Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (61.87 MB, 152 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">
<small>Chuyên ngành: Văn học dân gian</small>Mã số: 50407
Người hướng dẫn khoa học
HÀ NỘI - 1993
</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">I. Mục đích,ý nghĩa của luận án
II. Đối tượng, phạm vi và phương pháp
<small>nghiên cúu của luận án</small>
II. Cấu trúc và những đóng góp của luận án
<small>IV. Những khó khăn thuận lợi trong việc nghiên cứu</small>
<small>CHUONG I</small>
II. Vấn đề nguồn gốc và danh ngữ của Tudng
TL Vấn đề kịch bản văn học của Tuồng
IV. Nhũng cơng trình nghiên cứu tiêu biểu<small>CHUONG II</small>
I. Tính thẩm mỹ qua đối tượng phan ánh
và sáng tạo của kịch bản Tuồng quân quốc
I. Tuồng quân quốc - sân khấu của nhũng người anh hùng
<small>III. Nghệ thuật xây dụng các hình tượng nhân vật trung tam</small>
IV. Những nguyên tắc thẩm mỹ trong nghệ thuật biểu dién
V. Ngôn ngữ văn học kịch bản Tuồng
<small>CHUONG II</small>
<small>CHUONG IV</small>
<small>TÀI LIỆU THAM KHẢO</small>
_ Đây là luận án nghiên cúu văn học kịch bản Tudng cổ viết về đề tài quân quốc
cúu về Tuồng nói chung, về kịch bản Tuồng quân quốc nói riêng, nhưng chưa có
<small>thực tế ấy, đồng thời đáp úng nhu cầu gin giữ và cách tân đang cấp bách đặt ra đối</small>với kịch bản sân khấu cổ truyền. Dựa vào những kịch bản tiêu biểu nhất, luận án đặt<small>vấn đề nghiên cứu đề tài quân quốc trong nghệ thuật Tuồng. Trong phần mỏ đầu,</small>
I. MỤC ĐÍCH VÀ Ý NGHĨA CỦA LUẬN ÁN
Tuồng là một loại hình nghệ thuật sản khấu cổ truyền của dân tộc Việt nam. Sự
tồn tại và lưu truyền hàng trăm vỏ Tuồng cổ cho đến nay chứng tỏ loại hình sân
<small>khấu này có giá trị và được nhiều thế hệ độc giả cũng như khán giả ua thích.</small>
Trong linh vục sân khấu, yếu tố trước tiên phải kể đến là kịch bản văn học. Kịch
<small>bản văn học là thành phần ngôn từ được cố định trong van bản. Nó là tiền đề, làxuất phát điểm cho các nghệ thuật khác cùng sáng tạo va phát triển trong một tác</small>
<small>phẩm sân khấu như: nghệ thuật dan dung (đạo diễn), âm nhạc, hội noạ, nghệ thuật</small>
biểu diễn v.v... Trong ngành Tuồng, có câu: "Có tích mdi dịch ra trị" hoặc "Tich nàothì trị đó". Nhũng câu nói ấy khẳng định vai trị hàng đầu của kịch bản văn học. Khi
<small>nghiên cúu nghệ thuật sân khấu, đặc biệt là Tuồng, một loại hình nghệ thuật mà</small>
<small>kịch bản chi phối mạnh mé đến nghệ thuật diễn xuất, hon nữa van bản tồn tại tương</small>
<small>văn học.</small>
<small>Kịch bản văn học Tuồng chính là nội dung co bản, thường phản ánh cuộc sống</small>
<small>phong phú, da dạng, trong đề tài quân quốc chiếm ưu thế về mat số lương, loại đề</small>
<small>tài nảy có nhiều vỏ đạt đến trình độ nghệ thuật mẫu mực. </small>
kịch bản, một giáo viên nhiều năm nghiên cứu và giảng dạy về nghệ thuật Tuồng,
sẽ góp phần giúp các nghệ sĩ, các đơn vị nghệ thuật Tuồng có thêm luận chúng khoahọc, lý luân trong việc gin giữ va cách tân nghệ thuật Tuồng, một loại hình nghệthuật sân khấu từng tồn tại nhiều thế kỷ như một loại hình sân khấu cổ điển của dân
1. Đối tượng và phạm vi
<small>Luận án này tập trung nghiên cúu những kịch bản Tuồng cổ viết về đề tài quân</small>
bảo vệ ngai vàng của triều đại chính thống. Quan niệm Quân và Quốc được thống
<small>— =1</small>
thúc của các Nhà hát tuồng trong cả nudc.
Trong phạm vi một luận án ngành Ngữ van, không cần thiên về phân tích nghệ
<small>2 - Phương pháp nghiên cúu .</small>
Căn cứ vào những đặc điểm riêng mang tính đặc thù của đối tượng, đề tài này sử
<small>tiếp cận đối tượng một cách tồn diện. Bỏi vì tác phẩm văn học (đặc biệt là loại</small>
hình văn học sân khấu) là sự tổng hoà của hàng loạt những mối tương quan. Tác
trúc, bao gồm những mối tương quan nội tại, chặt chế. Trong quá trình hình thành,nó cịn có những mối tương quan của khâu tiền đề phát sinh. Sau khi nhà văn hoàn
<small>thành, nó khơng chỉ cố định 6 văn bản mà cịn được tồn tai trong su tiếp nhận của</small>công chúng. Kịch bản Tuồng cịn được các nghệ sĩ đem trình diễn trên sân khấu. Tác<small>phẩm văn học nghệ thuật chính là những hình ảnh chủ quan của thế giỏi khách</small>quan, nó không chỉ là một sự phan ánh trực tuyến mà cịn chịu sự chi phối boi một
di sản có tính chất truyền thống về văn hoá, đạo đức, thẩm my của dân tộc. Nhu thế.ngoài những mối tương quan trong nội tại, tác phẩm cịn có những mối tương quan
<small>khác voi bên ngoài: hiện thục khách quan, chủ quan cia nhà van, cơng chúng và di</small>
sản (truyền thống) van hố của dân tộc. Đối vdi kịch bản Tuồng, chúng còn là mốitương quan giữa tích vdi trị, giữa tích vỏi các phương tiện dién đạt khác. Nhu vậy,
</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">yếu trên các bình điện sau:
Trong q trình phân tích tác phẩm, luận án còn vận dụng những phương pháp
<small>hợp, phương pháp loại hình, ... nhầm tiếp cận đối tượng trên bình diện có tính đặc</small>
thù của loại hình nghệ thuật sân khấu trong đó có liên quan đến vấn đề thi pháp của
<small>văn học kịch bản Tuồng và thi pháp văn học nói chung.</small>
Ill. CẤU TRÚC VÀ NHUNG ĐÓNG GÓP CUA LUẬN AN
1 - Cấu trúc luận án
Diện mạo của luận án được cấu trúc như sau:
<small>trong việc nghiên cứu.</small>
Phần chính của luận án bao gồm bốn chương:
- Chương I - Lịch sử vấn đề nghiên ctu Tuồng, luận án đề xuất đến các vấn đề:
- Chương II - Những vấn đề thẩm mỹ trong Tuồng quân quốc, luận án nhằm
- Chương IV - Nhũng vấn đề xã hội trong Tuồng quân quốc, luận án đặt vấn đề
- Phần kết luận.
- Phần thư mục tham khảo: ghi lại những tập sách, số báo chí và nhũng tư liệu đã
<small>đọc để viết luận án.</small>
Cuối cùng là phần gidi thiệu các bài viết của nghiên cúu sinh về Tuồng có liên
quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến luận án.
<small>2 - Những đóng góp của luận án 2</small>
Kịch bản Tuồng thường có van ban tương đối hồn chỉnh trước khi được các nghệsỹ trình dién trên sân khấu. Thơng qua ngôn tù, người doc cảm thụ được nội dung
cốt truyện, chủ đề tư tưởng và những xúc cảm thẩm mỹ do các hình tượng nghệ thuật
_ đem lại. Một kịch bản Tuồng, dù 6 loại thể tài gì, bi kịch hay hài kịch, khuyết danh
<small>phẩm tinh thần của người nghệ sỹ, của thời đại. Trong khi phan ánh hiện thục đồi</small>
sống, tác giả tuồng chịu sự chi phối bỏi hệ tu tưởng cũng như lý tưởng thẩm mỹ của
<small>thời đại. Với một phương thúc phản ánh hiện thục riêng, kịch bản Tuồng có nhữngthủ pháp nghệ thuật tương ung, với một cấu trúc van bản chặt chẽ. Nhiều thể loạivan học được si dụng làm phương tiện phản ánh trong kịch bản Tuồng. Kịch bản</small>
cảnh chung của văn học thời kỳ trung dai.
