Tải bản đầy đủ (.pdf) (199 trang)

hoạt động thương mại của người hoa ở sài gòn chợ lớn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.44 MB, 199 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

<b> </b>

<b> </b>

<b>TP. HỒ CHÍ MINH - 2024 </b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

<b> </b>

<b> </b>

<b>TP. HỒ CHÍ MINH - 2024 </b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

<b>LỜI CẢM ƠN </b>

Luận văn Thạc sĩ được hồn thành, ngồi sự cố gắng của bản thân cịn có sự giúp đỡ, đóng góp nhiệt thành của nhiều cá nhân và đơn vị. Với lòng tri ân, Học Viên Cao Học xin trân trọng gửi lời cảm ơn tới:

♦ Cán bộ trực tiếp hướng dẫn khoa học cho Luận văn Thạc sĩ của Học Viên Cao Học. Cô đã tận tụy chỉ bảo và ủng hộ trong quá trình nghiên cứu khoa học cho luận văn cũng như công tác chuyên môn.

♦ Quý Thầy Cô giáo của Khoa Lịch Sử, bạn bè đã truyền đạt kiến thức, giúp đỡ Học Viên Cao Học trên bước đường đến với khoa học cũng như quá trình nghiên cứu đề tài luận văn.

♦ Quý cán bộ công nhân viên Trung Tâm Lưu Trữ Quốc Gia II – số 17 Lê Duẩn, phường Bến Nghé, Quận 1 đã hỗ trợ Học Viên Cao Học tìm kiếm các tài liệu lưu trữ có liên quan đến đề tài luận văn.

♦ Quý cán bộ công nhân viên Thư viện Khoa học Tổng hợp TP.HCM, Thư viện trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân Văn đã hỗ trợ Học Viên Cao Học tìm kiếm các tài liệu có liên quan đến đề tài luận văn.

♦ Gia đình, người thân đã ln sát cánh động viên trong quá trình Học Viên Cao Học học tập và nghiên cứu.

Xin chân thành cảm ơn!

<b>HỌC VIÊN CAO HỌC TRƯƠNG ĐỨC NHÂN </b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

<b>LỜI CAM ĐOAN </b>

<i><b>Tôi xin cam đoan, luận văn thạc sĩ “Hoạt động thương mại của người Hoa ở Sài </b></i>

<i><b>Gịn – Chợ Lớn (1859 – 1945)” là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi, dưới sự hướng </b></i>

dẫn của cán bộ hướng dẫn khoa học.

Các kết quả nghiên cứu, số liệu tham khảo, trích dẫn được trình bày trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và tham chiếu đầy đủ

<b>HỌC VIÊN CAO HỌC TRƯƠNG ĐỨC NHÂN </b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

<b>MỤC LỤC </b>

<b>DẪN LUẬN ... 5 </b>

<i><b>1. Lý do chọn đề tài ... 5 </b></i>

<i><b>2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu ... 6 </b></i>

<i><b>3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu vấn đề ... 7 </b></i>

<i><b>4. Phương pháp nghiên cứu ... 8 </b></i>

<i><b>5. Nguồn tài liệu và lịch sử nghiên cứu vấn đề ... 8 </b></i>

<b>5.1. Nguồn tài liệu ... 8 </b>

<b>5.2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ... 9 </b>

<i><b>6. Đóng góp của luận văn ... 15 </b></i>

<i><b>7. Kết cấu nội dung đề tài ... 15 </b></i>

<b>CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ NGƯỜI HOA Ở SÀI GÒN – CHỢ LỚN VÀ HOẠT ĐỘNG THƯƠNG MẠI CỦA CỘNG ĐỒNG NGƯỜI HOA TRƯỚC NĂM 1859 ... 17 </b>

<b>1.2.1 Bối cảnh người Hoa di cư vào Việt Nam ... 20 </b>

<b>1.2.2 Tiến trình định cư của người Hoa đến vùng đất Sài Gòn – Chợ Lớn từ năm 1679 -1858 ... 29 </b>

<i><b>1.3 Vài nét về tổ chức xã hội của cộng đồng người Hoa tại Sài Gòn – Chợ Lớn từ thế kỷ XVII đến năm 1945 ... 43 </b></i>

<i><b>1.4 Hoạt động thương mại của người Hoa ở Sài Gòn – Chợ lớn trước năm 1859 ... 50 </b></i>

<b>1.4.1 Sự gia tăng về dân số và mở mang hệ thống giao thông ... 50 </b>

<b>1.4.2 Các trung tâm thương mại ở Sài Gòn – Chợ Lớn ... 53 </b>

<b>1.4.3 Hoạt động thương mại của người Hoa ở Sài Gòn – Chợ Lớn trước năm 1859... 57 </b>

<b>CHƯƠNG 2: HOẠT ĐỘNG THƯƠNG MẠI CỦA NGƯỜI HOA Ở VÙNG ĐẤT SÀI GÒN – CHỢ LỚN GIAI ĐOẠN 1859 – 1896 ... 68 </b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

<i><b>2.1 Chính sách của chính quyền thực dân Pháp đối với cộng đồng người Hoa ở </b></i>

<i><b>3.1 Tác động từ chính sách khai thác thuộc địa của chính quyền thực dân Pháp đối với cộng đồng người Hoa ở Sài Gòn – Chợ Lớn (1897-1945) ... 104 </b></i>

<b>3.1.1 Vài nét về công cuộc khai thác thuộc địa lần thứ I (1897-1918) và lần thứ II (1919 – 1945) ... 104 </b>

<b>3.1.2 Tác động từ chính sách khai thác thuộc địa lần I và lần II của Pháp đối với người Hoa ở Sài Gòn – Chợ Lớn (1897-1945) ... 107 </b>

<i><b>3.2 Hoạt động thương mại của cộng đồng người Hoa ở Sài Gòn – Chợ Lớn trong cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất của thực dân Pháp (1897-1918) ... 118 </b></i>

<i><b>3.3 Hoạt động thương mại của cộng đồng người Hoa ở Sài Gòn – Chợ Lớn trong cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai của thực dân Pháp (1919 – 1945) ... 142 </b></i>

<b>KẾT LUẬN ... 165 </b>

<b>DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ... 176 </b>

<b>PHỤ LỤC ... 186 </b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

<b>DẪN LUẬN 1. Lý do chọn đề tài </b>

Hiện nay, người Hoa là một bộ phận trong 54 dân tộc anh em ở Việt Nam. Trong đó, khu vực Sài Gịn – Chợ Lớn là nơi tập trung đông đảo người Hoa đến sinh sống, chiếm 50% so với cả nước và chiếm 60% của cả vùng đất phương Nam. Chính vì vậy, để hoạch định chiến lược phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước, cần phải có những nghiên cứu và nhận thức đúng về người Hoa ở Việt Nam.

Trong tiến trình Lịch Sử Việt Nam, do có những nét tương đồng về vị trí địa lý, chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội nên người Việt và người Hoa đã có mối quan hệ đan xen với nhau từ rất sớm. Từ những thập niên cuối thế kỷ XVII tại vùng đất Nam Bộ đã có sự xuất hiện của các nhóm di dân người Hoa và họ dần trở thành bộ phận cư dân của Việt Nam. Cùng với cộng đồng người Việt cộng đồng người Hoa đã có những đóng góp tích cực vào tiến trình khẩn hoang và phát triển vùng đất Nam Bộ.

Người Hoa đã đến vùng Sài Gòn – Chợ Lớn từ sớm và họ đã cùng với cộng đồng người Việt, người Chăm, Khmer, … hình thành và phát triển hoạt động sản xuất, trao đổi, buôn bán hàng hóa cực kỳ mạnh mẽ tại đây. Từ giữa thế kỷ XIX Sài Gòn – Chợ Lớn đã trở thành một thành phố không chỉ vừa sản xuất vừa hoạt động thương mại đối với thị trường trong nước, mà cịn có khả năng giao thương với các nước trong khu vực và thế giới.

Sau khi Pháp chiếm Nam Kỳ và xây dựng chế độ thuộc địa, Sài Gòn - Chợ Lớn trở thành trung tâm kinh tế của chủ nghĩa tư bản thực dân. Chính quyền Pháp đã xây dựng thành phố này với cơ sở hạ tầng hiện đại để khai thác vơ vét tài nguyên Nam Kỳ và chuyển về chính quốc.

Từ 1859 đến 1945, là thời kỳ thịnh vượng của kinh tế người Hoa ở Nam Kỳ, đặc biệt là tại Sài Gòn - Chợ Lớn. Hoạt động thương mại của người Hoa không chịu sức ép cạnh tranh từ hoạt động thương mại của thực dân Pháp và các nước phương Tây, mà cịn được chính phủ Pháp ưu ái trong hoạt động kinh doanh. Đặc biệt, trên thị trường lúa gạo Nam Kỳ người Hoa đóng một vai trị quan trọng, và ngoài cung cấp

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

lúa gạo họ còn cung cấp nhiều sản phẩm khác đến từ Pháp, để phục vụ cả chính phủ Pháp và người dân bản địa, góp phần làm cho hoạt động thương mại tại Sài Gòn - Chợ Lớn trong thời kỳ này phát triển đa dạng.

Mặc dù đã có rất nhiều cơng trình nghiên cứu về người Hoa được thực hiện bởi các tác giả trong và ngoài nước, nhưng vẫn chưa có một cơng trình nghiên cứu nào đi sâu vào hoạt động thương mại của người Hoa ở Sài Gịn – Chợ Lớn. Vì vậy, việc tìm hiểu về “Hoạt động thương mại của người Hoa ở Sài Gòn – Chợ Lớn (1859 – 1945)” sẽ giúp nhận diện một cách có hệ thống về sự hình thành và phát triển hoạt động thương mại của người Hoa tại Sài Gịn – Chợ Lớn trong giai đoạn này. Thơng qua việc tập trung vào nghiên cứu các nội dung cụ thể như quy mô, tổ chức, phương thức, ngành hàng, đối tác, đặc điểm …. sẽ giúp nhận thức rõ hơn về hoạt động trao đổi buôn bán của người Hoa trong giai đoạn này. Việc nghiên cứu về hoạt động thương mại của người Hoa tại Sài Gòn - Chợ Lớn từ 1859 đến 1945 sẽ giúp đánh giá các tác động của họ đối với phát triển kinh tế - xã hội trong khu vực này và ở Nam Bộ nói chung dưới thời Pháp thuộc. Cơng trình nghiên cứu này sẽ là cơ sở khoa học và thực tiễn trong việc tìm hiểu về quá trình hình thành và phát triển của vùng đất Sài Gịn – Chợ Lớn nói riêng, vùng Nam Bộ nói chung và cộng đồng người Hoa sinh sống tại nơi đây.

<i><b>Chính vì vậy, tơi chọn đề tài “Hoạt động thương mại của người Hoa ở Sài Gòn </b></i>

<i><b>– Chợ Lớn (1859 – 1945)” làm luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Lịch sử Việt Nam để </b></i>

có thể đóng góp thêm những tư liệu, những hiểu biết khoa học mới về hoạt động thương mại của người Hoa ở Sài Gòn – Chợ Lớn (1859-1945).

<b>2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu Mục tiêu nghiên cứu: </b>

Nhận thức rõ ràng về hoạt động thương mại của cộng đồng người Hoa tại khu vực Sài Gòn – Chợ Lớn trong giai đoạn 1859 – 1945.

<b>Nhiệm vụ nghiên cứu: </b>

- Phục dựng rõ diện mạo hoạt động thương mại của cộng đồng người Hoa trên các

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

phương diện: quy mô, tổ chức, phương thức, ngành hàng, đối tác, …

- Chỉ ra những đặc điểm trong hoạt động thương mại của người Hoa tại khu vực Sài Gòn – Chợ Lớn trong giai đoạn này.

- Đánh giá vai trị, đóng góp của cộng đồng người Hoa đối với kinh tế thương mại tại khu vực Sài Gòn – Chợ Lớn giai đoạn 1859 - 1945.

<b>3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu vấn đề Đối tượng nghiên cứu </b>

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là hoạt động thương mại của người Hoa ở khu vực Sài Gòn – Chợ Lớn từ năm 1859 – 1945.

