Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (52.27 MB, 198 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">
<small>2 =</small>
1. Mục dich ý nghĩa của luận an :
việc làm hàng đầu từ xưa tới nay trong ngữ pháp truyền thống cũng như ngữ pháp
đó có tiếng Anh và tiếng Việt.
phổ quát của cấu tạo tuyến tính và là phương tiện ngữ pháp vốn đã được nhiều nhà
cịn chưa có được và việc lấp chỗ trống đó là một việc cần thiết.
nước ngoài (dang ngày một mở rộng) cần phải được dựa trên cơ sở ngơn ngữ hoc_ trong đó việc tiến hành so sánh đối chiếu các cấu trúc cú pháp, các phạm trù ngữ
đạt và người học nhẹ nhàng trong khi tiếp thu và thực hành. Những cơng trình ngữ
ra. Những cơng trình thuộc loại đó một vài chục năm nay đã có nhưng chưa nhiềuvà chất lượng còn phải được nâng cao.
vào một trong những vấn đề quan trọng của ngữ pháp lý luận giữa hai ngôn ngữ cócấu trúc vừa giống nhau vừa khác nhau (Anh - Việt) đồng thời đề tài này cũng có ý
<small>1</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4"><small>kinh nghiệm.</small>
này vốn da được các nhà ngữ pháp học lập danh sách và đã dé cập đến trên phương
<small>diện này hay phương diện khác. Chúng tôi coi các đơn vị truyền thống này như</small>
nhất của cú pháp hình thức sẽ là nội dung quan tâm chủ yếu của chúng tôi.
Việc dối chiếu trật tự từ chúng tôi sẽ tiến hành trên hai loại cấu trúc. Đó là
quan trọng nhất của trật tự ở mơi loại đơn vị, tìm kiếm những động lực chi phốicác hoạt động của chúng, dồng thời tiến hành so sánh đối chiếu diện mạo và các
này. Trong hai loại cấu trúc : doảán ngữ và mệnh đề, phạm vi nghiên cứu sẽ tập
cơ sở gan với những từ loại cơ bản nhất và ngay cả mệnh dé ngôn ngữ cũng phải
tạo dựng lên một bức tranh về trật tự từ qua đoản ngữ và mệnh đề trong hai ngôn
<small>ngữ Anh - Việt. Luận án trong khi tập trung vào vấn dé trật tự hình thức sẽ tạm</small>
thời tách khỏi phân tích trên các bình điện khác (phân tích trật tự từ trên phương
<small>điện thơng tín câu, trật tự từ trong phân đoạn thực tại các phát ngôn, trật tự từ trên</small>
bình diện tâm lý - giao tiếp...).
<small>3. Nhiệm vụ của luận án :</small>
Trong luận án này, chúng tôi tập trung thực hiện những nhiệm vụ sau dây :3.1. Xác lap khái niệm cấu trúc cú pháp là cơ sở của việc nghiên cứu.
</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">và đối chiếu trong luận án.
và tiếng Việt.
tiếng Anh và tiếng Việt.
đối chiếu trật tự từ Anh - Việt.
<small>4. Thương pháp nghiên cứu :</small>
Luận án này theo cách dat vấn đề trên là một luận án thuộc loại nghiên cứu
<small>được định hướng theo phương pháp :</small>
4.1. Miêu ta các đối tượng (trật tự từ trong danh ngữ, động ngữ, tính ngữ và
thức cú pháp của trật tự).
chúng tôi vẫn sử dụng những thao tác mà ngôn ngữ học thường ding, trong đó
đích cuối cùng là phân tích các chỉ tiết các phát ngơn rồi từ đó tiến hành nhận xét
<small>khái quát.</small>
Việc chúng tôi chọn tiếng Anh và tiếng Việt để đối chiếu có liên quan chặt
cịn tiếng Anh là ngoại ngữ mà chúng tơi có dip làm cơng tác giảng dạy nhiềunăm. Tuy nhiên điêu quan trọng hơn là tiếng Anh và tiếng Việt đều có nhữngphương thức ngữ pháp giống nhau. Trật tự từ là một phương pháp ngữ pháp quan
chiếu và trong quá trình đối chiếu, sự quan tâm đến tiếng Việt được tăng lên.
Cũng cần nói thêm rằng đối với các vi dụ minh hoa bang tiếng Anh, chúngtôi chi chú ý dich đúng và sát nghĩa chứ không quá chú ý đến việc diễn đạt trau
doan ngữ và mệnh đề thường gặp.
