Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (62.86 MB, 172 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">
<small>Chuyên ngành : Văn học Việt Nam hiện dai</small>
Md số :§04 33
Người hướng ddan khoa học :
-_ Giáo sự Ha Minh Đức
<small>TƯ (CC: A HÀ NÓI</small>
<small>TRUNG Ti TRM</small>
<small>Hà nội I995</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">IL - Một cái tôi buồn và cô đơn ie
I-_ Thời gian nghệ thuật 90II- Không gian nghệ thuật 103
II- Hình anh 125
<small>Mục lục</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3"><small>ngày 2 tháng 2 năm 1916 (Theo 4m lịch là ngày Thin, thang Thin, nam Binh Thin).</small>
Phải chang sự trùng hợp của ngày, thang, năm Thin quý bau đó mà ông Ngo Xuân
<small>Thọ và bà Nguyễn Thị Hiệp đã sinh ra cho đời một tài năng van học lớn ?</small>
Nói về gia cảnh của mình Xn Diệu có hai câu thơ được lưu truyền rộng rãi
<small>"Cha dang ngoài mẹ ở dang trong</small>
Ong dé Nho lấy cơ lam nude man".
<small>Dang ngồi, quê nội Xuân Diệu là làng Trao Nha (nay là xã Dai loc, huyện</small>
Can lộc, tinh Ha Tĩnh). Trảo Nha có nghĩa là "anh vuốt", sau này đơi khi XuanDiệu lấy bút danh Trảo Nha cũng là một cách tưởng nhớ đến quê cha đất tổ củamình. Cụ thân sinh nhà thơ hai lần đỗ Tú tài Hân học (gọi là Tú tài kép) vào Namphần đất nước làm thầy dạy chữ Hán và Quốc ngữ. Dang trong. quê ngoại của XuânDiệu là vạn Gò bồi, xã Tùng Giản, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định, nơi cụ Tú Thọđã gap gỡ và kết duyên với co làm nước mắm Nguyễn Thị Hiệp. Chính vì vay, trongcon người Xn Diệu có sự kết hợp của đức hiếu học, thông minh, ham mê thơ
<small>phú” văn vẻ giỏi giang" của cha và tính tình hiền hậu ân cần của mẹ.</small>
Thuở thiếu thời, Xuân Diệu học chữ Nho, chữ Quốc ngữ và cả tiếng Pháp
phố, lúc bấy giờ con người được coi mở hơn. Cái đó cũng làm cho tôi gần. với Rô
là những khúc dao đầu tạo nên những giai điệu lãng mạn trong tâm hồn nha thơ.
biển biếc của cái nôi Hing mạn Quy nhơn, hai lượt ra Hà nội tiếp xúc với thiên nhiênxứ Bắc và vô Huế tiếp xúc với cảnh vật kinh đô đã mang lại cho nhà tho những cam
nhất ở trường Budi, gần HO Tây. Hồ Tay rất là Rơ-măng-tích. Có thể nói : Khi ra
<small>Hà nội, tơi có sự nẩy nở lần thứ hai lớn hơn cả khi tôi từ miễn quê xuống Quy nhơn.</small>
Tôi ở Quy nhơn bốn mia không rõ rệt lắm. Núi và biển ở Quy nhon rất đẹp, nhất là
<small>những hơm có gió nồm thì Quy nhon rất nên the. Nhung sự thay đối của thiên nhiên</small>
từ mùa đông sang dén mùa xuân thì khi ra dén xứ Bắc tôi mới thấy rổ... Trên dé Yên
<small>Phụ một budi chiều mùa dong, di vào những trại trồng hoa ở Ngọc Ld, xem những</small>
cây hoa đào ở Nhật tân doi với tơi và tuổi mười tám, mười chín như mot sự bừng nở,
<small>như mua xn moi VỀ.</small>
<small>.ị. ROI tơi vơ liHế học Tu tài phan thứ hai. Đối với tôi thật là mội sự may</small>
man. Tôi cam ơn cuộc doi, cam ơn những người xung quanh tôi; trong cái viết của
<small>tôi, tôi muốn đáp ơn cuộc sống. Hoc ở Iluế năm 1936 - 1937, tôi biết thêm mội xứ"</small>
da tạo cho tôi cái mê ly, cái la lưới dam dudi rất cần thiết. đã bồi dưỡng cho tâm
<small>hồn tôi với nhữnng Nam Bằng, Nam Ai, với sông Huong màu nước ấy và nhất là</small>
màu mất của người con gái Hub. Cho nên cái thiên nhiên và con người ở Huế cho
<small>tôi một khía cạnh mới. cộng thêm với thiên nhiên và con người ở Bắc" [86 - Tr 16].</small>
<small>Bài tho ”? rinh fang" đầu tiên của Xuân Diệu là bài "Với bàn tay ấy" đăng</small>
<small>trên báo Phong hóa năm 1935. Với bài tho này, Xn Diệu chính thức chọn cho</small>
<small>mình con đường nghệ thuật đã được khai sang bởi các bac tài danh : Thế Lữ,</small>
Luu Trọng Lu, Huy Thông... Tập thơ đầu tay mang ten "Tho thơ” của ông ra đờingày Thiên chúa Giáng sinh năm 1938 với lời tựa của Thế Lữ và trình bày mỹ thuậtcủa hoa sĩ Lương Xuân Nhị. Năm 1938 - 1940, Xuân Diệu sống cùng với Huy Can
(Thơ Huy Can). Lúc này Xuân Diệu lầm “giáo khổ trường tu" ở trường, Thăng Long.
Ngày nay thành tập "Phấn thông vàng" - Nhà xuất bản Đời nay.
Nhưng một nhà thơ dù lãng mạn đến đâu cũng không thể mơ mộng mã
<small>được,vì vậy, nam 1940, Xuân Diệu tạm thời từ biệt Hà nội: nơi ơng đã có một sy</small>
nghiệp, một tên tuổi củng với một nghề day học mà vẫn khong đủ sống để đi thngành tham tá Nha thương chính (nhà Đoan) và sau đó được bổ vào làm ở sở Doar
vùng cực nam Tổ quốc lại bồi đấp them cho tâm hồn ông những nguồn cảm xúcmới. Nếu trước kia nhà thơ thừa nhận đời sống thị thành đã làm phong phú và hiệt
<small>tâm hồn tơi. Tơi cịn nhớ cái nhi thom ngào ngạt cua lá sen. lần đầu tiên tơi đượt</small>
<small>giác và những cảnh buồn buồn, xa va. mờ mờ là tơi lấy ở nơng thơn thuở nhỏ" |86Tr 24|.chính cái thiên nhiên nông thôn và đặc biệt là thiên nhiên Nam Bo ấy đã há</small>
<small>lên những câu the:</small>
"Mùa hạ chảy ở dưới trời đốt nắng
Nắng hồng nung, may bạc chẩy ngân nga
<small>.. trồng gà uáyv buồn nụhe nh mắm taChết khơng gian, khơ hóo cả hồn cao</small>
<small>và hai mươi năm sau được quy tụ lại trên nền của một cảm xúc mới trong bài "Mũ</small>
“Tổ quốc tơi như mỘI con tàu
<small>Mũi thuyển ta đó mi Cà mau...”</small>
<small>Năm 1943, Xuân Điệu "a chức” tham tá nhà Doan ra Hà Nội sống cùng vo</small>
Huy Cạn. Đồng lương của kỹ sư canh nông trẻ Huy Cận đủ nuôi hai nhà thơ w
<small>Năm 1945, Xuân Diệu cho ra đời tập thơ thứ hai: "Gửi hương cho gió" v</small>
thời và khơng ai có thể phủ nhận ý nghĩa thời sự chính trị của nó. Từ đây, Xuan
Đồng dẫn đầu vào tháng 5 năm 1946.
mạnh mẽ. Suốt chín nam rịng, nhà thơ sống và hoạt động văn hoá văn nghệ hammê tại chiến khu Việt Bắc. Cuộc cách mang “long troi lở đất" ấy được coi là phép"tái sinh mầu nhiệm" đối với lớp van nghệ sĩ tiên chiến nói chung, và riêng vớiXuân Diệu ông đã thu hoạch được nhiều bài học quý báu : “Vào cuộc chống Pháp.quá trình lớn là q trình quần chúng hố và tơi thấy q trình quần chúng hố này
<small>đối với người trí thức là một sự kỳ diệu, một su tái sinh, nó làm cho anh ta vững chải</small>
<small>và làm cho anh ta có hàng nghìn tay. Tâm hồn anh ta được nhân rộng, lớn lên. và</small>
<small>đứng về nghệ thuật, thì tơi được di sàn hơn nữa vào tục ngữ, ca dao và ngôn ngữ</small>
quần chúng" [86 - Tr 20|. Thời ky này, ông viết: "Việt Nam trở dạ”, (sau này mới
<small>in thành tap tùy bút) "Dưới sao vàng”, (1949) "Sang" (1953), "Mẹ con" (1954),</small>
"Ngôi sao”... Hồ bình lập lại, Xn Diệu trở về Hà nội sống cùng Huy cận ở sốnhà 24 - phố Cot cờ (Nay là đường Điện Biên phủ) "Nhà ta 24 cột cờ. Ai quen thìtới ai lờ thì thơi". Một lần nữa Xuân Diệu lại mang cái say nồng của tâm hồn minh
nghệ sĩ. Thời đại, đất nước, nhân dan đã đưa đến cho ơng một nguồn xúc cam gắnbó máu thịt mà Ong coi như “cling xương cùng thịt", "cùng đổ mã hôi” “cùng sôi giọt
coi day là giai đoạn sang tac sung sức nhất của Xuân Diệu, ông say sưa với cuộc
</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">phê bình, dịch thuật. La một nhà thơ lớn được nhiều thế hệ bạn đọc yêu mến, ông
<small>đồng thời là một nhà văn hố có tim cỡ trên thế giới. Riêng trong lĩnh vực thơ ca,</small>
ong là "mdt nhà thơ lớn đặc sắc và độc dáo của nên thơ hiện dai Việt Nam"
<small>(Tố Hữu). Khi Xuan Điệu qua đời, các thế hệ nhà văn đều có chung cảm nghĩ: "Mor</small>
cây lớn nằm xuống, cả khoảng trời trống vắng" (Hà Xuân Trường).