Đối tượng nghiên cứu được cấu tạo từ các thành tố chính là hệ thống bn bán trao đổi hàng hóa của người Hoa tại Sài Gòn – Chợ Lớn, phương thức trao đổi mua bán hàng hóa, các loại hàng hóa được trao đổi, quan hệ trao đổi mua bán, tổ chức quản lý hoạt động trao đổi mua bán, v.v. Cuối cùng là đưa ra nhận định và đánh giá về các đặc điểm, vai trò và tác động của hoạt động này đối với phát triển kinh tế - xã hội khu vực Sài Gịn – Chợ Lớn nói riêng và Nam Bộ nói chung trong giai đoạn này.

<b>Phạm vi nghiên cứu </b>

- Phạm vi thời gian: Luận văn xác định khung thời gian từ năm 1859 đến năm 1945. Mốc bắt đầu là năm 1859 với sự kiện thực dân Pháp tấn công đánh chiếm Gia Định. Sau đó, thực dân Pháp ngay lập tức xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ cho việc khai thác thuộc địa. Chính điều này, đã tạo nhiều động lực để người Hoa phát triển hoạt động thương mại tại khu vực này. Mốc kết thúc là năm 1945 với sự kiện Cách mạng tháng Tám, lập nên nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa.

- Phạm vi không gian: luận án tập trung nghiên cứu trên vùng đất Sài Gòn – Chợ Lớn (nay thuộc TP.HCM). Ngay khi chiếm được Sài Gòn (năm 1859), thực dân Pháp đã gấp rút quy hoạch xây dựng Sài Gòn thành một đô thị lớn. Ngày 6-6-1865, theo Nghị định của Thống đốc Nam Kỳ, Thành phố Chợ Lớn được thành lập. Đây là hai trung tâm có người Hoa cư trú lâu đời và chiếm số lượng đông đảo nhất và hoạt động thương mại của người Hoa tại nơi đây cũng phát triển thịnh đạt nhất.

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

<b>4. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp luận </b>

Đây là một luận văn khoa học lịch sử nên tôi sẽ sử dụng phương pháp lịch sử và phương pháp logic là hai phương pháp cơ bản nhất.

Đề tài sử dụng phương pháp lịch sử để có cái nhìn toàn diện về hoạt động thương mại của người Hoa trong giai đoạn 1859 – 1945. Cụ thể là làm rõ bối cảnh lịch sử, tác động từ chính sách của chính quyền thực dân Pháp đến hoạt động thương mại của người Hoa; những thăng trầm trong hoạt động thương mại của người Hoa và những đóng góp của họ vào nền kinh tế. Xác định những yếu tố tiền đề mà giai đoạn lịch sử trước đó để lại. Cũng như dự đoán hướng phát triển tương lai trong tương quan sự phát triển của dòng lịch sử mà đối tượng nghiên cứu là một phần trong đó. Bên cạnh đó, so sánh những tác động lịch sử quốc tế ảnh hưởng đến đối tượng nghiên cứu, so sánh hoạt động thương mại của người Hoa qua từng giai đoạn khác nhau, để nêu bật thêm các đặc điểm của từng thời kỳ, so sánh hoạt động thương mại giữa người với các cộng đồng cư dân khác.

Đề tài sử dụng phương pháp logic trong phân tích, kiến giải các hoạt động nhằm rút ra các nhận định, đánh giá và đặc điểm trong hoạt động thương mại của người Hoa ở Sài Gòn – Chợ Lớn giai đoạn 1859-1945.

Bên cạnh đó, tơi sẽ kết hợp các phương pháp bổ trợ như so sánh đối chiếu, thống kê số liệu, điền dã, … để làm sáng tỏ hơn vấn đề nghiên cứu.

<b>5. Nguồn tài liệu và lịch sử nghiên cứu vấn đề 5.1. Nguồn tài liệu </b>

Để thực hiện đề tài luận văn này, tôi dựa trên các nguồn tư liệu như sau:

Nguồn tư liệu thư tịch: qua các nguồn tư liệu như Đại Nam thực lục, Đại Nam nhất thống chí, Đại Nam Hội điển sự lệ, Gia Định Thành thơng chí, … Hệ thống văn bản liên quan đến các chính sách, quyết định bổ nhiệm, quyết định thành lập, các hoạt động, niên giám thống kê, các số liệu thống kê của Phòng Thương mại Sài Gòn và Phòng Thương mại Chợ Lớn dưới thời Pháp thuộc, các văn bản liên quan đến hoạt

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

động thương mại của người Hoa tại Sài Gòn – Chợ Lớn dưới thời Pháp thuộc hiện được lưu trữ tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia II.

Nguồn tư liệu khai thác từ các cơng trình nghiên cứu; các tài liệu chuyên khảo về người Hoa xuất bản trong và ngoài nước; các bài viết đăng lên các tạp chí chuyên ngành như Nghiên cứu Đông Nam Á, Nghiên cứu Lịch sử, Xưa và Nay, Khoa học Xã hội, Dân tộc học …; các bộ địa phương chí.

Nguồn tư liệu thứ ba tôi tiến hành điền dã, khảo sát tại vị trí các cơng ty, thương hội, phố chợ, cơ sở kinh doanh, hội quán … của người Hoa tại khu vực Sài Gòn - Chợ Lớn trước đây.

<b>5.2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề </b>

Trong khoảng thời gian từ cuối thế kỷ XVIII đến giữa thế kỷ XIX, vấn đề người Hoa đã được các tác giả đương thời đề cập với những mức độ khác nhau. Có thể kể đến Đại Nam thực lục, Đại Nam nhất thống chí (Quốc sử quán triều Nguyễn), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, Gia Định thành thơng chí (Trịnh Hồi Đức), … Những cơng trình này đã ghi lại những sự kiện, hiện tượng xảy ra dưới thời Nguyễn trong đó có một số ít thơng tin có liên quan đến người Hoa.

Hiện nay, đã có một số cơng trình nghiên cứu về vấn đề hoạt động kinh tế - thương mại của người Hoa ở cả trong và ngồi nước.

Trong các cơng trình nghiên cứu ở nước ngồi, tiêu biểu nhất là cơng trình nghiên cứu “Người Hoa ở miền Nam Việt Nam” của Tsai Maw Kuey viết năm 1968. Đây là một cơng trình nghiên cứu chuyên sâu về người Hoa ở miền Nam Việt Nam với sự trình bày, phân tích khá sâu sắc. Tác phẩm đã đề cập đến lịch sử di cư, sinh hoạt kinh tế, văn hóa xã hội của người Hoa ở miền Nam. Tác giả cũng đã đề cập đến sự thành lập của phòng Thương mại Hoa kiều ở Chợ Lớn và sơ đồ về cơ cấu tổ chức. Tác giả cũng đề cập đến những ngành là thế mạnh trong hoạt động kinh tế của từng Bang Hội người Hoa. Tuy nhiên, trong phạm vi của tác phẩm, việc nghiên cứu về hoạt động thương mại của người Hoa tại Sài Gòn – Chợ Lớn trong thời kỳ Pháp thuộc vẫn còn một số hạn chế đáng lưu ý. Mặc dù đã đề cập đến vai trò của cộng đồng người Hoa

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

trong nền kinh tế Sài Gòn – Chợ Lớn trong giai đoạn này, nhưng tác phẩm chưa đi sâu vào các chi tiết cụ thể về các loại hình hoạt động thương mại của họ. Điều này góp phần làm giảm đi tính tồn vẹn và sâu sắc của nghiên cứu. Hơn nữa, trong tác phẩm chưa đề cập đến các số liệu cụ thể về hoạt động thương mại của người Hoa tại Sài Gòn – Chợ Lớn trong thời kỳ Pháp thuộc.

Năm 1993, tác giả Nguyễn Văn Huy cũng đã xuất bản tác phẩm “Người Hoa tại Việt Nam” tại Paris. Tác phẩm này đã tập hợp nhiều tư liệu về các hoạt động kinh tế - văn hóa –xã hội của người Hoa tại Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử, đặc biệt là các chính sách của chính quyền đối với người Hoa trong mỗi thời kỳ nhất định. Ngoài ra, tác giả cũng đã giới thiệu những nét chính, thế mạnh trong hoạt động kinh tế của các bang và hội của người Hoa. Tuy nhiên việc thiếu đi những số liệu cụ thể cũng là một điểm thiếu sót của tác phẩm.

Nhóm tác giả Vương Triệu Tường – Lưu Văn Trí đã xuất bản cuốn “Thương nhân Trung Hoa họ là ai?” (1999, dịch bởi Cao Tự Thanh). Tác phẩm này đã khái quát về quá trình phát triển, đặc điểm về tổ chức xã hội, đời sống vật chất và tinh thần của giới thương nhân Trung Hoa. Nguồn tài liệu này đã cung cấp cho tôi những kiến thức cơ bản và khái quát diện mạo của giới thương nhân Trung Hoa.

Ở Việt Nam, một trong những công trình nghiên cứu về đề tài người Hoa mang tính tiên phong đó là cơng trình nghiên cứu “Thế lực Khách Trú và vấn đề di dân vào Nam Kỳ” của tác giả Đào Trinh Nhất xuất bản vào năm 1924. Trong tác phẩm này, tác giả Đào Trinh Nhất đã bước đầu phác họa được bức tranh của người Hoa từ những gì mắt thấy tai nghe cùng những tư liệu hết sức phong phú về hoạt động kinh tế của người Hoa ở Nam Kỳ vào đầu thế kỷ XX. Tác giả cũng đã cho thấy sự trù phú của vùng đất Nam Kỳ và chỉ ra mối nguy hại của việc người Hoa thao túng toàn bộ thị trường Nam Kỳ, nhất là vấn đề độc quyền trong thị trường lúa gạo. Tác giả cũng đề xuất các biện pháp chống lại sức ảnh hưởng của Hoa Kiều.

Trong cuốn Sài Gòn Năm Xưa, của tác giả Vương Hồng Sển xuất bản năm 1968. Ông cũng đã cung cấp những tư liệu về nhiều khía cạnh trong cuộc sống của người Hoa như quá trình di dân, phong tục tập quán, chùa chiền, đường phố, các nhân vật

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

người Hoa tiêu biểu … Tuy nhiên, trong tác phẩm này tác giả chỉ mới dừng lại ở mức độ miêu tả và điểm qua một vài nét về người Hoa.

Tác giả Nguyễn Cẩm Thúy cũng có tác phẩm Định cư của người Hoa trên đất Nam Bộ từ thế kỷ XVII đến năm 1945 (2000) trình bày về những làn sóng di cư của người Hoa vào Việt Nam và vùng đất Nam Bộ, các hoạt động kinh tế, tổ chức xã hội – chính trị và văn hóa tín ngưỡng của người Hoa. Tuy nhiên, việc thiếu đi các số liệu cụ thể cũng là một nhược điểm của tác phẩm này.

Tác giả Huỳnh Lứa cũng đã tập hợp những bài viết trong cuốn sách Góp phần tìm hiểu vùng đất Nam Bộ các thế kỷ XVII, XVIII (2000) và viết nên tác phẩm Lịch sử khai phá vùng đất Nam Bộ (2017) trên cơ sở kế thừa những tư liệu của các sử gia phong kiến, các cơng trình khảo cứu tập thể, cá nhân đi trước. Mặc dù qua tác phẩm này, tác giả mới chỉ đưa ra cái nhìn tổng quan nhưng có thể nói đây là một cơng trình được viết khá cơng phu và là một tư liệu không thể thiếu cho những ai quan tâm nghiên cứu về lịch sử của vùng đất Nam Bộ.

Phan An, một chuyên gia nghiên cứu về người Hoa ở Nam Bộ, ơng đã có rất nhiều cơng trình nghiên cứu về đề tài này, như: Người Hoa ở Nam Bộ (2005), Góp phần tìm hiểu văn hóa người Hoa ở Nam Bộ (2006), Q trình hội nhập và phong trào đấu tranh cách mạng của người Hoa Sài Gòn – Chợ Lớn và các tỉnh Nam Bộ từ năm 1930 đến năm 1975 (2013), Văn hóa người Hoa Nam Bộ (2016). Trong các tác phẩm này, ông đã trình bày một cách hệ thống về lịch sử, hoạt động kinh tế, đời sống xã hội của cộng đồng người Hoa ở Nam Bộ, đồng thời tạo nền tảng cho những nghiên cứu tiếp theo về đề tài này.