</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7"><small>-1.1. Lịch sử nghiên cứu trật tự từ trong ngôn ngữ học, tiếng Anh và</small>
1.1.1. Nghiên cứu cấu trúc cú pháp thực chất là nghiên cứu hình thức, tổchức của ngữ pháp. Vấn đề này đã được đặt ra ngay từ khi xuất hiện khái niệm ngữ
học. Các nhà ngữ pháp học cũng đã quan tâm đến các khái niệm hình thức của cácphạm trù ngữ pháp như cách của danh từ, ngôi, thời, thể của động từ. Cố nhiên, cácnghiên cứu hình thức này vào thời đó chưa tách ra khỏi những phạm trù ngữ phápvừa có tính triết học, 10-gic vừa có tính tâm lý (có thể dẫn ra học thuyết của
<small>Aristotle về từ loại là một ví dụ).</small>
<small>tích trong các khái niệm ngữ pháp duy lí của Port-Royal. Các nhà ngữ pháp Pháp</small>
trong khí đồng nhất ngôn ngữ với tư duy đã khám phá ra một cấu trúc quan trọng,
<small>đó là : cấu trúc mệnh đề có hình thức S - P (subject (chủ) - predicate (vị). Cấu trúc</small>
thời gian dài đã trở thành một công thức miêu tả của ngữ pháp nhà trường ở châu
ngơn ngữ học rất khác với tiếng Anh và tiếng Việt : đó là tiếng Nga - một ngơn
trước hết là các cấu trúc cú pháp thuộc về ngôn ngữ học cấu trúc luận, đặc biệt làngôn ngữ học miêu tả Mỹ (Descriptive Linguistics School), bat đầu từ L.
đơn vị (unit), về các cấp độ (levels), về các quan hệ được gọi là “network
ngữ học miêu tả đã xây dựng được mội hệ thống các đơn vị cú pháp với các cấu
là ngôn ngữ học miêu tả đã đưa ra được lý thuyết phân bố (distribution). Việc xáclập các quan hệ cũng dua ra ý niệm về tập hợp các từ trong một cấu trúc mà nội
Các nhà ngôn ngữ học sau L. Bloomfield đã làm rõ thêm các khái niệm về
học cải biến (transformational) và tạo sinh (generative).
nhà chức nang hiện đại như Austin, Ducrot, Searle, Haliday, Dik ... Xét ở phương
một cách rất đặc thù trong ngôn ngữ học Anh vì tiếng Anh là đối tượng của nghiên
<small>Anh cũng phan ánh một tình hình nghiên cứu khá giống với các nên ngôn ngữ học</small>
<small>người ta gặp trong ngữ pháp tiếng Pháp, ngữ pháp tiếng Đức, ngữ pháp tiếng Tây</small>
Ban Nha... Trong sự cải tiến của ngữ pháp Anh hiện đại thì khuynh hướng nghiên
<small>cứu được tách làm hai nhánh: một nhánh vẫn tiếp tục hồ nhập với ngơn ngữ học</small>
học miều ta đến N.Chomsky). Nhưng nếu nhìn từ phía khác, tiếng Anh lại là dốitượng nghiên cứu cua ngơn ngữ học Bac Mỹ. Chính từ phía tiếng Anh - Mỹ mà các
<small>nhà ngơn ngữ học Mỹ (từ L.Bloomficld đến Harris và hậu kỳ là những người khác)</small>
đã xây dựng nên các lý thuyết nổi tiếng về miêu tả luận và ngôn ngữ học tạo sinh.
</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">dựa vào ý kiến của nhiều nhà ngữ pháp học thuộc thế hệ hiện đại như : O.Thomas
<small>(1967); R.A.Jacobs ct al (1968) ; E.M. Gordon & I.P. Krylova (1974) ; F. Frank</small>
<small>G.Leech & J.Svarivik (1990) ; R.Quirk & S. Greenbaum (1990) ; L.G. Alexander</small>
<small>(1992) ; B. Levin (1993); B.S. Azar (1993-1995)...</small>
1.1.2. Trong tiếng Việt, chỉ nói riêng về vấn dé trật tự từ thi chúng tôi cho ôi ‹
<small>A.de Rhodes khi ông miêu tả về các loại từ loại tiếng Việt trong phần phụ lục của</small>
<small>Chi Minh (1991), là Trương Vĩnh Ky (1889), Duy Liên (1906) trong các sách day</small>
tiếng Việt thực hành hồi cuối thế kỷ 19. Nhưng có lẽ người đầu tiên quan sát thấy
tâm đến trật tự trong tổ hợp giữa loại từ và danh từ.
