Tải bản đầy đủ (.pdf) (172 trang)

Luận án phó tiến sĩ Ngữ văn: Thơ Xuân Diệu trước cách mạng tháng Tám 1945 (Thơ thơ và gửi hương cho gió)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (62.86 MB, 172 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

Lý Hoài Thu

TỪ XUAN DIEU TRƯỚC CACH MẠNGTHANG TAM - 1945

(Tho tho va Gui huong cho gio)

<small>Chuyên ngành : Văn học Việt Nam hiện dai</small>

Md số :§04 33

JẤN ÁN PHO TIẾN SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN

Người hướng ddan khoa học :

-_ Giáo sự Ha Minh Đức

<small>TƯ (CC: A HÀ NÓI</small>

<small>TRUNG Ti TRM</small>

Fis Tal vign|

V_L+/4gbu No...

<small>Hà nội I995</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

IV- _ Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 20

V- Cái mới của luận an |

VI- Y nghĩa lý luận và thực lô căm luạn ân 21

B - Phan <sup>nội dung:</sup>

Chương I. Cái tôi trữ tình của Xuân Diệu qua hai tập

Tho tho và Gửi hương cho gió _ Cũ eee

]- Một cái tơi cá nhân luôn luôn được khẳng định 23

ll- Mot cái tôi khao khat sự sống, tinh yêu ae

IL - Một cái tôi buồn và cô đơn ie

Chương II : Thời gian nghệ thuật và không gian nghệ thuật của

"Thơ tho” và "Gửi hương cho gió” _—_ 90

I-_ Thời gian nghệ thuật 90II- Không gian nghệ thuật 103

Chương IL: Phương thức biểu hiện 122

I- Ngon tu t's al ee,

II- Hình anh 125

IH - Nhạc điệu xà ‘oi’ sl 3 VỊ Di, Lis

Thay lời kết luận liek 162

Danh mục tài liệu tham khảo

<small>Mục lục</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

A. PHAN MO DAU

I. TINH CAP THIET CUA ĐỀ TAI:

Xuan Diệu họ Ngô va hồi nhỏ cịn có ten là Bàn (Ngơ Xuan Bàn). Ong sinh

<small>ngày 2 tháng 2 năm 1916 (Theo 4m lịch là ngày Thin, thang Thin, nam Binh Thin).</small>

Phải chang sự trùng hợp của ngày, thang, năm Thin quý bau đó mà ông Ngo Xuân

<small>Thọ và bà Nguyễn Thị Hiệp đã sinh ra cho đời một tài năng van học lớn ?</small>

Nói về gia cảnh của mình Xn Diệu có hai câu thơ được lưu truyền rộng rãi

<small>"Cha dang ngoài mẹ ở dang trong</small>

Ong dé Nho lấy cơ lam nude man".

<small>Dang ngồi, quê nội Xuân Diệu là làng Trao Nha (nay là xã Dai loc, huyện</small>

Can lộc, tinh Ha Tĩnh). Trảo Nha có nghĩa là "anh vuốt", sau này đơi khi XuanDiệu lấy bút danh Trảo Nha cũng là một cách tưởng nhớ đến quê cha đất tổ củamình. Cụ thân sinh nhà thơ hai lần đỗ Tú tài Hân học (gọi là Tú tài kép) vào Namphần đất nước làm thầy dạy chữ Hán và Quốc ngữ. Dang trong. quê ngoại của XuânDiệu là vạn Gò bồi, xã Tùng Giản, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định, nơi cụ Tú Thọđã gap gỡ và kết duyên với co làm nước mắm Nguyễn Thị Hiệp. Chính vì vay, trongcon người Xn Diệu có sự kết hợp của đức hiếu học, thông minh, ham mê thơ

<small>phú” văn vẻ giỏi giang" của cha và tính tình hiền hậu ân cần của mẹ.</small>

Thuở thiếu thời, Xuân Diệu học chữ Nho, chữ Quốc ngữ và cả tiếng Pháp

với cha. Nam 1927 (lúc 11 tuổi), Xuân Diệu từ giã nơi chơn rau cắt rốn của mình

xuống nội trú tại trường Cao đẳng tiểu học Quy nhơn. Chính khung cảnh trời biển

Quy nhơn thơ mộng đã dội vào tâm hồn nhạy cam của nhà thơ những gon sóng lãngmạn đầu tiên. Sau này khi hồi tưởng về tuổi thơ, Xuân Diệu viết: “Được về thành

phố, lúc bấy giờ con người được coi mở hơn. Cái đó cũng làm cho tôi gần. với Rô

-măng - ti - xmo (chu nghĩa lang mạn)”. DO là một sự cất nghia sau này của nhà thơ,còn đối với cậu bé mới học lớp Nhi đệ nhị (moyen deux) lần đầu tiên từ nông thon

ra thành thị lúc ấy chỉ thấy nhiều cái mới lạ. Những ấn tượng đầu tiên không thể nào

quên ấy đã được Xuân Diệu hết sức gìn giữ và nang niu trong hành trang sang lao

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

suốt đời mình. Từ thời này, Xuan Diệu bất đầu tap làm thơ theo thể truyền thống.

Thơ van của Nguyễn Du, Từ Trấm A, Đoàn Như Khue và đặc biệt Tản Đà thực sự

là những khúc dao đầu tạo nên những giai điệu lãng mạn trong tâm hồn nha thơ.

Nam 1935, Xuân Diệu ra Hà nội học Tú tài phan thứ nhất tại trường trung

học Bảo hộ và nam sau 1936, ông vào học tiếp Tú tài phần hai tại trường trung họcKhải Định Huế. Có thể nói rằng sau những cảm xúc thơ trẻ trước cảnh trời xanh

biển biếc của cái nôi Hing mạn Quy nhơn, hai lượt ra Hà nội tiếp xúc với thiên nhiênxứ Bắc và vô Huế tiếp xúc với cảnh vật kinh đô đã mang lại cho nhà tho những cam

hứng sâu sắc. Ông đã xúc động kể lại : "2i được di Hà nói học Tú tài phần thứ

nhất ở trường Budi, gần HO Tây. Hồ Tay rất là Rơ-măng-tích. Có thể nói : Khi ra

<small>Hà nội, tơi có sự nẩy nở lần thứ hai lớn hơn cả khi tôi từ miễn quê xuống Quy nhơn.</small>

Tôi ở Quy nhơn bốn mia không rõ rệt lắm. Núi và biển ở Quy nhon rất đẹp, nhất là

<small>những hơm có gió nồm thì Quy nhon rất nên the. Nhung sự thay đối của thiên nhiên</small>

từ mùa đông sang dén mùa xuân thì khi ra dén xứ Bắc tôi mới thấy rổ... Trên dé Yên

<small>Phụ một budi chiều mùa dong, di vào những trại trồng hoa ở Ngọc Ld, xem những</small>

cây hoa đào ở Nhật tân doi với tơi và tuổi mười tám, mười chín như mot sự bừng nở,

<small>như mua xn moi VỀ.</small>

<small>.ị. ROI tơi vơ liHế học Tu tài phan thứ hai. Đối với tôi thật là mội sự may</small>

man. Tôi cam ơn cuộc doi, cam ơn những người xung quanh tôi; trong cái viết của

<small>tôi, tôi muốn đáp ơn cuộc sống. Hoc ở Iluế năm 1936 - 1937, tôi biết thêm mội xứ"</small>

da tạo cho tôi cái mê ly, cái la lưới dam dudi rất cần thiết. đã bồi dưỡng cho tâm

<small>hồn tôi với nhữnng Nam Bằng, Nam Ai, với sông Huong màu nước ấy và nhất là</small>

màu mất của người con gái Hub. Cho nên cái thiên nhiên và con người ở Huế cho

<small>tôi một khía cạnh mới. cộng thêm với thiên nhiên và con người ở Bắc" [86 - Tr 16].</small>

<small>Bài tho ”? rinh fang" đầu tiên của Xuân Diệu là bài "Với bàn tay ấy" đăng</small>

<small>trên báo Phong hóa năm 1935. Với bài tho này, Xn Diệu chính thức chọn cho</small>

<small>mình con đường nghệ thuật đã được khai sang bởi các bac tài danh : Thế Lữ,</small>

Luu Trọng Lu, Huy Thông... Tập thơ đầu tay mang ten "Tho thơ” của ông ra đờingày Thiên chúa Giáng sinh năm 1938 với lời tựa của Thế Lữ và trình bày mỹ thuậtcủa hoa sĩ Lương Xuân Nhị. Năm 1938 - 1940, Xuân Diệu sống cùng với Huy Can

Ở căn gác nhà số 40 - Hang Than - Hà nội: "Phố không cây thôi sảu biết bao chừng”

(Thơ Huy Can). Lúc này Xuân Diệu lầm “giáo khổ trường tu" ở trường, Thăng Long.

Năm 1939, Xuân Diệu cho tái bản tập "Who tho” ky ten Nhà xuất bản Xuân - Huy

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

(Xuan Diệu - Huy Cạn) và tập hợp các truyện ngắn của mình dang rai rác trên bac

Ngày nay thành tập "Phấn thông vàng" - Nhà xuất bản Đời nay.

Nhưng một nhà thơ dù lãng mạn đến đâu cũng không thể mơ mộng mã

<small>được,vì vậy, nam 1940, Xuân Diệu tạm thời từ biệt Hà nội: nơi ơng đã có một sy</small>

nghiệp, một tên tuổi củng với một nghề day học mà vẫn khong đủ sống để đi thngành tham tá Nha thương chính (nhà Đoan) và sau đó được bổ vào làm ở sở Doar

Mỹ Tho từ 1940 đến 1943. Mot lần nữa, cái thiên nhiên khoáng đạt và phi nhiêu củ:

vùng cực nam Tổ quốc lại bồi đấp them cho tâm hồn ông những nguồn cảm xúcmới. Nếu trước kia nhà thơ thừa nhận đời sống thị thành đã làm phong phú và hiệt

đại hơn đời sống nội tâm mình thì sau này ơng cũng khẳng định thêm: "Móng thơi

đã làm giàn tôi. Nadu nhiên cuộc đời như tầng lớp phi sa khác nhau bồi đắp lêi

<small>tâm hồn tơi. Tơi cịn nhớ cái nhi thom ngào ngạt cua lá sen. lần đầu tiên tơi đượt</small>

thở thud ấu thời. Nơng thơn đó dã giúp cho tôi phát triển giác quan, nhất là khứi

<small>giác và những cảnh buồn buồn, xa va. mờ mờ là tơi lấy ở nơng thơn thuở nhỏ" |86Tr 24|.chính cái thiên nhiên nông thôn và đặc biệt là thiên nhiên Nam Bo ấy đã há</small>

<small>lên những câu the:</small>

"Mùa hạ chảy ở dưới trời đốt nắng

Nắng hồng nung, may bạc chẩy ngân nga

<small>.. trồng gà uáyv buồn nụhe nh mắm taChết khơng gian, khơ hóo cả hồn cao</small>

<small>và hai mươi năm sau được quy tụ lại trên nền của một cảm xúc mới trong bài "Mũ</small>

Cà mau" nổi tiếng:

“Tổ quốc tơi như mỘI con tàu

<small>Mũi thuyển ta đó mi Cà mau...”</small>

<small>Năm 1943, Xuân Điệu "a chức” tham tá nhà Doan ra Hà Nội sống cùng vo</small>

Huy Cạn. Đồng lương của kỹ sư canh nông trẻ Huy Cận đủ nuôi hai nhà thơ w

Xuân Diệu lại có điều kiện đồn hết tâm lực cho thơ.

<small>Năm 1945, Xuân Diệu cho ra đời tập thơ thứ hai: "Gửi hương cho gió" v</small>

tập văn xuôi “Trường ca" do nhà xuất bản Thời đại ấn hành.

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

Cách mạng tháng Tám thành công, Xuân Diệu hãng hái tham gia hoạt động

trong nhóm văn hố. cứu quốc. Vốn là một người giàu lịng u mến và nặng tìnhnhân gian, Xn Diệu đã đón nhận Cách mạng tháng Tám một cách hồ hởi, hang

say. Ong là nhà thơ lãng mạn đầu tiên cất tiếng ngợi ca nền chun chính cộng hồ

non trẻ. Hai tập trường ca "Ngọn quốc ky" va" Hội nghị non sông” đã ra mat kịp

thời và khơng ai có thể phủ nhận ý nghĩa thời sự chính trị của nó. Từ đây, Xuan

Diệu đã gắn chặt cuộc đời mình vào sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Ông từng là

đại biểu Quốc Hội khóa | (1946 - 1960), từng là thành viên đại diện cho giới báo chí

trong phái đồn Quốc hội sang thăm hữu nghị nước Pháp do thủ tướng Phạm Văn

Đồng dẫn đầu vào tháng 5 năm 1946.

Vẫn với một tâm hồn tran tré chất lãng mạn và một nhịp sống sơi nổi, Xn

Diệu hồ nhập say sưa vào làn sóng cách mạng và tìm thấy ở đó một sức cuốn hút

mạnh mẽ. Suốt chín nam rịng, nhà thơ sống và hoạt động văn hoá văn nghệ hammê tại chiến khu Việt Bắc. Cuộc cách mang “long troi lở đất" ấy được coi là phép"tái sinh mầu nhiệm" đối với lớp van nghệ sĩ tiên chiến nói chung, và riêng vớiXuân Diệu ông đã thu hoạch được nhiều bài học quý báu : “Vào cuộc chống Pháp.quá trình lớn là q trình quần chúng hố và tơi thấy q trình quần chúng hố này

<small>đối với người trí thức là một sự kỳ diệu, một su tái sinh, nó làm cho anh ta vững chải</small>

<small>và làm cho anh ta có hàng nghìn tay. Tâm hồn anh ta được nhân rộng, lớn lên. và</small>

<small>đứng về nghệ thuật, thì tơi được di sàn hơn nữa vào tục ngữ, ca dao và ngôn ngữ</small>

quần chúng" [86 - Tr 20|. Thời ky này, ông viết: "Việt Nam trở dạ”, (sau này mới

<small>in thành tap tùy bút) "Dưới sao vàng”, (1949) "Sang" (1953), "Mẹ con" (1954),</small>

"Ngôi sao”... Hồ bình lập lại, Xn Diệu trở về Hà nội sống cùng Huy cận ở sốnhà 24 - phố Cot cờ (Nay là đường Điện Biên phủ) "Nhà ta 24 cột cờ. Ai quen thìtới ai lờ thì thơi". Một lần nữa Xuân Diệu lại mang cái say nồng của tâm hồn minh

để di vào cuộc sống mới với sự kết hop nhuần nhị giữa ý thức công dân và vai trò

nghệ sĩ. Thời đại, đất nước, nhân dan đã đưa đến cho ơng một nguồn xúc cam gắnbó máu thịt mà Ong coi như “cling xương cùng thịt", "cùng đổ mã hôi” “cùng sôi giọt

máu”... với đông bào yêu dấu của mình. Khi một nhà thơ lãng mạn đã hồ được

mạch dap của lịng mình với mạch sống của dan tộc thì có nghĩa là anh ta đã vượtlên mình và đã chiến thắng. Nếu nói rằng một nhà thơ nào đó đang mở rộng tâmhồn để đón nhận cuộc sống mới thì có thể người ta sẽ nghĩ đó là những sáo ngữ,

nhưng sự thực chi Xuân Diệu mới có cái ham hở đáng yêu này : "/1ần tơi cánh rộngmở. Hai bên gió thổi vào. Nghĩ những diều hớn hd. Như trời cao cao cao..." Có thể

coi day là giai đoạn sang tac sung sức nhất của Xuân Diệu, ông say sưa với cuộc

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

phê bình, dịch thuật. La một nhà thơ lớn được nhiều thế hệ bạn đọc yêu mến, ông

<small>đồng thời là một nhà văn hố có tim cỡ trên thế giới. Riêng trong lĩnh vực thơ ca,</small>

ong là "mdt nhà thơ lớn đặc sắc và độc dáo của nên thơ hiện dai Việt Nam"

<small>(Tố Hữu). Khi Xuan Điệu qua đời, các thế hệ nhà văn đều có chung cảm nghĩ: "Mor</small>

cây lớn nằm xuống, cả khoảng trời trống vắng" (Hà Xuân Trường).