"Cho đến nay, sự nghiên cứu Tuồng và Chèo hầu như chỉ thu hẹp vào phạm vi
bót những giá trị thẩm mỹ của Tuồng và Chèo, kéo nó xuống hàng một nghệ thuậtdiển xuất don thuần, trong đó vai trị của kỹ thuật biểu dién xâm chiếm ưu thế hơn
vai trò của nội dung thực sự văn hoc của tác phẩm (52 tr5).(x)
vấn đề thi pháp của văn học kịch bản Tuồng .
<small>vấn đề này giói nghiên cứu Tuồng chưa giải quyết, hoặc có đề cập đến nhưng chưa đi</small>
sâu, hon nữa lại thiếu nhất quán về mặt tiêu chí phân loại. Vấn đề đề tài và thể loại
<small>(77 tr 10).</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">sử. Do địa vị xá hội, trình độ học thức khác nhau mà sự tiếp nhận của công chúng đối vdiloại Tuồng này cũng khác nhau. Cơng chúng bình dân tiếp nhận chủ yếu ư những giá trị
mang tính nhân bản.
IV. - NHỮNG KHO KHAN THUAN LOI TRONG VIỆC NGHIÊN CỨU
Trong q trình thực hiện đề tài này, chúng tơi gặp phải nhũng khó khăn, nhất làvấn đề văn bản kịch bản. Văn bản kịch bản cổ vốn có rất nhiều dị bản. Bản thân
người nghiên cứu không thạo Hán Nơm cho nên rất khó khăn trong những trường
<small>Trong khi tiến hành nghiên ctu, chúng tơi cũng có nhiều thuận lợi: Ban thânnghiên cứu sinh da có ba mươi nam cơng tác tại Nha hát tuồng trung ương, đả ting</small>
tham gia các công việc: diễn viên, đạo diễn, tác giả, biên đạo múa, cho nhiều vỏ
<small>Sân khấu .và Điện ảnh Hà Nội. Ngoài ra nghiên cứu sinh còn được sự cổ vũ động</small>
<small>viên và giúp dd của nhiều nhà nghiên cứu Tuồng, nghiên cưu văn học bậc thầy, các</small>
nghệ sỹ nổi tiếng của ngành Tuồng trong cả nudc. Chúng tơi, sau khi đã vượt qua
<small>những khó khan về nhiều mat, xin chân thành ghi lại 6 đây nhũng dong tri ân tdi các</small>
<small>chuyên gia lón của ngành sân khấu cổ truyền, ngành văn hoc Hán Nom trung đại 6</small>
các viện, các trường đại học lón của đất nước, trudc hết và chủ yếu là các thầy ötrường Dại học Tổng họp, nơi chúng tôi đã mười năm học tập và nghiên cứu.
</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11"><small>CHUONG I</small>
<small>ghi lại hiện tượng Lý Nguyên Cát và những khúc đoạn miêu tả cung cách sinh hoạt:</small>ca, múa, nhạc, và một vài trò diễn xướng trong cung đình tù thời Lý, Trần. Khoảng
<small>nghệ thuật Tuồng. Qua những cơng trình nghiên cúu ấy, luận án xin trudc hết đề</small>xuất một số vấn đề có liên quan, sau đó sé giỏi thiệu những cuốn sách tiêu biểu
nghiên cứu về nghệ thuật Tuồng.
I- VẤN ĐỀ ĐỀ TÀI VÀ THỂ LOẠI CUA TUONG
Tuồng đã trải qua mấy thế kỷ hình thành và phát triển, hàng trăm vỏ tuồng đặc
hội, trong những giai đoạn lịch sử khác nhau. Vi thế, Tuồng hình thành nhiều kiểu
<small>loại và thể hiện sự đa dạng về mặt đề tài.</small>
<small>Vấn đề đề tài trong Tuồng cổ, cho đến nay hầu nhu vẫn cịn bỏ ngỏ, chưa cóng</small>
trình nào đề cập đến vấn đề này một cách có hệ thống. Một số cơng trình nghiên
<small>chủ yếu được xem xét trên binh diện thể loại, ngay cả những vỏ Tuồng viết về đề tài</small>
dan gian cũng chưa thực sự được khảo sát day đủ về mặt đề tài..
<small>trung đại.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">chủ, Tuồng tập trung vào các đề tài chủ yếu sau:
Dây là mảng đề tài lón nhất trong Tuồng. Nội dung các vỏ này miêu tả cuộc đấu
Thông qua nội dung vỏ, hai vấn đề "vua" và "nước" (quân quốc) được đặt ra. Mỏ đầuthường là sy kiện "vua băng, nịnh tiếm"”, nghĩa là cả quân và và quốc đều bị đặt
trong tình trang lâm nguy. Trudc hiện tình đó, địi hỏi con người phải biểu hiện đạo '
lý trung quân. Trung quân là ái quốc, quân quốc là một. Kết thúc vỏ là sự chiến
thắng của lý tưởng chính trị thẩm mỹ. Quân và quốc có mối quan hệ mật thiết vỏi
nhau, "phục quốc" được là do con người biết gitt đạo "trung quan", "trung quân" đồngnghĩa vdi "ái quốc", "chính thống" là "chính nghĩa". Cảm hứng ở đây xoay quanh
ra phúc tap hơn. Nếu như Ò giai đoạn trước, khái niệm quân quốc là thống nhất,
<small>trung quân là ái quốc, chính thống đồng nhất vói chính nghĩa, hình tượng các nhânvật tích cực là mẫu ngudi lý tưởng của chế độ quân chủ và dao lý Nho gia, thi ö giai</small>
<small>các vỏ Tuồng qn quốc giai đoạn trước. Hình tượng các nhân vật trung tam khơng</small>
hương các, nhân vật trung tâm là Hoàng Phi Hồ đã phải thốt lên một cách đau xót:<small>- "Trung qn chỉ chí cánh nan thành”</small>
<small>Hồng Phi Hồ đã quyết định phản Trụ, đầu Chu.</small>
nhà vua, cậu bé ấy đá nêu ra một triết lý:
<small>- "Vua coi tôt như tay chân</small>
<small>Nhung nay vua đã coi tơi nhu cỏ rácThì tơi cũng coi vua nhu giặc thù</small>
<small>Khi chính khí đã bị mây mù</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13"><small>-10-Thì chủ trung - xin cha hãy nghĩ lai"</small>
bên cạnh các nhân vật chính trong Tuồng quân quốc giai đoạn trudc như: Đổng Kim
<small>Lân, Khương Linh Tá (Sơn Hậu), Tạ Ngọc Lân, Tư Cung, Phương Co (tuồng "Tam</small>
Các vỏ Tuồng tiêu biểu viết về đề tài quân quốc như: Sơn Hậu, Triệu Đình Long,
<small>Bên cạnh mảng đề tài Idn - đề tài quân quốc, khá nhiều vỏ Tuồng đi vào đề tài</small>
triều Nguyễn, trong đó khơng chỉ là vấn đề qn quốc mà cịn là vấn đề thế thái
<small>chim bẻ nd, được cá qn nom". Cịn Dao Tam Xn thì vặn hỏi vua Tống:</small>
<small>Có phải là:</small>
<small>Tội nghĩa khí phải khâm tn vương mang?</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">vương, Sơn Hậu... khơng cịn là chủ đề chúa tể nữa... Trong những vỏ tuồng đượcsáng tác vào cuối doi của Dao Tấn, nhân vật vua xuất hiện ít dan và hé xuất hiện thìlại là những tên vua bạc nhược, thối nát, dâm dục, đốn mạt... kiểu như Trụ vương.
<small>Thế gidi quan lại triều đình đã được tái kiện trong Tuồng Dao Tấn như một thế giỏi</small>
đều bị đảo ngược hoặc bị đưa ra để bôi nhọ" (100 tr257).