Trong cuốn sách 100 câu hỏi đáp về người Hoa ở thành phố Hồ Chí Minh (2013) của tác giả Phan Thị Yến Tuyết – Cao Tự Thanh đã giới thiệu tóm tắt những vấn đề, sự kiện, nhân vật nổi bật trong lịch sử phát triển của cộng đồng người Hoa ở vùng đất Gia Định – Sài Gịn – Thành phố Hồ Chí Minh. Tác phẩm này đã cung cấp cho tôi những thông tin ngắn gọn, súc tích về những đặc điểm của cộng động người Hoa, nhất là trong thời Pháp thuộc.

</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">

Nam Bộ đất và người do tác giả Võ Văn Sen chủ biên (2011) là bộ sách tập hợp bài viết của nhiều tác giả khác nhau về phương pháp luận, lịch sử, nhân vật, vấn đề khảo cổ và di sản văn hóa. Trong bộ sách này có tập hợp một số bài viết về hoạt động kinh tế, văn hóa, tín ngưỡng, lịch sử, nhân vật của người Hoa, … được tôi lựa chọn để tham khảo.

Tác giả Trần Khánh, là một tác giả có nhiều cơng trình nghiên cứu về người Hoa bằng cả tiếng Anh lẫn tiếng Việt. Các tác phẩm tiêu biểu của ơng như: Vai trị của người Hoa trong nền kinh tế các nước Đông Nam Á (1992), Người Hoa trong xã hội Việt Nam (thời Pháp thuộc và dưới chế độ Sài Gịn) (2002). Các cơng trình nghiên cứu trên đều có các điểm chung là tác giả đã tập trung phân tích những yếu tố và quá trình xã hội tác động đến sự thay đổi hình thức kinh doanh của người Hoa và vai trò của họ trong sự hình thành, phát triển những ngành kinh tế then chốt ở Việt Nam cũng như các nước Đơng Nam Á. Ngồi ra, tác giả Trần Khánh cịn có rất nhiều bài viết trên các tạp chí chun ngành như: Hoạt động kinh tế của người Hoa ở Đơng Nam Á (1984), Vai trị của người Hoa trong nền kinh tế các nước Đông Nam Á (1992), Sự hình thành cộng đồng người Hoa ở Việt Nam thế kỷ XVII – XVIII và nửa đầu thế kỷ XIX (2001), Tìm hiểu các tổ chức xã hội và nghiệp đoàn của người Hoa ở Việt Nam trong lịch sử (2002), Đặc điểm và xu hướng đầu tư của người Hoa ở Việt Nam (thời Pháp thuộc và dưới chế độ Sài Gịn) (2002), Vị trí người Hoa trong nền thương mại Việt Nam thời Pháp thuộc (2002), … Trong các tác phẩm này, tác giả đã trình bày những chính sách cơ bản thời triều Nguyễn, thời Pháp thuộc, thời chính quyền Việt Nam Cộng Hịa đối với người Hoa trên nhiều mặt như nhập cảnh, cư trú, quốc tịch, vấn đề thuế khóa, an ninh trật tự, vấn đề xã hội. Đặc biệt khi trình bày về vai trò của người Hoa trong nền kinh tế nước ta thời Pháp thuộc và dưới chế độ Sài Gòn, tác giả Trần Khánh đã cung cấp những số liệu, bảng biểu, sơ đồ hết sức có giá trị về mặt tư liệu cho đề tài của tôi.

Tác giả Châu Thị Hải có một số tác phẩm về người Hoa như Bước đầu tìm hiểu sự tiếp xúc và giao lưu văn hóa Việt – Hoa trong lịch sử (1998) và Người Hoa ở Việt Nam và Đông Nam Á: Hình ảnh hơm qua và vị thế hơm nay (2006). Qua các tác

</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">

phẩm này, tác giả đã nhấn mạnh về vị thế kinh tế của người Hoa và bước đầu giới thiệu về sự giao lưu văn hóa Việt – Hoa. Ngồi những tác phẩm này, tác giả Châu Thị Hải cũng có rất nhiều bài viết về đề tài người Hoa được đăng trên các tạp chí chuyên ngành khác.

Tác giả Nguyễn Đức Hiệp cũng có những tác phẩm Sài Gịn -Chợ Lớn: Ký ức đơ thị và con người, Sài Gịn và Nam Kỳ trong thời kỳ canh tân 1875-1925, Sài Gòn – Chợ Lớn: Qua những tư liệu quý trước 1945, Lịch sử doanh nghiệp và cơng ở Sài Gịn và Nam Kỳ từ giữa thế kỷ XIX đến năm 1945, Kinh tế và xã hội người Hoa ở Chợ Lớn vào cuối thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20, Sài Gòn - Chợ Lớn: Đời Sống Xã Hội Và Chính Trị Qua Tư Liệu Báo Chí (1925-1945). Các tác phẩm này đã cung cấp những tư liệu khái quát về hoạt động kinh tế ở khu vực Sài Gòn – Chợ Lớn dưới thời Pháp thuộc và có đề cập đến hoạt động kinh tế của người Hoa, tác giả cũng đề cập đến những thương nhân người Hoa nổi tiếng ở vùng Sài Gòn – Chợ Lớn, những doanh nghiệp của người Hoa, người Hoa trong thị trường lúa gạo, v.v. Các tác phẩm này cung cấp cho tôi những thơng tin bổ ích để hồn thiện đề tài này.

Tác giả Nguyễn Đình Tư cũng có các tác phẩm như “Chế độ thực dân Pháp trên đất Nam Kỳ (1859 – 1954)” gồm 2 tập, bộ sách “Gia Định Sài Gịn Thành phố Hồ Chí Minh – Dặm dài lịch sử (1698 – 2020)” gồm hai tập với hai giai đoạn Tập I (1698 – 1945) vầ Tập II (1945 – 2020). Các tác phẩm này đã tổng hợp và cung cấp các tư liệu quý giá về vùng đất Nam Kỳ dưới thời kỳ Pháp thuộc (1859-1954) từ quá trình người Pháp xâm lược Nam Kỳ, thiết lập bộ máy cai trị các cấp trên vùng đất Nam Kỳ, công cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp trên đất Nam Kỳ qua các hoạt động nông nghiệp, cơng nghiệp, thương mại, tài chính, văn hóa, giáo dục và đặc biệt là những thông tin liên quan đến cộng đồng người Hoa ở vùng đất này và hoạt động thương mại tại đây dưới thời Pháp thuộc. Các tác phẩm này đã cung cấp nhiều tư liệu có ý nghĩa quan trọng để tơi thực hiện đề tài này.

Tác giả Đặng Phong trong cuốn “Lịch sử kinh tế Việt Nam 1945-2000 Tập I: 1945-1954”, cũng đã đề cập đến hoạt động kinh tế ở Việt Nam trong thời kỳ Pháp thuộc, trong đó có đơi nét về hoạt động thương mại và thương nhân người Hoa.

</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">

Trong tác phẩm “Lịch sử hình thành và phát triển vùng đất Nam Bộ (Từ khởi thủy đến năm 1945) do Trần Đức Cường (Chủ biên), Võ Sĩ Khải, Nguyễn Đức Nhuệ và Lê Trung Dũng. Trong tác phẩm này, tác giả cũng đã đề cập đến vị trí người Hoa trong thị trường lúa gạo Nam Kỳ dưới thời Pháp thuộc và cũng nói về phong trào “Tẩy chay Khách Trú” ở Nam Kỳ lúc bấy giờ.

Tác giả Nguyễn Phan Quang với tác phẩm Thị trường lúa gạo Nam Kỳ 1945 và các bài viết như Sài Gòn và thị trường lúa gạo Nam Kỳ (1860-1938), Người Hoa trên thị trường lúa gạo Nam Kỳ thời Pháp thuộc (1859 – 1945) đã đăng trên tạp chí Nghiên Cứu Lịch Sử đã đề cập đến vai trò của người Hoa trong hoạt động thương mại, đặc biệt là vai trò của họ trên thị trường lúa gạo Nam Kỳ. Các bài viết của tác giả Nguyễn Phan Quang đã bổ sung một nguồn tư liệu tham khảo q báu để tơi có thể thực hiện đề tài này.

1860-Tôi cũng tiến hành khai thác một cách phù hợp các nguồn tư liệu từ những sách biên khảo và địa chí. Các cơng trình nghiên cứu có thể kể đến như Địa chí văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh (1998) của tác giả Trần Văn Giàu, Địa chí hành chính các tỉnh Nam Kỳ thời Pháp thuộc (1859-1954).

Về luận án, có rất nhiều luận án nghiên cứu về người Hoa trên nhiều mặt lịch sử, kinh tế, văn hóa, xã hội. Tơi xin phép chọn một vài luận án có giá trị tham khảo và cung cấp những tư liệu quý giá để thực hiện đề tài này.

Luận án Tiến Sĩ của tác giả Lê Thụy Hồng Yến “Hội quán người Hoa ở Nam Bộ từ cuối thế kỷ XVIII đến giữa thế kỷ XX” (Hà Nội – 2019). Luận án này tác giả tập trung nghiên cứu về quá trình hình thành cộng đồng người Hoa ở khu vực Nam Bộ từ cuối thế kỷ XVIII cho đến giữa thế kỷ XX, gắn liền với việc hình thành và phát triển của các hội quán. Ngoài ra, tác giả cũng nghiên cứu về hoạt động của các hội quán, hội nghề nghiệp, … trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội, giáo dục, v.v.

Luận Án Tiến Sĩ của tác giả Dương Văn Huy “Người Hoa trong xã hội Việt Nam nửa đầu thế kỷ XIX” (2011). Trong luận án này, tác giả tập trung nghiên cứu các vấn đề trong khoảng thời gian từ khi vương triều Nguyễn được thành lập vào năm 1802

</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">

cho đến trước khi thực dân Pháp đặt ách đơ hộ chính thức lên nước ta. Đối tượng nghiên cứu được tác giả đặt trong bối cảnh thế giới, khu vực và Việt Nam trong nửa đầu thế kỷ XIX. Luận án này đã có những đóng góp nhất định về mặt tư liệu với nhiều nguồn phong phú, giải quyết được những nội dung về đời sống kinh tế, chính trị của người Hoa trong giai đoạn nửa đầu thế kỷ XIX.

<b>6. Đóng góp của luận văn </b>

<i><b>Luận văn Thạc Sĩ Lịch Sử Việt Nam với đề tài "Hoạt động thương mại của </b></i>

<i><b>người Hoa ở Sài Gòn – Chợ Lớn (1859 – 1945)" đóng góp vào việc hệ thống hóa </b></i>

nguồn tư liệu liên quan đến cộng đồng người Hoa. Thông qua luận văn sẽ tái hiện lại bức tranh tổng thể và toàn diện, bổ khuyết những khoảng trống về các hoạt động thương mại của người Hoa ở Sài Gòn – Chợ Lớn trong giai đoạn này. Từ đó sẽ giúp hiểu rõ hơn về vai trị và đóng góp của người Hoa trong phát triển kinh tế và xã hội của Sài Gòn – Chợ Lớn trong giai đoạn từ 1859 đến 1945.

Luận văn đã tập hợp được các nguồn tài liệu phong phú có liên quan đến người Hoa cả trong và ngồi nước, trong đó có những tư liệu điền dã có ý nghĩa quan trọng. Do đó luận văn sẽ có giá trị tham khảo cho sinh viên ngành Lịch Sử và các ngành khoa học xã hội và nhân văn.