Con đường đi của Xuân Diệu từ một nhà thơ lãng mạn chủ nghĩa thành một

nhà thơ hiện thực xã hội chủ nghĩa là con đường tiêu biểu cho thế hệ thơ mới1932 - 1945, "Tw chân trời của một người đến chân trời của tất cd" (Pon - Eluya).

Ở cả hai chặng đường ấy, Xuân Diệu đều có có những đóng góp hết sức to lớn. Vị

trí của ông trên cả hai thời kỳ đó đều rất quan trọng: Đó là một vị trí khơng ai có thể

thay thế được. Vì những lẽ đó chúng toi đã chọn dé tài cho luận án của mình là

<small>"Thơ Xuân Diệu trước cách mang tháng 8 - 1945"</small>

II. MỤC DICH VA NHIÊM VỤ NGHIÊN CUU:

Xuân Diệu mở đầu sự nghiệp và nổi tiếng trên văn đàn 1932 - 1945 bằng hai

<small>tập thơ: "Tho thơ” (1938), "Gửi hương cho gió” (1945). Với hai tap thơ này, Xuân</small>

Diệu đã đưa Thơ mới lên đến thời huy hoàng rực rỡ nhất và bản than nhà thơ được

<small>các phê bình danh tiếng trước và sau cách mang thống nhất nhận định: Xuân Dieu là</small>

một hiện tượng điển hình, là nhà thơ tiêu biểu nhất của phong trào Thơ mới. Nếu

Thế Lữ được coi là người có cơng sáng lập ra thơ mới thì Xn Diệu là người kế tụcxuất sắc đã tạo nguồn sinh lực dồi dào cho nó. Một người có ý nghĩa mở đầu, một

người là đỉnh điểm... Từ đó, có thể khang định rằng: Tài nang và cá tính sáng tạo

<small>của Xuân Diệu đã được định hình rõ rệt ngay từ hai tập thơ đầu tay này.</small>

Trải qua những bước thăng trầm, những ấm lạnh thất thường của đời sống

<small>văn học, ngày nay thơ mới nói chung và thơ Xuân Diệu nói riêng đã được trao trả</small>

lại những giá trị đích thực của nó. Nghiên cứu thơ Xuân Diệu là tiếp cận một đốitượng, một vận mệnh thơ ca tiêu biểu cho cả một thế hệ thi sĩ mà dù ít dù nhiều đã

từng có mặc cảm của một người "Nghệ sĩ oi thức tiểu tu sản "lỡ" thành danh trước

cách mạng “nên suốt doi" hi hục làm mới thơ mình, làm mới lịng mình"{69 - Tr 90 - 93]. Chúng tơi khơng có tham vọng nghiên cứu thơ Xn Điệu ở cả hai

chặng đường trước và sau cách mạng tháng 8 mặc dù biết rằng hai chặng đường ấy

liên quan mật thiết với nhau như một dịng sơng bat đầu từ phía thượng nguồn và đồ

về hạ nguồn. Trên tinh thin khoa học, khách quan, chúng tôi dừng và "khoanh

vàng" nghiên cứu mang thơ Xuân Diệu trước cách mạng tháng 8, hy vọng có thể

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

đánh giá lại một cách đúng đắn và toàn diện hơn phong cách sáng tạo của một nhà

thơ ở một chặng đường thơ - một chặng đường với đây đủ bản sắc, một chặng

đường có ý nghĩa quyết định đến cả một đời thơ. Đồng thời, qua đó, nhìn nhận lạiphần đóng góp của Thơ mới với tư cách là một trào lưu lớn có ảnh hưởng, sâu rộng

đến tồn bộ tiến trình phát triển của thơ ca Việt Nam hiện đại.

Ill. TINH HÌNH NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ:

Phong trào Thơ mới là mot bước chuyển minh tất yếu của tiến trình thơ ca

dan tộc. Kể từ bài "Tình già" của Phan Khơi dang trên "Phụ nữ Tân văn” số 122ngày 10/3/1932 với chủ ý "trình chánh một lối tho mới giữa làng thơ” cho đến khihồn tồn chiếm lĩnh thí đàn, Thơ mới đi qua một chang đường phát triển ngói

mudi lam nam. Mười fam năm đấu tranh để phá bỏ, thay thế một lối thơ đã ngự trị

trên thi dan dân tộc suốt mấy nghìn năm và mở ra "nội thời dại mới trong the ca”,

<small>"Chưa bạo giờ người ta thấy xudt hiện cùng một lần môi hồn thơ rộng nở</small>

<small>nh Thể Lit, mo mang như LH Trọng Lạt hing tráng như Huy Thông, trong sang</small>

như Nguyễn Nhược Pháp, gué mia nh Nguyễn Binh, do ndo nhự Hay Cận, kỳ di

<small>như Ché Lan Viên... và thiết tha, rae ruc, ban khoản như Xuân Diệu” [8l - Tr 34|.</small>

Cùng với sự hình thành và phát triển của tiểu thuyết Lãng mạn, cụ thể là tiểu

<small>thuyết “Tự lực văn đoàn”, văn học Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945 thực sự bước</small>

sang một giai đoạn phát triển mới theo chiều hứơng hiện đại.

[. Lý do đầu tiên để chúng ta khẳng định Xuân Diệu là một hiện tượng tiêu

biểu của thơ mới là: Cũng như sự xuất hiện buổi đầu của thơ mới, sự xuất hiện của

<small>Xuân Diệu trên thi dan đã kéo theo những luéng dư luận thuận nghịch ồn ào: ngườikhen, khen hết lời, người che cũng che khong tiếc lời. Những người "di me" nhấtvới lối viết của Xuan Diệu đều thuộc về phái xưa (g6m Tan Đà, Huynh Thúc</small>

Kháng, Thái Phi, Nguyễn Văn Hanh, Tường Van, Phí Vân...). Người ta che thơ

Xuan Diệu là "ngây ngỏ. là lai căng mất gốc, là quái ad" : "Ông này (nie Xuân

Diệu) dược coi là một kiện tướng của phong trào này. Tho của ông ta được kể là khá

nhất đám, nhưng cũng chẳng ra gì... thơ chẳng ra thơ, Tây chẳng ra Tây. Tàn chẳng

ra Tau" [7T - 1/1936]. “Đánh” vào Xuân Diệu có nghia là người ta chưa thể tiếp thu

những cái mới. câi lạ ở trong thơ.

<small>Cuộc xung đợt mới - cũ trong lãnh địa thơ ca thực chất là sự phản ánh những</small>

xung dot mới - cũ gay gal trong đời sống tư tưởng, tình cảm của xã hội đương thời

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

đã làm lung lay nên móng ý thức của trật tự phong kiến, làm đảo lộn những chuẩn

mực về đạo đức, làm thay đổi nếp sống, nếp cảm, nếp nghĩ của con người. Nhà thơ

Lưu Trọng Lư - một trong những người đi tiên phong của công cuộc cải cách thơ cađã chi ra nguyên nhân khơng thể dung hồ về tình cam, tâm hồn của hai thế hệ dẫnđến sự thay đổi tất yếu của tho ca: "Nưng sự thường dau, buồn chắn, vui ming u

<small>phót của chúng ta khơng cịn giống những su thương dau, budn chắn, vui nHỲng, Về</small>

_ ghét của ông cha ta nữa. Đó là một sự tực" [58 12/1934|. Nếu có thể chia tiến trìnhthơ mới thành ba giai đoạn: giai đoạn đầu của Thế Lữ, Lưu trọng Lư... giai đoạngiữa được mệnh danh là thời cực thịnh của thơ mới gồm Xuân Diệu, Huy Cận... vàgiai đoạn cuối g6m Han Mạc Tử, Chế Lan Viên... thì Xuân Diệu đã có cơng rất lớn

<small>trong việc tạo dựng nên một thuở hoàng kim cho thơ ca lãng mạn. Trong cuộc đời</small>

cũng như trong nghệ thuật, Xuân Diệu không bao giờ chấp nhận sự già nua, cũ kỹ,

<small>bởi vậy khơng có gì lạ khi trong đội ngữ những người bài bác, chê bai thơ ông da số</small>

<small>đều thuộc về những bậc cao niên trong làng thơ cũ. Trái lại, piới sang tác, phê bình</small>

<small>mới và đặc biệt là lớp doc gia thanh thiểu niên đã đón tiếp Xuân Diệu hết sức nồng</small>

<small>nhiệt vai tôn Ong như một thần tượng. Trước khi tập “Phơ thơ” ra đời, vị chủ soái</small>

day uy lực của thơ mới đã dành cho Xuân Diệu những dong đặc biệt ưu ái trên báo

<small>ngày Ngày nay: Không chit dé dat, ông got Xuân Diệu là "mộ! nhà thi sĩ mới” "có</small>

chân tài dặc bier". Ơng hy vọng “sé dược dịp nói dén thơ của Xuân Diệu nhiều hon,

dé lại được ca tụng nhà thi sĩ của tuổi xuân, của lịng u và của ánh sáng". Khơngphải chờ đợi lau, một nam sau lời tiên đoán cua Thế Lữ đã thành sự that. Năm 1938,khi "Thơ tho" ra đời, dich than Thế Lữ viết lời tựa cho tập thơ với niềm tự hào lớn :

<small>"Và từ dây, chúng ta có Xuân Diệu”. VỚI tu cách là một người có công phat hiện và</small>

rất am hiểu tài thơ Xuân Diệu, chỉ cần vài nét phác thảo tài tình, Thế Lữ đã làm hiện

<small>lên rõ một bức chân dung ngoại hình và hồn cốt thơ của Xuân Diệu : "Nhà Thị si</small>

dy... lóc như mây vương trên đài trán thờ ngày, mắt nh bao luyến mọi người và

miệng cười mở rộng như mội tấm lòng sẵn sàng ân ái... Xuân Diệu là mét người củađời, một người ở giữa loài người. Lau thơ của ông dược xây dung trên đãi của mộttam lòng trần gian” [69 - Tr 29). Nam 1941 “Phi nhân Việt Nam” ra đời thì Xn

Diệu đã có một chỗ ngồi yên vị trong làng thơ mới. Hơn thế nữa, trong “Thi nhân

Việt Nam" Hoài Thanh đã dat Xuân Diệu ở mot vị trí hết sức trang trọng. Nếu coiHoài Thanh là một người đồng hành cùng thơ mới và am hiểu tường tận từng nhà

thơ thì đối với Xuân Diệu, ông đã bộc lộ không giấu diếm sự mến mộ và tài dự cẩm

của một nhà phê bình trước một nhà thơ trẻ đầy tài nang. Đúng như Hồi Thanh đãmơ ta Xn Diệu trong giờ phút ding quang: “Người dd dén giữa chứng ta với một y

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

<small>phục tối tân và chúng tâ đã ryt rè không muốn làm thân với con người có hình thức</small>

phương xa ấy". Dang sau cái dâng dap rất đơi thanh tân kia, Hồi Thanh chỉ ra rằng:

<small>"Tha Xuân Diệu là nguồn sống rào rat chưa từng thấy ở chốn nước non lặng lề này”</small>

và nhất quyết khẳng định : "Xudn Diệu mới nhất trong các nhà thơ mới".

<small>định : Xuan Diệu “la một thiếu niên có tâm hồn đẩy tho mộng, khao khát sự yêu</small>

<small>thương, lại cam thấy thời gian vin vit thoảng qua mà nudn vôi vàng tận hưởng cái</small>

cảnh vui dep của tuổi xanh hiện tại". Ong còn đặc biệt lưu ý nguồn cam xúc manh

<small>mẽ về tình yêu trong thơ Xuân Diệu và kết luận : "Tho thơ là mội tập chứa chan</small>

<small>tình cảm lãng mạn, trong đó có nhiều uy moi lạ tả ra tác giả thật có tâm hồn thi sĩ</small>

<small>nhưng cũng có nhiều câu vụng về non not chứng 16 tác giả chưa lão luyện về kỹ</small>

<small>thuật của nghề thơ"...</small>

Rõ ràng là, bước vào đời thơ, Xuân Diệu không dễ dàng dành lấy cho mình

một chỗ ngồi yên ổn. Nhưng cùng với thời gian, khi "Những cuộc cdi nhau về thơ

cũ thơ mới dã qua. Nay chúng ta chỉ biết có thơ. Thơ mới chỉ là những hình thứccủa thơ để điền ra những tính tình và cảm giác của tâm hồn ta ở thời đại mới" |50 -

<small>Tr 20], thơ Xuân Diệu cũng đi từ chỗ làm người đọc bỡ ngỡ, la lùng đến yêu thích,</small>

kham phục. Khi tấn kịch mới cũ trong thơ ca, kết thúc, thơ mới đã giành được

<small>quyển sống, đã chiếm hầu hết báo chí, sách vo, đã len vào đến học đường, và "đã</small>

vào học đường, nhất là ở nước ta. nic là thanh thế dã to lắm" thì Xuân Diệu đã trở

thành gương mat sáng giá nhất của trào lưu thơ ca lãng mạn 1936 - 1939.

2. Cách mạng tháng Tám bùng nổ, Xuân Diệu cùng đại đa số các thi nhân

tiền chiến đã chọn cho mình một lý tưởng và một con đường sống. Đó là con đường

của Dang, của Cách mạng. Vốn tính sơi nổi, đầy nhiệt tâm với những cái mới mà

cách mang tháng Tam đã mang lại, ngay từ buổi đầu, Xuan Dieu hãng hái nhập

cuộc: Ông viết tráng ca để chào mừng lễ tuyên ngôn độc lập và chào mừng kỳ họp

thứ nhất của Quốc hội Việt Nam dân chủ cộng hồ, ơng làm thơ châm biếm, ơng

diing cảm biểu tình chống bon phản cách mạng, bọn Quốc dân Đảng... Không riêng

<small>i nhan</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

"Thud dau ấy sao dé dàng tê tái

Một bóng trăng di một làn gió tới

Rung lá trên cây nhạt nắng trong chiều

Khóc cịi tàu đem khuất mất người yêu

Khóc với nhạc sâu biệt người chín suối..."

Vẫn trên tinh thần tự "gér rứa" để "lội xác” hoàn toàn, nam 1958 trong

"Những bước đường tư tưởng của tôi”, Xuân Dieu một lần nữa lại tự mổ xẻ minh :Đau đớn hơn nhưng cũng thấm thia hơn bởi nhà thơ đã hé mở những diéu sâu kinnhất trong tam tư mà trước kia trong thời kháng chiến nhà thơ chưa thể nói :

"Những nhược diểm rất sâu sắc chủ quan của tôi không đáp ứng được những doi hỏi

<small>khách quan của kháng chiến. Trong hai ba năm trời. trong tơi có một cái gì cứ chin</small>

dan cứ cuốn lại. Ngồi mặt thì khơng có gì xdy ra, nhưng Ở chỗ tinh vi, kín nhẹmnhất có mat sự rut trốn. Cai chất hưởng thụ, cầu an tích luỹ trong thể vác và tâm writôi hàng ngày mấy chục năm nay làm thành một sức ỳ khó lay chuyển... Gian khổ

khó khăn khơng phải ở dàng xa. nơi quản chúng vẫn chịu và gánh vác mà di đếndụng chạm ngay bản thân tôi: Tôi không thé kháng chiến vui về, cách mạng vui vởnữa.... Tâm trạng tôi như người bi chet, tinh thân bất ổn, vẫn gân với quá khứ, van

xa vời vợi với tương lai. Cứ chạy sang bên này rồi chạy sang bên kia, thật là dauđớn" |8 - Tr 31 |. Cùng với sự phan tinh của Chế Lan Viên : "16i ở dâu, di dâu, tơiđã làm gì ? Đời thấp thống sau những trang sách Phat. Đất nước dau dưới bảy

ngựa Nhật. Lạc giữa sao trời tơi vẫn cịn mẻ". Hay Tế Hanh: "Sang bờ tw tưởng talia ta. Một tiếng gà lên tiễn nguyệt tà. Ta ding bên này dêm quyết liệt. Con người

quá khứ đa ra ma", chúng ta hình dung được thái do dứt khoát từ bỏ, đoạn tuyệt với

con người quá khứ của các nhà thơ lãng mạn. Tuy nhiên ở Xuân Diệu, quá trình ấy

diễn ra một cách vật vã và khốn khổ hơn nhiều.