phát ngơn ;” Sao anh bao nó khơng đến?” thì người ta thu được rất nhiều những
mô hình trật tự từ trên bình diện ngơn ngữ học cấu trúc. Nếu nói riêng về phân tíchtrật tự từ trên bình diện chức năng, ta phải nhắc đến những cơng trình của Lý TồnThăng (1981, 1984), Cao Xn Hạo (1992), Đô Hữu Châu(1992). Luận án củachúng tôi, tuy không có tham vọng tổng kết lý luận về trật tự từ nhưng cũng hyvọng sẽ có được một vài đóng góp vào phương diện này. Trong khi đối chiếu với
trúc ngữ pháp tiếng Việt mà tiêu biểu là ở hai loại : cấu trúc đoản ngữ và cấu trúc
<small>mệnh đề.</small>
1.2. Những khái niệm có tính chất cơ sở :
<small>Luận van này di sâu vào nghiên cứu một bộ phận (trật tự từ) thuộc địa hại</small>
liên quan đến dối tượng khảo sát, phân tích và đối chiếu, tức là trật tự từ trong các
chức do sự kết hợp giữa từ với từ trong ngữ lưu tạo nên. Nói khác di, cấu trúc cú
là cấu trúc luận miêu tả Mỹ từ L.Bloomficld đến Harris và N. Chomsky.
minh một chủ thuyết về cấu trúc cú pháp. Đối với ngữ pháp tiếng Pháp thi lýthuyết về mệnh đề (la proposition) là trung tâm, rồi từ đó toa di các quan hệ khác.Truyền thống ngữ pháp Nga thi lý thuyết từ 16 (slovostretanije) lại có một vị trí đặcbiệt. Các nhà ngôn ngữ học Nga như từ Sakhmatov, Fortumatov thế ky 19 đến cácnhà ngôn ngữ học Xô-viếi như là Shcrba, Mesanhinov, Vinogradov,lteformatskij...rất quan tâm đến lý thuyết từ tổ đặc biệt là các từ tổ cặp đôi, tức là
<small>gồm hai từ theo quan hệ hợp dang, thi dụ như : “novaia knhiga" (sách mới) bởi vi</small>
dạng và các trật tự, tơn ti của nó.
Trong tiếng Anh (ở Mỹ) các nhà ngôn ngữ học rất quan tâm đến các hình vị
đi xa hơn ranh giới “tir” truyền thống của các "morpheme”. Về phương diện này ta
Xuân Hạo, Nguyên Thiện Giáp cũng có ý định dưa những liên hệ cú pháp tới bậc
Trong luận van này, chúng tôi chủ trương tôn trong khái niệm “từ” của ngônngữ học truyền thống và nghiên cứu trật tự từ là chính chứ khơng nghiên cứu trật
<small>khái niệm này là khái niệm vị trí (position) và trật tự tương tác giữa các vị trí. Thay</small>
phân bố cho trật tự từ trước hết là tiếng Anh.
Như đã nói ở phần 1.1.1, chang tôi muốn dựa vào hai khái niệm rất cơ bản là cấutrúc nội hướng (endoccntric construction) và cấu trúc ngoại hướng (cxoccntricconstruction) của Bloomfield, vi qua thực các loại cấu tric mang tinh phân bố nàycho ta ý niệm rất rõ ràng về trật tự. Trong khi nghiên cứu theo hướng đối chiếu,chúng tôi thiết nghĩ hai loại đơn vị này sẽ giúp ta nhìn được rất rõ những quy tacVỀ trật tự cua các thành tố ngữ pháp trong các ngôn ngữ khác nhau mà cụ thể ỗ
<small>day là tiếng Anh và tiếng Vict.</small>
Trước hết, chúng tôi xin nói về cấu trúc nội hướng, mà cụ thể là về kháiniệm "đoán ngữ”. Thuật ngữ này được các nhà Hán ngữ học đà sử dụng để chi một
vẻ mặt ngữ nghĩa ;
<small>hệ chính phụ ;</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">doan ngữ thành doan ngữ có danh từ làm trung tâm (danh ngữ) doan ngữ có dong
<small>Tính cũng khơng về nhà.</small>
<small>Trong ba ví dụ trên, chúng ta có động ngữ : “cũng khơng về nhà” có "về” là</small>
<small>động tử làm trung tâm, cịn "cũng", “khơng” là các thành tố phụ phía trước và</small>
“nha” là thành tố phụ phía sau ; danh ngữ: "tất cả mọi cơng dan của x4" có "cơng
<small>dan" là danh từ làm trung tâm, “tat cả”, “moi” là các thành tố phụ phía trước, “của</small>
xã " là thành tố phụ phía sau, tính ngữ "vo cùng tốt" có "tốt" là tính từ làm trungtâm cịn "vơ cùng” là thành tố phụ phía trước. Cũng theo Nguyễn Tài Cẩn khi
dam nhận được chức vụ đó. Tức là, doan ngữ chưa gắn liền với một chức vusndođó cho sẵn nhất định và vì vậy chúng ta có thể tách riêng doan ngữ ra mà nghiên
<small>cứu một cách độc lập với chức nang cú pháp.</small>
về trật tự từ trong phạm vi danh ngữ mà luận án chúng tơi dé cập đến. Các cơng. trình ngữ pháp tiếng Việt của Trương Văn Chỉnh (1963), Nguyễn Kim Than
(1964), Thompson (1965), Trần Ngọc Ninh (1974), Nguyên Phú Phong (1976)
của Dinh Văn Đức (1986), Diệp Quang Ban (1992), Nguyễn Minh Thuyết (1989)...