Với cơng trình nghiên cứu này, tơi đã làm rõ những đặc điểm về hoạt động thương mại của người Hoa tại Sài Gòn – Chợ Lớn trong giai đoạn 1859 – 1945. Bên cạnh đó, chúng tơi cịn nêu lên vai trò của hoạt động thương mại của người Hoa ở Sài Gòn – Chợ Lớn đối với nền kinh tế Nam Kỳ trong giai đoạn này. Ngoài ra, với đề tài luận văn này tôi cũng gợi mở thêm một số hướng nghiên cứu mới cho những công trình tiếp theo.

<b>7. Kết cấu nội dung đề tài </b>

<b>Chương 1: Tổng quan về người Hoa ở Sài Gòn – Chợ Lớn và hoạt động thương mại của cộng đồng người Hoa trước năm 1859 </b>

<b>1.1 Các thuật ngữ </b>

<b>1.2 Tổng quan về quá trình định cư của người Hoa đến Sài Gòn – Chợ Lớn từ </b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">

<b>CHƯƠNG 1 </b>

<b>TỔNG QUAN VỀ NGƯỜI HOA Ở SÀI GÒN – CHỢ LỚN VÀ HOẠT ĐỘNG THƯƠNG MẠI CỦA CỘNG ĐỒNG NGƯỜI HOA TRƯỚC NĂM 1859 </b>

<b>1.1. Các thuật ngữ </b>

<b>1.1.1 Thuật ngữ “Người Hoa” </b>

Hiện có nhiều quan điểm khác nhau về thuật ngữ “Người Hoa” từ phía các học giả khi thực hiện các cơng trình nghiên cứu về người Hoa.

Khái niệm “người Hoa” chỉ mới được các học giả sử dụng phổ biến từ năm 1980, trước đó, cách gọi cho cộng đồng người Hoa thường khơng nhất qn. Ví dụ như Đào Trinh Nhất (1924) sử dụng tên gọi “Khách trú”, “người Tàu”, tên gọi “Minh Hương” thì lại được sử dụng bởi Nguyễn Thiệu Lâu (1941), Đào Duy Anh (1944) sử dụng tên gọi “người Tàu” và học giả Trần Kính Hịa trong các tác phẩm viết các năm 1958, 1960,1961 lại sử dụng tên gọi “Minh Hương” và tiêu biểu là tác phẩm Người Hoa ở miền Nam Việt Nam thì dùng khái niệm là “Chinois”. Tuy vậy, cách hiểu về khái niệm “người Hoa” có nhiều sự khác biệt.

Trong đó, thuật ngữ “người Hoa” được ra đời sau các thuật ngữ “Hoa kiều”, người “Trung Hoa” và “người Trung Quốc”

Trong các cơng trình nghiên cứu của mình, học giả Trần Khánh đã lý giải về trình tự xuất hiện của các thuật ngữ này.

Hai thuật ngữ "Hoa Kiều" và "người Trung Hoa" bắt đầu xuất hiện từ nửa sau thế kỷ XIX. Sau cuộc cách mạng lật đổ vương triều nhà Thanh của Tôn Trung Sơn (1911), hai thuật ngữ này mới được sử dụng phổ biến trong các văn bản. Năm 1921, Đảng Cộng Sản Trung Quốc được thành lập và trong tun ngơn của mình, nước Trung Hoa được gọi là Trung Quốc (Zhongguo). Từ đó, thuật ngữ "người Trung Quốc" (Zhongguo ren) trở nên phổ biến.

Đối với thuật ngữ “Hoa kiều” và “người Hoa hải ngoại” là hai thuật ngữ được dùng để chỉ người dân Trung Hoa sinh sống ở quốc gia khác. Tuy vậy, có nhiều người

</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">

trong cộng đồng người Hoa lại tự gọi mình là “người Hoa” (Hua ren) thay cho tên gọi “Hoa kiều” bởi vì họ muốn thể hiện tư cách là người định cư thay vì là người di trú hoặc kiều dân, một số thì đã kết hơn với người bản địa trở thành người Hoa lai. Như vậy, khái niệm “người Hoa” rất có thể xuất hiện sau tên gọi “Hoa kiều” vốn đã xuất hiện từ cuối thể kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. (Trần Khánh, 2002, tr.21 - 22)

<b>1.1.1.1 Việc sử dụng thuật ngữ “người Hoa” của các học giả nước ngoài</b>

Về cách sử dụng thuật ngữ “người Hoa” trong nghiên cứu của các học giả quốc tế hiện có nhiều quan điểm

Trong đó có hai thuật ngữ là "Overseas Chinese" và "Chinese overseas" đã được sử dụng để chỉ về người Hoa. Trong đó, "Overseas Chinese" là để chỉ những người Trung Quốc chưa mang quốc tịch bản địa (Hoa Kiều) và "Chinese Overseas" đề cập đến những người Trung Quốc nhập cư đã mang quốc tịch bản địa (người Hoa) (Châu Thị Hải, 2006, tr.27).

Hiện nay, thuật ngữ “người Hoa” được sử dụng rộng rãi trên tồn thế giới, thậm

<i>chí cả Trung Quốc. Thuật ngữ “người Hoa” (華 人) lại mang nghĩa là “tộc người </i>

<i>Hoa” tức không liên quan đến vấn đề quốc tịch Trung Quốc. Do đó thuật ngữ “Hoa </i>

kiều/người Hoa” thường được dùng khi đề cập đến người Hoa đang sinh sống ở nước ngoài, bao gồm cả những người là công dân của Trung Quốc hoặc công dân của các quốc gia khác

<b>1.1.1.2 Việc sử dụng khái niệm “người Hoa” theo quan điểm các học giả Việt Nam </b>

Để chỉ những người Trung Hoa di trú và định cư ở nước ngồi thì ở Việt Nam có rất nhiều thuật ngữ. Trong sử sách phong kiến, người Việt thường dùng cách gọi truyền thống dựa trên triều đại hoặc địa phương, như người Đường, Hán, Tống, Minh, Thanh, hoặc Triều Châu, Phúc Kiến, Quảng Đông, Hải Nam, v.v.

Trong thời kỳ cai trị của Chúa Trịnh (Đàng Ngoài) và Chúa Nguyễn (Đàng Trong), thuật ngữ "Đường nhân" (người Đường) được sử dụng rộng rãi để mô tả những người Trung Quốc đến nước ta tạm trú và tham gia hoạt động buôn bán.

Trong sử sách nhà Nguyễn từ thời Minh Mạng trở đi, tên gọi “người Thanh” hoặc

</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">

“người nước Thanh” được sử dụng. Các tên gọi này thay thế cho từ “người Đường” đã dùng phổ biến trong giai đoạn trước đó. Như vậy trong thời kỳ này ba tên gọi phổ biến để chỉ người Hoa sinh sống ở Việt Nam là “Minh Hương”, “người Đường” và “người Thanh”.

Hiện tại, nhiều học giả Việt Nam đã sử dụng thuật ngữ “người Hoa” theo xu hướng của thế giới.

Trong nghiên cứu của mình tác giả Châu Thị Hải cũng đã tổng hợp và phân định các tên gọi về người Hoa của các học giả nước ngoài (kể cả giới học giả Trung Quốc) các tên gọi ở trong nước và sau đó lại phân chia các tên gọi theo cách gọi chính thống và dân gian cùng với những khái niệm và nội hàm cụ thể của nó. Tác giả cũng nêu thêm lịch sử ra đời và phạm vi sử dụng của những tên gọi này. Tuy vậy chính tác giả cũng ghi nhận hiện các tên gọi này vẫn có nhiều ý kiến và quan điểm chưa thống nhất. (Châu Thị Hải, 2006, tr.25-45)

Từ đó có thể thấy khái niệm “người Hoa” là một phạm trù có tính biển đổi: từ bản thân mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng với thân phận là kiều dân đều có thể trải qua quá trình biến đổi để trở thành một cư dân sở tại, đơi khi rất nhanh chóng hoặc cũng có lúc phải qua nhiều đời, nhiều thế hệ phức tạp.

Khái niệm “người Hoa” này nó cũng có liên quan đến vấn đề quốc tịch mà mỗi triều đại có một cách quản lý khác nhau.

Vì vậy, khi tìm hiểu về vấn đề “người Hoa” trong lịch sử thì cần được đặt vào bối cảnh lịch sử cụ thể.

<b>1.1.1.3 Thuật ngữ “người Hoa” trong luận văn </b>

Các tên gọi chính thống về “người Hoa” đã được nhà nước Việt Nam công nhận qua từng giai đoạn lịch sử sẽ được dùng trong nghiên cứu này. Tuy nhiên, nhóm cư dân Minh Hương nguyên ngạch (tức thế hệ Minh Hương đã lai Việt – Hoa) cần được phân biệt một cách rõ ràng và tách bạch với khái niệm người Hoa. Bởi vì những đặc điểm về mặt huyết thống trong quá trình phát triển và văn hóa. Do đó nhóm Minh Hương ngun ngạch khơng phải là đối tượng nghiên cứu trong đề tài này và sẽ không

</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">

được đề cập trong đề tài, nhằm tránh việc lẫn lộn giữa các khái niệm.

Theo Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học (2003, tr.977), thương mại đồng nghĩa với thương nghiệp. “Thương nghiệp: ngành kinh tế quốc dân thực hiện lưu thơng hàng hóa bằng mua bán.”.

Về quan hệ thương mại, theo Lương Thanh Hải (2023): “Quan hệ thương mại hàng hóa giữa hai nước là một hình thức chủ yếu của quan hệ kinh tế quốc tế giữa hai nước, trong đó diễn ra các hoạt động mua bán, xuất nhập khẩu hàng hóa lẫn nhau giữa hai nước trên cơ sở lợi thế so sánh và chi phí cơ hội của từng nước khi tham gia phân công lao động quốc tế với nước đối tác và các nước khác trên thế giới.”

Thương mại và quan hệ thương mại đều là những thuật ngữ của Kinh tế học thời kỳ hiện đại.

<b>1.2. Tổng quan về quá trình định cư của người Hoa đến Sài Gòn – Chợ Lớn từ năm 1679 – 1858 </b>

<b>1.2.1 Bối cảnh người Hoa di cư vào Việt Nam 1.2.1.1 Quốc tế, khu vực </b>

Quá trình người Hoa di cư đến Sài Gòn – Chợ Lớn không chỉ ảnh hưởng bởi bối cảnh quốc tế mà còn cả bối cảnh khu vực. Tại Đàng Trong người Hoa xuất hiện khá

</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">

muộn, phải đến cuối thế kỷ XVII mà cụ thể là năm 1679 thì mới ghi nhận sự có mặt của người Hoa tại khu vực này.

Đối với bối cảnh thế giới thì từ cuối thế kỷ XVI nền thương mại đường biển quốc tế xuyên đại dương đã được hình thành. Thời kỳ này còn được gọi là “thời kỳ bùng nổ thương mại”. Do đó hoạt động giao thương hàng hải giữa các nước trên khu vực biển Đông diễn ra nhộn nhịp. Bên cạnh đó là sự hình thành và phát triển của là chủ nghĩa tư bản phương Tây đã thúc đẩy các nước châu Âu đến Đơng Nam Á tìm kiếm thị trường mới và nguồn nguyên liệu phục vụ cho sự phát triển của tư bản chính quốc. Trong q trình này, các nước như Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Anh... vừa tham gia vào hoạt động giao thương với các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á, vừa lợi dụng để thống trị và biến các quốc gia này thành thuộc địa.