3. Khoảng thời gian trước và sau những năm sâu mươi, người ta vẫn giữ mộtgiữ mội

cái nhìn khe khắt và nói về thơ mới bằng mot giong hết sức dé dat. Giữa lúc đó vào

năm 1959, Xuân Diệu đưa ra một vấn đề hết sức táo bạo: Nhìn lại sự ra đời của tap

thơ "Tir ấy" (Tố Hữu) trong mối tương quan với mach thơ mới mà ơng coi là mot

"sự thốt thai”. Cách suy nghĩ và đặc biệt là hai chữ ”rhoát thai" của Xuân Diệu da

vấp phải một sự phản ứng quyết liệt của một số nhà phê bình đương thời tạo ra mội

khoảng trời sóng, gid trong cuộc đời nhà thơ. Nhiều người đã khong thừa nhận có suhơ hấp giữa thơ ca Cách mạng với trào lưu thơ ca Lãng mạn có nhiều biểu hiện tiêucực: "bền trong cái điêu luyện had nhống thì ca dy càng ngày càng luẩn qudt

11

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

<small>trong những cảm xúc và ww tưởng cá nhân chủ nghĩa chật hẹp , nghèo nàn, tun</small>

<small>mun... Chua bao giờ trong thơ ca nước ta lại có những tâm hồn thiểu sinh khí như</small>

<small>vay” [50 -Tr 26|</small>

Trong các nhà thơ mới, Xuân Điệu là người đầu tiên đặt vấn đề đánh giá lại

thơ mới với nhiều day dứt. Dat vấn đề ảnh hưởng của thơ mới đối với tập “Tir ấy"”

của Tố Hữu cũng là một cách khẳng định giá trị của thơ ca lãng mạn. Bat chấp mọisự quy kết có thể xẩy ra trong tình thế ấy, Xuân Diệu vẫn đương đâu bảo vệ thơ mới

<small>và chứng tỏ bản lĩnh thi sĩ của mình : “The mới là một trong các hiện tượng dan tộc.Nó đã góp vào "văn mạch ddn tộc”... Trong phần 161 của nó, thơ mới có mội lịng</small>

véu đời, yêu thiên nhiên. dat nước, yêu tiếng nói dan tộc. Thơ mới là một tiếng háidau khổ không chịu vui với các xd hội ngang trái, vài dập đương thời. Thực ra dung

<small>ở vị trí tự tưởng của ta hiện nay mà buộc nặng cho thở văn trong hệ thống khơng</small>

cách mạng là rất dé, nói sao cho thấu lý đạt tình thì khó hơn". Như một phan ứngdây chuyển, một cao trào "hạ bé” thơ mới lập tức được day lên. Xuân Dieu trởthành một nguyên cớ, một trọng điểm để phủ nhận và chính ơng là người đã “ia

<small>giá” nhiều nhất : "Thời dại của “Phơ thơ” ¢da “Phấn thông vàng” đã gua từ lâu</small>

<small>rồi và không bao giờ trở lại" (Hồng, Chương). Tuy đau nhiều nhưng Xuân Diệu</small>

khơng che nổi sự bất bình : ”?2¡ thay người ta thường dùng lối nói "bơi vơi” nịng

noc "dit đi” như vậy là đổi với những trường hợp như: cái thời mà chủ nghĩa Twbản và đế quốc làm mưa làm gió trên thé giới da vĩnh viễn qua rồi và khơng bao gid!trở lại. Cịn trong văn học nghệ thuật là nơi tính phi dinh gắn chặt với tính kế thừa

thì nói như vậy rồi, can phải nói thêm nữa mới dúng hoàn toàn... Thời đại của

<small>phong trào thơ mới 1932 - 1945 da qua nining những tác phẩm uu tú trong phongtrào đó tơi thấy rằng nó khơng qua. Ta tiếp nhận có phê bình. phê bình gắt gao nữa.nhưng có phải là chuyện đào sau chơn chặt thế nào được” |9 - Te 142|. Tình hình</small>

trở nên căng thẳng và bất lợi cho Xuân Diệu khi Hồ Ngọc Hương viết về "Lời kỹ

nữ” : "Fhái dé Xuân Diệu trong bài thơ này chẳng những không cam tay dat người

<small>con gái bị sa ngã đứng lên mà còn ru ngữ cơ ta trong khối cảm truy lạc và dui cô</small>

ngã xuống trôi tudn tội" {45 - 12/1959] Xuan Diệu lại phải cố giải thích rõ ngọn

ngành, cố thuyết phục: "Lời kỹ at tiớp nhận một truyền thống có đâ lâu trong văn

thơ Trung ()uốc. Việt Nam. Những người thanh quý, sắc tài, biết suy nghĩ bị xã hộivùi dập, dang cam thương. Chủ dé “Lời kỹ nữ” là nỗi dau khổ. cô liêu. nồi lạnh lêosuối xương da của mội người chỉ đứng ở cương vị là một cá thể. "Lịng k§ nữ cũng

sâu như biển lớn. chớ để riêng em phải gặp lòng em”. Lòng kỹ nữ, lịng thi sĩ"...

<small>12</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

Có thể người phê bình chưa thẩm thấu hết các tảng ý nghĩa của hình tượng

thơ, hoặc người ta cố tình gần ghép ? Dù ở thái cực nào cách phê bình ấy sớm muộncũng mang “tai va" đến cho nhà thơ. Không thế sao được; khi bốn câu thơ của Xuân

<small>Diệu trong bài "Gio" (Riêng - Chung - 1957) :</small>

<small>"Hon ta cánh rộng mở</small>

Hai bên gió thổi vào

<small>Nghĩ những điều hon ho</small>

<small>Như trời cao, cao, cao”</small>

<small>lại bị bat bẻ: "Gió hai bên là gió gì ? Bm chạy theo thứ gió hai bên là thứ buồmgì? Bm chạy theo thứ gió hai bên không phải là thứ buồm của tu tưởng vô san.</small>

<small>Chỉ có thứ buồm của ne tưởng cơ hội mới chạy theo thứ giá hai bên mà thái"</small>

{9 - Tr 143]. Phải chăng đây mới thực là thời kỳ mà mot vài nhà phê bình tha hồ

<small>"làm mua làm gió trên văn đàn", nhưng may man là nó "dd qua từ lâu rồi" và"không bao giờ trở fai”. Nhân bàn về Xuân Diệu, thiết tưởng cũng nên mở rộng địa</small>

bàn thơ mới để hình dung đây đủ cái diện mạo của phê bình van học lúc bấy giờ và

<small>cắt nghĩa vì sao Xuân Diệu được coi là một nhà thơ mà sự thành bại, vinh nhục đềugắn bó với những chặng đường thăng tram của thơ mới. Ngày nay nhìn lại, chúng ta</small>

<small>thấy chưa bao giờ có trong phê bình văn học giọng điệu lạ lùng này: "Nói đến</small>

<small>chuyện tinh yêu trong thơ mới đối với thanh niên thành thị lúc ấy thì thực "gai dungchỗ ngứa” quá” 14 - 5/1969. "Thơ cũ hav thơ mới mà nội dung không tốt cũng “vứt</small>

di" [74 - 5/1969]. Chưa dừng lại ở những lời lẽ ấy, nhà phê bình thấy cần phải tiếp

<small>tục : “Tinh yêu và sự hưởng lạc lại cần tiền, các nhà thơ, các nhà văn lãng mạn lại</small>

nghèo cả cho nên buồn. Tình vêu bng thả tự do và sự hưởng lạc là hai lê sống của

<small>anh... Những người con trẻ thì mo ước sng. Những kể đã dày dặn thì cùng lắm chỉ</small>

<small>làm sa ngã dược mấy cơ con gái nhà lương thiện... Nhưng thơng thường anh khơng</small>

có diều kiện để yêu và hưởng lạc cho nên anh hay ước mơ. Nhưng anh không mo

<small>mãi được do dé anh buồn. Mặt khác sự hưởng lạc di dược thoả man cũng vẫn có</small>

mặt trái cua nó. Chẳng han sự truy lạc it nhất cũng làm cho cơ thể bại hoại. Xác thị

được thoả man thì miệng dắng. Tự bó minh trong cuộc sống quanh quẩn, tất nhiên

sé dân dan thấy cuộc sống vơ nghĩa" [74 - 5/1969].

Có thể coi day là biểu hiện của lối phê bình cực đoan mot thuở. Sau này Chế

Lan Viên kể lại rằng : "?2¡ nhớ năm 1960, trong mội buổi người ta "dấu" Diệu vi

Diệu đã cho rằng thơ Tố Hữu là thoát thai từ thơ mới. Tôi dé ứng hộ Diệu và bảorằng thơ mới là máu thị! của dan tộc. Dù rơi vai trên đường cũng nằm trong văn

<small>13</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">

mạch dân tộc, không thể via di. Tố Hữu cũng dã đồng ý với chúng tôi và nhắc lại

<small>việc mình yêu "'Tiếng sáo thiên thai” cua 7hé Lữ, "Em ăn hộ quả sim này” của</small>

Lưu Trọng Lu nói lên cái gì trong sáng, tươi mát trong tâm hồn... Tuy thẳng lợi,Diệu vẫn cịn cay sau cuộc "dao có mài mới sắc” ấy. Nhưng tơi nghĩ khơng phảiDiệu cay vì chuyện cdi vã "mắt xanh mắt thit" ấy mà cay vì những vấn đề cao hon,

lớn hơn, đó là vị trí của cái hương "Individu"”, cá nhân. bản ngã trong mùa tập thể,

đó là vị trí cua dong sơng lãng mạn trữ tình trong địa lý thi ca" [88 - Tr 7].

Lat lại mot chút ký ức phê bình để chúng ta hiểu thêm một khía cạnh nữatrong bản lĩnh thơ Xuan Diệu. Và thêm một lý do để giải thích vì sao Xuan Diệu

<small>được coi là một sế phan thi ca tiêu biểu cho ca thế hệ thơ mới,</small>

4. Khoảng thời gian trước và sau những năm bảy mươi người ta đã có cái có cáinhìn 4m 4p hơn đối với thơ mới. Khong còn thái độ "mat sát. vo đũa cả nắm" như

trước mà đã đi vào phân tích những đóng góp tiến bộ trong những thời kỳ khác nhau

<small>theo tinh thần mà đồng chí Trường Chinh đã u cầu. Vi vay, bầu khơng khí văn</small>

<small>nghệ khơng cịn quá ngột ngạt đối với các nhà thơ mới. Nhà thơ Tố Hữu cũng đãgóp một tiếng nói vừa như tâm tinh, vừa như thức tỉnh : "T2¡ cũng thích nhạc diệuvà hơi thơ của Thế Lit, Lưu Trọng Lư. Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Huy Cận... Trong</small>

tâm hồn các anh lúc đó. tơi tìm thấy những nổi băn khoăn, dau buôn của những

<small>người cùng thế hệ doi hỏi tự do, ước mơ hạnh phúc, tuy các anh chưa tìm thấy lối ra</small>

<small>và nhiều khi rơi vào chán nản" [47 - Tr 4291.</small>

Vào thời điểm này, mặc dù nhận thức được sự thái quá, cực đoan trong cách

đánh giá của một số người trước đó, nhưng hình như ở những nam đầu, các nhà phê

bình nghiên cứu vẫn ít nhiều ngân ngại khi nhắc đến trào lưu thơ mới. Một thời giandai sau ngày miền Nam giải phóng, người ta vẫn rất dé chừng với thơ mới-và chưa

ai dam vượt ra ngồi ý tưởng về một loại "Iho xi tay như nước chảy xi dịng"

<small>[50 - Tr 35]</small>

<small>Riêng với Xn Diệu, đây là thời ky sắng tao sung sức nhất bộc lộ trên nhiềulĩnh vực: sáng tác thơ và nghiên cứu. Riêng trong địa hạt thơ, Ong đã đóng góp cho</small>

thơ ca hiện thực xã hội chủ nghĩa một bề dày tác phẩm khó ai sánh kịp. Những cơng

trình nghiên cứu, những bài viết về Ong thời kỳ này hoặc đi vào một tập thơ cụ thể,

một khía cạnh cụ thể của thơ ông, hoặc nghiên cứu, đánh giá tổng quát cả hai chặng

đường trước và sau cách mạng. Loại trừ một khối lượng không nhỏ những bài báorai rác hàng năm trên các báo, tạp chí chuyên ngành, cần phải kể đến mot số cơng

<small>14</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">

trình nghiên cứu cơng phu, có hệ thống về Xn Diệu, và khơng bỏ qua những đóng

<small>gp của Ong trong phong trào thơ mới như : "Phong trào thơ mới" - Phan Cự Đệ</small>

<small>"Nha văn Việt Nam" (1945 - 1975) của Phan Cự be, Hà Minh Đức. "Nhà thơ Việt</small>

Nam hiện dai" (cơng trình tập thể của nhiều tác gia).

<small>"Phong trào thơ mới” của nhà nghiên cứu Phan Cự be tuy không đi vào</small>

từng tác giả cụ thể ma chủ yếu đề cập một cách đồng bộ đến cả trào lưu, nhưng khiđi vào giải quyết từng vấn đề cụ thể của thơ mới, nhà nghiên cứu cũng đã kết hợpvới việc miêu tả chân dung : "Điểm nổi bật trong thơ Xuân Diệu là một lòng ham

<small>sống say sưa bồng bội" |29 - Tr 99| hoặc "?rong các nhà thơ mới, có lẽ Xn Diệu</small>

là người cảm thấy cơ don một cách thấm thía nhất" [29 - Tr 134]. Ngồi ra, tác giả

<small>cũng đã đánh giá khá cao những đóng góp của Xn Diệu về cách tân nghệ thuật:</small>

ngơn neff, vân điệu, Am luật v.v..

Trong cuốn "Nhà văn Việt Nam” với một khoảng lùi cần thiết của thời giancho những nhận xét chừng mực, công bằng, nhà nghiên cứu Hà Minh Đức tiếp tục

khẳng định : "Xuân Diéu là một trong những nhà thơ nổi tiếng nhất của phong trào

<small>thơ mới, nhà tho của tình yêu và tuổi tre này trước cách mạng dã một thời say dam</small>

<small>và tu đóng khung mình lại trong thé giới yên dương và mộng tưởng" [35 - Tr 6101.</small>

"Cái tập thể nhỏ của đôi lứa tưởng như có thể chan hồ bằng trăm ngàn sợi daythương mến và niềm đồng cảm sâu sắc nhất. nhưng chính ngay nơi ấm cúng này lạithấm thía cơ don và con người vẫn tự chia sé ra nhiều ngăn cách” |35 - Tr 610].

Không dừng lại ở những nét chủ đạo của thơ Xuân Diệu trước cách mạng thángTám, nhà nghiên cứu cịn chỉ ra tính nhất qn trong phong cách sáng tạo của Xuân

Diệu xuyên qua hai thời ky và kết luận : “Neh? đến anh là nghĩ đến một bản chất thiSĩ giầu có như mội tiêm năng, mot động lực của sức sang tao"

<small>Trong "Nha tho Việt nam hiện đại", nhà nghiên cứu Mã Giang Lan cũng</small>

khang định lại vị trí và những khía cạnh đặc sắc của thơ Xuan Diệu trước cách

mang thang tam : "Thơ Xuân Diệu lúc này là niềm say sua khát khao cuộc sơng. làtâm hồn nồng nhiệt với tình yêu".