Con đường đi của Xuân Diệu từ một nhà thơ lãng mạn chủ nghĩa thành một
thay thế được. Vì những lẽ đó chúng toi đã chọn dé tài cho luận án của mình là
<small>"Thơ Xuân Diệu trước cách mang tháng 8 - 1945"</small>
II. MỤC DICH VA NHIÊM VỤ NGHIÊN CUU:
<small>tập thơ: "Tho thơ” (1938), "Gửi hương cho gió” (1945). Với hai tap thơ này, Xuân</small>
Diệu đã đưa Thơ mới lên đến thời huy hoàng rực rỡ nhất và bản than nhà thơ được
<small>các phê bình danh tiếng trước và sau cách mang thống nhất nhận định: Xuân Dieu là</small>
Thế Lữ được coi là người có cơng sáng lập ra thơ mới thì Xn Diệu là người kế tụcxuất sắc đã tạo nguồn sinh lực dồi dào cho nó. Một người có ý nghĩa mở đầu, một
<small>của Xuân Diệu đã được định hình rõ rệt ngay từ hai tập thơ đầu tay này.</small>
Trải qua những bước thăng trầm, những ấm lạnh thất thường của đời sống
<small>văn học, ngày nay thơ mới nói chung và thơ Xuân Diệu nói riêng đã được trao trả</small>
lại những giá trị đích thực của nó. Nghiên cứu thơ Xuân Diệu là tiếp cận một đốitượng, một vận mệnh thơ ca tiêu biểu cho cả một thế hệ thi sĩ mà dù ít dù nhiều đã
cách mạng “nên suốt doi" hi hục làm mới thơ mình, làm mới lịng mình"{69 - Tr 90 - 93]. Chúng tơi khơng có tham vọng nghiên cứu thơ Xn Điệu ở cả hai
trên thi dan dân tộc suốt mấy nghìn năm và mở ra "nội thời dại mới trong the ca”,
<small>"Chưa bạo giờ người ta thấy xudt hiện cùng một lần môi hồn thơ rộng nở</small>
<small>nh Thể Lit, mo mang như LH Trọng Lạt hing tráng như Huy Thông, trong sang</small>
như Nguyễn Nhược Pháp, gué mia nh Nguyễn Binh, do ndo nhự Hay Cận, kỳ di
<small>như Ché Lan Viên... và thiết tha, rae ruc, ban khoản như Xuân Diệu” [8l - Tr 34|.</small>
Cùng với sự hình thành và phát triển của tiểu thuyết Lãng mạn, cụ thể là tiểu
<small>thuyết “Tự lực văn đoàn”, văn học Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945 thực sự bước</small>
sang một giai đoạn phát triển mới theo chiều hứơng hiện đại.
biểu của thơ mới là: Cũng như sự xuất hiện buổi đầu của thơ mới, sự xuất hiện của
<small>Xuân Diệu trên thi dan đã kéo theo những luéng dư luận thuận nghịch ồn ào: ngườikhen, khen hết lời, người che cũng che khong tiếc lời. Những người "di me" nhấtvới lối viết của Xuan Diệu đều thuộc về phái xưa (g6m Tan Đà, Huynh Thúc</small>
Kháng, Thái Phi, Nguyễn Văn Hanh, Tường Van, Phí Vân...). Người ta che thơ
Diệu) dược coi là một kiện tướng của phong trào này. Tho của ông ta được kể là khá
ra Tau" [7T - 1/1936]. “Đánh” vào Xuân Diệu có nghia là người ta chưa thể tiếp thu
<small>Cuộc xung đợt mới - cũ trong lãnh địa thơ ca thực chất là sự phản ánh những</small>
Lưu Trọng Lư - một trong những người đi tiên phong của công cuộc cải cách thơ cađã chi ra nguyên nhân khơng thể dung hồ về tình cam, tâm hồn của hai thế hệ dẫnđến sự thay đổi tất yếu của tho ca: "Nưng sự thường dau, buồn chắn, vui ming u
<small>phót của chúng ta khơng cịn giống những su thương dau, budn chắn, vui nHỲng, Về</small>
_ ghét của ông cha ta nữa. Đó là một sự tực" [58 12/1934|. Nếu có thể chia tiến trìnhthơ mới thành ba giai đoạn: giai đoạn đầu của Thế Lữ, Lưu trọng Lư... giai đoạngiữa được mệnh danh là thời cực thịnh của thơ mới gồm Xuân Diệu, Huy Cận... vàgiai đoạn cuối g6m Han Mạc Tử, Chế Lan Viên... thì Xuân Diệu đã có cơng rất lớn
<small>trong việc tạo dựng nên một thuở hoàng kim cho thơ ca lãng mạn. Trong cuộc đời</small>
cũng như trong nghệ thuật, Xuân Diệu không bao giờ chấp nhận sự già nua, cũ kỹ,
<small>bởi vậy khơng có gì lạ khi trong đội ngữ những người bài bác, chê bai thơ ông da số</small>
<small>đều thuộc về những bậc cao niên trong làng thơ cũ. Trái lại, piới sang tác, phê bình</small>
<small>mới và đặc biệt là lớp doc gia thanh thiểu niên đã đón tiếp Xuân Diệu hết sức nồng</small>
<small>nhiệt vai tôn Ong như một thần tượng. Trước khi tập “Phơ thơ” ra đời, vị chủ soái</small>
day uy lực của thơ mới đã dành cho Xuân Diệu những dong đặc biệt ưu ái trên báo
<small>ngày Ngày nay: Không chit dé dat, ông got Xuân Diệu là "mộ! nhà thi sĩ mới” "có</small>
dé lại được ca tụng nhà thi sĩ của tuổi xuân, của lịng u và của ánh sáng". Khơngphải chờ đợi lau, một nam sau lời tiên đoán cua Thế Lữ đã thành sự that. Năm 1938,khi "Thơ tho" ra đời, dich than Thế Lữ viết lời tựa cho tập thơ với niềm tự hào lớn :
<small>"Và từ dây, chúng ta có Xuân Diệu”. VỚI tu cách là một người có công phat hiện và</small>
<small>lên rõ một bức chân dung ngoại hình và hồn cốt thơ của Xuân Diệu : "Nhà Thị si</small>
miệng cười mở rộng như mội tấm lòng sẵn sàng ân ái... Xuân Diệu là mét người củađời, một người ở giữa loài người. Lau thơ của ông dược xây dung trên đãi của mộttam lòng trần gian” [69 - Tr 29). Nam 1941 “Phi nhân Việt Nam” ra đời thì Xn
Việt Nam" Hoài Thanh đã dat Xuân Diệu ở mot vị trí hết sức trang trọng. Nếu coiHoài Thanh là một người đồng hành cùng thơ mới và am hiểu tường tận từng nhà
của một nhà phê bình trước một nhà thơ trẻ đầy tài nang. Đúng như Hồi Thanh đãmơ ta Xn Diệu trong giờ phút ding quang: “Người dd dén giữa chứng ta với một y
</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10"><small>phục tối tân và chúng tâ đã ryt rè không muốn làm thân với con người có hình thức</small>
phương xa ấy". Dang sau cái dâng dap rất đơi thanh tân kia, Hồi Thanh chỉ ra rằng:
<small>"Tha Xuân Diệu là nguồn sống rào rat chưa từng thấy ở chốn nước non lặng lề này”</small>
<small>định : Xuan Diệu “la một thiếu niên có tâm hồn đẩy tho mộng, khao khát sự yêu</small>
<small>thương, lại cam thấy thời gian vin vit thoảng qua mà nudn vôi vàng tận hưởng cái</small>
cảnh vui dep của tuổi xanh hiện tại". Ong còn đặc biệt lưu ý nguồn cam xúc manh
<small>mẽ về tình yêu trong thơ Xuân Diệu và kết luận : "Tho thơ là mội tập chứa chan</small>
<small>tình cảm lãng mạn, trong đó có nhiều uy moi lạ tả ra tác giả thật có tâm hồn thi sĩ</small>
<small>nhưng cũng có nhiều câu vụng về non not chứng 16 tác giả chưa lão luyện về kỹ</small>
<small>thuật của nghề thơ"...</small>
Rõ ràng là, bước vào đời thơ, Xuân Diệu không dễ dàng dành lấy cho mình
cũ thơ mới dã qua. Nay chúng ta chỉ biết có thơ. Thơ mới chỉ là những hình thứccủa thơ để điền ra những tính tình và cảm giác của tâm hồn ta ở thời đại mới" |50 -
<small>Tr 20], thơ Xuân Diệu cũng đi từ chỗ làm người đọc bỡ ngỡ, la lùng đến yêu thích,</small>
<small>quyển sống, đã chiếm hầu hết báo chí, sách vo, đã len vào đến học đường, và "đã</small>
vào học đường, nhất là ở nước ta. nic là thanh thế dã to lắm" thì Xuân Diệu đã trở
2. Cách mạng tháng Tám bùng nổ, Xuân Diệu cùng đại đa số các thi nhân
cách mang tháng Tam đã mang lại, ngay từ buổi đầu, Xuan Dieu hãng hái nhập
<small>i nhan</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">Một bóng trăng di một làn gió tới
Khóc cịi tàu đem khuất mất người yêu
Khóc với nhạc sâu biệt người chín suối..."