<small>Kết thúc vỏ Hộ sinh dan là đoạn đồng ca của các nhân vật chính:</small>- "Thế cục nan bình duy hữu hận,
Hoặc như 6 vỏ Điển v6 đình, nhân vật Triệu Khánh Sanh sau khi đánh trả lại
<small>Quê hương đâu đó tá?</small>
<small>và đạo trung quân đã rất mò nhạt. Ngược lại, những mối quan hệ tình đời, lịng nhân</small>
Vấn đề xác định thể loại của Tuồng lâu nay vẫn chưa được giỏi nghiên cúu quantân đầy du. Rai rác trong các tập sách, bài viết, trong các cuộc hội thảo chuyên
ngành, một số nhà nghiên cứu Tuồng có nhắc tói, người quan tâm nhiều hơn cả đối
(90.6.1975). Trong tham luận tại hội nghị Tuồng nam 1975, Nguyễn Thị Nhung viết:
"Tuồng chúng ta là một kiểu sân khấu tổng thể. Tơi xin gọi rõ thêm là tổng thể tích
hợp (total et intégaul)" (95 tr231). Hoang Chau Ký: "Kịch bản Tudng cổ (cũng như
<small>Chèo cổ) thuộc loại sân khấu tự sự phương Đông" (77 tr40) v.v...</small>
<small>Việc phân loại Tuồng hiện nay vẫn còn là vấn đề nan giải. Trong một cơng trìnhthống kê các thuật ngữ va từ nghề nghiệp của Tuồng, chúng tôi sưu tập được riêng 6</small>
khu vuc miền bắc đã có tdi hon năm nghìn từ, thuật ngữ khác nhau. Riêng về tên gọi
bào, chấn, giáp v.v... và v.v...
</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16"><small>Theo cách gọi lâu nay của ngành Tuồng, thì một vỏ tuồng có-thể có rất nhiều tên</small>
<small>Sư di có tình trạng trên vì việc phân loại, đặt tên gọi cho các loại Tuồng không</small>dựa vào những tiêu chí nhất định. Tình trạng ấy da gây nên những khó khăn trong
"Phải nói dứt khốt rằng cách phân loại các vỏ Tuồng của người xưa là rất tuỳ
<small>tiện và không dựa trên một khái niệm rành mạch về từng loại... Có thêm tên gọi</small>
tuồng đồ chỉ thêm lầm lẫn, nên gác lại vì nó chỉ cịn giá trị một vết tích lịch sử ma
<small>thơi." (31 tr8)</small>
<small>Thế nhưng sau đó Lê Ngọc Cầu lại đặt tên cho một cơng trình nghiên cúu tuồng</small>
Cầu chia tất cả các vỏ tuồng từ trước năm 1945 ra làm hai loại .
<small>- Tuồng cổ điển (hoặc Tuồng thầy)</small>
<small>- Tuồng dân gian.</small>
<small>Cách phân loại như thế thật chưa hop lý, vì có nhiều vỏ ra đời tu trước năm 1945,</small>
<small>Hoang Cao Khải, Kim Thạch kỳ duyên của Bùi Hữu Nghĩa, Trưng Vuong của Phan</small>Bội Châu, hoặc như các vỏ được sáng tác vào những nam ba mươi: Cờ trắng ningxanh, Ai lên phố cát, Guom tình dẫm máu v.v... Nhũng vd nói trên chẳng những
<small>Gộp tất cả các vỏ Tuồng trước năm 1945 làm một loại sé rất khó khăn trong việc</small>
<small>nghiên cúu, cũng như dịnh danh cho Tuồng. Trong thực tế, Tuồng trước triều</small>
Nguyễn, Tuồng dudi triều Nguyễn, Tuồng giai đoạn đầu thé kỷ XX đến năm 1945,
có nhiều đặc diểm khác nhau.
</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17"><small>tab > ¡ễ :</small>
+ Tưồng cổ: Là nhũng vở tuồng mà lâu nay trong ngành được coi là cổ nhất như:
xếp vào loại Tuồng dân gian).
Đào lóc thịt... Các vỏ tuồng loại này có nội dung như những truyện Nôm thế ky
- Tuồng văn thân: Là những vỏ Tuồng xuất hiện vào khoảng cuối thế kỷ XIX đầu
<small>thế kỷ XX do một số van thân sáng tác mang tư tưởng yêu nước chống ngoại xâm va</small>
<small>chừng mực nào đó chống ngu trung. Ví như các vị: Phong ba đình, Kim Thạch kỳ</small>
<small>duyên, Song tiên, Tring Nữ Vuong, hoặc đề cao lòng chung thuỷ, vẹn nghĩa trọn tinh,</small>
<small>nghệ lang mạn Việt nam, mang tư tưởng lang mạn tiêu cực. Vi dụ: Tội của ai, Co</small>
Các vỏ Tuồng dược sáng tác sau năm 1945, về đề tài lịch sử, thì gọi là Tuồng lịch
<small>tài cách mạng đương đại thì gọi là Tuồng hiện đại v..v..(77 tr 6 - 8).</small>
<small>Doàn Nồng và Huỳnh Khác Dụng lại quan niệm rằng Tuồng đồ là loại kịch bản</small>
<small>ngồi Bắc xưa kia gọi các nghệ nhân tuồng 6 Huế là các cụ Tuồng kinh). Vỏ tuồng</small>
<small>qui định của kịch ban từ trước, nghĩa là khơng có kịch bản, mà trong khi diễn, các</small>
diễn viên tự "cương" "phịa" ra nhũng tinh tiết, thì gọi là Tudng cương...
<small>Rõ ràng tên gọi các loại Tuồng là đa dạng, nhũng cũng phúc tạp. Bưóc đầu chúng</small>
<small>tơi thấy việc phên loại nên dựa theo các tiêu chí, hoặc là về thdi điểm xuất hiện,</small>
hoặc là về tinh chất, đề tài hình tượng các nhân vật trung tâm... Chẳng hạn nếu căn
<small>cú vào thời gian, dựa theo sự phân ky trong văn học sử, có thể phân ra làm ba loại</small>
<small>Tuồng chủ yếu:</small>
<small>trước. Tuồng trung đại (Tuồng cổ) gồm các đề tài quân quốc, thế sự. Như vậy đề tài</small>quân quốc phát triển trong suốt thời kỳ Tuồng trung đại. Tất Thắng cho rang vỏ
</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">yương xé nộm, .. vào Tuồng van than.
trước năm 1945. Về mặt đề tài không đi vào những chuyện trong cung đình phongkiến, nhiều vỏ thiên về đề tài tình yêu như: Kim Thạch kỳ duyên của Bùi Hữu Nghia,
không chịu ảnh hưởng của ý thúc hệ vơ sản, cũng ít chịu sự chi phối của hệ ý thứcphong kiến, thế gidi quan của những vỏ tuồng này chủ yếu là tư sản.
Chúng tơi thiết nghĩ: khơng nên chia các vỏ tuồng nói trên thành các loại như:
gộp tất cả các vỏ ấy gọi là Tuồng cổ (hoặc Tuồng thầy) như ơng Lê Ngọc Cầu, thìcũng chưa thật hợp lý. Nhìn chung, các vỏ Tuồng cận đại ít có giá trị về mặt tư
tưởng cũng như nghệ thuật. Nói một cách cơng bằng, các vỏ Tudng cận dai chủ yếu
có giá trị lịch sử trong q trình phát triển của nghệ thuật Tuồng.