Từ cuối thế kỷ XVI mạng lưới thương mại ở khu vực Đông Nam Á ngày càng phát triển, điều này cũng thúc đẩy sự phát triển của các khu định cư của người Hoa (những nơi vốn là trung tâm thương mại lớn của các quốc gia). Chính hoạt động thương mại của người châu Âu đã kéo nền thương mại của các nước Đông Á vào guồng xoay của nền thương mại toàn cầu. Điều này cho phép hàng hóa của người Hoa khơng chỉ bó hẹp lưu thơng trong khu vực mà cịn có cơ hội xuất khẩu ra tồn cầu. Dịng di dân của người Hoa hải ngoại đến Đông Nam Á cũng chịu ảnh hưởng bởi q trình thực dân hóa của các nước Âu Châu ở khu vực. Khi những người châu Âu thiết lập được hệ thống các cảng thương mại và khai thác thuộc địa mạnh mẽ ở các quốc gia Đông Nam Á như người Hà Lan ở Indonesia, người Anh ở bán đảo Mã Lai, người Tây Ban Nha ở Philippines, họ tìm cách thu hút nguồn nhân cơng người Hoa và thu hút các thương nhân người Hoa đến giao thương. Tuy nhiên, những người châu Âu này đã dùng nhiều thủ đoạn để đưa nhân công người Hoa đến các quốc gia thuộc địa ở Đông Nam Á thông qua các khế ước, hợp đồng với những điều khoản bất lợi cho người Hoa. Thương nhân người Hoa và người lao động đóng một vai trị thiết yếu trong sự phát triển các thuộc địa của phương Tây ở Đông Nam Á. Thực dân phương Tây cần các nguồn hàng hóa như lụa, trà, gốm, đồ sứ, … do các thương nhân Trung Hoa cung cấp. Ngược lại người Hoa là trung gian buôn bán các mặt hàng do người phương Tây

</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">

mang đến và phân phối chúng tại các nước thuộc địa. Về khu vực tập trung, thì những người châu Âu mới đến này cũng tập trung tại các cảng thị, những tuyến đường hàng hải quen thuộc với người Trung Hoa như Batavia của Hà Lan, Manila của Tây Ban Nha, Malaca của Bồ Đào Nha và các hải cảng khác ở vùng Đông Nam Á. Tại những nơi này người Hoa hải ngoại đã thiết lập nên một mạng lưới thương mại rộng khắp.

Cùng với việc mở rộng mạng lưới thương mại thì trong giai đoạn từ thế kỷ XVIII – XIX các thương nhân người Hoa cũng đã phát triển hoạt động kinh doanh của mình từ tập trung lưu thơng hàng hóa chuyển sang đầu tư cho hoạt động sản xuất. Tại các nước Đông Nam Á các thương nhân người Hoa đã đầu tư phát triển các ngành tiểu thủ công nghiệp, khai mỏ và trồng trọt. Điều này cũng mở ra một hướng mới cho những người Hoa nhập cư khi họ có thể tham gia vào các công việc khác và tạo thêm nhiều nguồn sinh kế thay vì chỉ có những hoạt động liên quan đến thương mại.

Đến giai đoạn cuối thế kỷ XIX – nửa đầu thế kỷ XX, làn sóng người Hoa di cư đến các nước trong khu vực tăng lên nhanh chóng. Bởi vì ở giai đoạn này ở Đông Nam Á hầu hết các quốc gia đều trở thành thuộc địa của phương Tây và họ cần một nguồn nhân lực dồi dào từ Trung Hoa để phục vụ cho cuộc khai thác thuộc địa bên cạnh sử dụng các cư dân bản địa. Ngoài ra, quá trình khai thác thuộc địa cũng mang lại thị trường tiêu thụ dồi dào với nhiều nguồn lợi, nên các thương nhân Trung Hoa cũng không muốn bỏ lỡ cơ hội này. Nếu giữa thế kỷ XIX, số lượng di cư của người Trung Hoa ước tính khoảng 500.000 người và chủ yếu cư trú ở các nước Đông Nam Á thì đầu thế kỷ XX (1902), số lượng Hoa kiều trên thế giới đã tăng lên 7 triệu người. (Châu Thị Hải, 2006, tr.63)

<b>1.2.1.2 Bối cảnh xã hội Trung Hoa </b>

Giữa Việt Nam và Trung Hoa do có những điểm tương đồng về mặt văn hóa và địa lý, nên trong suốt quá trình lịch sử hơn 2000 năm, Việt Nam đã nhiều lần tiếp

<b>nhận những đợt di dân lớn đến từ Trung Quốc. </b>

Trong đó ở khu vực Đàng Trong nói chung và Sài Gịn – Chợ Lớn nói riêng thì đợt di dân lớn của nhóm Trần Thượng Xuyên, Dương Ngạn Địch vào năm 1679 có ý

</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">

nghĩa quan trọng. Đặt nền mống cho sự xuất hiện của cộng đồng người Hoa ở khu vực phía Nam.

Năm 1644, triều đại nhà Minh bị lật đổ, vua Thanh thống trị Trung Quốc và lập nên Triều đại nhà Thanh. Triều đình đã đưa ra các lệnh hà khắc và cấm việc giao thương ra hải ngoại. “Đến năm Mậu Ngọ (1678), khi nhà Thanh hạ lệnh “Thiên giới”, buộc dân duyên hải phải dời vào nội địa và cấm giao thông hải ngoại. Sự kiện đáng lưu ý trong thời gian này là tháng 8 năm Ất Dậu (1645), triều đình Mãn Thanh ra lệnh “Thế phát nghiêm chỉ”, bắt dân theo tục người Thanh cạo đầu, bím tóc đi sam, đồng thời thi hành các chính sắc cai trị độc đoán, hà khắc.” (Huỳnh Ngọc Đáng, 2018, tr.84). Do đó, nhiều người Hoa vẫn cịn trung thành với nhà Minh không chịu thần phục nhà Thanh đã di tản xuống các quốc gia ở vùng Đông Nam Á, trong đó có nước ta.

Từ năm 1717 trở đi, chính quyền nhà Thanh ban hành nhiều điều luật khắt khe nhằm hạn chế người Hoa di trú. Bởi vì đây là giai đoạn triều đình nhà Thanh đang dần ổn định họ không muốn lực lượng chống đối tập trung ở những quốc gia có đường biên giới với Trung Quốc. Ngồi ra, chính quyền nhà Thanh cũng khơng muốn những người Hoa di trú và những người trong nước có mối quan hệ mật thiết với nhau. Do chính quyền Mãn Thanh lo sợ tàn quân nhà Minh và những người di cư tập hợp lại lật đổ họ. Vào năm 1712 và năm 1717 sắc lệnh cấm người Trung Hoa vượt biển đã được chính quyền nhà Thanh ban hành. Để thắt chặt sự kiểm soát các luồng di cư tự do, nhà Thanh vào năm 1728 lại đưa ra một sắc lệnh mới, trong đó quy định rằng nếu ai tự động bỏ nước ra đi thì khơng được trở về tổ quốc (Trần Khánh, 2002, tr.80-81).

Những đạo luật nghiêm ngặt của chính quyền nhà Thanh, cũng khơng khiến nhóm cư dân vùng dun hải Đơng Nam Trung Quốc lo ngại. Bởi vì họ đã có kinh nghiệm bn bán giao thương ra nước ngồi từ hàng thế kỷ. Hơn nữa, triều đình Mãn Thanh khơng thể kiểm sốt bao qt hết hàng km bờ biển cũng như đường biên giới. Vì vậy, nhiều di dân người Hoa đã sang các nước ở khu vực Đơng Nam Á trong đó có Việt Nam bằng con đường lén lút bất hợp pháp trong suốt cả thế kỷ XVIII - XIX.

Trong giai đoạn từ thế kỷ XVIII – XIX đánh dấu quá trình phát triển mạnh mẽ của

</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">

các cộng đồng người Hoa ở khu vực Đông Nam Á. Trong giai đoạn này sự gia tăng số lượng thương nhân người Hoa gắn liền với sự phát triển của nhịp độ giao thương của người phương Tây tại khu vực Đơng Nam Á. Chính vì vậy bên cạnh sự xuất hiện của các thương nhân phương Tây thì các thương nhân người Hoa đã tham gia vào mạng lưới giao thương sôi nổi ở các nước Đông Nam Á trong thời kỳ này.

Từ giữa thế kỷ XIX cho đến giữa thế kỷ XX, tình hình Trung Quốc có nhiều biến động. Sau thất bại của cuộc chiến tranh Nha Phiến (1840), Trung Quốc bị các nước cường quốc giằng xéo và chia năm xẻ bảy “như một miếng bánh”. Nhiều cuộc chiến tranh diễn ra liên miên như chiến tranh Trung – Nhật (1893-1894), chiến tranh Liên quân tám nước xâm lược Trung Hoa, … Điều này đã ảnh hưởng đến các phương diện chính trị, kinh tế và văn hóa của Trung Quốc. Dẫn đến việc số lượng người Hoa di cư tăng lên, ngoài những thành phần di cư tị nạn chính trị, thương nhân thì cịn có thêm những tầng lớp khác như nơng dân mất ruộng phải di cư tìm sinh kế mới và trở thành nguồn lao động “rẻ mạt” của các nước phương Tây trong quá trình khai thác thuộc địa ở các quốc gia ở Đơng Nam Á.

<b>1.2.1.3 Về chính trị, xã hội Việt Nam </b>

<b>❖ Chính sách của chính quyền Đàng Trong và triều Nguyễn đối với người Hoa </b>

Chính sách cai trị của các chúa Nguyễn ở Đàng Trong đối với người Hoa có phần khá cởi mở hơn so với chính quyền Đàng Ngồi lúc bấy giờ. Bởi vì chính quyền Đàng Trong rất cần nguồn nhân lực và tài lực để từ để đối phó với chính quyền họ Trịnh, mặt khác còn mở mang thêm bờ cõi. Do đó, những người Hoa dưới sự cai trị của chính quyền các chúa Nguyễn vừa được hưng thịnh về mặt ngoại thương vừa được tương đối tự do về mặt cư trú (Dương Văn Huy, 2023, tr.110). Vì vậy trong giai đoạn này số lượng người Hoa đến khu vực miền Trung và phía Nam trong đó có Sài Gịn – Chợ Lớn ngày càng đơng.

Chính sách tiếp đón “nồng hậu” của các chúa Nguyễn và sau này là triều đại nhà Nguyễn rõ ràng đã có tác động rất lớn đến việc hình thành nên cộng đồng người Hoa

</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">

ở Việt Nam nói chung và Sài Gịn – Chợ Lớn nói riêng. Người Hoa khi đến Việt Nam họ không chỉ được phép cư trú vĩnh viễn mà còn được ghi vào sổ bộ của chính quyền (nếu có nguyện vọng định cư lâu dài), không phải thực hiện nghĩa vụ quân dịch, và nhiều chính sách ưu đãi khác trong lĩnh vực kinh tế, … Họ còn được chúa Nguyễn trọng dụng vào việc khai khẩn đất phương Nam và còn được hưởng quyền tự trị. Trong chuyến Kinh Lược của Nguyễn Hữu Cảnh vào đất phương Nam năm 1698, ông đã tuân theo lệnh chúa Nguyễn Phúc Chu “Con cháu người Hoa nếu ở Trấn Biên được quy lập thành xã Thanh Hà, cịn ở Phiên Trấn thì lập thành xã Minh Hương rồi cho phép vào hộ tịch”. (Trịnh Hoài Đức, 2006, tr.112). Các di thần nhận được sự trọng đãi từ các chúa Nguyễn như Trần Thượng Xuyên, Dương Ngạn Địch, Mạc Cửu, …

Với chính sách cai trị nhưng thu phục nhân tâm trên, người Hoa và người Minh Hương đã có nhiều thiện cảm với chính quyền chúa Nguyễn. Do đó, từ giai đoạn cuối thể kỷ XVII đến đầu thế kỷ XVIII, khối cư dân người Hoa mới đến này đã tự nguyện thần phục nhà Nguyễn, tiêu biểu là sự kiện Mạc Cửu dâng đất Hà Tiên về chính quyền chúa Nguyễn và được phong chức Tổng binh cai quản khu vực này.

Đến triều đại nhà Nguyễn, chính sách đối với người Hoa cũng khơng có nhiều thay đổi, vẫn giữ một thái độ ơn hịa đối với họ. Họ được phép nhập tịch vào các bang hay Minh Hương xã, được hưởng quyền lợi và nghĩa vụ như các dân tộc thiểu số. Các chính sách đề ra nhằm tạo điều kiện để người Hoa có cuộc sống ổn định và dần hòa nhập để trở thành một bộ phận gắn bó trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam.