Vẫn trên tinh thần tự "gér rứa" để "lội xác” hoàn toàn, nam 1958 trong
"Những nhược diểm rất sâu sắc chủ quan của tôi không đáp ứng được những doi hỏi
<small>khách quan của kháng chiến. Trong hai ba năm trời. trong tơi có một cái gì cứ chin</small>
dan cứ cuốn lại. Ngồi mặt thì khơng có gì xdy ra, nhưng Ở chỗ tinh vi, kín nhẹmnhất có mat sự rut trốn. Cai chất hưởng thụ, cầu an tích luỹ trong thể vác và tâm writôi hàng ngày mấy chục năm nay làm thành một sức ỳ khó lay chuyển... Gian khổ
xa vời vợi với tương lai. Cứ chạy sang bên này rồi chạy sang bên kia, thật là dauđớn" |8 - Tr 31 |. Cùng với sự phan tinh của Chế Lan Viên : "16i ở dâu, di dâu, tơiđã làm gì ? Đời thấp thống sau những trang sách Phat. Đất nước dau dưới bảy
quá khứ đa ra ma", chúng ta hình dung được thái do dứt khoát từ bỏ, đoạn tuyệt với
3. Khoảng thời gian trước và sau những năm sâu mươi, người ta vẫn giữ mộtgiữ mội
"sự thốt thai”. Cách suy nghĩ và đặc biệt là hai chữ ”rhoát thai" của Xuân Diệu da
khoảng trời sóng, gid trong cuộc đời nhà thơ. Nhiều người đã khong thừa nhận có suhơ hấp giữa thơ ca Cách mạng với trào lưu thơ ca Lãng mạn có nhiều biểu hiện tiêucực: "bền trong cái điêu luyện had nhống thì ca dy càng ngày càng luẩn qudt
<small>trong những cảm xúc và ww tưởng cá nhân chủ nghĩa chật hẹp , nghèo nàn, tun</small>
<small>mun... Chua bao giờ trong thơ ca nước ta lại có những tâm hồn thiểu sinh khí như</small>
<small>vay” [50 -Tr 26|</small>
thơ mới với nhiều day dứt. Dat vấn đề ảnh hưởng của thơ mới đối với tập “Tir ấy"”
<small>và chứng tỏ bản lĩnh thi sĩ của mình : “The mới là một trong các hiện tượng dan tộc.Nó đã góp vào "văn mạch ddn tộc”... Trong phần 161 của nó, thơ mới có mội lịng</small>
véu đời, yêu thiên nhiên. dat nước, yêu tiếng nói dan tộc. Thơ mới là một tiếng háidau khổ không chịu vui với các xd hội ngang trái, vài dập đương thời. Thực ra dung
<small>ở vị trí tự tưởng của ta hiện nay mà buộc nặng cho thở văn trong hệ thống khơng</small>
cách mạng là rất dé, nói sao cho thấu lý đạt tình thì khó hơn". Như một phan ứngdây chuyển, một cao trào "hạ bé” thơ mới lập tức được day lên. Xuân Dieu trởthành một nguyên cớ, một trọng điểm để phủ nhận và chính ơng là người đã “ia
<small>giá” nhiều nhất : "Thời dại của “Phơ thơ” ¢da “Phấn thông vàng” đã gua từ lâu</small>
<small>rồi và không bao giờ trở lại" (Hồng, Chương). Tuy đau nhiều nhưng Xuân Diệu</small>
noc "dit đi” như vậy là đổi với những trường hợp như: cái thời mà chủ nghĩa Twbản và đế quốc làm mưa làm gió trên thé giới da vĩnh viễn qua rồi và khơng bao gid!trở lại. Cịn trong văn học nghệ thuật là nơi tính phi dinh gắn chặt với tính kế thừa
<small>phong trào thơ mới 1932 - 1945 da qua nining những tác phẩm uu tú trong phongtrào đó tơi thấy rằng nó khơng qua. Ta tiếp nhận có phê bình. phê bình gắt gao nữa.nhưng có phải là chuyện đào sau chơn chặt thế nào được” |9 - Te 142|. Tình hình</small>
<small>con gái bị sa ngã đứng lên mà còn ru ngữ cơ ta trong khối cảm truy lạc và dui cô</small>
ngã xuống trôi tudn tội" {45 - 12/1959] Xuan Diệu lại phải cố giải thích rõ ngọn
thơ Trung ()uốc. Việt Nam. Những người thanh quý, sắc tài, biết suy nghĩ bị xã hộivùi dập, dang cam thương. Chủ dé “Lời kỹ nữ” là nỗi dau khổ. cô liêu. nồi lạnh lêosuối xương da của mội người chỉ đứng ở cương vị là một cá thể. "Lịng k§ nữ cũng
<small>12</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">thơ, hoặc người ta cố tình gần ghép ? Dù ở thái cực nào cách phê bình ấy sớm muộncũng mang “tai va" đến cho nhà thơ. Không thế sao được; khi bốn câu thơ của Xuân
<small>Diệu trong bài "Gio" (Riêng - Chung - 1957) :</small>
<small>"Hon ta cánh rộng mở</small>
Hai bên gió thổi vào
<small>Nghĩ những điều hon ho</small>
<small>Như trời cao, cao, cao”</small>
<small>lại bị bat bẻ: "Gió hai bên là gió gì ? Bm chạy theo thứ gió hai bên là thứ buồmgì? Bm chạy theo thứ gió hai bên không phải là thứ buồm của tu tưởng vô san.</small>
<small>Chỉ có thứ buồm của ne tưởng cơ hội mới chạy theo thứ giá hai bên mà thái"</small>
{9 - Tr 143]. Phải chăng đây mới thực là thời kỳ mà mot vài nhà phê bình tha hồ
<small>"làm mua làm gió trên văn đàn", nhưng may man là nó "dd qua từ lâu rồi" và"không bao giờ trở fai”. Nhân bàn về Xuân Diệu, thiết tưởng cũng nên mở rộng địa</small>
bàn thơ mới để hình dung đây đủ cái diện mạo của phê bình van học lúc bấy giờ và
<small>cắt nghĩa vì sao Xuân Diệu được coi là một nhà thơ mà sự thành bại, vinh nhục đềugắn bó với những chặng đường thăng tram của thơ mới. Ngày nay nhìn lại, chúng ta</small>
<small>thấy chưa bao giờ có trong phê bình văn học giọng điệu lạ lùng này: "Nói đến</small>
<small>chuyện tinh yêu trong thơ mới đối với thanh niên thành thị lúc ấy thì thực "gai dungchỗ ngứa” quá” 14 - 5/1969. "Thơ cũ hav thơ mới mà nội dung không tốt cũng “vứt</small>
di" [74 - 5/1969]. Chưa dừng lại ở những lời lẽ ấy, nhà phê bình thấy cần phải tiếp
<small>tục : “Tinh yêu và sự hưởng lạc lại cần tiền, các nhà thơ, các nhà văn lãng mạn lại</small>
nghèo cả cho nên buồn. Tình vêu bng thả tự do và sự hưởng lạc là hai lê sống của
<small>anh... Những người con trẻ thì mo ước sng. Những kể đã dày dặn thì cùng lắm chỉ</small>
<small>làm sa ngã dược mấy cơ con gái nhà lương thiện... Nhưng thơng thường anh khơng</small>
có diều kiện để yêu và hưởng lạc cho nên anh hay ước mơ. Nhưng anh không mo
<small>mãi được do dé anh buồn. Mặt khác sự hưởng lạc di dược thoả man cũng vẫn có</small>
sé dân dan thấy cuộc sống vơ nghĩa" [74 - 5/1969].
<small>13</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">mạch dân tộc, không thể via di. Tố Hữu cũng dã đồng ý với chúng tôi và nhắc lại
<small>việc mình yêu "'Tiếng sáo thiên thai” cua 7hé Lữ, "Em ăn hộ quả sim này” của</small>
Lưu Trọng Lu nói lên cái gì trong sáng, tươi mát trong tâm hồn... Tuy thẳng lợi,Diệu vẫn cịn cay sau cuộc "dao có mài mới sắc” ấy. Nhưng tơi nghĩ khơng phảiDiệu cay vì chuyện cdi vã "mắt xanh mắt thit" ấy mà cay vì những vấn đề cao hon,
đó là vị trí cua dong sơng lãng mạn trữ tình trong địa lý thi ca" [88 - Tr 7].
Lat lại mot chút ký ức phê bình để chúng ta hiểu thêm một khía cạnh nữatrong bản lĩnh thơ Xuan Diệu. Và thêm một lý do để giải thích vì sao Xuan Diệu
<small>được coi là một sế phan thi ca tiêu biểu cho ca thế hệ thơ mới,</small>
4. Khoảng thời gian trước và sau những năm bảy mươi người ta đã có cái có cáinhìn 4m 4p hơn đối với thơ mới. Khong còn thái độ "mat sát. vo đũa cả nắm" như
trước mà đã đi vào phân tích những đóng góp tiến bộ trong những thời kỳ khác nhau
<small>theo tinh thần mà đồng chí Trường Chinh đã u cầu. Vi vay, bầu khơng khí văn</small>
<small>nghệ khơng cịn quá ngột ngạt đối với các nhà thơ mới. Nhà thơ Tố Hữu cũng đãgóp một tiếng nói vừa như tâm tinh, vừa như thức tỉnh : "T2¡ cũng thích nhạc diệuvà hơi thơ của Thế Lit, Lưu Trọng Lư. Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Huy Cận... Trong</small>
tâm hồn các anh lúc đó. tơi tìm thấy những nổi băn khoăn, dau buôn của những
<small>người cùng thế hệ doi hỏi tự do, ước mơ hạnh phúc, tuy các anh chưa tìm thấy lối ra</small>
<small>và nhiều khi rơi vào chán nản" [47 - Tr 4291.</small>
Vào thời điểm này, mặc dù nhận thức được sự thái quá, cực đoan trong cách
bình nghiên cứu vẫn ít nhiều ngân ngại khi nhắc đến trào lưu thơ mới. Một thời giandai sau ngày miền Nam giải phóng, người ta vẫn rất dé chừng với thơ mới-và chưa
<small>[50 - Tr 35]</small>
<small>Riêng với Xn Diệu, đây là thời ky sắng tao sung sức nhất bộc lộ trên nhiềulĩnh vực: sáng tác thơ và nghiên cứu. Riêng trong địa hạt thơ, Ong đã đóng góp cho</small>
đường trước và sau cách mạng. Loại trừ một khối lượng không nhỏ những bài báorai rác hàng năm trên các báo, tạp chí chuyên ngành, cần phải kể đến mot số cơng
<small>14</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">trình nghiên cứu cơng phu, có hệ thống về Xn Diệu, và khơng bỏ qua những đóng
<small>gp của Ong trong phong trào thơ mới như : "Phong trào thơ mới" - Phan Cự Đệ</small>
<small>"Nha văn Việt Nam" (1945 - 1975) của Phan Cự be, Hà Minh Đức. "Nhà thơ Việt</small>
Nam hiện dai" (cơng trình tập thể của nhiều tác gia).
<small>"Phong trào thơ mới” của nhà nghiên cứu Phan Cự be tuy không đi vào</small>
từng tác giả cụ thể ma chủ yếu đề cập một cách đồng bộ đến cả trào lưu, nhưng khiđi vào giải quyết từng vấn đề cụ thể của thơ mới, nhà nghiên cứu cũng đã kết hợpvới việc miêu tả chân dung : "Điểm nổi bật trong thơ Xuân Diệu là một lòng ham
<small>sống say sưa bồng bội" |29 - Tr 99| hoặc "?rong các nhà thơ mới, có lẽ Xn Diệu</small>
là người cảm thấy cơ don một cách thấm thía nhất" [29 - Tr 134]. Ngồi ra, tác giả
<small>cũng đã đánh giá khá cao những đóng góp của Xn Diệu về cách tân nghệ thuật:</small>
ngơn neff, vân điệu, Am luật v.v..
Trong cuốn "Nhà văn Việt Nam” với một khoảng lùi cần thiết của thời giancho những nhận xét chừng mực, công bằng, nhà nghiên cứu Hà Minh Đức tiếp tục
<small>thơ mới, nhà tho của tình yêu và tuổi tre này trước cách mạng dã một thời say dam</small>
<small>và tu đóng khung mình lại trong thé giới yên dương và mộng tưởng" [35 - Tr 6101.</small>
"Cái tập thể nhỏ của đôi lứa tưởng như có thể chan hồ bằng trăm ngàn sợi daythương mến và niềm đồng cảm sâu sắc nhất. nhưng chính ngay nơi ấm cúng này lạithấm thía cơ don và con người vẫn tự chia sé ra nhiều ngăn cách” |35 - Tr 610].