<small>Đối với loại cấu trúc thứ hai mà Bloomfield nêu ra, (cấu trúc ngoại exocentric construction) thì đơn vị dể phân tích trật tự từ khơng có gì tốt hơn làmệnh đẻ. Đối với chúng tơi, như vậy cũng sẽ có điều kiện để thừa hưởng các kết</small>
hướng-quả nghiên cứu của truyền thống ngữ pháp học châu Âu cũng như ngữ pháp nhà
<small>trường (vẻ những nội dung cu thể có liên quan đến khái niệm cấu trúc mệnh dé,</small>
<small>chúng tơi sẽ trình bày ở phần đầu chương 5, như vậy sẽ tiện hơn cho việc phân tích</small>
<small>và đối chiếu hai ngơn ngữ Anh- Việt).</small>
<small>Nói tóm lại, quan niém về dơn vị cấu trúc cú pháp mà chúng tôi lấy làm căn</small>
<small>cứ ở đây chủ yếu được xem xét từ góc độ ngữ pháp hình thức. Việc phan tích các</small>
cấu trúc này trên phương diện thơng tin (phân đoạn thực tai), phương diện tâm lý,
<small>sẽ không được đề cập tới trong luận án bởi vi đó là những vấn dé rất lớn khác,</small>
vượt ra khỏi khuôn khổ của bản luận án.1.2.2. Khái niệm về trật tự :
các phát ngôn. Như vậy, "từ” trong từ điển và "từ” trong các hoạt động của lời nóicó sự khác nhau cơ bản mà người ta thường gọi là sự khác biệt chức năng. Tất cảcác hoạt động có tính chất chức nang (functional action) của ngơn ngữ đêu đượcbiểu thị nhờ vào các hình thức mà ta quen gọi là những quan hệ ngữ pháp(grammatical relations). Quan hệ ngữ pháp tồn tại trong những chất liệu ngôn ngữkhác nhau mà sự lưỡng phân lớn nhất một bên là các ngơn ngữ có cấu trúc tổnghợp tính và một bên là các ngơn ngữ có cấu trúc phân tích tính. Các quan hệ ngữ
hơn khơng thuần t hình thức.
<small>đề phương thức ngữ pháp mà là sự phân bố (tức là sự đối đãi lẫn nhau) giữa các</small>
yếu tố cú pháp trong cấu trúc. Theo lý thuyết phan bố thì giá trị cú pháp (syntacticvalue) dược tao ra từ các mối quan hệ giữa các yếu tố ngữ pháp và các giá trị đóđược xác lập qua khái niệm vị trí mà mỗi một yếu tố được phân bố (distribution)trong ngữ lưu (language flow). Nội dung của mỗi một vị trí không phải là cái giá
chúng (paradigmatic) nghĩa là tất cả những yếu tố nào đó có thể thay thế cho nhau
(position) ở trên trục cú đoạn. Nhu vậy, các nhà ngữ pháp miêu ta chú trọng đếnnhững quan hệ khái quát trừu tượng tạo nên trật tự của các yếu tố nhiều hơn là chútrọng đến chất liệu ngôn ngữ của loại phương thức ngữ pháp. Vấn đề trật tự hình
ngữ pháp của Tesniére(1959). Từ sau chiến tranh thế giới thứ hai, ngữ pháp lý
tích ngơn ngữ. Có lẽ mở đầu cho thiên hướng này là Mathezius (1945) với những
từ. Thậm chí xa hơn nữa, quan niệm của N. Chomsky vẻ cấu trúc nổi và cấu trúc
trúc hình thức của ngơn ngữ, mà cũng có liên hệ đến một loại "trật tự ngữ nghĩa”mà tác gia cảm nhận dược.