Trong “Tt điển văn học" Nguyễn Van Long viết: "Xuân Diệu nhà thơ tiểu

biểu nhất của giai doan phái triển mạnh mê và rực rỡ của phong trào thơ mới (1936

- 1939)" và nhận xét về “Tho thơ” "là tập thơ tiêu biểu nhất của Xuân Diệu trước

cách mạng và cũng là thành tựu nổi bật nhất của Xuân Diệu trước cách mạng vàcũng là thành tựu nổi bật nhất của thơ mới trong giai doạn phát triển rực rỡ nhất

<small>15</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">

<small>của nó (1936 - 1940). "Thơ ông khi dé bộc lộ một cách nông nhiệt những ham muốn</small>

của cái tôi... Kêu gọi tuổi trẻ tận hưởng hạnh phúc trần thể... nhưng luôn luôn cẩm

<small>thấy mong manh khơng thoả man". Về "Gui hương cho gió" : “khơng còn những</small>

rao rực tha thiết của tập thơ dau, cát hối hoảng vội vàng da trở thành nỗi cô don

<small>rợn ngợp” [57 - Tr 605...</small>

Nhìn chung các ý kiến đánh giá về Xuân Diệu trong giai đoạn này thườngđược cân nhac kỹ càng về tỉ lệ giữa khen và che, giữa thành công và hạn chế. Tuy

vay, tất cả các ý kiến đều dựa trên cơ sở khoa học và khách quan khi khẳng định

những đóng góp của Xuân Diệu trong thời kỳ thơ mới và những ảnh hưởng tích cực

của nó ở giai đoạn sau. Do những khn khổ giới hạn nhất định cửa thời đại, nhữngcơng trình trên chưa có điều kiện đi sâu nghiên cứu tồn bộ hệ thống thi pháp thơ

Xuân Diệu để có thể đánh giá một cách thỏa dang hon giá trị nội dung và nghệ thuật

của thơ ơng. Tuy nhiên đó vẫn là những tiếng nói lý luận mang ý nghĩa xã hội sâusắc, góp phần vào việc tạo dựng nền tang lý luận phê bình vững chắc trong suốtmấy thập kỷ qua.

5. Có thể coi những năm cuối của thập ky tam mươi đầu chín mươi là thời kỳ

đây biến dong của đất nước nói chung và văn học nói riêng. Ngọn gió đổi mới thổiqua vùng trời lý luận phê bình xua di tất cả những gì có thể coi là u ấm, ngột ngạttrước đây. Trong bầu khơng khí dân chủ và cởi mở, người ta bỗng nhận ra nhữngcái hẹp hịi, máy móc, nhiều khi tho bạo đến nghict ngã trong ứng xử văn chương đã

dẫn: đến nhiều nỗi oan khien thậm chí cả những, bi kịch tinh thần cá biệt cho vănnghệ sĩ trong quá khứ. Chỉ đến lúc này, người ta mới có cơ hội để giải thoát những

4m ức của minh: “chả lê in được thơ của vua, cua quan, của sự sdi thời phong kiến

nữa lại sợ thơ của mấy anh hiện dại nghèo kiết xác tiểu tw sdn và chưa ai là Tư sản”

[88 - Trl2] và trong cách đặt câu hỏi của Chế Lan Viên đã có chiều lý sự: “Đán tộc

ta nghèo, đâu có gì nhiều mà bạ cái gì cũng via. LO có hịn da nào dùng được, lỡ cóvàng nữa thì sao. lỡ dé là máu thịt thì ta có tội” [R8 - Tr 12|. "Về văn học trướccách mạng, chia ra nào lang man, nào hiện thực phê phan, nào hiện thực xã hội chủ

nghĩa thì cũng ding và cũng nên. Nhưng chia ra dé làm gì ? Nếu chỉ dé nói là

chúng chống nhau, "nam nữ thọ tho bất thân" “nội bất đắc xuất ngoại bất đắc nhập”

thì nguy khiếp lắm !. Cho dù "đồng sàn dị mộng” thì cũng có lúc gác tay gác chân

lên nhau qua lại chứ ! sao lại không nghĩ là càng thời với nhau, chúng chịu ảnh lan

nhau. có khi chống đối, có lúc bổ sung có khi thoả hiệp chứ dâu chỉ có quan hệ

lườm nguýt mới là quan hệ. Ai hiện thực bằng Vũ Trọng Phụng mà lại là bạn thân

<small>i kỳ</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">

<small>của Luu Trọng Lit. Nguyễn Cơng Hoan người thầy hiện thực thì mê Tan Đà lại ở</small>

<small>những bài mơ mộng nhất, lãng mạn nhất” [88 - Tr I l|</small>

Đời sống phê bình trở nên sơi động, không hẳn là sam hối, là ăn nan nhưng

đã đến lúc người ta thấy cần thiết phải xem xét và đánh gía lại một cách thoả đángnhiều giá trị dang rơi vào quên lãng. Một trong những mang văn học thu hút sựquan tâm của đông đảo các nhà phê bình là trào lưu van học lãng mạn 1930 - 1945

<small>mà trọng tâm là thơ mới. Hàng loạt những cơng trình nghiên cứu về thơ mới đã ra</small>

đời bù dap lại sự thiếu hụt và phiến diện trước đó : "Tho mới, những bước thăng

trầm" - Lê Dinh Ky - 1988, "Nhìn lại một cuộc cách mạng trong thơ ca" (Hà

Minh Đức, Huy Cạn - 1993), "Con mắt thơ" (Đỗ Lai Thuy - 1992)... Trong sựbùng nổ ấy, mot lần nữa Xuân Diệu lại được phong tặng những danh hiệu quangvinh mà chỉ những người trọn đời cống hiến, trọn đời đam mê như Ong mới xứng,đáng được hưởng. Hoàng Trung Thong trong lời giới thiệu tuyển tap thơ Xuân Diệu.đã nghiên cứu kỹ càng, công phu về mối quan hệ giữa nhà thơ với đất nước, nhân.

<small>dân, thời đại, về con đường đi của Xuân Diệu từ một nhà thơ Lãng mạn đến một nhà.</small>

thơ Hiện thực xã hội chủ nghĩa và đặc biệt là đã chỉ ra được những nét riêng biệt

của bút pháp thơ Xuân Diệu chủ yếu ở giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám. Khi

Xuan Điệu qua đời, một loạt bài tưởng niệm của Hà Xuân Trường, Thép Mới, VũQuần Phương, Chế Lan Viên, Huy Can... vừa là những tấm lòng bè bạn tiếc thương,

<small>vừa là những vịng nguyệt quế cuối cùng khốc lên cuộc đời và sự nghiệp của nhà</small>

thơ. Với tinh thân thực sự đổi mới, thực sự dan chủ và bằng độ nhạy của nghệ thuật

<small>cao, nhiều bài viết, cơng trình có giá trị đã tập trung khai thác chặng đường thơ</small>

<small>Xuan Diệu trước cách mạng thang Tam. Với một hàm lượng thơng tin khá lớn,</small>

trong cuốn "Nhìn lại một cuộc cách mạng trong thi ca", nhà nghiên cứu Hà Minh

Đức qua câu chuyện với nhà thơ Tế Hanh đã khẳng định dứt khốt vị trí của Xuan

Diệu: "Nếu cẩn chọn năm nhà thơ tiêu biểu nhất của Phong trào thơ mới thi theo

anh đó là những ai ? Tế lanh suy nghĩ và bảo: kể cũng khó, nhưng theo tơi thì phải

kể dến Thế Lữ, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Han Mạc Tử... Nếu chọn mội

người tiêu biểu nhất thì theo anh là ai ? Tế Hanh trả lời nhanh hơn: Đó là Xuân

Diệu" [69 - Tr 75]. Nói về mang tho tình yeu, nhà nghiên cứu cing cho rằng: "Xuân

Diệu là nhà thơ tình bậc nhất trong thơ ca cua thời kỳ hiện dại" |67 - Tr 75]. Nhànghiên cứu phê bình Lê Đình Ky gọi : "Xuân Diệu là nhà thơ sốmội của cái tôi”, và

"tiêu biểu cho thơ tiền lãng mạn là Tản Đà, tiêu biểu cho thơ lang mạn toàn thịnh

sau 1930 là Xuân Diệu" Rôi liên tục với : Nguyễn Đăng Mạnh : "Xuân Điệu - nhà

thơ của niềm khát khao giao cảm với đời". Mã Giảng TÂN. š

<small>YHIIRE</small>

<small>[THU su |</small>

| yo Pete

17 a. is; :

° Ai hing cũa

</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">

<small>Xuân Điệu", Lê Quang Hưng: "Cái tơi độc đáo, tích cực của Xuân Điệu trong</small>

<small>phong trào thơ mới". Đô Lai Thuy “Xuan Điệu - Nỗi âm ảnh thời gian", Le Tiến</small>

Dũng: "Xuân Điệu - một đời người, một đời thơ" vv... Dù ở nhiều góc độ tiếp cankhác nhau và bằng những lập luận khác nhau, những bài viết có giá trị trên đây đềuđi đến kết luạn: Xudn Diệu là một trong những đỉnh cao của phong trào thơ mới.

<small>Theo chúng tôi, những ý kiến cho Xuân Diệu là guong mặt thơ xuất sắc nhất, tiêu</small>

biểu cho trào lưu thơ ca lãng mạn ở thời điểm cực thịnh là hoàn tồn xác đáng. Hơn

<small>nữa, nó cần được coi như là một cách nhìn chính thống của giới phê bình nghiên</small>

cứu đối với một nhà thơ đã góp cơng sức lớn lao vào sự nghiệp hiện đại hoá thơ ca

<small>dan tộc, tạo nên một thời ky vàng son rực rỡ có một khơng hai từ trước đến nay.</small>

<small>6. Ngồi ra cịn phải kể đến một số cơng trình nghiên cứu về Xuân Diệu xuấtbản tại Sài Gòn trước ngày 30/4/1975. Loại trừ những cuốn sách mang tư tưởng</small>

chống Cộng lưu hành nhan nhan khấp miền Nam trước kia, ta thấy có những cơng

<small>trình 1phiên cứu cơng phụ, khách quan, có ý nghĩa khoa học va lịch sử nhất định.</small>

Trong số đó phải kể đến : "Bảng lược đồ văn học Việt Nam - Ba thế hệ của nềnvăn học mới" - Thanh Lãng; "Việt Nam văn học sử yếu - Giản ước Tân biên" -Phạm Thế Ngũ; "Thi nhân tiền chiến" - Nguyễn Tấn Long, Nguyễn Hữu Trọng...

Do bối cảnh phức tạp của chế độ chính trị chính qun Sài gịn cũ trước kia, hầu hết

<small>những thành tựu văn nghệ đều bị ngắt quãng từ giai đoạn 1945 trở về trước. Vì vậy,</small>

nghiên cứu Xuân Diệu các ý kiến tập trung khẳng định thành tựu của Xuân Diệu

<small>trước cách mạng tháng Tám mà doi khi bỏ qua,hoặc cố tình phủ nhận những đónggóp của ơng ở giai đoạn sau.</small>

Cùng viết về Xuan Diệu và cùng có những nhận xét tương tự, thống nhấtnhưng mỗi một học gia có một cách tiếp cận đối tượng riêng. Thanh Lãng trên cơ sởnghiên cứu sự vận động của đồ thị văn chương đã chọn cho mình một lối viết thiên

về khái quát, Ong chỉ nêu van tắt : "Xuân Diéu sống bằng cái mới” và" cũng như Thế

<small>Lữ, Han Mạc Tứ sau này, Xuân Diệu là nơi tụ họp cua ba dòng ảnh hudng:"Lang</small>

mạn - Thi sơn - Tượng trưng". Pham Thế Ngũ cũng dựa trên sự phát triển theo chiều

dài của van học, nhưng ông viết về Xuân Diệu kỹ hơn:khảo sát từ những bài thơ đầu

tiên của Xuan Diệu gửi đến Phong hố, cho đến những thành cơng của Xn Diệu

về sau trong các mang thơ về tình yêu, về thiên nhiên, và cả mang thơ triết (theo

ong gôm "Đi thuyền", "Giờ tàn","Thời gian","Chiếc lá"...). Dac biệt Phạm ThếNgũ chú ý nhiều đến những đóng góp của Xn Diệu về hình thức, ngôn ngữ thơ

"Xuân Diệu mang đến cho thơ nhiều cái mới lạ nhất" [6T - Tr 574|.

<small>18</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">

: Nguyễn Hữu Long, Nguyễn Tấn Trọng chủ yếu đi vào sự so sánh mang tínhchất đồng đại, bằng cách ấy, hai tác gia đã nghiên cứu về Xuân Diệu tương đối

<small>loàn diện từ những "a tong thi ca", những luồng du luận ngược chiều về</small>

Xuân Diệu khi Ong mới xuất hiện tren thi đàn đến triết lý sống của Xn Diệu quathì ca cùng những ngun nhân thành cơng của tho Xuân Diệu: "Tu iưởng lạc

<small>quan về cuộc sống đã chiếm hâu hết thi phẩm của Xuân Diệu. Đâu đâu cũng</small>

thấy một nguồn sống rào rat, lời yêu đương ft khi vắng bóng", "Xn Diệu thì hồntồn mới cả hình thức lân tư tưởng".

Có thể thấy rằng, về tổng thể, những ý kiến trên đây đều nằm trong giới hạn

<small>của những điều mà Hoài Thanh đã đưa ra trong "Thi nhân Việt Nam". Nhưng nếu</small>

đặt nó bên cạnh những thái độ muốn phủ định hồn tồn của nhóm "sáng tao" gồmThanh Tam Tuyển, Mai Thao, Trần Thanh Hiệp, Tô Thuy Yên - Những người cố

<small>tinh vứt bỏ : “ném trả nghệ thuật tiền chiến về với quá khứ của nó” và thơ mới là</small>

"mot thứ thơ với nhạc điệu ngớ ngẩn, tư tưởng tâm thường" ta mới thấy hết ý nghĩa

khẳng định tích cực của các cơng trình trên. Hơn nữa, day là cách nhìn nhan và

đánh giá chung của giới hoc giả trí thức Sài gon cũ về hiện tượng thơ mới. Khongphải ngẫu nhiên mà quan điểm trên được ấp dụng và phổ biến rộng rãi trong hệthống học đường thời Mỹ nguy.

7. Xuân Diệu không chỉ là một nhà thơ lớn của dân tộc mà còn là một nhà

hoạt động van hoá, một thi sĩ nổi tiếng ở nhiều nước tren thế giới. Đông bào Việt

Nam ở Pháp ln đành cho nhà thơ một tình cảm đặc biệt đi đối với niềm tự hào,ngưỡng mộ trước một tài nang thơ ca dân tộc, Nam Chi, một Việt kiều ở Pháp đã cócái nhìn thấu lẽ đạt tình về “Trường hợp Xuân Diệu" : "Tập thơ thơ xuất bản mộtngày Nô en 1938 là thịnh thời của tho mới... “Gửi hương cho gid" xuất bản năm

1945 là cao điểm. đồng thời là dia điểm", "Về ý lần lời. Xuân Diệu là người tạo sinh

<small>luc cho thơ mới” [69 - Tr 89|</small>

Xuan Diệu đã sang Pháp nhiều lần, vì vay khong chỉ riêng việt kiều mà

nhiêu văn sĩ Pháp cũng dành cho ơng những tình cảm gắn bó. Nữ thi sĩ

Mitray- Gangxen một bạn thơ của Xuân Diệu gọi Ong là "Người hát dao của nhân

dân trong thời kỳ hiện đại". Về chặng đường thơ của Xuân Diệu trước cách mangtháng Tám, bà viết: "Xuân Diệu với những nhà thơ cùng thé hệ... đã dem lại cho nền

thơ ca Việt Nam trong thời gian trước cuộc cách mạng năm 1945 một sự đội phá,

một âm điệu mới dưa nền thơ ca của đất nước thoát khỏi thời đại phong kiến và dân

nên thơ ca ấy vào thế kỷ XX day biến động lớn" |69 - Tr 127].