Diệu xuyên qua hai thời ky và kết luận : “Neh? đến anh là nghĩ đến một bản chất thiSĩ giầu có như mội tiêm năng, mot động lực của sức sang tao"
<small>Trong "Nha tho Việt nam hiện đại", nhà nghiên cứu Mã Giang Lan cũng</small>
mang thang tam : "Thơ Xuân Diệu lúc này là niềm say sua khát khao cuộc sơng. làtâm hồn nồng nhiệt với tình yêu".
<small>15</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16"><small>của nó (1936 - 1940). "Thơ ông khi dé bộc lộ một cách nông nhiệt những ham muốn</small>
của cái tôi... Kêu gọi tuổi trẻ tận hưởng hạnh phúc trần thể... nhưng luôn luôn cẩm
<small>thấy mong manh khơng thoả man". Về "Gui hương cho gió" : “khơng còn những</small>
rao rực tha thiết của tập thơ dau, cát hối hoảng vội vàng da trở thành nỗi cô don
<small>rợn ngợp” [57 - Tr 605...</small>
Nhìn chung các ý kiến đánh giá về Xuân Diệu trong giai đoạn này thườngđược cân nhac kỹ càng về tỉ lệ giữa khen và che, giữa thành công và hạn chế. Tuy
của nó ở giai đoạn sau. Do những khn khổ giới hạn nhất định cửa thời đại, nhữngcơng trình trên chưa có điều kiện đi sâu nghiên cứu tồn bộ hệ thống thi pháp thơ
của thơ ơng. Tuy nhiên đó vẫn là những tiếng nói lý luận mang ý nghĩa xã hội sâusắc, góp phần vào việc tạo dựng nền tang lý luận phê bình vững chắc trong suốtmấy thập kỷ qua.
đây biến dong của đất nước nói chung và văn học nói riêng. Ngọn gió đổi mới thổiqua vùng trời lý luận phê bình xua di tất cả những gì có thể coi là u ấm, ngột ngạttrước đây. Trong bầu khơng khí dân chủ và cởi mở, người ta bỗng nhận ra nhữngcái hẹp hịi, máy móc, nhiều khi tho bạo đến nghict ngã trong ứng xử văn chương đã
4m ức của minh: “chả lê in được thơ của vua, cua quan, của sự sdi thời phong kiến
ta nghèo, đâu có gì nhiều mà bạ cái gì cũng via. LO có hịn da nào dùng được, lỡ cóvàng nữa thì sao. lỡ dé là máu thịt thì ta có tội” [R8 - Tr 12|. "Về văn học trướccách mạng, chia ra nào lang man, nào hiện thực phê phan, nào hiện thực xã hội chủ
lên nhau qua lại chứ ! sao lại không nghĩ là càng thời với nhau, chúng chịu ảnh lan
<small>i kỳ</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17"><small>của Luu Trọng Lit. Nguyễn Cơng Hoan người thầy hiện thực thì mê Tan Đà lại ở</small>
<small>những bài mơ mộng nhất, lãng mạn nhất” [88 - Tr I l|</small>
đã đến lúc người ta thấy cần thiết phải xem xét và đánh gía lại một cách thoả đángnhiều giá trị dang rơi vào quên lãng. Một trong những mang văn học thu hút sựquan tâm của đông đảo các nhà phê bình là trào lưu van học lãng mạn 1930 - 1945
<small>mà trọng tâm là thơ mới. Hàng loạt những cơng trình nghiên cứu về thơ mới đã ra</small>
đời bù dap lại sự thiếu hụt và phiến diện trước đó : "Tho mới, những bước thăng
Minh Đức, Huy Cạn - 1993), "Con mắt thơ" (Đỗ Lai Thuy - 1992)... Trong sựbùng nổ ấy, mot lần nữa Xuân Diệu lại được phong tặng những danh hiệu quangvinh mà chỉ những người trọn đời cống hiến, trọn đời đam mê như Ong mới xứng,đáng được hưởng. Hoàng Trung Thong trong lời giới thiệu tuyển tap thơ Xuân Diệu.đã nghiên cứu kỹ càng, công phu về mối quan hệ giữa nhà thơ với đất nước, nhân.
<small>dân, thời đại, về con đường đi của Xuân Diệu từ một nhà thơ Lãng mạn đến một nhà.</small>
thơ Hiện thực xã hội chủ nghĩa và đặc biệt là đã chỉ ra được những nét riêng biệt
Xuan Điệu qua đời, một loạt bài tưởng niệm của Hà Xuân Trường, Thép Mới, VũQuần Phương, Chế Lan Viên, Huy Can... vừa là những tấm lòng bè bạn tiếc thương,
<small>vừa là những vịng nguyệt quế cuối cùng khốc lên cuộc đời và sự nghiệp của nhà</small>
<small>cao, nhiều bài viết, cơng trình có giá trị đã tập trung khai thác chặng đường thơ</small>
<small>Xuan Diệu trước cách mạng thang Tam. Với một hàm lượng thơng tin khá lớn,</small>
trong cuốn "Nhìn lại một cuộc cách mạng trong thi ca", nhà nghiên cứu Hà Minh
kể dến Thế Lữ, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Han Mạc Tử... Nếu chọn mội
Diệu là nhà thơ tình bậc nhất trong thơ ca cua thời kỳ hiện dại" |67 - Tr 75]. Nhànghiên cứu phê bình Lê Đình Ky gọi : "Xuân Diệu là nhà thơ sốmội của cái tôi”, và
<small>[THU su |</small>
<small>Xuân Điệu", Lê Quang Hưng: "Cái tơi độc đáo, tích cực của Xuân Điệu trong</small>
<small>phong trào thơ mới". Đô Lai Thuy “Xuan Điệu - Nỗi âm ảnh thời gian", Le Tiến</small>
Dũng: "Xuân Điệu - một đời người, một đời thơ" vv... Dù ở nhiều góc độ tiếp cankhác nhau và bằng những lập luận khác nhau, những bài viết có giá trị trên đây đềuđi đến kết luạn: Xudn Diệu là một trong những đỉnh cao của phong trào thơ mới.
<small>Theo chúng tôi, những ý kiến cho Xuân Diệu là guong mặt thơ xuất sắc nhất, tiêu</small>
biểu cho trào lưu thơ ca lãng mạn ở thời điểm cực thịnh là hoàn tồn xác đáng. Hơn
<small>nữa, nó cần được coi như là một cách nhìn chính thống của giới phê bình nghiên</small>
<small>dan tộc, tạo nên một thời ky vàng son rực rỡ có một khơng hai từ trước đến nay.</small>
<small>6. Ngồi ra cịn phải kể đến một số cơng trình nghiên cứu về Xuân Diệu xuấtbản tại Sài Gòn trước ngày 30/4/1975. Loại trừ những cuốn sách mang tư tưởng</small>
chống Cộng lưu hành nhan nhan khấp miền Nam trước kia, ta thấy có những cơng
<small>trình 1phiên cứu cơng phụ, khách quan, có ý nghĩa khoa học va lịch sử nhất định.</small>
Trong số đó phải kể đến : "Bảng lược đồ văn học Việt Nam - Ba thế hệ của nềnvăn học mới" - Thanh Lãng; "Việt Nam văn học sử yếu - Giản ước Tân biên" -Phạm Thế Ngũ; "Thi nhân tiền chiến" - Nguyễn Tấn Long, Nguyễn Hữu Trọng...
<small>những thành tựu văn nghệ đều bị ngắt quãng từ giai đoạn 1945 trở về trước. Vì vậy,</small>
<small>trước cách mạng tháng Tám mà doi khi bỏ qua,hoặc cố tình phủ nhận những đónggóp của ơng ở giai đoạn sau.</small>
Cùng viết về Xuan Diệu và cùng có những nhận xét tương tự, thống nhấtnhưng mỗi một học gia có một cách tiếp cận đối tượng riêng. Thanh Lãng trên cơ sởnghiên cứu sự vận động của đồ thị văn chương đã chọn cho mình một lối viết thiên
<small>Lữ, Han Mạc Tứ sau này, Xuân Diệu là nơi tụ họp cua ba dòng ảnh hudng:"Lang</small>
<small>18</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">: Nguyễn Hữu Long, Nguyễn Tấn Trọng chủ yếu đi vào sự so sánh mang tínhchất đồng đại, bằng cách ấy, hai tác gia đã nghiên cứu về Xuân Diệu tương đối
<small>loàn diện từ những "a tong thi ca", những luồng du luận ngược chiều về</small>
Xuân Diệu khi Ong mới xuất hiện tren thi đàn đến triết lý sống của Xn Diệu quathì ca cùng những ngun nhân thành cơng của tho Xuân Diệu: "Tu iưởng lạc
<small>quan về cuộc sống đã chiếm hâu hết thi phẩm của Xuân Diệu. Đâu đâu cũng</small>
thấy một nguồn sống rào rat, lời yêu đương ft khi vắng bóng", "Xn Diệu thì hồntồn mới cả hình thức lân tư tưởng".
<small>của những điều mà Hoài Thanh đã đưa ra trong "Thi nhân Việt Nam". Nhưng nếu</small>
đặt nó bên cạnh những thái độ muốn phủ định hồn tồn của nhóm "sáng tao" gồmThanh Tam Tuyển, Mai Thao, Trần Thanh Hiệp, Tô Thuy Yên - Những người cố
<small>tinh vứt bỏ : “ném trả nghệ thuật tiền chiến về với quá khứ của nó” và thơ mới là</small>
"mot thứ thơ với nhạc điệu ngớ ngẩn, tư tưởng tâm thường" ta mới thấy hết ý nghĩa
đánh giá chung của giới hoc giả trí thức Sài gon cũ về hiện tượng thơ mới. Khongphải ngẫu nhiên mà quan điểm trên được ấp dụng và phổ biến rộng rãi trong hệthống học đường thời Mỹ nguy.