Dưới triều nhà Nguyễn nhằm quản lý cộng đồng người Hoa chặt chẽ hơn, chính quyền cũng đã có những quy định về quyền pháp lý đối với họ. Dưới thời trị vị của vua Minh Mạng (1820-1840) người Trung Hoa được chia làm hai loại là người Minh Hương và người Thanh. (Trần Khánh, 2002, tr.276). Điều này đã thể hiện sự phân định rõ ràng của triều Nguyễn đối với cộng đồng người Hoa nhằm đưa ra những chính sách phù hợp và dễ bề quản lý họ, trong bối cảnh người Hoa ngày càng tăng lên.

Chính sách thuế của nhà Nguyễn đối với người Hoa được chia làm ba loại phân định trên cơ sở các hộ dân đã ổn định vào bộ máy hành chính hay chưa bao gồm:

</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">

Thuế thực hộ, dành cho những hộ đã cư trú ổn định thành thôn, ấp, phường, xã, nộp thuế bằng bạc. Thuế khách hộ, dành cho những hộ và cá nhân cư trú chưa ổn định và lưu dân chưa phải nộp thuế. Thuế biệt nạp, đối với những hộ có doanh nghiệp thì ngồi thuế thực hộ nộp bằng bạc còn phải nộp thêm thuế bằng hiện vật các sản phẩm khai thác được. nhà nước cũng quy định cụ thể về chế độ thuế khóa đối với các bộ phận người Hoa. Chẳng hạn như người làm ruộng thì nộp thuế bằng thóc, hoa màu, người làm nghề thuốc bắc và sách vở thì được giảm nửa số thuế, những người mới nhập cư trong ba năm đầu chỉ phải trả nửa số thuế, người già trên 60 tuổi được miễn thuế, … (Trần Thị Mai, 2007, tr.129)

Bên cạnh đó, việc chính quyền nhà Nguyễn tạo điều kiện để người Hoa khuếch trương hoạt động mậu dịch, vốn được xem là thế mạnh của họ. Mục đích là nhằm gia tăng nguồn thu thuế đối với người Hoa từ hoạt động này, ngồi ra cịn dễ dàng mua các sản phẩm đến từ Trung Hoa. Bởi trong giai đoạn này, người Việt bị nhà Thanh cấm thâm nhập vào lãnh thổ, gây cản trở đến hoạt động thu mua hàng hóa từ Trung Hoa những mặt hàng quan trọng như: lưu huỳnh, gang, đồ sứ, lụa, …. Bên cạnh đó theo nhiều sử liệu ghi chép trong triều đại nhà Nguyễn thì chính quyền nhà Nguyễn cũng nhiều lần giúp đỡ họ. Như sự kiện vào năm Tự Đức thứ nhất (1848) nhân có thuyền bn dân Phúc Kiến gặp bão dạt vào Cần Giờ, Gia Định, nhà nước đã chuẩn cấp cho mỗi người 1 phương gạo, mức này được quy định chính thức là chuẩn của triều đình cấp lương ăn cho người bị nạn. (Huỳnh Ngọc Đáng, 2018, tr.169)

Nói chung, hiếm có nơi nào mà người Hoa lại được hưởng nhiều ưu ái từ chính quyền như ở Việt Nam. Các chính sách của các chúa Nguyễn và Triều Nguyễn đối với người Hoa đã thể hiện thái độ thân thiện và cởi mở đối với cộng đồng này. Điều này có thể xuất phát từ quan niệm “đồng văn”, cùng chung hệ tư tưởng Nho giáo và quá trình tiếp xúc lâu dài trong lịch sử. Từ những chính sách này đã tạo sự an tâm cho cộng đồng người Hoa cư trú tại Việt Nam nói chung và Sài Gịn – Chợ Lớn nói riêng. Rất nhiều người Hoa, trong đó có cả những người vốn “tay trắng” đã có cơ hội lập nghiệp và trở nên giàu có khi định cư tại nước ta. Điều này đã thu hút thêm những làn sóng di cư mới của người Hoa đến nước. Ngồi ra, các chính sách thuận lợi về

</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">

giao thương đối với người Trung Hoa cũng tác động đến nền kinh tế của đất nước lúc bấy giờ. Phát triển hoạt động ngoại thương của đất nước hòa vào nền ngoại thương nhộn nhịp của khu vực và thế giới giai đoạn từ thế kỷ XVIII – giữa thế kỷ XIX.

Bên cạnh các chính sách về kinh tế, về mặt văn hóa và tổ chức xã hội của người Hoa ở nước ta cũng được chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn thực hiện chính sách trân trọng. Những người Hoa được phép duy trì những phong tục, tín ngưỡng, cách sinh hoạt, mối quan hệ cộng đồng truyền thống của mình. Họ sống yên ổn cùng với người Việt và các dân tộc khác, tô điểm thêm “khơng gian văn hóa Trung Hoa” vào sự đa dạng văn hóa các dân tộc tại Việt Nam. Người Hoa được phép xây dựng các miếu mạo, hội qn mà khơng hề bị cấm đốn, thậm chí cịn được vua ban tặng cho tiền vàng. Như trường hợp đền thờ Trần Thượng Xuyên ở khu vực Chợ Lớn được “các đời Minh Mệnh, Thiệu Trị đều phong tặng làm Thượng đẳng thần, nay xã dân phụng thờ, đèn hương không từng gián đoạn” (Huỳnh Ngọc Đáng, 2018, tr.175)

<b>❖ Chính sách của chính quyền thực dân Pháp đối với người Hoa </b>

Từ giữa thế kỷ XIX chủ nghĩa thực dân đã lan rộng tồn khu vực Đơng Nam Á. Các nước trong khu vực dần trở thành thuộc địa của tư bản phương Tây và trong đó có Việt Nam. Trung Quốc trong giai đoạn này cũng không tránh khỏi việc bị các nước phương Tây xâm lược. Từ cuộc chiến tranh Nha phiến (1840), phong Trào Thái Bình Thiên Quốc, ... tình hình Trung Quốc khơng lúc nào được yên ổn. Do đó, đây là giai đoạn mà số lượng di dân người Hoa đến các quốc gia ở Đông Nam Á ngày càng gia tăng, với nhiều thành phần và nhiều hình thức.

Trong giai đoạn này, quá trình phát triển và cư trú của cộng đồng người Hoa đã phải chịu tác động mạnh mẽ từ việc thực dân Pháp thiết lập chế độ thuộc địa ở Nam Kỳ vào năm 1867 và thiết lập chế độ bảo hộ ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ vào năm 1883. Khi thực dân Pháp xâm chiếm Việt Nam, họ đã đặc biệt quan tâm đến cộng đồng người Hoa. Bởi vì, họ muốn lơi kéo người Hoa trở thành một lực lượng chính trị - xã hội quan trọng của người Pháp trong quá trình xâm lược và thiết lập chế độ thuộc địa tại nước ta. Mặt khác, người Pháp xem người Hoa là một nguồn lợi đối với họ thông qua việc thu thuế qua các hoạt động kinh doanh của người Hoa.

</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">

Thực dân Pháp cũng áp dụng chính sách “chia để trị” để phân các nhóm Trung Hoa nhập cư thành nhiều loại khác nhau. Năm 1885, Pháp phân loại người Trung Hoa ở Việt Nam thành Minh Hương và Hoa Kiều. Trước 1885, Minh Hương được hợp pháp hóa thành người Việt bởi triều Nguyễn. Tuy nhiên, sau 1885, Pháp cho họ lựa chọn quốc tịch, có thể là công dân Trung Hoa, công dân Pháp tại châu Á, hoặc công dân một quốc gia khác nếu họ đóng phí cho chính quyền Pháp. Đến năm 1933, người Pháp ban hành quy định mới đối với Minh Hương ở Nam Kỳ và các thành phố như Hà Nội, Hải Phịng, Đà Nẵng, sinh sau năm 1933 thì xem họ là "cơng dân Pháp ở châu Á", cịn người Hoa sinh trước năm đó là cơng dân Trung Hoa hay người nước ngồi. Cịn với Hoa Kiều muốn sống ở Việt Nam, họ phải tham gia Bang hội đồng hương và được chính quyền Pháp miễn thuế thân. (Trần Khánh, 2002, tr.278-280).

Thơng qua chính sách “chia để trị” người Pháp đã thể hiện rõ âm mưu phân tán sức lực và tinh thần đoàn kết giữa người Trung Hoa di cư với nhau, giữa người Trung Hoa di trú và dân bản địa. Bên cạnh đó, họ sử dụng các Bang hội với chức năng hành chính và thu thuế càng làm phân cách giữa cộng đồng Hoa kiều và xã hội Việt Nam. Trên lĩnh vực thương mại thì Hoa kiều chiếm giữ vai trị quan trọng trong hoạt động nội thương. Người Pháp đã có những ưu đãi với cộng đồng người Hoa, đặc biệt là các Hoa thương. Bởi vì với thị trường mới mẻ ở Việt Nam nói chung và vùng Sài Gịn – Chợ Lớn nói riêng chỉ có người Hoa là am hiểu nhất và họ có mạng lưới thu mua hàng hóa phân bố rộng khắp từ các thành phố đến làng xóm. Vì vậy khi người Pháp hợp tác làm ăn với người Hoa sẽ mang nhiều nguồn lợi cho người Pháp, đặc biệt là nguồn lợi từ hoạt động kinh doanh lúa gạo ở Nam Kỳ. Ngoài ra, để thiết lập bộ máy cai trị ổn định trên đất nước ta thì chính quyền thực dân Pháp cũng cần có một thế lực chính trị - xã hội ủng hộ, họ đã lợi dụng cộng đồng người Hoa bởi vì họ xem những người này là ngoại kiều và sẽ không gây bất lợi cho họ như người Việt. Vì vậy, người Pháp đã ký một số hiệp ước với Chính phủ Trung Hoa Quốc Dân (Hiệp ước Nam Kinh 1930, Hiệp định Trùng Khánh) để mở rộng quyền kinh doanh của cộng đồng người Hoa, quyền được hưởng quy chế ngoại kiều, quyền được chính phủ Trung Hoa bảo vệ. Với những thỏa thuận trên đã giúp thúc đẩy q trình chuyển hóa tư bản của cộng đồng người Hoa và củng cố địa vị ngoại

</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">

kiều của họ, làm cản trở sự hội nhập công dân của họ vào xã hội Việt Nam. (Trần Khánh, 2002, tr.282).

<b>1.2.2 Tiến trình định cư của người Hoa đến vùng đất Sài Gòn – Chợ Lớn từ năm 1679 - 1858 </b>

Về tiến trình định cư của người Hoa đến vùng đất Sài Gòn – Chợ Lớn từ năm 1679 – 1945, trải dài qua nhiều thời kỳ lịch sử, với nhiều lí do khác nhau, hình thức di cư khác nhau. Tuy nhiên, có thể được chia thành hai bộ phận chính

<i>Bợ phận thứ nhất, là dòng người Hoa “tị nạn” vào những giai đoạn lịch sử Trung </i>

Quốc xảy ra những bất ổn, rối ren do triều đại thay đổi. Những cư dân người Hoa này di cư sang nước ta (trong đó có Sài Gịn – Chợ Lớn) để tránh chiến tranh, tránh bị sự truy sát và bức hại của những thế lực mới lên nắm quyền đất nước. Trong đó ở vùng Sài Gịn – Chợ Lớn cộng đồng người Hoa được hình thành từ những đợt di dân do các cựu thần triều Minh lãnh đạo. Trong thời kỳ chiến tranh Nha phiến, Chiến tranh Trung Hoa – Nhật Bản, Chiến tranh Liên quân tám nước và nhất là Đại chiến thế giới lần thứ II khi Nhật đánh vào Trung Hoa, nước ta đã đón một lượng lớn dòng người di cư từ Trung Quốc sang. Trong những di dân Trung Hoa sang đất nước ta có một số người đã được triều đình nước ta trọng đãi nồng hậu như Trần Thượng Xuyên, Dương Ngạn Địch, Mạc Cửu, …

<i>Bợ phận thứ hai, đó là những cư dân đi tìm đường làm ăn, trong số họ cịn có một </i>

số người do những hồn cảnh bắt buộc họ phải ly hương tìm đường sinh sống. Nhóm cư dân trong bộ phận này thường là những thương nhân, tiểu chủ và những người lao động bình dân. Họ thu mua các hàng hóa từ nước ta sau đó chủ yếu mang sang bán lại tại Trung Quốc và các quốc gia khác. Sau đó lại mua hàng hóa từ các nơi khác về bán lại ở nước ta. Nhóm thương nhân này đóng vai trị quan trọng trong sự phát triển hoạt động thương mại tại nước ta nói chung và Sài Gịn – Chợ Lớn nói riêng. Bên cạnh đó, cịn có những cư dân người Hoa hoạt động trong các lĩnh vực tiểu thủ công nghiệp, làm “cu li” tại các phân xưởng, đồn điền, xây dựng hạ tầng … Đặc biệt người Hoa chọn con đường làm lao động phổ thông này gia tăng khi thực dân Pháp tiến hành khai thác thuộc địa trên đất nước ta. Các cư dân người Hoa khi làm ăn sinh sống

</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32">

lâu dài tại Việt Nam luôn nhận được nhiều ưu đãi của các chính quyền qua từng giai đoạn lịch sử.