<small>nhủ</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">

<small>Nữ thi sĩ nổi tiếng Bungari: Blaga Đimitrôva - mot người bạn tam đắc của</small>

<small>Xuan Diệu đã cảm nhận sâu sắc hồn thơ ong và viết : "ho anh phôi thai nẩy mam</small>

<small>từ sữa. mật cua dất", Hoặc tinh tế hơn: "Nhà thơ khát khao thiên cam về cuộc sống</small>

<small>va mdi giây trôi di cũng làm cho cuộc sống bị tổn thương". Marian Tcasép (Liên xô</small>

<small>cũ) ca ngợi Xuân Dieu như “một tai năng tươi sáng và phong phú". M.lIlinski gọi</small>

<small>Xuan Diệu là "nhà the quốc tế chủ nghĩa” vv.. Đồ là tất cả những gi tốt đẹp còn</small>

<small>đọng lại trong tâm tưởng bè bạn năm châu về đời thơ Xn Diệu.</small>

<small>Những cơng trình nghiên cứu hết sức đa dạng và phong phú trên đây đã</small>

<small>mang đến cho chúng tơi một cái nhìn tồn diện, lịch sử và khách quan về Xuân</small>

<small>Diệu. Đông thời cũng gợi thêm một số vấn đề cần thiết để chúng tôi mở rộng và đisâu hơn trong luận ấn của mình...</small>

IV. CƠ SỞ LÝ LUẬN VA PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN COU:

<small>Hệ thống lý luận triết học Mác - Lê nin bao gồm chủ nghĩa duy vật biệnchứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử là cơ sở phương pháp luận chung của luận án.</small>

Trong q trình nghiên cứu chúng tơi đã thừa kế nhiều cơng trình, nhiều phương .

<small>pháp khác nhau từ trước đến nay về Xuân Diệu. Đồng thời cố gắng tìm những biện</small>

pháp: hữu hiệu nhất để lý giải một hiện tượng nghệ thuật, mot nhà thơ được đánh giálà tiêu biểu nhất, nổi bật nhất của trào lưu thơ ca lãng mạn Việt Nam.

Khi tiếp cận với những nội dung cụ thể, chúng tôi tiến hành triển khai vấn đề

<small>theo nhiều phương pháp khác nhau : ở Chương I, chúng tôi van dụng chủ yếu làphương, pháp phê bình cam thụ truyền thong kết hợp với phương pháp so sánh(chúng tôi thường xuyên đặt Xuân Diệu trong mối tương quan với các tác giả cổ</small>

điển truyền thống và một số tác giả tiêu biểu cùng thời). Ở Chương II, Chương II

chúng tơi có vận dụng một số thao tác cơ bản của thi pháp học như thống ke, đốichiếu, hệ thống hóa, xếp chồng văn bản... Từ góc độ này, chúng tơi đã và có thể tìmra những quy luật chỉ phối đến thế giới da dang của hình tượng thơ. Hơn nữa, sựtiếp cạn với thi pháp giúp chúng ta vươn tới sự khái quát mang tính hệ thống về

quan niệm nghệ thuật, về cam hứng của cái tôi chủ thể, về hệ thống hình tượng,

hình ảnh, về tần số xuất hiện các văn bản, về hệ thống thể loại... Cùng với sự kết

hợp nhiều phương pháp phân tích, tổng hợp, khái quát hóa ở nhiều góc độ và cấp độ

khác nhau, chúng tôi hy vọng sẽ phat hiện them mot số đặc điểm thuộc về thi pháp

tác giả (trong sự tương tác với thi phap trào lưu) của một nhà thơ có cá tính sáng tạo

độc đáo vào bac nhất của thơ lãng mạn Việt Nam.

<small>20</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">

V. CÁI MỚI CỦA LUẬN ÁN:

Như đã trình bày ở các phần trên, mục đích của chúng tơi là cố gắng đưa ra

một cái nhìn tồn điện và khoa học về toàn bộ sáng tác thơ của Xuân Diệu trước

<small>cách mạng tháng Tam. Vì vay, trong quá trình tiếp cận đối tượng, chúng tôi mở ra</small>

<small>nhiều hướng khác nhau và đặc biệt chú trọng đến những tìm tịi độc đáo về nghệ</small>

thuật biểu hiện. Bên cạnh sự khái quát những giá trị đặc sắc về mặt nội dung (bansắc của cái tơi trữ tình), luận án chúng tơi, bằng những khảo sát hết sức cụ thể đã

<small>chỉ ra được những đặc điểm nổi bat trong thí pháp thơ Xuan Diệu (cụ thể như 6</small>

<small>chương Il: Thời gian và khong gian nghệ thuật trong 2 tap “Tho tho” và "Gửi</small>

<small>hương cho gió", Chương III: Ngơn từ, hình ảnh, nhạc điệu...)</small>

VỊ. Ý NGHĨA LÝ LUAN VÀ THỰC TIEN CUA LUAN AN:

<small>Lý luận : Luận án đã đóng góp một kinh nghiệm nhỏ vào phương phápnghiên cứu mo hình tác gia (loại hình tác giả van học Viet Nam hiện đại).</small>

- Dưới góc đọ thi pháp học, luận án đã khẳng định mối quan hệ giữa thi

pháp tác giả với thi pháp trào lưu. (Xuân Diệu với "Phong trào thơ mới”)

Thực tiễn : - Luận án có thể trở thành mot chuyên đề giảng dạy cho sinh

<small>viên ngành van học.</small>

- Những tư liệu và kết luận của luận án có thể sử dụng vào việc biên soạn

giáo trình văn học Việt Nam hiện đại dùng cho các trường Đại học, Cao đẳng, sách

giáo khoa dùng cho các trường Phổ thông trung học và các loại sách nghiên cứu về

<small>lịch sử văn học Việt Nam 1930 - 1945.</small>

Vil. BO CỤC VÀ NỘI DUNG CUA LUẬN ÁN:

A Phần mo đầu:

I- _ Tính cấp thiết của đề tài

II- Tinh hình nghiên cứu vấn dé

<small>IH- Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu</small>

IV- Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu:

<small>V-_ Cái mới của luận ân:</small>

Mi» ¥ nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án:

<small>2I</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">

B- Phần nội dung:

Chương I. Cái tôi trữ tinh của Xuân Diệu qua hai tập Thơ thơ và Gửi hương

<small>cho gio.</small>

1- Mot cái tôi cá nhân luôn luôn được khẳng định

<small>I]- Mot cái toi khao khát sự sống, tình u</small>

<small>II - Một cái tơi buồn và cơ đơn</small>

Chương II : Thời gian nghệ thuật và không gian nghệ thuật của “Tho tho" và "Gửi

<small>hương cho gid".</small>

<small>I- Thoi gian nghệ thuật</small>

<small>II - Không gian nghệ thuật</small>

Chương III : Phương thức biểu hiện

</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">

B - NỘI DUNG

Chương I:

CÁI TƠI TRỮ TÌNH CỦA XN DIỆU

QUA "THƠ THƠ" VÀ "GỬI HƯƠNG CHO GIĨ"

| - MỘT CAI "TƠI" CÁ NHÂN LN LN ĐƯỢC KHẲNG ĐỈNH :

Thơ ca mn đời vẫn là sự bóc lộ cam xúc của chủ thể sáng tạo trước con

người và tạo val: "Mdy gió có hoa vinh imi kỳ diện đến dau hết thấy cũng dều tự

trong lịng mình nẩy ra" (Ngơ Thì Nhậm). Song, nếu như trong thơ cổ. quan niệm"Thi di ngơn chí" "van di tai dạo" của Nho gia đã lấn At cái ban ngã thi gia thì

phong trào thơ mới ra đời là d6ng nghĩa với sự khẳng định cái "2ï" cá nhân (cái

"tâm trạng của những Individu, những cá thể cá nhân đâu thế kỷ 20” như Xuân Diệu

vẫn thường nói). Trước đó, ý thức hệ phong kiến chỉ phối quan niệm văn chương đã

tạo ra một nền văn học phi ngã theo kiểu A dong. Một đất nước hàng ngàn nam

sống lặng lẽ, cam chịu trong những tôn ti trại tự của lễ giáo phong kiến thì việc

khẳng định và dé cao cái tôi, cái ban ngã cá nhân bị coi là trai đạo. Từ đời này sang

<small>đời khác, triều dai này sang triều đại khác "cứng chỉ có bấy nhiêu tập tục, bấy nhiêu</small>

ý nghĩ, bấy nhiêu tin trưởng" cho đến những xúc cam vui buồn của con người dường

như cũng bị nhào nặn theo những, "2 hình" bất di bất dịch... Tiếp đến sự đô hộ lâu

dai của thực dan Pháp là một tai ương nặng nề cho dân tộc ta, nhưng đồng thời nó

cũng mở ra cánh cửa giao lưu văn hóa giữa phương Dong và phương Tay mà trước

đó dường như vẫn cịn đóng chặt. Cùng với sự sụp đổ của chế độ phong kiến Nam

triều là sự mục ruỖỗng dẫn đến tan rã của tầng, lớp than hào làng xã. Những cai cách

duy tân về kinh tế, xã hội đã kéo theo sự thay đổi và phát triển của nên văn hóa,

giáo dục. Các trường tiểu học, trung học Pháp - Việt với những ông giáo Tay học đã

thay thế cho các lớp học của các Thầy Đồ Nho làng xã. Các học sinh. sinh viên có

bằng Cao đẳng, Tú tài Tay đã làm mờ di vai trị của các ơng Nghe, Ong Cống. Văn

hóa phương Tây như một luồng gió mạnh xua tan những tan du tư tưởng của trật tự

<small>23</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">

<small>phong kiến cũ và chiếm lĩnh đời sống đất nước (chủ yếu là thành thị) thong qua</small>

tảng lớp thanh thiếu niên và tiểu tư san trí thức. Đó là những con người hấp thụ khá

<small>nhanh nếp sống Au hóa "ở nhà Tây, đội mũ Tây, đi giày Tây. mặc áo Tây... dung đèn</small>

điện, đồng hồ. 6 16, xe lửa, xe dap" dùng "dầu Tây, diém Tây" "vải Tây, kim Tay"

"định Tây”... Từ những sinh hoạt vật chất, văn minh phương Tây lan dần sang diahat văn hóa tinh thần. Sự khác biệt về “tdi hồn và cách biểu dat tâm hồn" của haithế hệ Nho học và Tay học đã bùng nổ trong thơ bằng cuộc xung đột giữa phái "thomới" và phái “tho cñ” : Đã đến lúc lớp trẻ "không thể vui cái vui ngày trước, buồn

<small>cdi buồn ngày trước, yêu ghét giận hon nhất nhất như ngày trước” [R1 - Tr 19].</small>

Cùng với văn xuôi lãng man, thơ lãng mạn ra đời là một sự khẳng định và dé

<small>cao cái "tdi", cái "bản nga", cá nhân, Nếu trong văn xuôi, đời sống cá nhân được</small>

khẳng định bằng những cuộc đấu tranh giải phóng con người tuổi trẻ, nhất là những

người phụ nữ ra khỏi những ràng buộc khất khe của lễ giáo phong kiến thì ở trongthơ đời sống cá nhân được bộc lộ bằng sự khao khát địi giải phóng tinh cảm, pháthuy bản ngã và tự do cá nhân. Sau bao nhiêu năm bị kim hãm, bị tước sạch ý thức

về sự tôn tại cá nhân, giờ chữ "167" với "màu sắc cá thể hóa rõ rệt” đã bat đầu hiện

điện trên thi đàn. "Ngdy thứ nhất, ai biét dich ngày nào, chữ “tôi” xuất hiện trên thidan Việt Nam. Nó thực sự bd ngỡ như lạc lơng nơi đất khách bởi nó mang theo mot

<small>quan niệm chưa từng thấy ở xứ này : Quan niệm cá nhân” (81 - Tr 53]. Vượt qua thế</small>

hệ tiên lãng mạn với những nha thơ tên tuổi như Dong Hồ, Tương Phố, Trần TuấnKhải, Tan Đà... các nhà thơ lãng mạn đã bước đầu làm mới thơ ca bằng bản sắc cánhân với dang dap do thị theo kiểu Tay phương của mình. Điều này cắt nghĩa vì saomột bac phong lưu tài tử như Tan Đà cũng trở nên lỗi thời và bất lực. Danh rằngTan Đà cũng cá nhân, cũng dễ thích ínp với đời sống thị thành nhưng cái cá nhâncủa Tan Đà là cái cá nhân, cái “ngdng” của một nhà Nho tai tử nên nó chỉ thích ứng

với đời sống do thị phương Dong. Ong không thể nhập cuộc vào đời sống Âu hóa,

vi vay Ong khong thể có sự đồng cẩm, sẻ chia tâm hồn cùng các nhà thơ mới. Nếu

nguyên lý "văn chương tải đạo” đã sin sinh cho dân tộc nhiều thế hệ nhà thơ kiêmhọc giả dao đức, luân lý thì thế hệ 1930 - 1945 đã dứt bỏ tất cả để sống mot cuộcsống nghệ sĩ đích thực. Khơng bận tâm với vai trị của các bậc "hiển nhân quan tử”,

khơng tự gị mình vào khn khổ hệ thống ước lệ “thi tinh", “thí tứ”, các nhà thơ

mới công nhiên phơi bày một ước muốn của đời sống cá nhân và coi cải tôi riêng

của nhà thơ như một đối tượng thẩm mỹ cân phai được khai thác triệt để. Cá nhân tự

ý thức là một biểu thị rõ rệt của tâm thức thời đại tạo nên nét mới trong cảm hứng

sáng tác, thúc đẩy thơ ca Việt Nam phát triển theo chiều hướng hiện đại : "Tho mới

'24

</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">

<small>khẳng định cái "tôi" như một bản lĩnh tích cực trong cuộc sống như một chứ thể</small>

<small>sáng tao độc ddo trong nghệ thuật" |37 - Tr 89|.</small>

Không phải ngẫu nhiên mà Xuân Diệu được coi là người phát ngôn đầy đủnhất cho tư tưởng cá nhân của phong trào thơ mới. Mặc dầu chưa phải là người di

<small>tiên phong nhưng trong "khát vọng được thành thật của thơ mới", Xuân Diệu được</small>

<small>mệnh danh là nhà thơ "số một cửa cái tơi” (Lê Đình Ky), Khong triển miên trong</small>

sầu mộng như Lưu Trọng Lư, không ấp ủ nhiều giấc mộng chính phu như Thế Lữ

<small>hay những hồi vọng xa xăm như Huy Thông..., với Xuân Diệu, cái ”z27” cá nhân</small>

được ý thức sâu sắc và mới mẻ hơn. Lần đầu tiên trên thi đàn, cái tôi tiểu tư san

<small>mạnh dan bày tổ những tâm tư thầm kín, những xúc cẩm yêu đương tuôn trào,</small>

những khát vọng được hưởng thụ không dit, không nguôi, hoa thom trái ngọt củacuộc đời trần thế. Vi thế Xuân Dieu không chỉ hoàn toàn mới lạ so với các thế he

<small>trước mà còn mới so với các nhà thơ cùng thời. Chỉ có Xuân Dieu mới có đủ độ</small>

nồng nàn say dam nhất của chủ nghĩa lãng mạn phương Tây, với một cách cảm nghĩnói năng rất phương Tay và một triết lý hưởng thụ cũng rất phương Tay :

<small>” Hai một mùa hoa lá thud măng ta</small>

Pot muôn nến sánh mặt trời chói lói

<small>Tha mot phut huy hồng rồi chợt tốiCon hơn buồn le lối sudt trăm năm”</small>

Người ta nồng nhiệt chào đón Xn Diệu bởi họ thấy chỉ có ơng mới bộc lộ

<small>tương đối đây đủ và "167 dé" những cái mới của thơ mới. Chính vì vay mà sự hiện</small>

diện của Xuân Diệu với một cái tôi độc đáo đã làm lu mờ một vài gương mặt tiêu

biểu của một. thời thơ mới trong đó có Thế Lữ.