<small>- Như vay, khái niệm trật tự từ cho đến nay đã được nhìn nhận một cách da</small>
luận án của chúng tôi, do những giới han dã được dat ra, việc khảo sát trật tự từtrong các cấu trúc ngữ pháp Anh-Việt không thể bao hàm sự phân tích cả baphương diện đó. Những cố gắng phân tích của chúng tơi chủ yếu nhằm vào nhữngtrật tự cấu trúc. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện sự phân tích này chúng tơikhơng hồn tồn tách rời suy nghĩ ra khỏi sự tương tác với những bình diện trật tự
dé-dù vậy, do khuôn khổ một luận án, như đã nói ở trên chúng tơi khơng có đủ diều
<small>mệnh dé thường gặp.</small>
hậu kỳ của ngơn ngữ học so sánh. Nó vừa xuất phát từ yêu cầu về mặt lý luận đồng
Trước ngôn ngữ học đối chiếu đã có ngơn ngữ học so sánh các ngôn ngữ
học thế ky 19 và thế ky 20, với những tên tuổi như là Bopp, Rusk, Meillet, Sherba,
Ngôn ngữ học đối chiếu ra đời đã khắc phục những ra ranh giới hạn chế vàmở rộng địa bàn hoạt động của các phép đối chiếu, dua lý luận đối chiếu đến các
thêm những quy luật hoạt động mới, những nét đặc thù của cấu trúc. Lý luận vềđối chiếu cũng dã từng bước được xây dựng và mở rộng, dã được ứng dụng trong
<small>nhiều địa hạt (Lê Quang Thiêm, 1986,1989). Vi dụ, đối chiếu trên các cấp độ âm</small>
được những cơ sở của phép dối chiếu cũng như là những thao tác cơ bản ứng dụng
(universal) của ngôn ngữ cũng dược mở rộng hơn và nhìn xa hơn. Trong mot tinh
<small>những ngơn ngữ khơng có quan hệ họ hàng thân thuộc. Chúng cũng khơng cùng</small>
<small>16</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">dụng một số phương thức ngữ pháp như phương thức hư từ, phương thức trật tự từ.Những nét giống nhau và khác nhau giữa hai ngôn ngữ này không đi quá xa về mat
tiến hành đối chiếu dược chúng mà cịn sẽ có lợi thế cả cho việc đóng góp vào lýluận đại cương cũng như mo ra kha năng ứng dụng trong phạm vi các ngôn ngữ
<small>dối chiếu;</small>
(b) Lấy tiếng Việt làm ngôn ngữ cơ sở và tiếng Anh làm ngôn ngữ để dối
(c) Coi hai ngôn ngữ đối chiếu ngang hàng với nhau.
Nếu coi một ngôn ngữ làm trọng thi cố nhiên những cấu trúc ngữ pháp,
tơi, thuận lợi lớn là kha năng am hiểu cấu trúc tiếng Anh và khả năng thực hành
trật tự cơ bản trong một số cấu trúc ngữ pháp tiêu biểu sau đó là sẽ đối chiếu với
<small>được tăng lên, do đó chúng tôi đã mạnh dạn đi sâu vào tiếng Việt trong quá trình</small>
đối chiếu và kết quả là một số đối chiếu của chúng tôi cũng dược nâng cao hơn sovới mức thơng thường. Cũng nhờ đó, chúng tơi có điều kiện hiểu thêm các cấu trúctiếng Anh.
Trong khi tiến hành các phép nghiên cứu đối chiếu trật tự từ chúng tôi luôntuân thủ các giới han đã định : chỉ nghiên cứu đối chiếu trật tự từ trên binh diện
đều chưa có điều kiện được dé cập đến trong ban luận án này.