Tuồng hiện đại: bao gồm tất cả những vỏ do các tác giả thời nay viết ra, đúng hơn
<small>là từ sau 1945.</small>
Nếu dya vào tính chất thì chỉ nên phân ra làm hai loại Tuồng: Thú nhất là Tudng
<small>bản và tác giả của chúng chắc chắn là thuộc tầng lóp trí thức. Chang hạn như: Son</small>Hậu (khuyết danh), Đào Phi Phụng (khuyết danh), Trầm hương các (Dao Tần), Vo
</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">đại (cách mạng) thì có các loại: Tuồng lịch st, Tuồng hiện đại. Khi tiếp xúc với một
số khán giả yêu Tudng 6 vùng Hà Bắc, chúng tơi thấy họ có một cách gợi các loạiTuồng rất giản di, nom na: Tuồng cũ và Tuồng mdi (hiểu theo nghĩa xã hội cũ, xã
<small>hội mdi).</small>
<small>quyết thấu đáo. Nhìn chung, Tuồng trung đại hướng vào đề tài chủ yếu: quân quốc,</small>
loại đề tài này có nhiều vỏ đạt đến trình độ mẩu mực về mọi mặt, từ kịch bản van
học đến nghệ thuật biểu diễn. Vì thế những ý kiến cho rang Tuồng quân quốc là
<small>thực chất của Tuồng cổ, là tiêu biểu cho Tuồng, là có thể chấp nhận được. Nêu ra</small>
<small>luận án sẽ được triển khai trên co sở quan niệm như thế.</small>II, VẤN ĐỀ NGUON GỐC VẢ DANH NGU CUA TUỒNG
<small>Phần đầu của chương trình này, chúng tơi nêu ra sự việc Lý Ngun Cát. Sụ kiện</small>
ấy dược ghi lại trong Đại Việt sử ký, đại ý như sau:
Trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên, nhà Trần có bất được một tù binhtên là Lý Nguyên Cát. Lý vốn là một kép hát giỏi nên được nhà Trần cho phép vào<small>cung để dạy múa hát cho các cung phi, vũ nữ và con cái quan lại trong triều.</small>
"Con cái các nhà thế gia theo tập hát điệu phương Bác. Nguyên Cát đóng Tuồngtruyện cổ, có các tích Tây Vương Mau hiến bàn đào, người ra trị có danh hiệu là
"quan nhân, chu tủ, đán nương, sửu nô”, cộng mười hai người đều mặc áo gấm, áo
_ Căn cứ vào su kiện Lý Nguyên cát nói trên, nhiều nhà nghiên cứu văn học nghệ
Trần Trọng Kim trong Việt nam sử lược, Dao Duy Anh trong Việt nam văn hod sử
truyền vào Việt nam, nội dung là nhũng chuyện trung hiếu tiết nghĩa, hình thúc là
những điệu múa, điệu hát, cách điệu đến cực điểm" (55 tr 11). Sơ thảo lịch sử văn
học Việt nam viết: "Xét nội dung các vỏ Tuồng cổ của ta, thì hồn tồn đều lấy sựtích trong sử sách Trung quốc chép về các thời Chiến quốc, Tam quốc, Đường,Tống... Một điều nữa chúng thục nguồn gốc Trung quốc của Tuồng là những câu chữ
Hán rất nhiều trong các vỗ Tuồng, hầu hết là những câu thành ngữ và những câu đốichọi nhau từng chữ. Có thể buổi đầu tổ tiên ta da diễn nguyên vỏ Trung quốc, sau
mồi dịch một số câu cho dé hiểu, khi nó được phổ biến trong dân gian. Về sau các
<small>nho sĩ nước ta xây dung các vỏ Tuồng cing vẫn theo lề lối ấy (44 tr 266).</small>
Ngược lại nhiều ý kiến cho rằng Tuồng là của Việt nam, hình thành và phát triển
<small>có chịu sự tác động qua lại của nghệ thuật sân khấu Trung quốc. Các nha nghiên</small>
khẳng định: Tuồng được hình thành rất sóm tại Việt nam. Lịch sử chế độ phong kiến<small>Việt nam có đoạn viết: "Về nghệ thuật sân khấu thì trong thế kỷ XV, Tuồng và Chèo</small>
<small>khá phát triển... Tuồng và Chèo là những nghệ thuật sân khấu kết hop ca kịch vỏi vũ</small>
<small>thuật sân khấu Việt nam hình thành rất som... trị diễn trong cung đình nhà Lý năm</small>
1182 chính là một vỏ Tuồng, vì trong đó có nhân vật Hình bộ Thuong thu, túc là
<small>nhân vật thường có trong Tuồng ít có trong Chéo" (105. 4.1964). Các nhà nghiên cứu</small>Tudng: Phạm Phú Tiết, Hoang Châu Ky, Mich Quang, Lê Ngọc Cầu, Vũ Ngọc
Liễn... đều cho rằng Tuồng hình thành tại Việt Nam. Phạm Phù Tiết viết: "Tuồng có
<small>thể được hình thành từ thời Trần" (98 tr 54). Mich Quang:"Tuồng có thể hình thành</small>
từ thời Lê" (95.5.1962). Hồng Châu Ký:”Tuồng có thể hình thành từ thế kỷ XVI tại
<small>Đơng Sơn, địa bàn hoạt động chính là 6 Thanh Hố rồi du nhập vào Nam sau đó</small>
td, sự có mặt của gánh hát Lý Nguyên Cát trong đạo quân Toa Đô là đúng. Vậy tacó cần Lý Nguyên Cát mdi có hát bội (Tuồng) không? Cố nhiên là không, vi lé_
độ nghệ thuật khá cao. Một khi sóng Bạch Dang đã lặng, thì trấn Nam Quan lại mỏ
<small>ra, sd nhà Trần, sứ nhà Nguyên cũng như nhân dân hai nước đi buôn bán qua lại</small>như thường. Tất nhiên những tác phẩm của Quan Hán Khanh và sau đó của Cao<small>Đơng Gia được gọi là khúc thánh của Thang Ngọc Minh. Khúc tiên đó sẽ được trình</small>
diễn qua con mắt của người Việt Nam ưa thích nghệ thuật... Đã có hạt giống tốt, lại
<small>gặp phải mơi trường thuận lợi thì sẽ nảy mầm sinh ngay. Nếu lúc bấy gio chưa gap</small>
<small>Lý Nguyên Cát thi Tuồng hát Bội cúng sẽ có. Mà gap Lý Ngun Cát thì sự gặp gõđó lại được xúc tiến cho tuồng phát sinh sóm hơn thơi. Nếu Chiêu Hổ (trong Vũ</small>
<small>trung tuỳ bit) nhận ra rang người đạo sĩ sang day cho ta hát múa dưới triều Lý đó là</small>
không thể chúng minh được, mà lại khơng có co sd. Vi lẽ chữ Nơm chưa hình thànhtrong văn chương thì lấy đâu ra Tuồng hát Bội được... Cho nên một lần nữa khẳngđịnh rằng ... vai trò của Lý Nguyên Cát đã kịp thoi xúc tiến su ra đòi của tuồng hát
<small>Trung Quốc, nước ta đã có đầy đủ tiền đề cho sự ra địi của loại hình sân khấu ca</small>
của chúng ta tiếp xúc với nền hí khúc Trung Quốc qua Lý Nguyên Cát" (35 tr395).
<small>Lịch sử Việt Nam, tập I, Nhà xuất bản KHXH.H. 1971) viết: "Nghệ thuật kịch hát cổtruyền của dân tộc Tuồng, Chèo) tiếp tục quá trình hình thành và trên co sỏ tiếp thu</small>
một số ảnh hưởng của nghệ thuật sân khấu phương Bac" (15 tr225)
<small>Sau khi phân tích các điệu nói, cách phát âm và một số điều kiện lịch st, Hoàng</small>
Châu Ký khẳng định: "Nhu vậy, rõ ràng nghệ thuật Tuồng có quan hệ gốc gác 6vùng đất Thanh Nghệ... Trò sân khấu cổ truyền và nhũng hình thúc diễn xướng trong
Bang Doan, D6 Trọng Huề trong cuốn Những đại lễ và vũ khúc của vua chúa ViệtNam, thì: "Trong doi chúa Sai Nguyễn Phúc Nguyên (1613 - 1635), Đào Duy Ti đã
lập ra Hoà Thanh thụ, luyện tập một ban vũ nhạc để múa hát vào nhũng đêm chánh
lễ " (75 tr8). Theo löi tương truyền của nhân dân địa phương Binh Định, nhũng năm<small>tháng đi 6 chan trâu tại làng Hồi Nhon, ơng đã dậy cho bọn trẻ 6 đó nghệ thuật</small>biểu dién tuồng. Chúa Nguyễn đang thời kỳ sinh co lập nghiệp, có chính sách trọngđãi đối vdi kẻ theo mình, đã thu dụng Dao Duy Tu. Chúa Nguyễn khơng bài xíchnghệ thuật sân khấu, trái lại dùng nó làm giải trí, và sau đó nhanh chóng biến nóthành một cơng cụ để tun truyền cho những quan niệm đạo đúc chính thống của
họ. Tuồng có cơ hội phát triển là vì vậy." (35 tr399)
Đến triều Nguyễn, Tuồng phát triển một cách ram rộ. Do su u thích, khuyếnkhích, đầu tư của triều đình, Tuồng đã đạt đến sự hoàn thiện về phương diện kịch
bản, văn học cũng như nghệ thuật biểu diễn.