<small>Sự thành cơng của Xn Diệu đã nói lên một cách đầy đủ sức mạnh chỉnh</small>

phục của cái mới. Đó là nguyên nhân tạo nên sự toàn thắng của thơ lãng mạn giai

đoạn cực thịnh 1936 - 1939. Trong thơ cổ điển truyền thống, người ta khơng thể tìmthấy dấu hiệu của cái "747" cá nhân mac dầu dân tộc Việt Nam không thiếu nhữngnhà thơ đây bản lĩnh. Nhưng chủ nghĩa trữ tình của văn học quá khứ là trữ tình phi

ngã nên khi boc lộ cam xúc, chủ thể trữ tình thường tự giấu mình đi : "Đấu xươ xe

ngựa hồn thu tháo. Nén cũ lâu đài bóng tịch dương" (Bà huyện Thanh Quan). Hoặctâm sự có riêng hơn một chút nhưng vẫn còn quá mờ nhạt : “Ta nhớ người xa cách

<small>25</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">

<small>núi sông. Người xa, xa lắm, nhớ ta không 2?“ (/zân Tế Xương). Tat cả cùng đều là</small>

tâm trạng, đều là "phát khởi tự trong lịng" (Lê Quy Đơn) nhưng thiếu han mau sắc

cá thể hóa trong cam thụ và sing tạo thẩm mỹ nên có thể gắn tâm tình ấy cho mot ai

<small>khác nghe vẫn xi xi. Thơ mới hồn tồn khác : thơ mới là thơ của cái tôi, viết</small>

về cái tôi. Đặc biệt, với Xuân Điệu, sự tồn tại của cái tơi được day lên với ý nghĩatuyệt đối của nó cùng với sự nấy nở ý thức phat huy bản ngã, phát huy tự do và tình

<small>cam cá nhân, Xuân Diệu không ngần ngại pho bay cái toi của minh. Thơ ông trần</small>

<small>ngập chữ “27”. Trong 47 bài của tập “Tho thơ”, có 25 bài nhắc đến chữ "167", Ui lệ</small>

<small>đó ở "Gửi hương cho gió" là 20/57. Tat nhiên là khơng thể căn cứ và số lượng,nhiều hay ít của chữ "767" để kết luận Xuân Diệu là nhà thơ tiêu biểu nhất của cái tôitrong phong trào thơ mới. Điều quan trong là cái tôi ấy được khai thắc và biểu hiệnở nhiều góc đọ, cấp độ khác nhau. Nó có thể là sự phơ diễn bức chân dung tự họa</small>

của nhà thơ, nhiều khi nhỏ nhoi, yếu đuối :

<small>“Môi chỉ là một cây kim nhỏ bé</small>

<small>Mà vạn vật là môn dé nam châm”</small>

<small>(Cảm xúc)</small>

<small>“Kôi la con chim dén từ núi lạ”</small>

<small>(Lời thơ vào tạp GHCG)“Lôi là con nai bị chiến danh lưới</small>

Không biết di đâu dựng sdu bóng tối"

<small>(Khi chiều piãng lưới)</small>

“Tơi là một con chim khơng 16"

<small>(Doi tra)“Tôi là kể qua sa mạc”</small>

<small>(Vi sao)</small>

“Tôi tà một ke làm thơ than

<small>Di hỏi tinh yêu giữa khoảng trời"</small>

<small>(Đi dạo)</small>

Nhưng cũng có lúc trở nên mạnh mẽ, quyết liệt :

<small>“Jơi là một kể điền cuồng</small>

<small>u những ái tình ngây dạt"</small>

<small>(Thở than)</small>

<small>26</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">

<small>vai trò chủ ngữ của câu thơ, người ta có thể lập ra mot hệ thống động từ chỉ những</small>

hành động và tư thế xúc cam rất Xuan Diệu : Đó là ý thức chiếm lĩnh hương sắccuộc đời : "Tdi muốn tắt nắng đi, Cho màu đừng nhạt mất. Tơi muốn buộc gió lại,

<small>Tu ĐỂ:</small>

<small>Cho hương đừng bay đi”... “Tôi sung sướng nhưng vội vàng một nua". "Tdi khơng</small>

chờ nắng hạ mới hồi xn". “Lịng tơi rộng nhưng lượng trời cứ chật. Nên bảng

<small>khng tôi tiếc cả đất trời" (Vội vàng). Hoặc man mắc bình than hơn : “ơm nay</small>

trời nhẹ lên cao.Tơi buồn khơng hiểu vì sao tơi buồn” (Chiều). Hoặc khơng cịn tự

chủ duoc nữa : “Tất cả tôi run rấy tựa dây dàn”, ".Téi chi sống để hoài hoài tưởngnhớ. Mãi mái yêu những đấu giém luôn luôn", "Tdi sẽ trốn thân thờ ngơ ngác.Trái tìm buồn như một bai tha ma", “Tơi một mình đối diện với tình khơng. Dé lắng

<small>nghe tiếng khóc mất trong long” (Đối tra) ; "Tơi run như lá, tái như đông. Trán chảy</small>

mồ hôi, mắt lệ phông. Năm ddy, tháng dồi, tôi da đến, Trước bờ lạnh léo của hư

<small>không” (Hư vo)</small>

<small>"Tôi nhớ ; Tôi buôn ; Tôi đã yêu ; Tôi đã nguôi quên ; Tôi cứ đi ; Tôi biết ;</small>

Tôi sung sướng ; Tôi sẽ chế?" vv... Nhiều khi là sự bộc bạch ruột gan :“Lịng tơi đó mot vườn hoa cháy nắng

<small>Xin lịng người md cửa ngó lịng toi"</small>

<small>(Tặng Thơ)“Và hay yêu tôi một giờ cũng đủ</small>

<small>Một giây cũng cam một phút cũng đành”</small>

<small>(Lời thơ vào tạp GHCG)</small>

Dù trực tiếp viết về tỉnh cảm của chủ thể, thơ trữ tình khơng nhất thiết bất

buộc người viết phải luôn xưng "22" trong tác phẩm. Cái "/27" của nhà thơ có thể

hóa thành những nhân vật trữ tình trong thơ tình yêu hoặc ẩn mình vào lá hoa cây

cỏ trong thơ viết về thiên nhiên. Ở Xuân Diệu, nhân vat trữ tình thường tự xưng

“Có một bận em ngơi xa anh q

Anh bảo em ngồi xích lại gần hơn”

“2

</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">

"Yêu tha thiết thế vẫn còn chưa đủ

Anh tham lam anh doi hỏi quá nhiều”

<small>(Xa cách)</small>

“Anh một mình nghe tất cả buổi chiều

Vào cham chậm ở trong hồn hiu quanh

Anh nhớ tiếng anh nhớ hình, anh nhớ ảnhAnh nhớ em, anh nhớ lắm em ơi”

<small>(Tương tư chiều)</small>

Hoặc đôi khi xưng "a", một kiểu xưng ho khá phổ biến trong thơ mới lúc bấy giờ :

“Ta là một khách chỉnh phí" ; "Gam một khối căm hờn trong cũi sắt. Ta nằm dai

trông ngày tháng dan qua" (Thế Lữ) ; “La cùng nàng nhìn nhau khơng tiếng nói";

<small>"Thời gian chảy đá mon, sơng núi lở. Lịng ta ln cịn mãi vết thương dau" ; "Ai</small>

kêu ta trong cùng thẩm hư vô" ; "Ai bảo giàm ta có có ta khơng ?" (Chế Lan Viên) ;

<small>“La chúng ta ddu thai nhằm thé ký" ; "Với lại trấn ai mét chút "ta” (Vũ Hoàng</small>

Chương) Chữ "ra" trong thơ Xuân Diệu không quá xa cách như Thế Lữ, quá trangtrọng như Chế Lan Viên, không kiêu bạc như Vũ Hồng Chương. "Ta" ở day khơng

những khơng che dấu cái tơi mà cịn khẳng định quyết liệt hơn :

<small>"Ta muốn ôm</small>

Cả sự sống bắt đầu mon mdn

<small>Ta muốn riết mây dua và gió lượn</small>

Ta muốn say cánh bướm với tình yêu”

<small>và mot lần xưng là "chung ta" trong nỗi sầu đau thế hệ :</small>

<small>“Buôn thế hệ ta cũng dang u uất</small>

<small>Chúng ta dau thôi em tới dây mà”</small>

<small>Đầu là "ti", "anh", "ta" hay "chúng ta", dầu đối tượng gửi gam tam trạng là</small>

trăng, sao, cây, có hay lòng người thi chung quy vẫn là con người, tâm khim Ấy, su

nồng nàn và những nỗi buồn đau rất riêng tay ấy. Hơn nữa, khẳng định cái tôi tích

<small>28</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">

cực, cái tơi thấm đẫm màu sắc cá thé trong thơ Xuân Diệu không chỉ căn cứ vào tầnsố xuất hiện của nó trên văn bản, hoặc vào sự đề cao quá đáng của bản ngã cá nhânthành đỉnh Hy mã Lap sơn ngất ngưởng... mà cơ sở chính là sự thanh thật của xúccẩm. Với Xuân Diệu, dù vui hay buồn, sung sướng hay đau khổ, hy vọng hay thất

<small>vọng... nghia là tất cả những rung động tinh vi của đời sống tâm hồn đều được Xuân</small>

Diệu thành thật bày tỏ trong thơ, dù chưa biết người đời có chấp nhận hay khơng ?

Sự chân thực của tình cảm vốn là mot pham chất tiêu biểu của thơ trữ tình nói

chung, đến trào lưu thơ mới được chú trọng khai thắc và mở thêm nhiều ngóc ngách

phức tap và tinh vi hơn. Giọng thơ cũng nồng nàn lơi cuốn hơn. Có thể đó là mot

phan ứng của thơ mới trước nguyên lý cổ điển : "Tho nên dam chứ khơng nênnơng", hoặc có thể là xu hướng mới để làm phong, phú them khả năng tự biểu hiện

<small>và sức mạnh hướng nội của thơ. Dù ở dạng nào, chúng ta cũng tìm thấy ở hơn thơ</small>

Xuan Diệu những phẩm chất nổi bật tiêu biểu cho khát vọng được khẳng định cái

tôi như một tam điểm nghệ thuật của thơ lãng mạn 1932 - 1945.

<small>1. Những quan niệm mới me. tích cực về cái tơi, cái bản ngã trên đây của</small>

Xuân Diệu da quyết định chỗ đứng và diém nhìn của nhà thơ trước cuộc đời. O Xuan

Diệu, q trình khẳng định cái tơi điễn ra song song cùng với quá trình khẳng định

ý nghĩa của đời sống trần thế hiện tại. Đó là một điểm khác biệt rõ rệt giữa Xuân

<small>Diệu với các nhà thơ lãng mạn cùng thời.</small>

Chủ nghĩa lãng mạn nói chung và thơ lãng mạn nói riêng ln đi tìm sự đối

lập giữa thực tại và lý tưởng với ý thức phủ nhận thực tại. Âu đó cũng là một cách

để khẳng định quyền được thoát ly, được mơ mộng của mỗi cá nhan. Thái độ quay

lưng lại với thực tại và ấp ủ giấc mộng vượt len khỏi thực tại không phải là doc

quyền của chủ nghĩa lãng mạn. Trong thơ cổ, chúng ta bất gap dấu hiệu đó qua khát

vọng tự do của Nguyễn Hữu Câu : "Bay thẳng cánh mn trang tiêu hán. Phá vịng

vay làm bạn với kim 6", của Nguyễn Công Trứ : "Kiếp sau xin chớ làm người. Làm

cây thông đứng giữa trời mà reo", qua thái độ chối, bỏ lẩn tránh sự đời của Trần Tế

Xương : "Ngứ quách sự đời thây ke thức", và đặc biệt là qua sự lãng du triển miên

hết "giấc mộng lớn" đến "giấc mộng con" của thi sĩ Tan Đà. Nhưng vẫn phải chờ

đến chủ nghĩa lãng man, thái độ phủ nhận thực tại mới trở thành tam lý phổ biến

làm nay sinh khuynh hướng tư tưởng muốn thoát ra khỏi thực tại. Trong văn xuôi,

khuynh hướng tư tưởng ấy được gửi gắm vào những nhân vật được khắc họa theo

tinh than lý tưởng hóa. Nhan vat đó có thể là hình bóng của chính tác giả, hoặc chỉ

là người phát ngôn cho tư tưởng tác giả nhưng bao giờ cũng phải là mẫu người lý

<small>29</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">

<small>tưởng, luôn đứng cao hơn thực tại, luôn tỏ rõ thái độ muốn dứt bổ mọi ràng buộc</small>

của thực tại bằng việc theo đuổi những ý tưởng mơ hồ (Tiêu sơn tráng sĩ, Thế rồimột buổi chiều, Đôi bạn) vv....

<small>Trong thơ mới, hầu hết các nhà thơ đều tìm cho mình một con đường để chạy</small>

trốn khỏi thực tại. Con đường đó khơng thể dẫn tới tương lai bởi tương lai quá mờ

<small>mit. Vi vậy, nó thường đi ngược về quá khứ hoặc dẫn vào một thế giới mộng mo khi</small>

nhà thơ khơng thể hịa nhập vào cái thực tại bơ vơ, trắc trở. Thế Lữ nếu không nuôigiấc mộng lên tiên với Bong lai, Tiên nga, Hạc trắng thi cũng da diết nhớ về "Thudtung hoành hống hách những ngày xưa". Chế Lan Viên với tâm trạng thường trực :

"Trời hỡi trời hôm nay ta chán hết. Những sắc màu hình ảnh cua trần gian", hoặcthay vì hành dong tìm lối thốt, nhà thơ chỉ có nguyện cầu : "Hay cho tơi một tinhcâu giá lạnh. Một vì sao tro trọi cuối trời xa", “Để nơi ấy thang ngày tôi lẩn tránh.Những ưu phién, dau khổ với buồn la” (Những soi tơ lòng). Huy Can nhập vào vũ

<small>tru, trang sao và cũng nói nhiều về những cái ngày xưa; về mot buổi "chiều xưa" :</small>

<small>"Ngàn nam suc tinh lê thê. Trên thành son nhạt. Chiểu tê cui đầu", về những vẻ"đẹp xưa" : "Vi vu gió hut nẻo vàng. Một trời thu rộng mấy hàng mây nao".</small>

<small>Lưu Trọng Lư chu du trong cõi mộng, ký thác tâm hồn mình vào những thú giang</small>

hồ và cả thú... đau thương (//dy lim mình trong thú dau thương). Chủ nghĩa lãng

<small>mạn thích đi vào những nghịch lý, ngoại lệ. Don giản chỉ là để đối lap với cái bìnhthường, tẻ nhạt. Xuất phát từ ý nghĩ ấy, nhà thơ họ Lưu đã không thể tiếp tục nếp</small>

<small>sống thông thường : "Ngoan ngodn nhu con cừu non dai. Cổ trong vườn cắn mãi</small>

<small>còn non". Nguyễn Nhược Pháp làm sống lại cả một thời xưa qua hình bóng cơ gái</small>

16 tuổi "Khăn nhỏ đi gà cao, quần lĩnh áo the mới, chon di đôi dép cong" trong lễ

hội chùa Hương. Vũ Đình Liên gửi gắm tâm sự hồi cổ qua hình ảnh một ơngĐồ vv.. Có thể nói, tìm về với q khứ là lối thoát trong sạch nhất theo quan niệmcủa các nhà thơ mới lúc bấy giờ. Thay vì phải can đảm đứng lên làm một cuộc cáchmang lật đổ, các nha thơ mới chỉ biết thở than, tiếc nuối và tỏ rõ thái độ bất hịa,

khơng thỏa hiệp với thực tại bằng cách trốn vào quá khứ, mộng mơ.