<small>Danh từ được xem là loại từ loại quan trọng và vi vậy dược các nhà ngôn</small>
<small>đặc biệt là trong quan hệ với động từ (R.A. Jacobs et.al, 1968; F.R. Palmer, 1974;</small>
<small>1983; J. K. Kaplan, 1989; G. Leech & J. Svartvik, 1990; R. Quirk & S.</small>
Greenbaum, 1990...). Trong chương này, chúng tôi sẽ tiến hành nghiên cứu va khảosắt trật tự trong: (i) cấu trúc danh ngữ và các biến thể; va (ii) các ý nghĩa ngữ phápvà các vị trí của các thành tố phụ trong danh ngữ Anh - Việt với hy vọng tìm ra
các thành tố phụ. Danh ngữ có mấy dac diểm chính sau:
<small>(i). Danh ngữ cấu trúc theo nguyên tắc bao gồm một thành tố chính (trung</small>
tâm) và các thành tố phụ phan bố trước và sau nó thành các vị trí;
<small>(ii). Quan hệ giữa trung tâm và các thành tố phụ là quan hệ chính phụ. Vi</small>
vậy số lượng vị trí của các thành tố phụ là có giới hạn và trật tự của các thành tốnày trong cấu trúc danh ngữ cũng rất chặt chẽ và chỉ có trung tâm mới có quan hệvới các yếu tố khác nằm ngoài cấu trúc của doan ngữ. Danh ngữ có cấu trúc như
- Thành tố trung tâm: do danh từ đảm nhận;
- Các thành tố phụ: gọi chung là định tố được chia làm hai bộ phan: một sốđược phân bố ở trước trung tâm: thành tố phụ phía trước, và một số nữa thi được
<small>18</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25"><small>all books, all ink</small>
<small>books on sale, ink in the pot</small>
<small>The privilege of nowing everything</small>
<small>the three books on the sale, thelittle ink in the pot</small>
<small>All the books on sale</small>
<small>All the ink in the pot</small>
<small>three good books on sale,</small>
<small>little bad ink in the pot3. Danh ngữ có 3 từ ở vị trí phụ</small>
<small>23</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26"><small>All the little bad ink in the pot</small>
(i) Dạng cấu trúc | là dang cấu trúc don giản nhất, trùng với từ : doan ngữthu gọn chi còn trung tâm, còn các thành tố phụ khác đều vắng mat. Ví dụ :
<small>Women only know how to wound so. (W.M. Thackeray, 1979)</small>
(Chi có phụ nữ mới biết làm tổn thương như thế.)
<small>Losing money to the husband ... —_ (W.M. Thackeray, 1979)</small>
(Mất tiền cho chồng...) ,
(ii) Dạng cấu trúc 32 là dạng cấu trúc đầy đủ của danh ngữ. Trong thực tế
<small>ngơn ngữ, chúng ta rất ít gặp dạng cấu trúc đầy đủ này.</small>
(iii) Các dạng cấu trúc 14, 22, 23, 28, 30 là các dạng cấu trúc có thể gặptrong thực tế ngôn ngữ với điều kiện danh từ trung tâm phải là danh từ số nhiều và
với các từ phụ ở vị trí 2a, yếu tố chỉ số lượng bởi vì bản than từ "both" đã mang ýnghĩa chỉ số lượng : "cả hai".
<small>(iv) Các dạng cấu trúc còn lại, ở mức dộ này hay mức độ kia, chúng ta cũngthường gap trong thực tế ngôn ngữ. Dưới day là một số ví dụ về một số dạng cấu</small>
<small>His father was asleep, his hat was in the hall. (W.M. Thackeray,1979)</small>
<small>Trong vi dụ trên, chúng ta có hai danh ngữ : “his father" và “his hat" với</small>
một thành tố phụ xuất hiện: “his” theo trật tự:4a + O. Hoặc trong các ví dụ sauchúng ta có các thành tố phụ khác nhau cùng xuất hiện trong một danh ngữ theo
<small>And presently, the voices of the two speakers were hushed ,</small>
<small>3a+ 0 + Ib (W. M. Thackeray, 1979)</small>
<small>(Và ngay lúc dó, những giọng nói của hai diễn gia bị im bat di)</small>
<small>... and these four young persons passed such a comfortable evening...</small>
<small>3a+2a+la + 0 (WM. Thackeray, 1979)</small>
(... và cả bốn người thanh niên đó đã có một buổi tối thoải mái...)
<small>You know, her father was a drawing-master, Mama... and used to do</small>
<small>all the best parts of our drawings, (W.M. Thackeray, 1979)4a+3a+la+ 0 + Ib</small>
(Me biết đấy, cha của cô ta là một giáo viên dạy vẽ và thường vẽ tất cảnhững phần dep dé nhất trong các bức vẽ của chúng con.)
<small>Như vậy, trong các ví dụ trên, có ví dụ có hai thành tố phụ, ba thành tố phụ</small>
hoặc bốn thành tố phụ khác nhau cùng xuất hiện theo dang trật tự chúng tơi đãtrình bày ở trên .