Nam ở Pháp ln đành cho nhà thơ một tình cảm đặc biệt đi đối với niềm tự hào,ngưỡng mộ trước một tài nang thơ ca dân tộc, Nam Chi, một Việt kiều ở Pháp đã cócái nhìn thấu lẽ đạt tình về “Trường hợp Xuân Diệu" : "Tập thơ thơ xuất bản mộtngày Nô en 1938 là thịnh thời của tho mới... “Gửi hương cho gid" xuất bản năm
<small>luc cho thơ mới” [69 - Tr 89|</small>
Xuan Diệu đã sang Pháp nhiều lần, vì vay khong chỉ riêng việt kiều mà
thơ ca Việt Nam trong thời gian trước cuộc cách mạng năm 1945 một sự đội phá,
<small>nhủ</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20"><small>Nữ thi sĩ nổi tiếng Bungari: Blaga Đimitrôva - mot người bạn tam đắc của</small>
<small>Xuan Diệu đã cảm nhận sâu sắc hồn thơ ong và viết : "ho anh phôi thai nẩy mam</small>
<small>từ sữa. mật cua dất", Hoặc tinh tế hơn: "Nhà thơ khát khao thiên cam về cuộc sống</small>
<small>va mdi giây trôi di cũng làm cho cuộc sống bị tổn thương". Marian Tcasép (Liên xô</small>
<small>cũ) ca ngợi Xuân Dieu như “một tai năng tươi sáng và phong phú". M.lIlinski gọi</small>
<small>Xuan Diệu là "nhà the quốc tế chủ nghĩa” vv.. Đồ là tất cả những gi tốt đẹp còn</small>
<small>đọng lại trong tâm tưởng bè bạn năm châu về đời thơ Xn Diệu.</small>
<small>Những cơng trình nghiên cứu hết sức đa dạng và phong phú trên đây đã</small>
<small>mang đến cho chúng tơi một cái nhìn tồn diện, lịch sử và khách quan về Xuân</small>
<small>Diệu. Đông thời cũng gợi thêm một số vấn đề cần thiết để chúng tôi mở rộng và đisâu hơn trong luận ấn của mình...</small>
IV. CƠ SỞ LÝ LUẬN VA PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN COU:
<small>Hệ thống lý luận triết học Mác - Lê nin bao gồm chủ nghĩa duy vật biệnchứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử là cơ sở phương pháp luận chung của luận án.</small>
<small>pháp khác nhau từ trước đến nay về Xuân Diệu. Đồng thời cố gắng tìm những biện</small>
pháp: hữu hiệu nhất để lý giải một hiện tượng nghệ thuật, mot nhà thơ được đánh giálà tiêu biểu nhất, nổi bật nhất của trào lưu thơ ca lãng mạn Việt Nam.
Khi tiếp cận với những nội dung cụ thể, chúng tôi tiến hành triển khai vấn đề
<small>theo nhiều phương pháp khác nhau : ở Chương I, chúng tôi van dụng chủ yếu làphương, pháp phê bình cam thụ truyền thong kết hợp với phương pháp so sánh(chúng tôi thường xuyên đặt Xuân Diệu trong mối tương quan với các tác giả cổ</small>
chúng tơi có vận dụng một số thao tác cơ bản của thi pháp học như thống ke, đốichiếu, hệ thống hóa, xếp chồng văn bản... Từ góc độ này, chúng tơi đã và có thể tìmra những quy luật chỉ phối đến thế giới da dang của hình tượng thơ. Hơn nữa, sựtiếp cạn với thi pháp giúp chúng ta vươn tới sự khái quát mang tính hệ thống về
khác nhau, chúng tôi hy vọng sẽ phat hiện them mot số đặc điểm thuộc về thi pháp
<small>20</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">V. CÁI MỚI CỦA LUẬN ÁN:
Như đã trình bày ở các phần trên, mục đích của chúng tơi là cố gắng đưa ra
<small>cách mạng tháng Tam. Vì vay, trong quá trình tiếp cận đối tượng, chúng tôi mở ra</small>
<small>nhiều hướng khác nhau và đặc biệt chú trọng đến những tìm tịi độc đáo về nghệ</small>
thuật biểu hiện. Bên cạnh sự khái quát những giá trị đặc sắc về mặt nội dung (bansắc của cái tơi trữ tình), luận án chúng tơi, bằng những khảo sát hết sức cụ thể đã
<small>chỉ ra được những đặc điểm nổi bat trong thí pháp thơ Xuan Diệu (cụ thể như 6</small>
<small>chương Il: Thời gian và khong gian nghệ thuật trong 2 tap “Tho tho” và "Gửi</small>
<small>hương cho gió", Chương III: Ngơn từ, hình ảnh, nhạc điệu...)</small>
<small>Lý luận : Luận án đã đóng góp một kinh nghiệm nhỏ vào phương phápnghiên cứu mo hình tác gia (loại hình tác giả van học Viet Nam hiện đại).</small>
pháp tác giả với thi pháp trào lưu. (Xuân Diệu với "Phong trào thơ mới”)
<small>viên ngành van học.</small>
<small>lịch sử văn học Việt Nam 1930 - 1945.</small>
A Phần mo đầu:
I- _ Tính cấp thiết của đề tài
II- Tinh hình nghiên cứu vấn dé
<small>IH- Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu</small>
<small>V-_ Cái mới của luận ân:</small>
<small>2I</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">B- Phần nội dung:
Chương I. Cái tôi trữ tinh của Xuân Diệu qua hai tập Thơ thơ và Gửi hương
<small>cho gio.</small>
<small>I]- Mot cái toi khao khát sự sống, tình u</small>
<small>II - Một cái tơi buồn và cơ đơn</small>
Chương II : Thời gian nghệ thuật và không gian nghệ thuật của “Tho tho" và "Gửi
<small>hương cho gid".</small>
<small>I- Thoi gian nghệ thuật</small>
<small>II - Không gian nghệ thuật</small>
Chương III : Phương thức biểu hiện
</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">Chương I:
vẫn thường nói). Trước đó, ý thức hệ phong kiến chỉ phối quan niệm văn chương đã
<small>đời khác, triều dai này sang triều đại khác "cứng chỉ có bấy nhiêu tập tục, bấy nhiêu</small>
dai của thực dan Pháp là một tai ương nặng nề cho dân tộc ta, nhưng đồng thời nó
đó dường như vẫn cịn đóng chặt. Cùng với sự sụp đổ của chế độ phong kiến Nam
<small>23</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24"><small>phong kiến cũ và chiếm lĩnh đời sống đất nước (chủ yếu là thành thị) thong qua</small>
tảng lớp thanh thiếu niên và tiểu tư san trí thức. Đó là những con người hấp thụ khá
<small>nhanh nếp sống Au hóa "ở nhà Tây, đội mũ Tây, đi giày Tây. mặc áo Tây... dung đèn</small>
"định Tây”... Từ những sinh hoạt vật chất, văn minh phương Tây lan dần sang diahat văn hóa tinh thần. Sự khác biệt về “tdi hồn và cách biểu dat tâm hồn" của haithế hệ Nho học và Tay học đã bùng nổ trong thơ bằng cuộc xung đột giữa phái "thomới" và phái “tho cñ” : Đã đến lúc lớp trẻ "không thể vui cái vui ngày trước, buồn
<small>cdi buồn ngày trước, yêu ghét giận hon nhất nhất như ngày trước” [R1 - Tr 19].</small>
<small>cao cái "tdi", cái "bản nga", cá nhân, Nếu trong văn xuôi, đời sống cá nhân được</small>
người phụ nữ ra khỏi những ràng buộc khất khe của lễ giáo phong kiến thì ở trongthơ đời sống cá nhân được bộc lộ bằng sự khao khát địi giải phóng tinh cảm, pháthuy bản ngã và tự do cá nhân. Sau bao nhiêu năm bị kim hãm, bị tước sạch ý thức
điện trên thi đàn. "Ngdy thứ nhất, ai biét dich ngày nào, chữ “tôi” xuất hiện trên thidan Việt Nam. Nó thực sự bd ngỡ như lạc lơng nơi đất khách bởi nó mang theo mot
<small>quan niệm chưa từng thấy ở xứ này : Quan niệm cá nhân” (81 - Tr 53]. Vượt qua thế</small>
hệ tiên lãng mạn với những nha thơ tên tuổi như Dong Hồ, Tương Phố, Trần TuấnKhải, Tan Đà... các nhà thơ lãng mạn đã bước đầu làm mới thơ ca bằng bản sắc cánhân với dang dap do thị theo kiểu Tay phương của mình. Điều này cắt nghĩa vì saomột bac phong lưu tài tử như Tan Đà cũng trở nên lỗi thời và bất lực. Danh rằngTan Đà cũng cá nhân, cũng dễ thích ínp với đời sống thị thành nhưng cái cá nhâncủa Tan Đà là cái cá nhân, cái “ngdng” của một nhà Nho tai tử nên nó chỉ thích ứng
nguyên lý "văn chương tải đạo” đã sin sinh cho dân tộc nhiều thế hệ nhà thơ kiêmhọc giả dao đức, luân lý thì thế hệ 1930 - 1945 đã dứt bỏ tất cả để sống mot cuộcsống nghệ sĩ đích thực. Khơng bận tâm với vai trị của các bậc "hiển nhân quan tử”,
<small>khẳng định cái "tôi" như một bản lĩnh tích cực trong cuộc sống như một chứ thể</small>
<small>sáng tao độc ddo trong nghệ thuật" |37 - Tr 89|.</small>
Không phải ngẫu nhiên mà Xuân Diệu được coi là người phát ngôn đầy đủnhất cho tư tưởng cá nhân của phong trào thơ mới. Mặc dầu chưa phải là người di
<small>tiên phong nhưng trong "khát vọng được thành thật của thơ mới", Xuân Diệu được</small>
<small>mệnh danh là nhà thơ "số một cửa cái tơi” (Lê Đình Ky), Khong triển miên trong</small>
sầu mộng như Lưu Trọng Lư, không ấp ủ nhiều giấc mộng chính phu như Thế Lữ
<small>hay những hồi vọng xa xăm như Huy Thông..., với Xuân Diệu, cái ”z27” cá nhân</small>
được ý thức sâu sắc và mới mẻ hơn. Lần đầu tiên trên thi đàn, cái tôi tiểu tư san
<small>mạnh dan bày tổ những tâm tư thầm kín, những xúc cẩm yêu đương tuôn trào,</small>
những khát vọng được hưởng thụ không dit, không nguôi, hoa thom trái ngọt củacuộc đời trần thế. Vi thế Xuân Dieu không chỉ hoàn toàn mới lạ so với các thế he
<small>trước mà còn mới so với các nhà thơ cùng thời. Chỉ có Xuân Dieu mới có đủ độ</small>
nồng nàn say dam nhất của chủ nghĩa lãng mạn phương Tây, với một cách cảm nghĩnói năng rất phương Tay và một triết lý hưởng thụ cũng rất phương Tay :
<small>” Hai một mùa hoa lá thud măng ta</small>
Pot muôn nến sánh mặt trời chói lói
<small>Tha mot phut huy hồng rồi chợt tốiCon hơn buồn le lối sudt trăm năm”</small>
Người ta nồng nhiệt chào đón Xn Diệu bởi họ thấy chỉ có ơng mới bộc lộ
<small>tương đối đây đủ và "167 dé" những cái mới của thơ mới. Chính vì vay mà sự hiện</small>
biểu của một. thời thơ mới trong đó có Thế Lữ.