Tóm lại, trên co sở nền nghệ thuật ca, múa, nhạc, và diễn trò phát triển, nền nghệ<small>thuật sân khấu Việt Nam (Tuồng, Chèo) đã manh nha hình thành từ thoi Trần với</small>ba điều kiện đã chin muồi. Trước hết là nghệ thuật ca, múa, nhạc và diễn trị phát<small>triển. Hai là có sự tác động đúng lúc của hi khúc Trung Quốc qua hiện tượng Lý</small>Nguyên Cát. Ba là sự xuất hiện của bộ phận văn chương chữ Nơm. Tuồng cứ thế
hình thành nhưng có phần chậm chap 6 các thế ky XV - XVI Từ thé kỷ XVII tuồng
bước vào thời kỳ phát triển và dần dan hoàn thiện. Dưới thời các chúa Nguyễn, đặc
Vấn đề danh ngũ túc tên gọi của nghệ thuật này, hiện nay vẫn chưa thật thống
"tường" vdi ý nghĩa là trình bày, tường thuật một sự việc, một câu chuyện nào đó. Cụ
có chữ "Tuồng" vói ý nghĩa là hình dung sự vật diễn lại trước mắt ta. Nhà lý luận văn
<small>học Nga Bielinxki nói: "Nghệ thuật khơng phải là sụ chép lại, chựp lại mà là sự tái</small>
hiện hiện thục", cũng chính là chữ "Tudng"... Tơi thấy chữ "Tuồng" trong văn học
Luận án tán thành nhận xét trên khi cụ nói rang chữ "Tuồng" có từ lâu trong ngơn
ngữ của dân tộc ta. Trong van học thoi trung đại, chúng ta đã từng biết chữ "Tuồng"
<small>vói nội dung đa nghĩa. </small>
-- "Tuồng nỉ cộc dược bề hơn thiệt,
(Quốc âm thi tập - Nguyễn Trãi)
(Cung oán ngâm khúc - Nguyên Gia Thiéu)<small>- "Cha con trong đạo gia đường</small>
<small>Cũng cịn sự lý tranh thi khéo là."</small>
<small>(Trê Cóc)</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">Đặc biệt trong Truyện Kiều, Nguyễn Du đã nhiều lần sử dụng chữ "Tuồng"
- Tuồng chỉ hoa thải hương thùa,
<small>- Phụ tình án đã rõ ràng,</small>
Trong thơ văn của Nguyễn Dinh Chiểu, chúng ta cũng đọc thấy chữ "Tudng":<small>- Trăm hoa nủa khóc nua cudi,</small>
<small>- Liu lo chim hot trên cành,</small>
mặt đặc chưng nghệ thuật.
</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">Tu Huế trỏ vào trong, nhân dân gọi "Tuồng" là "Hát Bột", có nơi gọi là "Hát Bộ".
vừa đi vừa hát, vừa làm bộ tịch để biểu hiện cảm giác, cảm tình với câu hát... Tiếng
hát "bội" tuy được công dụng nhưng chưa rõ nghĩa lý gì" (88 tr9). Huỳnh Khắc Dụng
trong cuốn Hat Bội viết: "Hát Bội là lối dién Tuồng rút trong sử ký. Hát Bộ là lối hát
quan họ, hát trống quân v.v... mà khi hát có trống, có chiêng. Các lối hát này một
Bội, trái lại tập trung một nhóm nghệ sĩ, mối người đóng một vai, dién trong rạp hát..
Va lại các từ điển từ Nam chi Bắc tuy không giải rõ chữ Hát Bội, nhưng đều giải<small>nghĩa "Bội" là diễn Tuồng. Như thế, "Bội" là một danh từ riêng để chỉ lối diễn</small>
Tuồng" (62 tr249).
Huỳnh Khắc Dụng còn cho biết: "Theo nhà ngơn ngữ học Đào Trọng Đủ thì suy
ngun ra tiếng "bội" do chữ "bài". Trò Hát Bội là một lối hát cổ điển. Lập luận này<small>căn cú trên luật hoán chuyển của phát âm học.... Dầu sao chăng nữa tưởng nên giữ</small>
luôn đanh từ "hát bội" để chỉ lối diễn Tuồng cổ điển của ta vi hai tiếng "hát bội" q
thơng dụng, tuy tiếng "bộ" hop vói lối dién Tuồng nay" (61 tr249).
<small>thích: "Khi Lý Nguyên Cát đưa ngành Truyện hí sang nước ta, có lẽ anh ta phát âm</small>
<small>khơng đúng chữ, chính xác của nó "Truyén hi" mà anh ta dùng danh từ thông thườngchung chung "Bai uu" để thay thế cho "Truyện hi". Anh ta phát âm theo giọng TrungQuốc, ta nghe lo ló giữa "Bai uu", "Bồi uu", "Bùi ưu”, rồi từ đó có danh từ "Bội", "Hát</small>bội", Su thục ta có "Bài ưu" rồi, chỉ chưa có "Truyện hi" mà thơi" (97 tr42). PhamPhú Tiết cịn giải thích thêm: "Chúng ta nhó rang cụ Hổ (Phạm Dinh Hổ - Nguyén
Xuân Yến thêm) viết chữ "Bội" là chi "Bội" trong danh từ "Bội nhỉ", "Bội tam" v.v...
<small>chứ không phải là "Bội trang", "phan Bội, "Bội nghịch". Nhu vậy danh tu "Hát Bội"</small>
Theo sách Hd: Bội, Huỳnh Khắc Dung còn cho biết: "Ung Hoè Nguyén Văn Tố Trường Bác C6 Viên Đông: "Bội" nghĩa chính là "sau lung", "trái lại”, từ ngữ "Bội
<small>gấp nhiều lần, điều đó rất phù hợp vdi Tuồng" (55.5.1978).</small>
<small>đề danh ngữ như sau:</small>
<small>—_ = O miền Bắc ít dùng chữ "hát Bội" mà chỉ dùng chữ "Tuồng", ö miền Nam dùng</small>
<small>được dùng chính thúc trong các văn ban mà khơng dùng chữ "hát bội". Nha hát</small>
<small>- "Hat Bộ" là do sự đọc trệch của chi"hat bội”. Hiện nay hầu như không ai dùng</small>
<small>quả là nhũng danh ngữ, da và dang còn rất hấp dẫn với các nhà nghiên cứu nghệ</small>thuật sân khấu, và cả những học giả ngữ văn học.
