều mong muốn có một nước Ba Lan tự do độc lập và dân chủ được thành

<small>lập. Kết quả thảo luận đã đi đến thống nhất các điều kiện thành lập một Chínhphủ thống nhất dân tộc Ba Lan lâm thời được ba nước công nhận .</small>

<small>Ba nguyên thủ quốc gia cho rằng biên giới phía Đông Ba Lan (giáp với</small>

<small>Liên Xô) cần chạy theo đường Curzon (gọi theo tên của Ngoại trưởng Anh từ</small>

năm 1920) với một chút thay đổi ở một số khu vực, mở thêm khoảng 5-8 km

<small>có lợi cho Ba Lan. Cơng nhận việc Ba Lan sẽ thêm lãnh thổ ở phía Bắc và phía</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 39</span><div class="page_container" data-page="39">

Tây, thực chất là chuyển một phần lãnh thổ Đức vào chủ quyền của Ba Lan để

bù vào phần đất phía Đơng Ba Lan bị Liên Xơ địi lại.

Hội nghị Jalta được các chính khách phương Tây đánh giá là Hội nghị

thành công nhất của các cường quốc Đồng minh. Cố vấn của Tổng thống Mỹ

Harry L.Hopkins đã nói với nhà sử học Mỹ R.E.Sherwood: "Chúng tơi thực

lịng tin rằng một ngày mới đã bat dau, ngày mà chúng tôi đã chờ doi, đã nóiđến từ nhiều năm nay. Chúng tơi hồn tồn tin chắc rằng chúng tôi đã giành

được thang lợi lớn đầu tiên cho hồ bình-"chúng tơi” ở đây là tất cả loài ngườivăn minh trên thế giới. Người Nga đã tỏ rất biết điều và có tầm nhìn chiến

lược và cả ngài Tổng thống và chúng tôi đều tin chắc rằng chúng ta có thể

<small>chung sống hồ bình với họ trong tương lai" [66, tr.712]. Ca Thủ tướng Anh</small>

<small>W.Churchill cũng tỏ ra vô cùng phấn khởi khi nhớ lại sự kiện này: "Rời Krim</small>

ra về, tơi có cảm giác rằng Ngun sối Stalin va các nhà lãnh đạo Xơ viết

<small>mong muốn được chung sống với những nền dân chủ phương Tây trên cơ sở</small>

bình đẳng và hữu nghị. Tơi chưa từng thấy có Chính phủ nào dám chịu trách

nhiệm có thể mang lại nhiều bất lợi cho mình như Chính phủ Xô viết ở nước

<small>Nga...Cuộc gặp gỡ tại Krim đã củng cố mạnh mẽ niềm tin cho chúng tơi. Sự</small>

gắn bó và hiểu biết lẫn nhau giữa các cường quốc Đồng minh ngày càng sâusắc hơn... "[34, tr.70].

<small>Như vậy, ngay từ khi chiến tranh vẫn cịn tiếp diễn với qui mơ và cường</small>

độ lớn trên toàn bộ lãnh thổ châu Âu, các nước Đồng minh đã họp bàn để định

<small>đoạt số phận của nước Đức sau này. Điều đó chứng tỏ các nước trong khối</small>

<small>Đồng minh đã rất quyết tâm, thống nhất và tin tưởng chắc chắn vào thang lợicủa họ đối với nước Đức phát xít. Với “Trát tw Jalia“, Mỹ và Liên Xô, hai</small>

<small>cường quốc mạnh nhất trong khối Đồng minh đã đạt được một số mục tiêu</small>

<small>chiến lược của mình. Mỹ đã có thể chi phối được cục diện thế giới thông qua</small>

việc khống chế các nước Tây Âu và Nhật Bản. Liên Xơ thì đạt được ba mục

<small>tiêu lớn : Mội là, bảo đảm điều kiện tồn tại và phát triển của Liên Xô; Hai là,</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 40</span><div class="page_container" data-page="40">

thu hồi được đất đai của Đế quốc Nga bị mất trước đây trong Chiến tranh

Nga-Nhật 1904/1905 và trong cuộc Chiến tranh chống ngoại xâm và nội phản

1918-1920 va ba là, mở rộng phạm vi ảnh hưởng của Liên Xô ở Châu Âu và

Châu Á, thiết lập một vành đai an tồn bao quanh phía Tây, Đơng và NamLiên Xơ. Trong thời gian tiếp theo đó, do có nhiều bất đồng về quan điểm

chính trị, về tư tưởng, về quyền lợi, giữa các nước Đồng minh đã nảy sinh ra

các mâu thuẫn ngày càng gay gắt và Hiệp ước Potsdam vừa là sự thoả thuận,

vừa bộc lộ sự bất đồng giữa một bên là các nước Mỹ, Anh, Pháp và một bên là

<small>Liên Xô.</small>

<small>1.2.2. Hiệp ước Potsdam</small>

<small>Ngày 25.4.1945, lịch sử cuộc Chiến tranh Thế giới thứ II lật sang trang</small>

mới, quân đội Nga và quân đội Mỹ (đã đổ bộ lên Normandie từ 6.6. 1944) gap

<small>nhau tại Torgau, bên bờ sông Elbe, trên đất Đức. Lúc này, biết là sẽ thất thủ,Hitler chỉ định Thống soái (Grossadmiral) Doenitz thay thế mình làm Quốctrưởng và tự sát ngày 30.4.1945. Ngày 2.5.1945, Hồng quân Liên Xô chiếm</small>

Thủ đô Berlin, một kết cục thảm bại đối với quân Đức là điều không thể tránh

Ngày mùng 7.5.1945, đại diện quân đội Đức, đại tướng Jodl, Tổng tham

<small>mưu trưởng quân đội Đức đã ký vào "Văn bản đầu hàng không điều kiện" của</small>

<small>tất cả lực lượng hai, lục, không quân Đức tai Dai bản doanh của quân đội Mỹ</small>

ở Reims trước sự chứng kiến của Tổng chỉ huy quân đội Mỹ ở Đức

<small>Eisenhower. Văn bản nay có hiệu lực bat đầu vào lúc 0.01 giờ ngày 9.5.1945.Ngày 8.5.1945, theo yêu cầu của Stalin, lễ ký "Văn ban đầu hang không điềukiện" của nước Đức quốc xã lại được tiến hành tai Dai bản doanh của Hồng</small>

<small>quân Liên Xô ở Berlin-Karlshost và kết thúc vào hồi 0.16 giờ ngày 9.5.1945.</small>

Doenitz được đưa về ở tại Murwik gần Flensburg và ngày 23.5.1945 bị Đồng

minh hạ bệ và bắt giữ. Chính quyền phát xít quân phiệt của nước Đức quốc xã

hoàn toàn sụp đổ.

</div>

×