<small>Sự thành cơng của Xn Diệu đã nói lên một cách đầy đủ sức mạnh chỉnh</small>
phục của cái mới. Đó là nguyên nhân tạo nên sự toàn thắng của thơ lãng mạn giai
<small>25</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26"><small>núi sông. Người xa, xa lắm, nhớ ta không 2?“ (/zân Tế Xương). Tat cả cùng đều là</small>
cá thể hóa trong cam thụ và sing tạo thẩm mỹ nên có thể gắn tâm tình ấy cho mot ai
<small>khác nghe vẫn xi xi. Thơ mới hồn tồn khác : thơ mới là thơ của cái tôi, viết</small>
về cái tôi. Đặc biệt, với Xuân Điệu, sự tồn tại của cái tơi được day lên với ý nghĩatuyệt đối của nó cùng với sự nấy nở ý thức phat huy bản ngã, phát huy tự do và tình
<small>cam cá nhân, Xuân Diệu không ngần ngại pho bay cái toi của minh. Thơ ông trần</small>
<small>ngập chữ “27”. Trong 47 bài của tập “Tho thơ”, có 25 bài nhắc đến chữ "167", Ui lệ</small>
<small>đó ở "Gửi hương cho gió" là 20/57. Tat nhiên là khơng thể căn cứ và số lượng,nhiều hay ít của chữ "767" để kết luận Xuân Diệu là nhà thơ tiêu biểu nhất của cái tôitrong phong trào thơ mới. Điều quan trong là cái tôi ấy được khai thắc và biểu hiệnở nhiều góc đọ, cấp độ khác nhau. Nó có thể là sự phơ diễn bức chân dung tự họa</small>
của nhà thơ, nhiều khi nhỏ nhoi, yếu đuối :
<small>“Môi chỉ là một cây kim nhỏ bé</small>
<small>Mà vạn vật là môn dé nam châm”</small>
<small>(Cảm xúc)</small>
<small>“Kôi la con chim dén từ núi lạ”</small>
<small>(Lời thơ vào tạp GHCG)“Lôi là con nai bị chiến danh lưới</small>
<small>(Khi chiều piãng lưới)</small>
“Tơi là một con chim khơng 16"
<small>(Doi tra)“Tôi là kể qua sa mạc”</small>
<small>(Vi sao)</small>
“Tôi tà một ke làm thơ than
<small>Di hỏi tinh yêu giữa khoảng trời"</small>
<small>(Đi dạo)</small>
<small>“Jơi là một kể điền cuồng</small>
<small>u những ái tình ngây dạt"</small>
<small>(Thở than)</small>
<small>26</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27"><small>vai trò chủ ngữ của câu thơ, người ta có thể lập ra mot hệ thống động từ chỉ những</small>
hành động và tư thế xúc cam rất Xuan Diệu : Đó là ý thức chiếm lĩnh hương sắccuộc đời : "Tdi muốn tắt nắng đi, Cho màu đừng nhạt mất. Tơi muốn buộc gió lại,
<small>Tu ĐỂ:</small>
<small>Cho hương đừng bay đi”... “Tôi sung sướng nhưng vội vàng một nua". "Tdi khơng</small>
chờ nắng hạ mới hồi xn". “Lịng tơi rộng nhưng lượng trời cứ chật. Nên bảng
<small>khng tôi tiếc cả đất trời" (Vội vàng). Hoặc man mắc bình than hơn : “ơm nay</small>
chủ duoc nữa : “Tất cả tôi run rấy tựa dây dàn”, ".Téi chi sống để hoài hoài tưởngnhớ. Mãi mái yêu những đấu giém luôn luôn", "Tdi sẽ trốn thân thờ ngơ ngác.Trái tìm buồn như một bai tha ma", “Tơi một mình đối diện với tình khơng. Dé lắng
<small>nghe tiếng khóc mất trong long” (Đối tra) ; "Tơi run như lá, tái như đông. Trán chảy</small>
mồ hôi, mắt lệ phông. Năm ddy, tháng dồi, tôi da đến, Trước bờ lạnh léo của hư
<small>không” (Hư vo)</small>
<small>"Tôi nhớ ; Tôi buôn ; Tôi đã yêu ; Tôi đã nguôi quên ; Tôi cứ đi ; Tôi biết ;</small>
Tôi sung sướng ; Tôi sẽ chế?" vv... Nhiều khi là sự bộc bạch ruột gan :“Lịng tơi đó mot vườn hoa cháy nắng
<small>Xin lịng người md cửa ngó lịng toi"</small>
<small>(Tặng Thơ)“Và hay yêu tôi một giờ cũng đủ</small>
<small>Một giây cũng cam một phút cũng đành”</small>
<small>(Lời thơ vào tạp GHCG)</small>
Dù trực tiếp viết về tỉnh cảm của chủ thể, thơ trữ tình khơng nhất thiết bất
hóa thành những nhân vật trữ tình trong thơ tình yêu hoặc ẩn mình vào lá hoa cây
“Có một bận em ngơi xa anh q
Anh bảo em ngồi xích lại gần hơn”
Anh tham lam anh doi hỏi quá nhiều”
<small>(Xa cách)</small>
Vào cham chậm ở trong hồn hiu quanh
Anh nhớ tiếng anh nhớ hình, anh nhớ ảnhAnh nhớ em, anh nhớ lắm em ơi”
<small>(Tương tư chiều)</small>
Hoặc đôi khi xưng "a", một kiểu xưng ho khá phổ biến trong thơ mới lúc bấy giờ :
trông ngày tháng dan qua" (Thế Lữ) ; “La cùng nàng nhìn nhau khơng tiếng nói";
<small>"Thời gian chảy đá mon, sơng núi lở. Lịng ta ln cịn mãi vết thương dau" ; "Ai</small>
<small>“La chúng ta ddu thai nhằm thé ký" ; "Với lại trấn ai mét chút "ta” (Vũ Hoàng</small>
Chương) Chữ "ra" trong thơ Xuân Diệu không quá xa cách như Thế Lữ, quá trangtrọng như Chế Lan Viên, không kiêu bạc như Vũ Hồng Chương. "Ta" ở day khơng
<small>"Ta muốn ôm</small>
Cả sự sống bắt đầu mon mdn
<small>Ta muốn riết mây dua và gió lượn</small>
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu”
<small>và mot lần xưng là "chung ta" trong nỗi sầu đau thế hệ :</small>
<small>“Buôn thế hệ ta cũng dang u uất</small>
<small>Chúng ta dau thôi em tới dây mà”</small>
<small>Đầu là "ti", "anh", "ta" hay "chúng ta", dầu đối tượng gửi gam tam trạng là</small>
<small>28</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">cực, cái tơi thấm đẫm màu sắc cá thé trong thơ Xuân Diệu không chỉ căn cứ vào tầnsố xuất hiện của nó trên văn bản, hoặc vào sự đề cao quá đáng của bản ngã cá nhânthành đỉnh Hy mã Lap sơn ngất ngưởng... mà cơ sở chính là sự thanh thật của xúccẩm. Với Xuân Diệu, dù vui hay buồn, sung sướng hay đau khổ, hy vọng hay thất
<small>vọng... nghia là tất cả những rung động tinh vi của đời sống tâm hồn đều được Xuân</small>
Diệu thành thật bày tỏ trong thơ, dù chưa biết người đời có chấp nhận hay khơng ?
chung, đến trào lưu thơ mới được chú trọng khai thắc và mở thêm nhiều ngóc ngách
phan ứng của thơ mới trước nguyên lý cổ điển : "Tho nên dam chứ khơng nênnơng", hoặc có thể là xu hướng mới để làm phong, phú them khả năng tự biểu hiện
<small>và sức mạnh hướng nội của thơ. Dù ở dạng nào, chúng ta cũng tìm thấy ở hơn thơ</small>
<small>1. Những quan niệm mới me. tích cực về cái tơi, cái bản ngã trên đây của</small>
ý nghĩa của đời sống trần thế hiện tại. Đó là một điểm khác biệt rõ rệt giữa Xuân
<small>Diệu với các nhà thơ lãng mạn cùng thời.</small>
Chủ nghĩa lãng mạn nói chung và thơ lãng mạn nói riêng ln đi tìm sự đối
lưng lại với thực tại và ấp ủ giấc mộng vượt len khỏi thực tại không phải là doc
vay làm bạn với kim 6", của Nguyễn Công Trứ : "Kiếp sau xin chớ làm người. Làm
Xương : "Ngứ quách sự đời thây ke thức", và đặc biệt là qua sự lãng du triển miên
<small>29</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30"><small>tưởng, luôn đứng cao hơn thực tại, luôn tỏ rõ thái độ muốn dứt bổ mọi ràng buộc</small>
của thực tại bằng việc theo đuổi những ý tưởng mơ hồ (Tiêu sơn tráng sĩ, Thế rồimột buổi chiều, Đôi bạn) vv....