Trong tiếng Anh, tất cả các nhà Anh ngữ học gần như mặc nhiên công nhậndanh từ là trung tâm của danh ngữ ngay cả trong những cấu trúc danh ngữ có haidanh từ xuất hiện như trong cấu trúc với sở hữu cách "'s" và sở hữu cách "of" hoặc
<small>danh từ trung tâm- các thành tố phụ cũng khá rõ ràng. Ví dụ:</small>
<small>"A woman _with fair opportunilites...may marry whom she likes...(1)</small>
Rebecca's mother had had some education before. (iii)
<small>(W.M. Thackeray, 1979)</small>
(Trước đó mẹ của Rebecca đã được học hành.)
Trong vi dụ (i)"woman" là danh từ trung tâm, “opportunities” cũng là danhtừ nhưng cùng với “with” làm thành kết cấu định ngữ cho danh từ trung tâm. Trong
xem như là những thành tố phụ ở vị trí 2a. Và như vay, trong ví dụ: "a metre ofcloth" (một mét vai) thì danh từ trung tâm là “cloth” cịn “a metre of" thì được
xem như là thành tố phụ đầu tương dương với "a great number of/ a great deal of”ở vị trí 2a. Như vậy, việc xác định trung tâm trong danh ngữ tiếng Anh dễ hơntrong danh ngữ tiếng Việt mà chúng tơi sẽ trình bày ở mục 2.2.2.1.
Vị trí la: Day là vị trí khá phức tạp về số lượng cũng như về chất lượng các
trù phức tạp (sẽ được đề cập đến ở chương 4). Quan hệ giữa các định ngữ với trungtâm mang tính chất đa dạng và phức tạp về quan hệ. Định tố có thể là:
(i)- Phân từ thường có liên kết trực tiếp với trung tâm theo trật tự : (1a) phântừ + (0) danh từ trung tâm. Phân từ trong tiếng Anh có hai loại : động từ + duôi -
<small>mang tính bị dộng. Ví dụ :</small>
<small>+ "For anyone who wants a purse”, replied Rebecca, looking at him in</small>
<small>the mpst gentle a .. (W.M. Thackeray,1979)</small>
("Đối với bất cứ người nào cần tiền", Rebecca trả lời, nhìn anh ta một cáchchinh phục dịu dàng nhất).
</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36">4a +3a +0 4a +3a+ 0 4a +3a + 0
<small>(R.Quirk & S.Greenbaum, 1990)</small>
<small>(4a) + of + 3a +0. Ví dụ :</small>
<small>He did it in one third (of) the lime it took me.</small>
<small>4a (of)+3a + 0 (R.Quirk&S.Greenbaum, 1990)</small>
quán từ là thành tố phụ đặc trưng của tiếng Anh mà chúng ta khơng thấy có trongtiếng Việt. Một số thành tố phụ khác như : “whichever", "Whatever", "any",
<small>"this/these”, "that/those" lại xuất hiện ở vị trí 1’ (một trong hai vị trí phía sau của</small>
.danh ngữ tiếng, Vict) và "scveral", "some", "every", "cach" lại xuất hiện ở vị trí 3trong danh ngữ tiếng Việt. “Both”, "all" ở vị trí 4a cùng xuất hiện ở vị trí 4 trong
<small>danh ngữ tiếng Việt, cịn “half”, “double”, "twice", "3 tìmes"...khơng được đề cập</small>
đến như là các thành tố phụ trong danh ngữ tiếng Việt. (xem mục 2.2.2.2)
<small>2.1.5. Trật tự và thành tố phụ phía sau : Ib</small>
<small>Day là vị trí khá phức tạp ca về số lượng và chất lượng các thành tố , phức</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37"><small>Trong ví dụ trên "who has dared in my own house to question my</small>
<small>authority” làm rõ nghĩa đồng thoi cũng han định nghĩa cho “the individual” ,</small>
(ii) Doan ngữ có giới từ làm trung tâm. Ví dụ :
<small>His first marriage with the daughter of the Binkic...</small>
<small>3a+2a +0 + Ib + Ib</small>
<small>(W. M. Thackeray, 1979)</small>
(Cuộc đính hôn đầu tiên của anh ta với con gái của gia đình Binkie ...)