Như vậy, cùng với bối cảnh quốc tế và tác động của tình hình trong nước, từ cuối thế kỷ XVI đến cuối thế kỷ XIX, người Hoa di cư đến Việt Nam có tính chất tập trung hơn, có thể chia thành 3 giai đoạn chính:

<b>1.2.2.1 Giai đoạn từ năm 1679 đến cuối thế kỷ XVIII </b>

Đến năm 1679 thì ở phía Nam mới có sự xuất hiện một lực lượng lớn người Hoa được chúa Nguyễn giúp đỡ cho định cư tại đây. Năm 1679, nhóm các tướng nhà Minh là Dương Ngạn Địch và Trần Thượng Xuyên đã dẫn quân và gia nhân hơn 3000 người cùng 50 chiến thuyền đến cập bến Đà Nẵng, chúa Nguyễn thấy họ đang lúc cùng quẫn và có thái độ thần phục nên cho phép vào vùng đất phương Nam khai khẩn.

Nhóm của Dương Ngạn Địch cùng tùy tùng đem binh thuyền tiến nhanh vào cửa Xoài Rạp và cửa Đại cửa Tiểu (thuộc trấn Định Tường) dừng trú tại xứ Mỹ Tho (nay là thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang). Nhóm của Trần Thượng Xuyên thì đem binh thuyền tiến vào cửa Cần Giờ rồi đồn trú tại xứ Bàn Lân, thuộc Đồng Nai (nay thuộc thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai). Họ lo mở mang đất đai, lập thành phố chợ, giao thông buôn bán. Tàu thuyền người Hoa, người phương Tây, người Nhật, người Đồ Bà (Chà Và) tụ tập tấp nập, phong hóa của Trung Quốc dần dần lan ra thấm đượm cả vùng Đơng Phố. (Trịnh Hồi Đức, 2006, tr.110).

Tại Hà Tiên, vào năm 1680 Mạc Cửu người Quảng Đông, Trung Quốc dẫn đầu vài trăm người Hoa đến sinh sống và lập xã thôn đầu tiên ở vùng này. Sự kiện này đã

<i>được ghi chép như sau “Mạc Cửu gốc xã Lê Quách, huyện Hải Khang, phủ Lôi Châu, </i>

<i>tỉnh Quảng Đông, vào thời Đại Thanh, niên hiệu Khang Hy thứ 19 (1680), nhà Minh mất hẳn […] Mạc Cửu khơng khuất phục chính sách buổi đầu của nhà Thanh, mới chừa tóc rồi chạy qua phương Nam, trú tại phủ Nam Vang nước Cao Miên. Ông thấy ở phủ Sài Mạt của nước ấy, người Việt, người Trung Hoa, Cao Miên, Đồ Bà (Chà Và) các nước tụ tập mở trường đánh bạc để lấy xâu, gọi là thuế hoa chi, bèn thầu mua thuế ấy, lại cịn đào được mợt hầm bạc nên bỗng trở thành giàu có. Từ đó ơng </i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">

<i>chiêu mộ người Việt Nam lưu tán ở các xứ Phú Quốc, Lũng Kè, Cần Bột, Vũng Thơm, Rạch Giá, Cà Mau lập thành 7 xã thôn. Tương truyền ở đây thường có tiên xuất hiện trên sơng do đó mới đặt tên là Hà Tiên (tiên trên sơng). Mạc Cửu cịn sai tḥc hạ là Trương Cầu, Lý Xá dâng biểu trần trình lên kinh đơ Phú Xuân khẩn cầu xin được đứng đầu trông coi đất ấy.” (Trịnh Hoài Đức, 2006, tr.159) </i>

Tuy nhiên, khu vực Hà Tiên thường xuyên bị quân Xiêm (Thái Lan) và cướp biển quấy phá. Mạc Cửu nhận thấy cần một thế lực đủ mạnh để bảo vệ vùng đất mà ông đã dày công khai phá. Trong vấn đề này Mạc Cửu phải buộc dựa vào chính quyền chúa Nguyễn nếu muốn tiếp tục củng cố và mở rộng thế lực trên vùng đất này. Do đó, Mạc Cửu đã dâng phần đất Hà Tiên vừa mới khai phá và xin thần phục chúa

<i>Nguyễn. Sự kiện này được Trịnh Hoài Đức ghi lại như sau “Tháng 8 mùa thu năm </i>

<i>thứ 18 Mậu Tý (1708) đời Hiển Tơng Hiếu Minh hồng đế (Quốc chúa Nguyễn Phúc Chú) (Lê Dụ Tông niên hiệu Vĩnh Thịnh thứ 4, Đại Thanh Khang Hy thứ 47), chuẩn ban cho Mạc Cửu làm Tổng binh trấn Hà Tiên và phong tước là Cửu Ngọc hầu. Mạc Cửu lo xây dựng dinh ngũ và đóng binh tại Phương Thành (Hà Tiên), từ đó dân càng qui tụ đơng đúc.” (Trịnh Hồi Đức, 2006, tr.159). Từ thời Mạc Cửu ((1655-1736) đến </i>

thời con ơng là Mạc Thiên Tích (1706-1780) đã ra sức xây dựng đất Hà Tiên trở thành một thương cảng sầm uất và quan trọng của vùng Đàng Trong từ cuối thế kỷ XVII.

Như vậy, nhóm người Hoa do Trần Thượng Xuyên, Dương Ngạn Địch và sau đó là Mạc Cửu, được xem là nhóm cư dân người Hoa đầu tiên đến và định cư tại vùng đất Nam Bộ. Đây là những người Hoa "tị nạn" trong bối cảnh xã hội Trung Quốc đang có sự rối ren. Xuất phát từ vị thế cựu thần của triều đại nhà Minh, nên khi nhà Minh sụp đổ vì khơng chịu sự kiểm sốt của triều đình nhà Thanh, họ đã chọn cùng gia đình và binh lính di tản sang nước khác để tìm kiếm cuộc sống mới. Trong số những nhóm di dân đó, có những người đã quyết định di cư xuống các quốc gia ở khu vực Đơng Nam Á, trong đó có Việt Nam.

Nhóm cư dân người Hoa này đã được chúa Nguyễn chấp nhận và tạo điều kiện cho họ làm ăn, sinh sống. Bên cạnh đó, họ cịn được các chúa Nguyễn sử dụng khéo léo làm một lực lượng trong quá trình khai khẩn vùng phía Nam của Đàng Trong. Những

</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34">

vị lãnh đạo các nhóm cư dân người Hoa này được các chúa Nguyễn phong bổ tước quan và cung cấp thêm lương thực để có thể khai khẩn vùng đất đầy gió lam chướng khí. Như Mạc Cửu sau khi dân đất Hà Tiên về chúa Nguyễn đã được chúa Nguyễn

<i>bang cho chức tước “Tháng 8 mùa thu năm thứ 18 Mậu Tý (1708) đời Hiển Tơng </i>

<i>Hiếu Minh hồng đế (Quốc chúa Nguyễn Phúc Chú) (Lê Dụ Tông niên hiệu Vĩnh Thịnh thứ 4, Đại Thanh Khang Hy thứ 47), chuẩn ban cho Mạc Cửu làm Tổng binh trấn Hà Tiên và phong tước là Cửu Ngọc hầu” (Trịnh Hoài Đức, 2006, tr.159). </i>

Chính sách sử dụng nhóm cư dân người Hoa mới đến này vào việc khai phá mở mang vùng đất phương Nam đã chứng minh tầm nhìn và tư duy của các chúa Nguyễn. Các chúa Nguyễn muốn tranh thủ một lực lượng người Hoa đang đông đảo để khẩn hoang lập ấp, mở mang thêm lãnh thổ Đàng Trong. Bên cạnh đó, nhóm cư dân người Hoa này cịn giỏi về việc bn bán đã đặt những nền móng đầu tiên cho những trung tâm thương mại sầm uất của Đàng Trong như Nông Nại đại phố (Cù Lao phố), Mỹ Tho đại phố, Hà Tiên đại phố và về sau là phố chợ Sài Gòn – Chợ Lớn.

Việc các chúa Nguyễn sử dụng người Hoa trong việc khai thác miền Đông và Tây Nam Bộ qua ba nhóm di dân Dương Ngạn Địch, Trần Thượng Xun và Mạc Cửu có ý nghĩa vơ cùng quan trọng và để lại một bài học về cách sử dụng nhân lực của các chúa Nguyễn. Đặc biệt nhất đó là xây dựng sự đồn kết giữa các dân tộc trong quá trình mở mang lãnh thổ về đất phương Nam.

Sau cuộc di cư của nhóm người này, triều nhà Thanh đã ban hành một chính sách mới để cư dân có thể vượt biển đi bn bán.

<i> “Từ năm Ất Sửu (1685) trở đi với sự kiện Thanh Thánh Tổ đã ban hành “Triển hải lệnh” </i>展海令<i>, cho phép nhân dân được vượt biển đi các nước buôn bán. Sự kiện này đã dẫn đến việc đông đảo người Hoa đã đến định cư trong giai đoạn này. Họ chủ yếu là dân thường vì sinh kế mà di cư hoặc các lý do khác. Lực lượng chính của di dân Trung Hoa đến Đàng Trong giai đoạn này không phải là nạn dân hay di thần nhà Minh nữa.” (Huỳnh Ngọc Đáng, 2018, tr.84) </i>

Lực lượng người Hoa di cư đến nước ta vào giai đoạn này đa dạng hơn. Trong số

</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35">

này có các thương nhân Trung Hoa họ cũng đến buôn bán tại các trung tâm thương mại lớn ở phía Nam lúc bấy giờ như Nơng Nại đại phố, Mỹ Tho đại phố và Hà Tiên đại phố. Đây là những trung tâm thương mại lớn có sự đóng góp của cộng đồng người Hoa trong q trình hình thành. Những thương nhân người Hoa có vai trị ngày càng lớn vì vào giai đoạn này Trung Hoa là khách hàng chính của nước ta và quan hệ mậu dịch giữa Đàng Trong với Trung Hoa đang rất phát triển.

Những thương nhân người Hoa này khi đến nước ta nói chung và khu vực phía Nam nói riêng sẽ được chia làm hai loại: Loại thứ nhất, một số cư trú tại các thương cảng của Việt Nam với tính cách vĩnh viễn hoặc bán vĩnh viễn. Họ là những người thủ quỹ hay mãi biện của chủ thuyền, hoặc đại diện cho công ty thuyền buôn để lại. Họ ở tại chỗ để buôn bán các mặt hàng do thuyền buôn để lại, bao mua các mặt hàng có sẵn tại địa phương mà chủ thuyền buôn cần như tơ lụa, trầm hương, kỳ nam, hạt tiêu … để cho thuyền buôn của họ mùa xuân năm sau có thể tới lấy hàng hóa sẵn có chở về Trung Quốc. Còn loại thứ hai, là những thương khách tới bn bán theo gió mùa và trở về ngay. Nếu họ có lưu lại lâu ngày, thì có thể do gió mùa khơng thuận hoặc thương vụ kéo dài, khơng kịp trở về Bắc với gió mùa tháng 7, tháng 8 và họ đành đợi đợt gió mùa năm sau (Dương Văn Huy, 2023, tr.111).