<small>Trong thơ mới, hầu hết các nhà thơ đều tìm cho mình một con đường để chạy</small>
trốn khỏi thực tại. Con đường đó khơng thể dẫn tới tương lai bởi tương lai quá mờ
<small>mit. Vi vậy, nó thường đi ngược về quá khứ hoặc dẫn vào một thế giới mộng mo khi</small>
nhà thơ khơng thể hịa nhập vào cái thực tại bơ vơ, trắc trở. Thế Lữ nếu không nuôigiấc mộng lên tiên với Bong lai, Tiên nga, Hạc trắng thi cũng da diết nhớ về "Thudtung hoành hống hách những ngày xưa". Chế Lan Viên với tâm trạng thường trực :
"Trời hỡi trời hôm nay ta chán hết. Những sắc màu hình ảnh cua trần gian", hoặcthay vì hành dong tìm lối thốt, nhà thơ chỉ có nguyện cầu : "Hay cho tơi một tinhcâu giá lạnh. Một vì sao tro trọi cuối trời xa", “Để nơi ấy thang ngày tôi lẩn tránh.Những ưu phién, dau khổ với buồn la” (Những soi tơ lòng). Huy Can nhập vào vũ
<small>tru, trang sao và cũng nói nhiều về những cái ngày xưa; về mot buổi "chiều xưa" :</small>
<small>"Ngàn nam suc tinh lê thê. Trên thành son nhạt. Chiểu tê cui đầu", về những vẻ"đẹp xưa" : "Vi vu gió hut nẻo vàng. Một trời thu rộng mấy hàng mây nao".</small>
<small>Lưu Trọng Lư chu du trong cõi mộng, ký thác tâm hồn mình vào những thú giang</small>
hồ và cả thú... đau thương (//dy lim mình trong thú dau thương). Chủ nghĩa lãng
<small>mạn thích đi vào những nghịch lý, ngoại lệ. Don giản chỉ là để đối lap với cái bìnhthường, tẻ nhạt. Xuất phát từ ý nghĩ ấy, nhà thơ họ Lưu đã không thể tiếp tục nếp</small>
<small>sống thông thường : "Ngoan ngodn nhu con cừu non dai. Cổ trong vườn cắn mãi</small>
<small>còn non". Nguyễn Nhược Pháp làm sống lại cả một thời xưa qua hình bóng cơ gái</small>
hội chùa Hương. Vũ Đình Liên gửi gắm tâm sự hồi cổ qua hình ảnh một ơngĐồ vv.. Có thể nói, tìm về với q khứ là lối thoát trong sạch nhất theo quan niệmcủa các nhà thơ mới lúc bấy giờ. Thay vì phải can đảm đứng lên làm một cuộc cáchmang lật đổ, các nha thơ mới chỉ biết thở than, tiếc nuối và tỏ rõ thái độ bất hịa,
Xuan Diệu cũng đã từng "mo theo trăng và vợ vấn cùng mây". Thêm vào đó,
<small>30</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31"><small>"Ai còn nhớ những thời hương phẳng phất</small>
Hac theo trăng, tiên còn lần với người
<small>Những thời xưa chim phượng xuống trần chơi</small>
<small>Hoa cúc Hở có người chờ doi trước</small>
Người thuở ấy du dương từng kiểu bước
<small>Thân hình thơm khóa buộc giải hương la</small>
<small>Son phan dịu dàng - tay áo thưới tha</small>
<small>Chang trai tré cũng xinh dường thiểu nữ"</small>
<small>bộ sang tác của Xn Diệu. Và quan trọng nhất là nó khơng tiêu biểu cho cẩm quan</small>
<small>về vũ tru, triết ly nhân sinh và lý tưởng thẩm mỹ của nhà thơ. Xuân Diệu dù có “ma</small>
<small>xưa" thì trước hết ơng vẫn là "người của dời. một người ở giữa loài người" (Thế Lữ).</small>
quyến luyến say mê vơ bờ bến :
<small>"Ta ơm bó cảnh tay ta làm rắn</small>
<small>Làm dây da quấn riết cả mình xnKhơng muốn di ở mãi mãi vườn trần</small>
Chân hóa rê để hit màu dưới đất”
<small>"Thốt ra ngồi cảnh cuộc đời. Q † mộng tưởng cao quý. Nhung cứ 6 trong</small>
<small>cuộc đời, sự cao quý lại càng cao quý hơn... Và nếu tôi phải làm tiên, tôi chỉ lam</small>
tiên trong một ngày thôi và tôi chỉ can đủ thời gid để rủ tiên bà, tiên cô cùng tiên
<small>ông xuống trần phạm toi" [102 - Tr 102.</small>
Tuy có lúc Xuan Diệu cũng cay dang thốt lên : "Ta bd doi mà đời cũng bởỏta", “Nội dời cơ cực dang gio vuốt”, “Xin diing cười, dời có nghĩa chỉ dâu". Nhưng
<small>khong “bo đời” mà cịn níu kéo cuộc đời với mot sức mạnh siêu nhân kỳ lạ: "Ke</small>
dung trái tim triu máu đất. Hai tay chín móng bám vào đời". Không phải ngẫu nhiên
che trách trường thơ Loạn (nhóm tho Bình Định gồm Chế Lan Vien, Hàn Mac Tủ,
<small>3i</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32"><small>trong đời và tao nên những cung điện thực vô cùng đẹp để bằng những vật liệu</small>
<small>thực của trần gian" {102 - Tr 104).</small>
Duong như trái tìn chứa đầy thanh sắc trần gian ấy khơng chịu nổi nhữnghình ảnh rùng rợn ma qi trong "Điêu tan” của Chế Lan Viên, cái dị thường hoang
<small>tưởng đây ảo giác của hồn thơ siêu thoát đến điện loạn của Hàn Mac Tử, với những</small>
<small>"bào ảnh, huyền điệu, phiêu diều, chiêm bao", cãi chất tượng trưng siêu thực hỗn</small>
<small>độn xô bồ với đây du, kiến trúc, hội hoạ, điêu khác, 4m nhac, vũ đạo,... trong</small>
những câu thơ kỳ bí của Bích Khe (đến mức Hồi Thanh phải lac đầu mà rằng:
<small>"Thơ Bích Khé doc đơi ba lần thì cũng như chưa đọc").</small>
chang nữa thì trước hết, thơ vẫn là sự sống. Cat đứt mọi mối liên hệ giữa thơ vớicuộc đời thi tất cả mọi khuynh hướng tim tòi, sắng tạo của nhà thơ sẽ trở nên vơ
<small>nghĩa, chính xác hơn là không thể tồn tại. Về điểm này Xuân Diệu đã hồn tồn</small>
<small>đúng khi lựa chọn cho mình một chỗ đứng giữa trần gian để gin giữ mối quan hệ</small>
<small>bền chặt giữa nhà thơ với cuộc đời và khám phá ra ý nghĩa đích thực của đời sống</small>
<small>con người. Vì vậy, ngay piữa mạch thơ lãng mạn trữ tỉnh ít nhiều bị coi là thiếu sinh</small>
khí, chúng ta không khỏi ngạc nhiên khi bất gặp một hồn thơ dạt dào chất sống. Đó
cịn khơng chịu dim lên những lối mòn quen thuộc của trường phái lãng man dang
<small>thịnh hành. Nói như Hồi Thanh : “Xuan Diéu da đốt cảnh bồng lai xua ai nấy về hạgiới" (Thí nhân Việt Nam). Hoặc : Xuân Diệu là nhà thơ lãng mạn duy nhất tìm ra</small>
<small>lối thốt cho mình ngay giữa cõi trần ai.</small>
<small>2. Quan niệm về cái tôi và ý thức về sự tồn tại cá nhân. Khong chỉ quyết định</small>
chỗ đứng và điểm nhìn của nhà thơ trước cuộc đời mà còn chỉ phối đến hệ thốngquan niệm nghệ thuật của Xuân Diệu.
Trong số các nhà thơ mới, Xuân Diệu là người có một hệ thống quan niệm
ơng đã tự mâu thuẫn giữa những, lời tun ngơn với q trình sáng tác. Ngoài "Lờiđưa duyên" cho tập "Tho tho", Xuân Diệu có hai bài thơ trực tiếp boc lọ quan điểm
<small>32</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33"><small>Diệu là những lời tuyên ngôn của trào lưu thơ mới. Nếu Thế Lữ trong buổi đầu ra</small>
mắt đã ví tam hồn mình như một "cây dan mn điệu” rất dé rung ngân trước vẻđẹp cuộc đời : "Tdi chỉ là một khách tinh vi. Ham vẻ đẹp có mn hình mn thé.Muon lấy bút nang Ly trao tơi về. Và mượn cây dan ngàn phím tơi ca"... (Cay dan
say sưa với cuộc đời hơn trong bổn phan thi sĩ của mình :
<small>“Là thi sĩ nghĩa là ru với gió</small>
Mơ theo trăng và vo vấn cùng mây
<small>Để linh hồn rằng buộc với muôn dây</small>
<small>Hay chia sé bởi trăm tình vêu mến”</small>
du lo", hoặc : "RA áo phong sương trên gác trọ. Lang nhìn thiên hạ ngắm xuân
<small>sang". Xuân Diệu trước sau chỉ nguyện làm thi si, ong khơng có cái nét "lặng nhìnthiên hạ" đó của Thế Lữ, khơng tự cắt đứt mọi đường dây “thdng cảm” với cuộc đờivà khép long minh như Vũ Hồng Chương ("Cam thơng” trong tập "Mây" của Vũ</small>
Hồng Chương cũng là một thứ tun ngơn tuy chưa thật tiêu biểu) mà chỉ muốn
tình u mến". Có lúc ơng tự ví mình như con chim lạ mang tiếng hót dang đời :
<small>“Tơi là con chim dén từ núi lạ</small>
Ngứa cổ hót chơi
<small>Khúc huy hồng khơng giúp nở bơng hoa</small>
Hat vơ ích thế mà chim vỡ cổ
<small>HHóo tim xanh cho quá độ tài tinh”</small>
Những câu thơ trên có thể coi là sự phát ngơn day đủ cho quan điểm "nghệ
<small>thuật vị nghệ thuật” : Đó là sự ngưỡng mộ, say mê trước nghệ thuật, trước cái đẹp</small>
<small>“Đây là quán tha hồ mn khách đến</small>
<small>Day là bình thu hộp trí nn phương”</small>
<small>RR)</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34"><small>"Tdi chỉ là mot cây kim bé nhỏ</small>
<small>Mà vạn vật là muôn đá nam châm”</small>
cao siêu. Vì vậy, đời sống thường nhật trần trụi là sự đối lập với thế giới của thơ và
thơ mới nếu khơng chủ tâm tìm kiếm vẻ đẹp thuần túy thiên nhiên của hoa, của
<small>hương : "Những hình ảnh tươi đẹp nhất. những dm thanh huyền điệu nhất trong</small>
thiên nhiên" (Lamartin) "Những màu xanh tươi rung rinh dưới ảnh nắng mặt trời"...vì "một bài văn hay là một bơng hoa" |80 - 1936]... thì cũng mai miết đi tìm cái
cơi vơ cùng của thơ" vy... Tal cả những tìm kiếm đó đều xa lạ với Xuân Diệu. Mot
<small>nghĩa lãng mạn. Với Ong, sang tao là một hành động hướng tới sự giao lưu, hòa hợp:</small>
Thương năm canh nước mắt những ai phiên"cảm thông :
<small>“Thưa một kiếp ai không từng nhỏ lệ</small>
Ta cùng buồn mon tron vHỐI ve nao"và mong mỗi :
“Thơ tơi đó gió lia dem tủa khắp
<small>Và lịng tơi moi mọc bạn chia nhau”</small>
<small>(Lời thơ vào tap GHCG)</small>
<small>"Người hãy mở tay, người hãy md lòng mà nhận lấy : đây là lịng tơi đương</small>
thời sơi nổi, đây là hồn tôi vừa lúc vang ngân. và đây là tuổi xuân của tôi, và đây là
<small>sự sống của tôi nữa : tôi đem tặng cho người trong mấy bài thơ dây" {22 - Tr 9].</small>
Khảo sát quá trình sáng tác của Xuân Diệu, chúng ta thấy từ những dịng
càng về sau, thơ ơng càng vượt ra ngồi những khn khổ mà chính ơng với tư cách
<small>34</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35"><small>là một đồ de của chủ nghĩa lãng mạn đã dé xướng lúc đâu. Sự thiếu nhất quán trong</small>
học lãng mạn Việt nam : Đó là sự phát triển thiếu nền tang tuyên ngôn của mottrường phái nghệ thuật lớn. Vi vay, dại đa số các nhà văn, nhà thơ của ta đều chịu
thế kỷ 19 và nhiều khi tự biến mình thành người phát ngơn cho những tư tưởng đãlùi xa một thế kỷ : "Về để vẽ, đó là nguyên tắc của chàng về hội họa. Được về là đủrồi.... Chang không cần phải hỏi và phải biết : vé để làm gì ? Chàng vẽ như chimhót. Con chim nó hót để hot, nào nó có cho tiếng hót của nó là quan trọng" (Dep -
<small>Khái Hung). Mot lần nữa, chúng ta tim thấy trong những dong văn xuôi tiểu thuyết</small>
trên day dáng dap của "con chim đến từ núi lạ" trong thơ Xuân Diệu. Tuy mỗi bênđều có kiểu phát ngơn khác nhau, nhưng cả hai đều hướng tới hành động sáng tạo :
<small>phục được những bước di loạng choạng ban đầu bộc lộ trong hệ thống quan niệm</small>
<small>nghệ thuật của mình. Đó là một sự van động mang ý nghĩa tích cực. Cùng với một</small>
Xuan Diệu là trong số rất ít ơi các nhà thơ lãng mạn 1932 - 1945 đã bộc lộ rõ rệtnhững quan niệm sáng tác của mình bằng thơ. Đó vừa là sự thể hiện phẩm chất thi
<small>sĩ dồi dào, vừa phan ánh tâm tri thức rộng lớn mà không phải người cầm bat nào</small>
<small>cũng có được.</small>
Đến với "Phong trào tho mới”, Xuân Diệu mang theo một nguồn cam hứng
<small>yêu đời đào dạt chưa từng có trên thi đàn Việt Nam : Chính lịng say mê ân 4i và</small>
khát vọng sống mãnh liệt ấy đã tao ra thé giới nghệ thuật riêng và sắc thái trữ tìnhthấm thiết lạ thường trong thơ Xuân Liệu trước Cách mạng tháng Tám.