<small>Trong ví dụ trên, chúng ta có thành tố phụ là doan ngữ có giới từ làm trung</small>
<small>tâm : “with the daughter" và "of the Binkie", trong đó doan ngữ có giới từ “of” làm</small>
trung tâm bổ nghiã cho danh từ ” daughter” của đoản ngữ có giới từ "with" làmtrung tâm, và đến lượt minh, nó bổ nghĩa, làm rõ nghĩa cho danh ngữ " his first
<small>(ili) Phan từ (động từ có đi "-ing” và động từ có đi "-ed")</small>
Phan từ ở vị trí này khác với phân từ ở vị trí la ở chỗ chúng thường xuất
<small>hiện cùng với những thành tố phụ của chúng. Ví dụ :</small>
<small>Rebecca remembers... her father working at it.</small>
<small>3a+ 0 + Ib (W. M. Thackeray, 1979)(Rebecca nhớ ... cha minh đã vẽ bức tranh đó.)</small>
<small>(iv). Tinh từ (adjective). Tính từ ở vị trí này khác với tính từ ở vị trí la ở</small>
chỗ chúng thường di kèm với bổ ngữ của chúng hoặc trong một số trường hợp,
</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38">Tính từ ở vị trí này thường di sau đại từ khơng xác định hoặc là các tính từ
<small>các trật tự:</small>
đã hình thành một chùm các ý nghĩa ngữ pháp do mối quan hệ với các khái niệm
diện : (i)- ý nghĩa khái quát của bản thân từ loại và (ii)-y nghĩa nay sinh do mối
Những quan hệ này hình thành một loạt những ý nghĩa ngữ pháp của danh từ. Nếucác ý nghĩa ngữ pháp ở đó bao gồm những khía cạnh đối lập nhau, được thể hiện. bang những hình thức ngữ pháp đối lập một cách hệ thống thi ta có các phạm trùngữ pháp của từ loại. Trong danh từ tiếng Anh, phạm trù ngữ pháp cũng được
<small>nhiều nhà Anh ngữ đề cập tới. Danh từ tiếng Anh có một hệ thống phạm trù ngữ</small>
pháp như: số, giống và cách. Số, giống và cách trong danh từ tiếng Anh được diễn
<small>S. Greenbaum, 1990; G. Leech & S. Svarivik, 1990...).</small>
Trong tiếng Anh, phạm trù giống và cách không được các nhà Anh ngữ họcđặc biệt quan tâm vì hai phạm trù này của danh từ tiếng Anh khơng có những hậu
<small>36</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 39</span><div class="page_container" data-page="39">1974; R. H. Robins, 1976; R. Quirk & S. Greenbaum, 1977; S. Corder, 1977; J.
<small>Lyons, 1987 ; J.K. Kaplan, 1989 ; G. Leech & J. Svartvik, 1990...).</small>
ngữ, bổ ngữ ... nên ít nhà ngữ pháp học đề cập đến. Sở hữu cách trong tiếng Anhcó sở hữu ”'s” và “of”. Nhìn chung, ”'s” thường được dùng cho danh từ chỉ người :
“the girl's book” (cuốn sách của cô bé), “the teacher's house" (ngôi nhà của thay
<small>giáo) ..; và cho danh từ tập hợp chỉ người : "the government's forcign policy"</small>
(chính sách dối ngoại của Chính phủ) , "the police's hold-up" (cuộc vay ráp củacảnh sat) và đôi khi cũng dược dùng cho danh từ chỉ con vật : "the horse's tail"
<small>(di ngựa), “her dog's fur" (lơng chó của cô ta). "Of" thường được dùng cho các</small>
<small>danh từ chỉ sự vật và danh từ trừu tượng : “the leg of the table” (chan bàn), "the</small>
<small>ta có hai trật tự khác nhau. Đối với sở hữu cách "of" danh từ trung tâm bạo giờ</small>
<small>cũng đứng trước đoản ngữ có “of” làm trung tâm theo trật tự : (a) danh từ trungtâm + (b)cấu trúc “of”, cịn với sở hữu cách " 's” thì danh từ trung tâm dứng sautheo trật tự : (b) sở hữu 's + (a)danh từ trung tâm. Ví du:</small>
<small>... and she determined in her heart to ask her mother's permission ...</small>
<small>b + a</small>
<small>(W.M. Thackeray, 1979)</small>
<small>(... và trong thâm tâm cô ta di quyết định xin phép me...)</small>
<small>Miss Sedley’s papa was a merchant...anda — mạn of some wealth.b oa a 3a+ a + b</small>
<small>(W.M. Thackeray, 1979)</small>
(Cha của cô Sedley là mot thương nhân... va là một người giàu có).
</div>