Xuan Diệu cũng đã từng "mo theo trăng và vợ vấn cùng mây". Thêm vào đó,

dưới sự chỉ phối của bút pháp lãng mạn, cũng có lúc ơng đã tự an ủi bằng cách lấy

mộng làm thực để mà nhớ nhung, tiếc nuối. Nhà thơ đã thi vị hóa cái quá khứ vớinhững hình anh khơng biết có tự đời nao đời nào :

<small>30</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">

<small>"Ai còn nhớ những thời hương phẳng phất</small>

Hac theo trăng, tiên còn lần với người

<small>Những thời xưa chim phượng xuống trần chơi</small>

<small>Hoa cúc Hở có người chờ doi trước</small>

Người thuở ấy du dương từng kiểu bước

<small>Thân hình thơm khóa buộc giải hương la</small>

<small>Son phan dịu dàng - tay áo thưới tha</small>

<small>Chang trai tré cũng xinh dường thiểu nữ"</small>

Nhưng những câu thơ viết theo dang hay chiếm một tỉ lệ q ít di trong tồn

<small>bộ sang tác của Xn Diệu. Và quan trọng nhất là nó khơng tiêu biểu cho cẩm quan</small>

<small>về vũ tru, triết ly nhân sinh và lý tưởng thẩm mỹ của nhà thơ. Xuân Diệu dù có “ma</small>

<small>xưa" thì trước hết ơng vẫn là "người của dời. một người ở giữa loài người" (Thế Lữ).</small>

Mac cho ai đó cố tình lần trốn, Xn Diệu vẫn hiện diện ngay giữa cõi đời với niềm

quyến luyến say mê vơ bờ bến :

<small>"Ta ơm bó cảnh tay ta làm rắn</small>

<small>Làm dây da quấn riết cả mình xnKhơng muốn di ở mãi mãi vườn trần</small>

Chân hóa rê để hit màu dưới đất”

<small>"Thốt ra ngồi cảnh cuộc đời. Q † mộng tưởng cao quý. Nhung cứ 6 trong</small>

<small>cuộc đời, sự cao quý lại càng cao quý hơn... Và nếu tôi phải làm tiên, tôi chỉ lam</small>

tiên trong một ngày thôi và tôi chỉ can đủ thời gid để rủ tiên bà, tiên cô cùng tiên

<small>ông xuống trần phạm toi" [102 - Tr 102.</small>

Tuy có lúc Xuan Diệu cũng cay dang thốt lên : "Ta bd doi mà đời cũng bởỏta", “Nội dời cơ cực dang gio vuốt”, “Xin diing cười, dời có nghĩa chỉ dâu". Nhưng

rồi nhà thơ lại khẳng định dứt khoát rằng : "Sống vẫn hơn là chết. Gan hơn xa yêu

mến ngọi ngào thay". Trai tìm tha thiết u lồi người và sự sống ấy khơng những

<small>khong “bo đời” mà cịn níu kéo cuộc đời với mot sức mạnh siêu nhân kỳ lạ: "Ke</small>

dung trái tim triu máu đất. Hai tay chín móng bám vào đời". Không phải ngẫu nhiên

mà đương thời, Xuân Diệu không những khong chấp nhận mà cịn khơng ngớt lời

che trách trường thơ Loạn (nhóm tho Bình Định gồm Chế Lan Vien, Hàn Mac Tủ,

Bích Khe...) Ong chỉ: trích : "Muốn di ra ngoài cuộc đời. họ xây dựng nên nhữngcung điện bằng sương mà, những dén dai bằng xương mắm... thà rằng... cứ việc ở

<small>3i</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32">

<small>trong đời và tao nên những cung điện thực vô cùng đẹp để bằng những vật liệu</small>

<small>thực của trần gian" {102 - Tr 104).</small>

Duong như trái tìn chứa đầy thanh sắc trần gian ấy khơng chịu nổi nhữnghình ảnh rùng rợn ma qi trong "Điêu tan” của Chế Lan Viên, cái dị thường hoang

<small>tưởng đây ảo giác của hồn thơ siêu thoát đến điện loạn của Hàn Mac Tử, với những</small>

<small>"bào ảnh, huyền điệu, phiêu diều, chiêm bao", cãi chất tượng trưng siêu thực hỗn</small>

<small>độn xô bồ với đây du, kiến trúc, hội hoạ, điêu khác, 4m nhac, vũ đạo,... trong</small>

những câu thơ kỳ bí của Bích Khe (đến mức Hồi Thanh phải lac đầu mà rằng:

<small>"Thơ Bích Khé doc đơi ba lần thì cũng như chưa đọc").</small>

Dù hình tượng thơ có khúc xạ, biến ao bao nhiêu lần qua thế giới cam xúc di

chang nữa thì trước hết, thơ vẫn là sự sống. Cat đứt mọi mối liên hệ giữa thơ vớicuộc đời thi tất cả mọi khuynh hướng tim tòi, sắng tạo của nhà thơ sẽ trở nên vơ

<small>nghĩa, chính xác hơn là không thể tồn tại. Về điểm này Xuân Diệu đã hồn tồn</small>

<small>đúng khi lựa chọn cho mình một chỗ đứng giữa trần gian để gin giữ mối quan hệ</small>

<small>bền chặt giữa nhà thơ với cuộc đời và khám phá ra ý nghĩa đích thực của đời sống</small>

<small>con người. Vì vậy, ngay piữa mạch thơ lãng mạn trữ tỉnh ít nhiều bị coi là thiếu sinh</small>

khí, chúng ta không khỏi ngạc nhiên khi bất gặp một hồn thơ dạt dào chất sống. Đó

là phẩm chát đặc biệt của thơ trữ tình Xn Diệu, nhà thơ khơng những đã đề xướng

những nguyên tắc sống, nguyên tắc thẩm mỹ trái ngược với thơ ca truyền thống mà

cịn khơng chịu dim lên những lối mòn quen thuộc của trường phái lãng man dang

<small>thịnh hành. Nói như Hồi Thanh : “Xuan Diéu da đốt cảnh bồng lai xua ai nấy về hạgiới" (Thí nhân Việt Nam). Hoặc : Xuân Diệu là nhà thơ lãng mạn duy nhất tìm ra</small>

<small>lối thốt cho mình ngay giữa cõi trần ai.</small>

<small>2. Quan niệm về cái tôi và ý thức về sự tồn tại cá nhân. Khong chỉ quyết định</small>

chỗ đứng và điểm nhìn của nhà thơ trước cuộc đời mà còn chỉ phối đến hệ thốngquan niệm nghệ thuật của Xuân Diệu.

Trong số các nhà thơ mới, Xuân Diệu là người có một hệ thống quan niệm

tương đối hồn chỉnh về mục đích vai trị của sing tạo nghệ thuật, mặc dầu có lúc

ơng đã tự mâu thuẫn giữa những, lời tun ngơn với q trình sáng tác. Ngoài "Lờiđưa duyên" cho tập "Tho tho", Xuân Diệu có hai bài thơ trực tiếp boc lọ quan điểm

sáng tác của mình. Đó là "Cam xúc” trong tập "Tho tho" và "Lời thơ vào tập Gửi

hương cho gió” trong tập "Gui hương cho gió”. Trên nền tang của chủ nghĩa lãng

man, cùng với "Cây đàn muôn điệu" của Thế Lữ, có thể coi hai bài thơ của Xuan

<small>32</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">

<small>Diệu là những lời tuyên ngôn của trào lưu thơ mới. Nếu Thế Lữ trong buổi đầu ra</small>

mắt đã ví tam hồn mình như một "cây dan mn điệu” rất dé rung ngân trước vẻđẹp cuộc đời : "Tdi chỉ là một khách tinh vi. Ham vẻ đẹp có mn hình mn thé.Muon lấy bút nang Ly trao tơi về. Và mượn cây dan ngàn phím tơi ca"... (Cay dan

mn điệu) thì Xn Diệu cũng mộng mơ, cũng tôn thờ cái đẹp nhưng đầm thắm

say sưa với cuộc đời hơn trong bổn phan thi sĩ của mình :

<small>“Là thi sĩ nghĩa là ru với gió</small>

Mơ theo trăng và vo vấn cùng mây

<small>Để linh hồn rằng buộc với muôn dây</small>

<small>Hay chia sé bởi trăm tình vêu mến”</small>

Ở Thế Lữ, ta tim thấy một tâm hồn thi nhân bên cạnh một đấng chỉnh phu

xuôi ngược đường trần. "Ma lot bốn bề sương nắng gội. Phong trần quen biết mat

du lo", hoặc : "RA áo phong sương trên gác trọ. Lang nhìn thiên hạ ngắm xuân

<small>sang". Xuân Diệu trước sau chỉ nguyện làm thi si, ong khơng có cái nét "lặng nhìnthiên hạ" đó của Thế Lữ, khơng tự cắt đứt mọi đường dây “thdng cảm” với cuộc đờivà khép long minh như Vũ Hồng Chương ("Cam thơng” trong tập "Mây" của Vũ</small>

Hồng Chương cũng là một thứ tun ngơn tuy chưa thật tiêu biểu) mà chỉ muốn

dem lịng mình "ràng rit với muôn xuân", muốn that chat với cuộc đời bởi "tram

tình u mến". Có lúc ơng tự ví mình như con chim lạ mang tiếng hót dang đời :

<small>“Tơi là con chim dén từ núi lạ</small>

Ngứa cổ hót chơi

...liếng to nhỏ chẳng xui chim trái chín

<small>Khúc huy hồng khơng giúp nở bơng hoa</small>

Hat vơ ích thế mà chim vỡ cổ

<small>HHóo tim xanh cho quá độ tài tinh”</small>

Những câu thơ trên có thể coi là sự phát ngơn day đủ cho quan điểm "nghệ

<small>thuật vị nghệ thuật” : Đó là sự ngưỡng mộ, say mê trước nghệ thuật, trước cái đẹp</small>

của nhà thơ, là sự khẳng định nghệ thuật là cao q, là khơng vụ lợi, là sự sống

cịn... Nhưng dường như trong những vần thơ bay bổng, đặc chất lãng mạn kiểu trênngầm chứa khát vọng được hòa hợp, sẻ chia với cuộc đời :

<small>“Đây là quán tha hồ mn khách đến</small>

<small>Day là bình thu hộp trí nn phương”</small>

Khát vọng ấy đã được bat nguồn từ trước ngay trong bài "Cảm xúc" :

<small>RR)</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34">

<small>"Tdi chỉ là mot cây kim bé nhỏ</small>

<small>Mà vạn vật là muôn đá nam châm”</small>

Về mặt nguyên lý, cảm hứng lãng mạn luôn có xu hướng vượt lên cuộc sống

hàng ngày vốn bị coi là tầm thường, tẻ nhạt để tìm kiếm sự cao quý, thanh khiết,

cao siêu. Vì vậy, đời sống thường nhật trần trụi là sự đối lập với thế giới của thơ và

chưa phải là đối tượng thẩm mỹ của các thi sĩ lãng mạn. Rất dễ hiểu vì sao các nhà

thơ mới nếu khơng chủ tâm tìm kiếm vẻ đẹp thuần túy thiên nhiên của hoa, của

<small>hương : "Những hình ảnh tươi đẹp nhất. những dm thanh huyền điệu nhất trong</small>

thiên nhiên" (Lamartin) "Những màu xanh tươi rung rinh dưới ảnh nắng mặt trời"...vì "một bài văn hay là một bơng hoa" |80 - 1936]... thì cũng mai miết đi tìm cái

"huyền do, tỉnh khiết, thâm thúy, cao siêu. Cái hình ảnh của sự khắc khoải, bất diệt,

cơi vơ cùng của thơ" vy... Tal cả những tìm kiếm đó đều xa lạ với Xuân Diệu. Mot

lần nữa, ông lại đi ngược lại những chuẩn mực mang tính ước lệ trên đây của chủ

<small>nghĩa lãng mạn. Với Ong, sang tao là một hành động hướng tới sự giao lưu, hòa hợp:</small>

“Cảm nếp trán của người lo sáu khắc

Thương năm canh nước mắt những ai phiên"cảm thông :

<small>“Thưa một kiếp ai không từng nhỏ lệ</small>

Ta cùng buồn mon tron vHỐI ve nao"và mong mỗi :

“Thơ tơi đó gió lia dem tủa khắp

<small>Và lịng tơi moi mọc bạn chia nhau”</small>

<small>(Lời thơ vào tap GHCG)</small>

<small>"Người hãy mở tay, người hãy md lòng mà nhận lấy : đây là lịng tơi đương</small>

thời sơi nổi, đây là hồn tôi vừa lúc vang ngân. và đây là tuổi xuân của tôi, và đây là

<small>sự sống của tôi nữa : tôi đem tặng cho người trong mấy bài thơ dây" {22 - Tr 9].</small>

Khảo sát quá trình sáng tác của Xuân Diệu, chúng ta thấy từ những dịng

tun ngơn của tập thơ đầu đến những dịng tun ngôn của tập thứ hai, nhà thơ

càng ngày càng gắn bó hơn với cuộc đời. Nếu "cảm xức” là những âm thanh trong

trẻo đâu tiên hé mở ra một hồn thơ mơ mộng, say dim thì "Lời thơ vào tập Gửihương cho gió” là ban hợp 4m d6n dap những 4m thanh khát khao sự sống. Mặc dù

càng về sau, thơ ơng càng vượt ra ngồi những khn khổ mà chính ơng với tư cách

<small>34</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35">

<small>là một đồ de của chủ nghĩa lãng mạn đã dé xướng lúc đâu. Sự thiếu nhất quán trong</small>

quan điểm sáng tác của Xuân Diệu là sự phan ánh thực trạng chung của trào lưu văn

học lãng mạn Việt nam : Đó là sự phát triển thiếu nền tang tuyên ngôn của mottrường phái nghệ thuật lớn. Vi vay, dại đa số các nhà văn, nhà thơ của ta đều chịu

ảnh hưởng nặng nề của quan điểm thẩm mỹ của chủ nghĩa lãng mạn phương Tay

thế kỷ 19 và nhiều khi tự biến mình thành người phát ngơn cho những tư tưởng đãlùi xa một thế kỷ : "Về để vẽ, đó là nguyên tắc của chàng về hội họa. Được về là đủrồi.... Chang không cần phải hỏi và phải biết : vé để làm gì ? Chàng vẽ như chimhót. Con chim nó hót để hot, nào nó có cho tiếng hót của nó là quan trọng" (Dep -

<small>Khái Hung). Mot lần nữa, chúng ta tim thấy trong những dong văn xuôi tiểu thuyết</small>

trên day dáng dap của "con chim đến từ núi lạ" trong thơ Xuân Diệu. Tuy mỗi bênđều có kiểu phát ngơn khác nhau, nhưng cả hai đều hướng tới hành động sáng tạo :

"Nghệ thuật vị nghệ thuật". Dù sao. bằng thực tiễn sang tác, Xuân Diệu đã khắc

<small>phục được những bước di loạng choạng ban đầu bộc lộ trong hệ thống quan niệm</small>

<small>nghệ thuật của mình. Đó là một sự van động mang ý nghĩa tích cực. Cùng với một</small>

số tác phẩm văn xi như : "Phấn thông vàng", "Người lệ ngọc", "Chú lái khờ”"...

Xuan Diệu là trong số rất ít ơi các nhà thơ lãng mạn 1932 - 1945 đã bộc lộ rõ rệtnhững quan niệm sáng tác của mình bằng thơ. Đó vừa là sự thể hiện phẩm chất thi

<small>sĩ dồi dào, vừa phan ánh tâm tri thức rộng lớn mà không phải người cầm bat nào</small>

<small>cũng có được.</small>

II - MỘT TÂM HỒN KHÁT KHAO SU SONG, TINH YÊU :

Đến với "Phong trào tho mới”, Xuân Diệu mang theo một nguồn cam hứng

<small>yêu đời đào dạt chưa từng có trên thi đàn Việt Nam : Chính lịng say mê ân 4i và</small>

khát vọng sống mãnh liệt ấy đã tao ra thé giới nghệ thuật riêng và sắc thái trữ tìnhthấm thiết lạ thường trong thơ Xuân Liệu trước Cách mạng tháng Tám.