<small>Các nhà nghiên cứu, phê bình và sáng tác từ trước đến nay : Từ Thế Lữ , Vũ</small>
Ngọc Phan, Hoài Thanh, Huy Can... đến Hà Minh Đức, Phan Cự De, Le Dinh Ky,
<small>trong thơ Xuân Diệu : "Đó là mor tâm sự nồng nàn... Một người sinh ra dé mà sống"</small>
mình cho sự sống và cho tho" (Hà Minh Đức) ; Một nhà thơ của "in khát khao
<small>35</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36"><small>giao cảm với đời" (Nguyễn Đăng Mạnh) ; Một sự xuất hiện "với tất cả lòng say mê</small>
<small>yêu doi" (Le Dinh Ky)...</small>
Cịn hơn buồn le lơi suối trăm năm”
<small>(Giục giã)</small>
bản ngã "cái tôi" và "cdi bảng khuảng man mác lãng mạn chủ nghĩa" (15 - Tr 13]
triéu xi. Mây khói mê lịng khách. Giang hỗ cảm cảnh chơi. Buồn ai qua bến đó.
thơ bà là hiện than cho những tình cảm mang màu sắc ling mạn với “tinh sdu",
<small>36</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37"><small>trong những bài thơ diễn tả những ”vưo động tâm hồn” là một trong những gương</small>
thơ Dong Hồ cũng "giữa đường dia gánh" và ong đã viết lên những van thơ bi ai
<small>với tâm tư của những người thuộc thế hệ cũ nhưng có phần lạc lõng với những</small>
ca” khong đủ sức cảm hóa thế hệ trẻ đương thời. Mặc dầu về sau, thơ Dong Hồ đã
<small>nhẹ và nơng nên khơng theo kịp.</small>
thơ mới - với một cái tôi rất mực đa tinh, một giọng điệu nhiều chiều phóng túng :
cam thấy sức dồn ép nặng nề của một thế hệ mới sung sức đang lên sẽ thay thế hoàn
thơ mới và đặc biệt là Xuân Diệu xuất hiện đã thay thế cái thâm trầm, xa xôi trong
<small>(Giuc gia)</small>
<small>cuộc đời. Ngay Hàn Mạc Tử, mot số phan bi thương nhất của thơ mới trong những</small>
<small>ngày cuối đời mình cũng cố níu kéo sự sống từng phat, từng giây cho đến giờ tận thế:</small>
<small>“Trời hỡi bao giờ tôi chết di. Bao giờ tơi hết dược u vì. Bao giờ mặt nhật tan thành</small>
<small>máu. Và khối lịng tơi cứng to sĩ”, Nhưng cái mà Hàn Mac Tử và các nhà thơ khác</small>
<small>còn thiếu, chỉ duy nhất Xuan Diệu mới có : Đó là sức mạnh của một tấm lòng trần.</small>
Trong khi đại đa số các nhà thơ cùng thời đang rơi vào trạng thái mất thăng bằng vì
<small>nên sức lực kỳ diệu :</small>
“Ta ơm bó cánh tay ta làm rắn
<small>Khơng muốn di mái mai ở vườn trần</small>
<small>Chan hóa ré để hút mau dưới dất"</small>
<small>(Thanh niên)</small>
Là một người "sống để mà yêu và yêu dé mà sống" |4 - Tr 7|; "Một linh hồn
<small>mở rộng, một tấm lịng chào đón, mội con người ân ái, da tỉnh" (Thế Lữ), Xuân</small>
Diệu luôn luôn khát khao vươn tới cái "vô biến" và "tuyệt dich” của tình u màcũng chính là sự sống với một tình cảm thắm thiết, déo dai :
<small>“Trời cao trêu nhữ chén xanh êm</small>
<small>“Với bạn ân tình hay với cảnhNoi nào ta cũng kiếm vơ biên”</small>
<small>(Vơ biên)</small>
Lịng ham sống đến vơ hạn đó của Xuân Diệu khiến Ong nhìn thấy những cảnhtượng rất thực từ những hư ảnh, nhìn ra cái hữu hình từ những cái vơ hình... Giữacái khơng gian bao la của gió, hương và màu nắng hư ảo kia, Xuân Diệu tưởng
nam bat được :
"Ta muốn ôm
Ta muốn riết mây dua và gió lượn
Ta muốn say cánh bướm với tình yêuTa muốn thâu trong mot cái hôn nhiều
<small>38</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 39</span><div class="page_container" data-page="39"><small>Và non nước. và cây và có rạng</small>
<small>Cho chếnh chống mùi thơm. cho đã dầy ánh sáng</small>
Cho no nê thanh xắc của thời tuoi
116i xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi”
hết cả tâm hồn của người yêu dấu. của trời đất, của mọi vật trên trần gian” (Thế Lữ- tựa Tho thơ). Soi day liên kết giữa tâm hồn ơng với cuộc đời, vì thế càng trở nên
<small>"Long tôi bốn phía mở cho trang</small>
Khách lại mười phương cũng dai dangNước ngọt vẫn ton, vườn đợi hái
<small>tường khơng ngăn cẩm, có chờ băng”</small>
<small>(Phot trai)</small>
Thơ ca chan chính bao giờ cũng tao được Am điệu cộng hưởng giữa nhac điệu riêngcủa tâm hồn thi nhân với bản nhạc chung của cuộc đời. Xn Diệu đã tạo ta đượcbản hịa tấu đó bởi ơng ln trang trải lịng da mình ra trước cuộc đời : “Lịng tơi đómot vườn hoa cháy nắng”; "Lịng tơi rộng nhưng lượng trời cứ chật" ; “Nghe điệu
<small>lịng hưởng ứng với ca chim” ; “Dạ vêu dời thỏa mấy cũng chưa an” ; "Vì mang phải</small>
những sắc lịng tươi quá” ; "Lòng ta là một cơn mưa lũ" ; "Dem lịng tơi rang rit vớixn tươi" ; "Xn đã sẵn trong long tơi lai láng” vv.. Ơng thường ví tam hồn mình
với vườn xn đang độ tươi sắc. Nhưng xuân của đất trời còn phụ thuộc vào nhịp
<small>“Xuân của đất trời nay mới đến</small>
<small>Trong tôi, xuân đến đã lân rồi"</small>
<small>(Nguyên đán)</small>
<small>39</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 40</span><div class="page_container" data-page="40">minh để phủ lên cảnh vat, sau này Ong đã gửi gắm lại tư tưởng lớn đó của minh
<small>trong câu thơ “nhà nghề” nổi tiếng : "lây nhìn doi bằng dõi mắt xanh non", Đơimắt nhân ái của ơng ln nhìn thấy cuộc đời trong vẻ hồng hào, tươi thắm :</small>
<small>"Một luồng anh sang xd qua mat</small>
<small>Tham cả đường di, rực cd rời”</small>
<small>CTmh qua)</small>
cũng như trong vẻ trìu mến, thiết tha :
“Vườn cười bằng bướm hói bằng chim
<small>Dưới nhánh khơng cịn ni chit đêm</small>
<small>Những tiếng tung hộ bằng ánh sáng</small>
<small>Ca dời hưng phuc tre trung thêm...</small>
Hanh phúc von trong buổi sớm mai
<small>Vita tâm với bắt của tay người</small>
<small>Ai tinh dem máu lên hoa điện</small>
<small>- Thi si di dau cũng thấy cười”</small>
<small>(Lac quan)</small>
tỉnh cảm yêu đời trong sáng, hồn nhiên trong "Ngày xưa" của Nguyễn Nhược Pháp;
<small>vẻ mộc mạc, thanh bình, 4m ấp trong những bức tranh quê của Anh Thơ, Bàng Bá</small>
<small>nước, con người miền Trung qua thơ Hàn Mạc Tử, Nam Tran, TẾ Hanh vv... Nhưng</small>
<small>chỉ Xuân Diệu là người đưa ra những bức tranh đời đó rồi một mình ngắm nghía,</small>
ngây say : “Tơ điếc đời bằng những khác ham mô” và bộc lộ nỗi thèm khát với đúngnghĩa của nó : ông đã biến cuộc sống thành nguồn dinh dưỡng trực tiếp ni nang
<small>cơ thể mình. Một loạt từ tạo ấn tượng rất mạnh được ông sử dụng để diễn tả hành</small>
Xuân Diệu, ngược lại, thường hay ổn ào, lịng da lúc nào cũng sơi sục :
<small>40</small>
</div>