Rải rác trong một số cơng trình nghiên cứu, các ơng: Phạm Phú Tiết, Hoàng Châu
Ký, Lê Ngọc Cầu, Tất Thắng ... có đề cập đến một số vấn đề xung quanh kịch bản
<small>văn học của Tuồng. Về Tuồng dân gian đã có hai cơng trình nghiên ctu khá cơng</small>
<small>v.v... Luận án xin điểm những ý kiến của các nhà nghiên cứu về nhũng vấn đề xã hội,</small>
dao lý và thẩm my trong kịch bản tuồng. Về vấn đề xã hội, Phạm Phú Tiết viết:"Tuồng cổ đã phản ánh khéo léo tình hình xá hội nước ta giai đoạn thé kỷ XVII -
<small>XVIII, khi hai tập đoàn phong kiến Trịnh - Nguyễn phân tranh chống đối lại nhaumột cách kich liệt và kéo dài hàng tram năm ... Tuồng Son Hậu đã phản ánh một</small>
<small>cách khéo léo việc Trịnh - Nguyễn“ phân tranh cho đến hết thoi chúa Vũ Vương, chi</small>
<small>không phải "Tuồng Sơn Hậu" là một Tuồng độc lập khơng trích ỏ truyện sử ra như</small>
<small>bạn Doan Nong da viết trong cuốn "Su tich và nghệ thuật hát b6"(99 tr 164). Nhu</small>
<small>vậy, xã hội được phản ánh trong loại tuồng này (Tuồng quân quốc - Nguyễn Xuân</small>
Yến thêm) tương ung vỏi xã hội nước ta 6 giai đoạn các thế ky. XVI XVII XVIII(98 tr73). Về thời điểm ra đòi của vỏ tuồng Sơn Hậu, Phạm Phú Tiết khẳng
<small>-định: "Tuồng Sơn Hậu đã mượn ý nghĩa lịch sử lúc bấy gio (thoi Trịnh Nguyến phân</small>
tranh) mà diễn ra, "lập tiểu giang sơn " và'xung vương Sơn Hậu" là hai bộ phận làm
<small>cơ cấu chủ yếu của Tuồng" (99 tr164). Tu nhận định đó, tác giả đi đến kết luận: "Vỏ</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">các nhà hát tuồng diễn vỏ Son Hau thường bỏ đi hai sự kiện này. Hơn nữa, không
<small>của các nhân vật mà tính cách được tơ đậm.</small>
2. Sáng tạo những hành động độc đáo của nhân vật để tô đậm tính cách (77 tr32-37).Điều đáng chú ý 6 đây, Hoàng Châu Ky quan niệm Tuồng cổ là nHững voTuồng quân quốc không gộp cả Tuồng dưới triều Nguyễn vào. Vi thế, những quanniệm của ông về phép biên kịch, kết cấu kịch bản, đã được phân tích một cách rõ
<small>ràng,rành mạch:</small>
chuẩn đạo đức cao nhất đối với ho"(77 tr49 - 68).
nhân vật trung gian, là một hạn chế, vì khơng phản ánh được hiện thực xá hội. Mê.
<small>tin dị đoan là một độc tố xã hội khá phổ biến trong kịch bản Tuồng cổ. Điều hạn</small>
chế khá quan trọng là các nhân vật chỉ xuất hiện và hoạt động chủ yếu trong mối
<small>Về nhũng hạn chế của kịch bản Tuồng cổ mà ơng Hồng Châu Ký nêu trên, nếu</small>
như nhìn chung là khá thuyết phục, thì cũng có những điểm cần trao đổi thêm.
<small>của nhân dân, khơng có nhân vật trung gian, nhân vật chuyển hố tính cách, là một </small>hạn chế, vì không phản ánh được xã hội.
<small>của kịch bản văn học Tuồng, trong đó, chủ yếu thiên về mặt kết cấu, ngôn ngữ kịchbản, những ván đề về thẩm my, xá hội, đặc biệt là vấn đề dao lý dường như chỉ lướt</small>
<small>qua. Về mặt thẩm my, Mich Quang dua ra một luận điềm: "Nghiên cứu văn họcTuồng, tơi thấy nó phản ánh rõ quan diểm my học của dân tộc mà Lê Qui Don đã</small>
<small>nói:"Theo ta làm tho có ba điều: Tình, cảnh và sự, Tình là người, cảnh là trồi, sự là</small>hợp cả troi đất mà quán thông". Quan điểm này giống cái mà nhà viết Tuồng ngày
<small>xưa gọi là "thấu tinh đạt ly"(6ng chú thích thêm). Quan điểm này thống nhất với</small>
<small>phẩm nghệ thuật phải giải quyết cho được sự thống nhất, cân bằng giữa chủ thể</small>
<small>thẩm mỹ và khách thể thẩm my, phải làm cho hai mặt đối lập ấy quyện vàonhau (95 tr67). Những đặc trung của kịch bản van học tuồng mà Mich Quang dua ra</small>
là có sức thuyết phục, nhung óng gop Tudng quân quốc trudc triều Nguyến vói
<small>những vỏ tuồng được sáng tác dưới triều Nguyên làm một, để đưa ra những đặc điển</small>
và kết luận chung thì chưa hop lý. Vì có những đặc trung, chỉ có 6 Tuồng qn quốc
hay là sự tất thắng của lý tưởng chính trị, đạo đức của tác giả" (95 tr33). Nhũng điềumà Mịch Quang nêu trên là đặc trưng của kịch bản Tuồng quân quốc trước triều
Nguyễn. Xét những vỏ Tuồng được sáng tác dưới triều Nguyén, đặc biệt là nhũng vỏ
của Đào Tấn mà ông gộp chung là Tuồng cổ, thi chúng không nhất định chúa đựng
tác phẩm Tuồng, Chèo sang phía sân khấu mà không cho chúng lọt vào cái" hàng
làm tăng thêm, sống động thêm, nghệ thuật thêm cái giá trị văn học, cái giá trị kịch
học ấy của Tuồng, Chèo." (104 tr66).
<small>1. Trước năm 1945</small>
Năm 1941, Nhà xuất bản Mai Linh Ha Nội cho xuất bản cuốn Sự'rích và nghệthuật "Hát Bộ" cha Doan Nong. Tác giả nói rõ mục đích biên soạn cuốn sách 6 phần
<small>van chương gồm tất cả các lối van vần và van xi nữa. Thế mà các chương trình</small>
nào văn tế, hát nói, nào x4m nha trị, nói vè v.v., chi tru hát Bộ chưa có.
Cái khuyết điểm ấy quá quan trọng, mục dich của chúng tơi là ưóc mong bổ
khuyết chố đó " (88 tr1).
Trong cuốn sách, tác giả giải thích một số danh từ liên quan đến nghệ thuật
<small>đưa ra một số lời kể có tính chất tương truyền, của các nghệ nhân tuồng, chúng minh</small>
luận mà đưa ra hiện tượng Lý Nguyên Cát.
động... Lối Tuồng của ta không cho phép "tam nhất trí" (Tam: ba, nhất trí: thu về
<small>hình nghệ thuật này.</small>
<small>2. Sau năm 1945.</small>
Phải từ sau năm 1954, vấn đề nghiên cứu Tuồng mỏi thực sự được tiến hành.
Trên các báo chí chuyên ngành bắt đầu giỏi thiệu những bài tiểu luận của các nhànghiên cứu về nghệ thuật Tuồng. Nhiều bài viết sau này được các tác giả tập hợp lại
<small>thành những cuốn sách:</small>
<small>hay, cái đẹp của tuồng.</small>
của Mịch Quang. Điều đáng chú ý trong cuốn sách này là: ngoài phần gidi thiệu về
nghệ thuật múa, hát, biểu diễn, tác giả đã dua ra nhũng luận điển cho rằng Tuồng<small>có nguồn gốc xa xưa và hình thành từ xã hội nước Việt thời cổ.</small>
Văn hoá (Báo cáo tổng kết năm 1964), Phạm Phú Tiết đã biên soạn một tập tài liệunghiên cứu về Tudng. Tập tài liệu này nam 1978 Nhà xuất bản Văn hoá đã cho in
Đây là một cơng trình nghiên cúu về Tuồng có súc thuyết phục, nhiều luận điểmtrong cuốn sách được giới nghiên cứu tuồng tan đồng. Cuốn sách có XII chương, từ
- Năm 1970, Kim Lai ấn quán Sài Gòn cho xuất bản cuốn Har Bội của Tuần .Lý Huỳnh Khắc Dụng. Cuốn sách được soạn theo hình thức song ngữ (Pháp - Việt),<small>trong đó gồm III phan. Phần I, tác giả phê phán thái độ miệt thị, quan điểm sai làm</small>của hai người Pháp đối với Tuồng: ông Landes thị trưởng Chg Lón năm 1879 và ơngJules Lemaftre trong Hàn Lâm viện Pháp quốc.