<small>Các nhà nghiên cứu, phê bình và sáng tác từ trước đến nay : Từ Thế Lữ , Vũ</small>

Ngọc Phan, Hoài Thanh, Huy Can... đến Hà Minh Đức, Phan Cự De, Le Dinh Ky,

Nguyễn Đăng Mạnh, Mã Giang Lan... đều tập trung khẳng định sức sống mãnh liệt

<small>trong thơ Xuân Diệu : "Đó là mor tâm sự nồng nàn... Một người sinh ra dé mà sống"</small>

(Thế Lữ). Một hôn thơ "say dam tình yêu, say dam cảnh trời, sống vội vàng, sống

cuống quýt muốn tận hưởng cuộc doi ngắn ngủi của mình, khi vui cũng như khỉ

buôn, người đến nồng nàn và tha thiết" (Hoài Thanh) ; Một tam hồn : “dam thắm và

nồng nàn nhất trong tất cả các thơ mới” (Vũ Ngọc Phan) ; Một con người "sống hết

mình cho sự sống và cho tho" (Hà Minh Đức) ; Một nhà thơ của "in khát khao

<small>35</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36">

<small>giao cảm với đời" (Nguyễn Đăng Mạnh) ; Một sự xuất hiện "với tất cả lòng say mê</small>

<small>yêu doi" (Le Dinh Ky)...</small>

Giữa dịng sơng trữ tinh lấng man vừa được khơi nguồn, chưa được bao lâu

nên ít nhiều cịn phẳng lặng với những lời dìu dat em ái của Thế Lữ, nét sâu mộng

man mác của Lưu Trọng La, bỗng xuất hiện một nguồn thơ đào đạt, tuôn trào :

"Tha một phút huy hồng rồi chợt tối

Cịn hơn buồn le lơi suối trăm năm”

<small>(Giục giã)</small>

Câu thơ vang lên như mot sự giải thoát, trút bỏ những quan niệm sống khắckỷ, khổ hạnh dang đè nặng lên dời sống tình cảm con người. Giữa nhịp sống lê the,lat lay, buồn tẻ, cau thơ Xuan Diệu đã thổi bùng lên khát vọng sống, khát vọng

hưởng thu trong mỗi một con người bấy lâu bị vùi dap bởi những khn thước,

ln lý xưa. Có thể nói : Xuân Diệu với một "nguồn sống rào rat chưa từng thấy"

khơng chỉ tạo cho mình nguồn sinh lực dồi dào mà còn mang đến cho cả dòng thơ

lãng mạn những phẩm chất trỡ tinh dac biệt quyến rũ mà trước đó thơ ca truyền

thống chưa thể có được. Ngay mạch thơ trữ tình tiền lãng mạn đang cất bước gắng

gồi để bước đầu tìm đến với cái bản ngã cá nhân nhưng vẫn chưa thoát ra khỏi

những ảnh hưởng của giáo lý cũng như hệ thống thi pháp của thơ văn cổ. Chính

Xuan Diệu đã tìm thấy trong thơ A nam Trần Tuấn Khải "một luồng rung động của

bản ngã "cái tôi" và "cdi bảng khuảng man mác lãng mạn chủ nghĩa" (15 - Tr 13]

nhưng đó mới chỉ là những dấu hiệu đầu tiên báo hiệu sự ra đời của chủ nghĩa lãngmạn ở Việt Nam. Vì vậy, thơ Trần Tuấn Khải nhiều khi nhập được vào nỗi buôn thếhệ nhưng vẫn là thứ thơ "ngắm cảnh sinh sau, chan thực tim mộng" : "Bảng langtrời hơm vắng. Buồn trơng mặt sáng khơi. Thế tình cơn gió thoảng. Trần mộng ngọn

triéu xi. Mây khói mê lịng khách. Giang hỗ cảm cảnh chơi. Buồn ai qua bến đó.

Nước cũ nhắn đơi lời". Bà Tương Phố là một nữ sĩ có tiếng đương thời và mặc dâu

thơ bà là hiện than cho những tình cảm mang màu sắc ling mạn với “tinh sdu",

"cảnh thẩm", và những nỗi buôn chung của cả một lớp người bên cạnh nỗi niềmriêng tư của thân phan goa bua nhưng vẫn chưa vượt qua được sự chỉ phối nặng nề

của khuynh hướng cổ điển. Vẻ mat tình cam, bà khơng dám phiêu lưu để thỏa

nguyện những khát khao cá nhân. Về thơ ca, bà cịn để lại nhiều vết tích gị bó và

sáo : "Vdc mai gdy võ tuyết sương. ] ám thu chiếc bách cánh bm bơ vo" hoặc : "Vì

chàng chín khúc đoạn trường. Vì chàng trăm mối sâu vương tháng ngày". Dong Hồ

với cốt cách cổ kính và trang nhã mang phong vị Đường thi rất rõ trong những bài

<small>36</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37">

thơ "họa cảnh ngự tình" và phong độ ung dung bình than của một nhà nho ẩn sĩ

<small>trong những bài thơ diễn tả những ”vưo động tâm hồn” là một trong những gương</small>

mặt tiêu biểu của "Nam phong tạp chí". Cũng như bà Tương Phố, cảnh ngộ nhà

thơ Dong Hồ cũng "giữa đường dia gánh" và ong đã viết lên những van thơ bi ai

trước cảnh tang tóc chia lia đó của đời mình : "Chăn gối cùng nhau những ấm ôm.

Bông làm ngọc nát, bông châu chìm. Ddm dia giọt ngọc khăn hồng thắm. Lạnh léo

đêm xuân giấc mộng tìm. Hình dạng mơ màng khi thức ngủ. Tiếng hơi quanh quan

nếp y xiêm"... Rõ ràng những câu thơ đây nước mắt chứa nỗi "sdu thương bi ly" là

ở trong khn khổ của những tình cảm "khóc vợ khác chồng". Nó có thể phù hợp

<small>với tâm tư của những người thuộc thế hệ cũ nhưng có phần lạc lõng với những</small>

người thuộc thế hệ sau. Hơn nữa, nội dung ấy lại được lồng vào trong cái vỏ hình

thức quá cổ : Đường luật và song thất nên bị xếp vào hạng "Rượu cũ mà bình cũng

ca” khong đủ sức cảm hóa thế hệ trẻ đương thời. Mặc dầu về sau, thơ Dong Hồ đã

lan tới gan địa phan của thơ mới nhưng nguồn cam xúc của Ong trước thời đại cịn

<small>nhẹ và nơng nên khơng theo kịp.</small>

Ngay Tản Đà, nhà thơ tiêu biểu của hai thế kỷ - gạch nối liên giữa thơ cũ và

thơ mới - với một cái tôi rất mực đa tinh, một giọng điệu nhiều chiều phóng túng :

"Đá mịn rêu nhạt. Nước chảy hué trôi. Cái hac bay lên vit tận trời. Trời đất từ đây

xa cách mdi. Lửa động, Đâu non, Đường lối cũ. Nghìn năm thơ thẩn bóng trăng

chơi" hoặc : "Chơi cho biết mặt sơn hà. Cho sơn hà biết ai là mặt choi" thì ta chỉvẫn thấy ở đây cái "n"gông" tới độ của một nhà Nho tai tử. Cũng như nhiều người

cùng thời, Tan Đà ln có mặc cẩm của một lớp nhà thơ thất thế và hơn ai hết, ông

cam thấy sức dồn ép nặng nề của một thế hệ mới sung sức đang lên sẽ thay thế hoàn

toàn thế hệ cũ của Ong đã lỗi thời và đang tan lui. Cả một thế hệ đang than thantrách phạn, sống bằng dĩ vãng, bằng hoài niệm nhiều hơn là bằng hiện tại. Tuy

nhiên, Tan Đà mãi mãi là nhà thơ số một của thời kỳ tiền lãng mạn, người đã dao

"những âm thanh mở đâu" cho bin nhac "rân kỳ sắp sửa"... Quả nhiên vào lúc ấy,

thơ mới và đặc biệt là Xuân Diệu xuất hiện đã thay thế cái thâm trầm, xa xôi trong

"tinh thân dn ái" của thơ cũ bằng một nhịp sống hối hả, quyết liệt :

<sub>2</sub>

“Mau với chứ vội vàng lên với chit! / }

Em, em ơi, tình non đã già rồi” ` | \

<small>(Giuc gia)</small>

Tất nhiên khơng chỉ có Xn Diệu mới nói đến tình u cuộc sống. Nhiều

nhà thơ mới như Thế Lữ, Lưu Trọng Lu, Huy Cạn, Nguyễn Bính... déu tha thiết với

K.

</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38">

<small>cuộc đời. Ngay Hàn Mạc Tử, mot số phan bi thương nhất của thơ mới trong những</small>

<small>ngày cuối đời mình cũng cố níu kéo sự sống từng phat, từng giây cho đến giờ tận thế:</small>

<small>“Trời hỡi bao giờ tôi chết di. Bao giờ tơi hết dược u vì. Bao giờ mặt nhật tan thành</small>

<small>máu. Và khối lịng tơi cứng to sĩ”, Nhưng cái mà Hàn Mac Tử và các nhà thơ khác</small>

<small>còn thiếu, chỉ duy nhất Xuan Diệu mới có : Đó là sức mạnh của một tấm lòng trần.</small>

Trong khi đại đa số các nhà thơ cùng thời đang rơi vào trạng thái mất thăng bằng vì

mê mai lần tránh vào mộng mơ tiên cảnh, vào quá khứ xa xăm, thì Xuan Diệu đã tự

cân bằng bằng cách lựa chọn đời sống trần thế làm điểm tựa tỉnh thần và từ đó tạo

<small>nên sức lực kỳ diệu :</small>

“Ta ơm bó cánh tay ta làm rắn

Làm cây đa quấn riết cd mình xn

<small>Khơng muốn di mái mai ở vườn trần</small>

<small>Chan hóa ré để hút mau dưới dất"</small>

<small>(Thanh niên)</small>

Là một người "sống để mà yêu và yêu dé mà sống" |4 - Tr 7|; "Một linh hồn

<small>mở rộng, một tấm lịng chào đón, mội con người ân ái, da tỉnh" (Thế Lữ), Xuân</small>

Diệu luôn luôn khát khao vươn tới cái "vô biến" và "tuyệt dich” của tình u màcũng chính là sự sống với một tình cảm thắm thiết, déo dai :

<small>“Trời cao trêu nhữ chén xanh êm</small>

Biển dang không nguôi ni khát thèm”...

<small>“Với bạn ân tình hay với cảnhNoi nào ta cũng kiếm vơ biên”</small>

<small>(Vơ biên)</small>

Lịng ham sống đến vơ hạn đó của Xuân Diệu khiến Ong nhìn thấy những cảnhtượng rất thực từ những hư ảnh, nhìn ra cái hữu hình từ những cái vơ hình... Giữacái khơng gian bao la của gió, hương và màu nắng hư ảo kia, Xuân Diệu tưởng

tượng ra những hình hài cụ thể như những thực thể vật chất mà con người có thể

nam bat được :

"Ta muốn ôm

Cả sự sống mới bắt đâu mon mổn

Ta muốn riết mây dua và gió lượn

Ta muốn say cánh bướm với tình yêuTa muốn thâu trong mot cái hôn nhiều

<small>38</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 39</span><div class="page_container" data-page="39">

<small>Và non nước. và cây và có rạng</small>

<small>Cho chếnh chống mùi thơm. cho đã dầy ánh sáng</small>

Cho no nê thanh xắc của thời tuoi

116i xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi”

hết cả tâm hồn của người yêu dấu. của trời đất, của mọi vật trên trần gian” (Thế Lữ- tựa Tho thơ). Soi day liên kết giữa tâm hồn ơng với cuộc đời, vì thế càng trở nên

khăng khít, bền chặt. Ơng buộc lịng mình phải luôn luôn rạo rực, sỉ mê :

<small>"Long tôi bốn phía mở cho trang</small>

Khách lại mười phương cũng dai dangNước ngọt vẫn ton, vườn đợi hái

<small>tường khơng ngăn cẩm, có chờ băng”</small>

<small>(Phot trai)</small>

Thơ ca chan chính bao giờ cũng tao được Am điệu cộng hưởng giữa nhac điệu riêngcủa tâm hồn thi nhân với bản nhạc chung của cuộc đời. Xn Diệu đã tạo ta đượcbản hịa tấu đó bởi ơng ln trang trải lịng da mình ra trước cuộc đời : “Lịng tơi đómot vườn hoa cháy nắng”; "Lịng tơi rộng nhưng lượng trời cứ chật" ; “Nghe điệu

<small>lịng hưởng ứng với ca chim” ; “Dạ vêu dời thỏa mấy cũng chưa an” ; "Vì mang phải</small>

những sắc lịng tươi quá” ; "Lòng ta là một cơn mưa lũ" ; "Dem lịng tơi rang rit vớixn tươi" ; "Xn đã sẵn trong long tơi lai láng” vv.. Ơng thường ví tam hồn mình

với vườn xn đang độ tươi sắc. Nhưng xuân của đất trời còn phụ thuộc vào nhịp

tuân hồn ln chuyển của vũ trụ, xn của lịng ơng that lai lang, bất tận :

<small>“Xuân của đất trời nay mới đến</small>

<small>Trong tôi, xuân đến đã lân rồi"</small>

<small>(Nguyên đán)</small>

Trẻ trung, sơi nổi và chan chứa lịng u đời, thơ Xn Diệu vi vậy cũng tràn trề

niềm tin yêu và tư tưởng lạc quan về cuộc sống. Ơng có nhiều bài thơ mang lại tỉnhthân vui tươi, phấn chấn cho nhiều người. Ong mang cái rao rực, mê say của lòng

<small>39</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 40</span><div class="page_container" data-page="40">

minh để phủ lên cảnh vat, sau này Ong đã gửi gắm lại tư tưởng lớn đó của minh

<small>trong câu thơ “nhà nghề” nổi tiếng : "lây nhìn doi bằng dõi mắt xanh non", Đơimắt nhân ái của ơng ln nhìn thấy cuộc đời trong vẻ hồng hào, tươi thắm :</small>

<small>"Một luồng anh sang xd qua mat</small>

<small>Tham cả đường di, rực cd rời”</small>

<small>CTmh qua)</small>

cũng như trong vẻ trìu mến, thiết tha :

“Vườn cười bằng bướm hói bằng chim

<small>Dưới nhánh khơng cịn ni chit đêm</small>

<small>Những tiếng tung hộ bằng ánh sáng</small>

<small>Ca dời hưng phuc tre trung thêm...</small>

Hanh phúc von trong buổi sớm mai

<small>Vita tâm với bắt của tay người</small>

<small>Ai tinh dem máu lên hoa điện</small>

<small>- Thi si di dau cũng thấy cười”</small>

<small>(Lac quan)</small>

Di nhiên là bên cạnh những bức tranh vui tươi của Xuân Diệu, chúng ta còn bắt gặp

tỉnh cảm yêu đời trong sáng, hồn nhiên trong "Ngày xưa" của Nguyễn Nhược Pháp;

<small>vẻ mộc mạc, thanh bình, 4m ấp trong những bức tranh quê của Anh Thơ, Bàng Bá</small>

Lan, Đoàn Văn Cừ ; vẻ đẹp thơ mộng hữu tinh của phong cảnh thiên nhiên sông

<small>nước, con người miền Trung qua thơ Hàn Mạc Tử, Nam Tran, TẾ Hanh vv... Nhưng</small>

<small>chỉ Xuân Diệu là người đưa ra những bức tranh đời đó rồi một mình ngắm nghía,</small>

ngây say : “Tơ điếc đời bằng những khác ham mô” và bộc lộ nỗi thèm khát với đúngnghĩa của nó : ông đã biến cuộc sống thành nguồn dinh dưỡng trực tiếp ni nang

<small>cơ thể mình. Một loạt từ tạo ấn tượng rất mạnh được ông sử dụng để diễn tả hành</small>

dong sống của mình : "Om, bám, cắn. riết, phì ..", "Ta bấu rằng ta vào da thị của

đời. Ngoam sự sống để làm ôm doi khát" (Thanh niên). Khong riêng Xuân Diệu mà

ngay cả Huy Can, nhà thơ của "nổi dan dời”, "sâu doi" cũng cô nhiều câu thơ vui :

"Áo trắng don sơ mộng trắng trong. liôm xua em đến, mắt như lịng... Ein lia gió

biếc vào trong tóc. Thối lại phịng anh cả núi non". Nhưng niềm vui, lòng yêu đời

ở Huy Can được bộc lộ dim hơn, kín đáo hơn, có Jẽ vì thơ Huy Can vốn thâm trầm.

Xuân Diệu, ngược lại, thường hay ổn ào, lịng da lúc nào cũng sơi sục :

<small>40</small>

</div>

×