Trong phần giỏi thiệu về nguồn gốc ra địi của Tuồng, ơng Huỳnh Khác Dụng<small>dẫn chứng một số đoạn phi chép trong Đại Việt sử ký tồn thu, Việt sử thơng giám</small>
"Bình Định chẳng những là nơi gây rối nhiều nhất cho quan quyền, lại còn là nơi
<small>dùng sân khẩu qua mat kiểm duyệt, Ion tiếng tán dương những trang hào kiệt hy sinh</small>
cho vua chúa, lại mắng vào mặt bon phản quốc xu thời, khán giả lấy làm thả hơi.<small>Nhị đó mà nghệ thuật sân khấu sau khi vượt biên gidi Trung Hoa sang Việt Nam,</small>
như thứ cây lạ, chiết cành đem về trồng xứ ta, hạp phong thổ, rễ bám sâu vào lòng
<small>đất để rồi nảy tược đâm chồi, nghệ thuật ấy khỏi thi là một thú vui vương giả, sau lạithành cơ quan diễn đạt ý dân" (61 tr259). Trong phần này tác giả cịn giói thiệu cáchbố trí (trang trí), tổ hát Bội, dàn ngồi (dàn nhạc) y quan, vẽ mặt, giọng hát, văn</small>
<small>chương, tương lai hát Bội v.v... Phần II, tác giả gidi thiệu một vài bản nhạc, nhạc cụ</small>
chính, hia, hài và một số quần áo của Tuồng có kèm theo bản vẽ . Phần III, tác giả
Năm 1973, Nhà xuất bản Văn hoá cho ra đồi cuốn So khảo lịch sử Tuồng của
Hoang Châu Ký. Day là một cơng trình nghiên cứu có tinh chất hệ thống, đầu tiên,
<small>về lịch sử Tuồng. Mặc dau trong lời nói đầu tác giả đã tự đánh giá:"Thụực chất đây</small>
khơng phải là cuốn su về nghệ thuật, mà nó chỉ là một tập tư liệu mang ít nhiều tinhchất dẫn luận về vấn đề này" (76 tr10), nhưng cuốn sách thực sự là một cơng trình có
ý nghĩa khoa học lón. Cuốn sách đã giúp cho người đọc nhìn nhận được một cách
tổng quát giai đoạn hình thành và phát triển của Tuồng.
</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34"><small>Năm 1978, Nhà xuất bản Văn hoá cho ra cuốn Tuồng cổ của Hoàng Châu Ký.</small>
<small>Trong cuốn sách này tác giả da cho in hai văn bản kịch bản Tuồng cổ: Son Hau và</small>Tam nit đồ vuong. Theo Hoàng Châu Ký thi đây là các văn bản cổ nhất so với các
<small>van bản khác. Trong cuốn sách, tác giả cịn có phần tiểu luận giỏi thiệu về: van học</small>
Tuồng cổ, kịch bản Tuồng cổ.
<small>- Năm 1978, trong cuốn giáo trình Văn học Việt Nam nila cuốt thế kỳ XVIII nila</small>
<small>nghiệp ấn hành, tác giả đã soạn một chương (chương XVIII) giới thiệu một cách</small>
tổng quát về nghệ thuật Tuồng.
<small>- Năm 1979, Ty Văn hố Thơng tin tỉnh Nghia Binh đã cho xuất bản cuốn Đào</small>
<small>do Bộ Văn hố Thơng tin phối hop vdi tỉnh Nghia Bình tổ chức. Tập sách đã in</small>
<small>nhiều bài tham luận về Đào Tấn của các nhà nghiên cứu sân khấu: Hoàng Châu Ký,</small>
<small>Năm 1980, Nhà xuất bản Văn hoá cho ra cuốn Tưồng hài của Lê Ngoc Cầu.</small>
<small>Trong cuốn sách, ngoài việc in gidi thiệu sáu van bản kịch bản Tuồng hài, tác giảcịn có phần tiểu luận phân tích một cách hệ thống về sy ra đời của loại tuồng này</small>
<small>cũng như Tuồng nói chung. Tác giả đã có một luận điểm đáng lưu y:"Trén cdssư một</small>
nền nghệ thuật diễn xudng dân gian và kể về sâu rộng của dân tộc, Tuồng của ta,
<small>đặc biệt là Tuồng hai đã được hình thành tù rất lâu địi... Quyết không phải chỉ từ</small>
Lý Nguyên Cát trỏ đi nghệ thuật Tuồng của ta mói hình thành" (52 tr44).
<small>mang. Tập sách gồm ba bài viết về Tuồng, Chèo, Cải lương của các nhà nghiên cứu</small>
<small>Hoàng Châu Ký, Hà Văn Cau, Hoàng Như Mai."Muc dich của các bài viết nhằm</small>
tổng kết, biểu dương những thành tích chủ yếu của sân khấu ca kich..."(58 tr3).
Năm 1981, Ty Văn hố Thơng tin Nghia Binh cho xuất bản cuốn Hi trường tuỳbút của Dao Tấn do ông Đào Thạch Thuy (con trai của Dao Tấn) chấp bút ghi lạimột số bài viết của Dao Tấn, về sy ra đời của Tuồng, ý đồ sáng tác vò Khuê các anhhùng và nhuận sắc lại vỏ tuồng Sơn Hậu."Tôi soạn vỏ Khuê các anh hùng cùng
khất khe vay"(96 tr19)."Tôi soạn Tuồng "Tinh trung báo quốc" để tặng ơng Phan
<small>Nam 1984, Nha xuất bản Khoa hoc xã hội cho ra cuốn Mội dung x4 hội và mỹ</small>
<small>cơng phu về loại Tuồng đồ. Nội dung cuốn sách gồm hai phần co bản: Nội dung</small>
<small>Tuồng đồ - Mỹ học Tuồng đồ. Hệ tư tưởng Tudng đồ - Ý nghĩa xã hội của Tuồng</small>
<small>đồ... Phần mỹ học: Những nguyên lý co bản. Nghệ thuật cấu trúc - Ngôn ngũ Tudng</small>
<small>đồ - Nghệ thuật biểu diến - Mỹ học tiếng cười... Về mặt phương pháp luận, các tác</small>
<small>giả cuốn sách đã tiếp cận đối tượng: "như một hiện tượng văn hố. Để làm điều đó,</small>
<small>chúng tôi xét Tuồng đồ trong mối quan hệ với các hiện tượng văn hoá khác như</small>
<small>Tuồng thầy, văn hoá dân gian, hội hoạ dân gian, tư tưởng nhân dân" (53 tr383).</small>
<small>Năm 1986, Viện nghệ thuật sân khấu cho xuất bản cuốn Mấy vấn đề về sân</small>
khấu truyền thống của Hoàng Chương. Cuén sách này tập hop nhiều bài tiểu luận
<small>phê bình của tác giả về Tuồng đã từng đăng rải rác trên báo và tạp chí chuyênngành.</small>
<small>Năm 1987, S6 Văn hố Thơng tin Quảng Nam - Đà Nẵng cho xuất bản cuốn</small>
<small>Da Nẵng tổ chức. Tập sách đã in nhiều bài tham luận của các nhà nghiên cứu sânkhấu về thân thế, sự nghiệp, tài năng, và những đóng góp nghệ thuật của Nguyễn</small>
Hiển Dinh. a
<small>Năm 1988, Sở Văn hố Thơng tin Phú Khánh xuất bản cuốn Đặc trưng nghệ</small>
<small>mình về Tuồng từ trưóc đến nay. Ngồi các chương giói thiệu về múa, hát, nghệthuật biếu diễn của Tuồng, phương pháp sân khấu Tuồng, tác giả đành một phần</small>nghiên cứu về kịch bản van học Tuồng. Mich Quang dua ra mười đặc điểm của kịch
bản tuồng, những đặc điểm này đã được nói 6 mục liên quan đến đề tài.
cạnh: Vấn đề nhận thúc kịch hát truyền thống - Tính hiện đại của kịch hát truyền
thống - Bản chất văn học của kịch hát truyền thống. Phần II của cuốn sách, tác giả
cịn phân tích: Bản sắc độc đáo của ngơn ngữ chèo và mục: Góp thêm vào một đặc
-33-hát... là nơi hội tu ink Tudng, nơi đơng đặc khơng khí Tudng... là nơi q trình Tudng
<small>hố được thực hién."(104 tr207+208). Trưỏc đó tác giả đã chúng minh sự khác biệt</small>
<small>giữa nói lối và hát của Chèo va Cải lương. Phần kết luận cuốn sách tác giảviết: Tuồng, một nghệ thuật có cả một hệ thống ngôn ngũ tổng hợp nhiều yếu tố</small>
<small>nhằm đạt đến cái mục đích nghệ thuật tối cao... Sáng tạo một thế giỏi khác biệt trànđầy màu sắc va khơng khí nghệ thuật cing là khơng khí Tuồng mà lâu nay chúng ta</small>
<small>thường nói". (104 tr224).</small>
<small>Năm 1993, Nhà xuất bản sân khấu cho in cuốn Di tim vẻ đẹp của sân khấu</small>truyền thống cia tác giả Hoàng Chương. Day là cuốn sách tuyển chọn, nhiều bài tiểư
<small>luận, phê bình và tuỳ bút sân khấu của tác giả đã từng phát biểu trong các cuộc hội</small>
<small>thảo, hoặc đăng rải rác trên các tạp chí, báo mấy năm gần đây.</small>
Năm 1993, Viện sân khấu cho in cuốn Nghệ thuật Tuồng - chặng đường phát
<small>Văn hố Thơng tin và tỉnh Bình Định phối hợp tổ chúc năm 1993 tại Bình Định.</small>
Cuốn sách đã in nhiều bài tham luận của các nhà nghiên cứu về thành tựu, hạn chế
<small>của các don vị Tuồng trong bốn mươi năm gin giũ va phát triển.</small>
Ngồi nhũng cơng trình nghiên cúu nói trên, cịn có một số cuốn sách ghi lại
cuộc đời hoạt động nghệ thuật tuồng của các nghệ si nổi tiếng như: Nguyễn Nho
một số được ghi trong phần thư mục tham khảo của luận án.
<small>nan giải, cịn tranh luận... Diều đó phản ánh một khơng khí nghiên cứu khoa học sôi</small>
<small>nổi và lành mạnh về thể loại kịch hát truyền thống giá trị bậc nhất này.</small>
<small>Riêng về đề tài qn quốc, các cơng trình nghiên cứu trên đã có bàn tdi, nhưng</small>
<small>ít khi bàn một cách trục tiếp. Một số cơng trình của Hồng Châu Ký, Lê Ngọc Cầu,</small>
Phan Ngọc, Mịch Quang, Tất Thắng v.v... viết về đặc trưng, nghệ thuật xây dụng
<small>hình tượng v.v... của các vỏ tuồng Son Héu, Tam nit đồ vương... những vò mà luận</small>
án này gọi là Tuồng quân quốc. Nhưng nói đến đề tài qn quốc vơi nghĩa đích thực
<small>như nghĩa 6 luận án này thi mdi thấy 6 một hai cơng trình, trong đó có các cơng</small>
<small>trình của Giáo sư Tất Thắng. Chẳng hạn trong tham luận hội thảo khoa học về nhà.</small>
<small>soạn tuồng Nguyễn Hiền Dinh, Giáo su viết: "Nhu thế, V6 Hung Vương là vỏ Tuồng</small>
<small>một thời kỳ mdi."(102 tr127).</small>
<small>Tuy cịn ít nhà nghiên cứu nói đến đề tài quân quốc nhưng nhiều vấn đề, có khi</small>
quốc lại đã được các học giả ít nhiều bàn đến khi viết về Tuồng nói chung. Diều đó
cũng thật đơn giản vì những vỏ Tuồng điển phạm nhất, tiêu biểu nhất, hấp dẫn nhất,
bạo liệt nhất thường tập trung 6 đề tài quân quốc. Các cơng trình nghiên cứu về
</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38"><small>nan giải, cịn tranh luận... Điều đó phản ánh một khơng khí nghiên cứu khoa học sơi</small>
nổi và lành mạnh về thể loại kịch hát truyền thống giá trị bậc nhất này.
Riêng về đề tài qn quốc, các cơng trình nghiên cứu trên đã có bàn tỏi, nhưng
<small>ít khi bàn một cách trực tiếp. Một số cơng trình của Hồng Châu Ký, Lê Ngọc Cầu,</small>
<small>Phan Ngoc, Mich Quang, Tất Thắng v.v... viết về đặc trung, nghệ thuật xây dựng</small>
<small>hình tướng v.v... của các vỏ tuồng Sơn Hậu, Tam nit đồ vương... những vo mà luận</small>
<small>như nghĩa 6 luận án này thi mdi thấy 6 một hai cơng trình, trong đó có các cơng</small>
<small>trình của Giáo su Tất Thắng. Chẳng hạn trong tham luận hội thảo khoa học về nhà.</small>
<small>soạn tuồng Nguyễn Hiển Dinh, Giáo sư viết: "Nhu thế, Vo Hùng Vuong là vò Tuồng</small>
<small>một thồi kỳ mới."(102 tr127).</small>
<small>Tuy cịn ít nhà nghiên cứu nói đến đề tài quân quốc nhưng nhiều vấn đề, có khi</small>
quốc lại đã được các học giả ít nhiều bàn đến khi viết về Tuồng nói chung. Diều đó<small>cũng thật đơn giản vì nhũng vở Tuồng điển phạm nhất, tiêu biểu nhất, hấp dẫn nhất,</small>
bạo liệt nhất thường tập trung 6 đề tài quân quốc. Các cơng trình nghiên cứu vềtuồng khơng nhũng khơng thé bỏ qua nhũng vỏ tuồng ấy mà còn coi nó như nhũngluận chúng thể hiện rõ nhất những hang số giá trị của Tuồng. Luận án, vi thế đã tiếp
<small>quốc một cách khơng tự giác.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 39</span><div class="page_container" data-page="39"><small>nan giải, cịn tranh luận... Điều đó phản ánh một khơng khí nghiên cứu khoa học sôi</small>
nổi và lành mạnh về thể loại kịch hát truyền thống giá trị bậc nhất này.
<small>Riêng về đề tài qn quốc, các cơng trình nghiên cứu trên đã có bàn tdi, nhưngít khi bàn một cách trực tiếp. Một số cơng trình của Hồng Châu Ký, Lé Ngọc Cầu,</small>
<small>Phan Ngoc, Mich Quang, Tất Thắng v.v... viết về đặc trung, nghệ thuật xây dụng</small>
<small>hình tướng v.v... của các vỏ tuồng Son Hậu, Tam nit đồ vương... những vỏ mà luận</small>
<small>như nghĩa 6 luận án này thi mdi thấy 6 một hai công trình, trong đó có các cơngtrình của Giáo sư Tất Thắng. Chẳng hạn trong tham luận hội thảo khoa học về nhà.</small>
<small>soạn tuồng Nguyễn Hiển Dinh, Giáo sư viết: "Nhu thế, Vo Hùng Vương là vị Tuồng</small>
<small>một thồi kỳ mdi."(102 tr127).</small>
tuồng không những không thể bỏ qua nhũng vỏ tuồng ấy mà cịn coi nó như nhũngluận chứng thể hiện rõ nhất nhũng hang số giá trị của Tuồng. Luận án, vi thế đã tiếp
<small>quốc một cách không tự giác.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 40</span><div class="page_container" data-page="40"><small>CHUONG II</small>
<small>Tuồng quân quốc phản ánh nhiều trạng thái tình cảm của con người: hỉ, nộ, ai,lạc, ái, 6, dục. Tuy nhiên tính thẩm mỹ nổi bật là chất bi - hùng. Cái hài chỉ là mộtyếu tố xen kẽ thường diễn ra trong các lóp phụ, nó khơng trị thành yếu tố chủ đụo</small>
<small>như trong Tuồng dân gian.</small>
<small>Cũng như các hình thúc văn hoa nghệ thuật khác, kịch bản Tuồng quân quốc lấy</small>
<small>đời sống xã hội và con người làm đối tượng để phản ánh và sáng tạo. Nhung "vùng</small>
mâu thuẫn và sự lựa chọn cách ứng xử của tầng lúp sĩ phu q tộc, trong q trình
i. TÍNH THẤM MỸ QUA ĐỐI TUONG PHAN ANH VÀ SÁNG TẠO CUA KỊCH RAN 'TUỒNG
QUẢN QUỐC
<small>Tuồng quân quốc chủ yếu phản ánh nhũng vấn đề "quốc gia đại sự", trong đó</small>
đối tượng chính là tầng lớp sĩ phu quí tộc phong kiến. Tuồng quân quốc mở dau là
han liền cướp ngai vàng để lập ra một triều đại khác. Nhũng ngưöi trung thành vớitriều đại trước, quyết tâm bảo vệ Hoàng tử, họ tụ tập nhau tại một vùng căn cú, rồi