<i>Về vấn đề này trong Gia Định Thành Thơng chí cũng đã chép rằng “Phàm thuyền </i>

<i>buôn người Tàu đến mùa xuân, thuận theo gió đơng bắc mà đến, mùa hạ lại thuận theo gió nam mà về, nếu cuốn buồm đợi quá lâu, thu sang đông gọi là đông, hay áp đơng […] thì người bn đường xa càng cực khổ” (Trịnh Hoài Đức, 2006, tr.30) </i>

Tuy vậy cũng trong giai đoạn cuối thế kỷ XVII đầu thế kỷ XVIII chính quyền Mãn Thanh muốn ngăn chặn dòng người Hoa di cư nên đã ban hành nhiều lệnh hà khắc. Triều đình Mãn Thanh đã ban hành một loạt sắc lệnh cấm người Trung Hoa vượt biển vào các năm 1712 và năm 1717, hà khắc nhất là sắc lệnh cấm người Trung Hoa nếu tự động bỏ nước ra đi sẽ không được trở về. (Trần Khánh, 2002, tr.80-81).

Điều này ít nhiều cũng đã tác động đến tình hình di cư và định cư của người Hoa đến vùng đất phía Nam và trong đó có Sài Gịn – Chợ Lớn ở giai đoạn này. Bởi vì một số người vì lí do chính trị hoặc bn bán đã rời khỏi đất nước nhưng vì lo sự bị

</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36">

trừng phạt bởi các sắc lệnh trên đã không dám trở về lại quê hương, nên đơng đảo người Trung Hoa di trú có nguyện vọng ở lại cư trú lâu dài tại nước ta nói chung và Sài Gịn – Chợ Lớn nói riêng.

Cũng trong giai đoạn thế kỷ XVII – XVIII, cuộc chiến tranh giữa Tây Sơn và chúa Nguyễn đã nổ ra gây ảnh hưởng quá trình di cư và sinh sống của người Hoa ở Nam Bộ. Cuộc chiến này đã làm tàn lụi khu Nông Nại Đại Phố đô hội, nơi tập trung đông đảo người Hoa sinh sống lúc bấy giờ đã bị chiến tranh tàn phá nặng nề. “Từ sau năm Bính Thân (1776), Tây Sơn vào chiếm, họ dỡ lấy phòng ốc, gạch đá, của cải chở về phủ Quy Nhơn, đất này trở thành vườn gò hoang. Sau khi Trung hưng tuy có người trở về, nhưng chưa bằng một phần trăm (mười phần ngàn) lúc trước (Trịnh Hoài Đức, 2006, tr.238).

Ngoài ra, các trung tâm thương mại Mỹ Tho Đại Phố và Hà Tiên Đại Phố sau một thời gian phát triển với các phố chợ buôn bán sầm uất, cũng bị tàn phá bởi chiến tranh, cướp phá.

Ở Mỹ Tho, đã diễn ra hai biến cố lớn dẫn đến việc người dân phải xiêu tán đi nơi khác, trong đó có cộng đồng cư dân người Hoa. Biến cố thứ nhất, đó là vào tháng 6 năm Mậu Thìn (1688), Dương Ngạn Địch bị Phó tướng của ơng là Hồng Tiến giết chết ở cửa biển Mỹ Tho, sau đó đã tự xưng là Phấn dũng Hổ oai tướng quân, thống lĩnh dư chúng Long Môn và rời đồn sang Nan Khê (thuộc Kiến Hịa, Định Tường) để cướp bóc. Sau đó, Hồng Tiến và quân binh dưới trướng đã bị quan quân chúa Nguyễn đánh dẹp. Biến cố thứ hai, đó là vùng Mỹ Tho là chiến trường ác liệt giữa Tây Sơn và chúa Nguyễn nên bị “đốt phá gần hết”. Do đó Mỹ Tho dần mất đi vai trò

<i>là trung tâm thương mại lớn của vùng Đàng Trong từ cuối thế kỷ XVIII. “Từ năm </i>

<i>Mậu Thân (1788) Trung Hưng tới nay, người ta dần trở về, tuy nói trù mật, nhưng so với xưa thì chưa được phân nửa”. (Trịnh Hồi Đức, 2006, tr.241) </i>

Vùng Hà Tiên, nằm ở cực Nam và là vị trí cực kỳ hiểm yếu, thường xuyên bị các chính quyền phong kiến Xiêm La, Chân Lạp dịm ngó và tìm mọi cách để giành lại. Bên cạnh đó, nhiều nhóm cướp biển cũng lợi dụng tình hình phức tạp này ngang nhiên lộng hành, khiến các chúa Nguyễn luôn phải thắt chặt việc quản lý.

</div><span class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37">

Trước những bất ổn của ba điểm tụ cư lớn ban đầu là Nông Nại Đại Phố, Mỹ Tho và Hà Tiên đã khiến cho cộng đồng dân cư cư ngụ ở các khu vực này phải xiêu tán khắp nơi, trong đó có cộng đồng người Hoa. Sau đó, cộng đồng người Hoa lại dồn về tụ điểm chính Sài Gịn – Chợ Lớn, họ sống tập trung và kết hợp với những người Minh Hương đã sống ở đây từ trước lập nên phố chợ sầm uất. Năm 1790, sau khi giành lại đất Gia Định từ triều Tây Sơn, Nguyễn Ánh đã cho xây dựng “Gia Định Kinh” với thành Gia Định và cho quy hoạch lại hệ thống đường sá chợ búa bên ngoài thành, ban hành một loạt mệnh lệnh liên quan đến thương mại. Từ những biến động trên, đến đầu thế kỷ XIX, Sài Gòn – Chợ Lớn đã trở thành nơi tụ hội về kinh tế và văn hóa của cả vùng Nam Bộ. Theo mơ tả về phố chợ Sài Gịn (tức vùng Chợ Lớn) trong Gia Định Thành Thơng Chí

<i>“Cách trấn về phía nam 12 dặm ở hai bên tả hữu đường cái quan, là đường phố </i>

<i>lớn, thẳng suốt 3 đường, giáp đến bến sông, một đường ngang ở giữa, một đường đi dọc theo sông. Các đường ấy đan xuyên nhau như chữ điền, phố xá liền mái nhau, người Việt và người Tàu ở chung lộn dài độ 3 dặm. Hàng hóa trong phố bày bán có: gấm, đoạn, đồ sứ, giấy má, châu báu trang sức, hàng sách vở, tiệm thuốc, tiệm trà, tiệm hủ tiếu. Hai đầu nam bắc bến sơng khơng gì là khơng có. Đầu phía bắc đường lớn của bổn phố có miếu Quan Đế và 3 hội quán: Phúc Châu, Quảng Đông, và Triều Châu chia đứng hai bên tả hữu; phía tây ở giữa đường lớn có mếu Thiên Hậu, gần phía tây có hợi qn Ơn Lăng, đầu phía nam đường phố lớn về phía tây có hợi qn Chương Châu. Gặp ngày tốt, đêm trăng như Tam nguyên, rằm, mùng mợt thì treo đèn đặt án, tranh đua kỳ xảo trông như cây lửa, cầu sao, thành gấm, hội quỳnh, kèn trống huyên náo, nam nữ dập dìu, thật là một phố lớn nơi đô hội náo nhiệt. Trong đường phố lớn có cái giếng xưa, nước ngọt tràn trề, bốn mùa không cạn. Sông nhỏ chảy ngang phố có bắc cầu ván lớn, trên có hai dãy hành lang mái ngói, treo màn che nắng, đường đi râm mát như đi dưới mái nhà cao. Giữa phố về phía đơng đường lớn có chợ Bình An bán đủ sản vật quý ở núi biển và thổ sản các nơi, ban đêm cịn thắp đèn mua bán.” (Trịnh Hồi Đức, 2006, tr.229). </i>

Như vậy, từ cuối thế kỷ XVIII đến những giai đoạn về sau, số lượng người Hoa di

</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38">

cư đến vùng Nam Bộ ngày càng gia tăng. Điều này diễn ra mỗi khi Trung Quốc hay các vùng có đơng đảo người Hoa sinh sống xảy ra những biến động về kinh tế, xã hội. Nhóm di dân người Hoa này từ những người “tị nạn” chiến tranh dần trở nên đa dạng thành phần hơn và có nhiều đóng góp cho sự phát triển kinh tế - xã hội của vùng Nam Bộ nói chung và Sài Gịn – Chợ Lớn nói riêng.

Trong quá trình định cư của người Hoa vào Nam Bộ nói chung và Sài Gịn – Chợ Lớn nói riêng thì người Hoa chia thành hai bộ phận. Hai bộ phận này cũng có q trình Việt hóa khác nhau về mặt tính chất, trong đó những người Hoa “phản Thanh phục Minh” thì theo con đường chính trị, cịn bộ phận thứ hai thì Việt hóa theo con đường kinh tế xã hội, quá trình này vẫn còn đang tiếp tục diễn ra. (Châu Thị Hải, 2006, tr.146-152)

<b>1.2.2.2 Giai đoạn từ đầu thế kỷ XIX – đến năm 1859 </b>

Sau khi chính quyền nhà Nguyễn được thành lập vào năm 1802, ngay từ thời các vua Gia Long, Minh Mạng vấn đề người Hoa di cư đã được quan tâm với các chính sách quản lý và ưu đãi đối với những Hoa di cư vào Việt Nam nói chung và vùng đất Sài Gịn – Chợ Lớn nói riêng.

Trong đó, việc quản lý hoạt động di cư của người Hoa bằng đường bộ thì cả hai chính quyền triều Nguyễn và Mãn Thanh đều có những quy định tra xét nghiêm ngặt để hạn chế việc di cư của người Hoa qua đường bộ.

Triều Nguyễn có các cửa khẩu quan trọng thông thương giữa hai nước là 鎭南關 - Trấn Nam Quan và 由村隘 - Du Thôn Ải (Lạng Sơn), 平而關 -Bình Nhi Quan, 水口關 - Thủy Khẩu Quan (Cao Bằng). Các cửa khẩu này là đầu mối thông thương giữa Việt Nam và các phần đất Trung Quốc thuộc tỉnh Quảng Tây. Cũng có một vài cửa khẩu thơng thương sang Việt Nam ở tỉnh Vân Nam nhưng không quan trọng do địa hình khu vực này khó khăn. (Huỳnh Ngọc Đáng, 2018, tr.118).

Tại các cửa khẩu này, chính quyền nhà Nguyễn cấm tuyệt đối các thương nhân người Việt ra nước ngồi để bn bán, ở các cửa khẩu trên chủ yếu chỉ có thương nhân Trung Quốc mới được vào Việt Nam với các quy định tra xét nghiêm ngặt.

</div><span class="text_page_counter">Trang 39</span><div class="page_container" data-page="39">

Muốn vào Việt Nam, thương nhân Trung Quốc phải xin cấp thẻ bài từ cơ quan chuyên quản của các địa phương giáp biên giới. Vào năm Gia Long thứ 5, tức năm Bính Dần (1806), phủ Thái Bình tỉnh Quảng Tây của nhà Thanh có tờ trát gửi sang ta ghi rõ dân buôn Trung Quốc vào cửa khẩu xem xét thẻ bài, nếu có ân cấp của hai sảnh Minh Giang và Long Châu mới là thực, nếu không có tức là giặc cướp vượt biên giới, tức thì phải bắt về xét xử. Từ đó trở đi, lệ xét thẻ bài có ân cấp của địa phương được duy trì trở thành quy định tra xét chủ yếu, chi phối và có tác động quan trọng là hạn chế tối đa số lượng di dân người Hoa nhập cảnh vào Việt Nam bằng đường bộ. (Huỳnh Ngọc Đáng, 2018, tr.118 – 119)

Do đó, số lượng người Hoa di cư sang Việt Nam bằng con đường hợp pháp giảm đi. Ngược lại, nhiều di dân người Hoa đã sang Việt Nam bằng con đường lén lút bất hợp pháp.

Trái với việc tra xét nghiêm ngặt trên đường bộ, trên đường biển thì tình hình người Hoa nhập cảnh hồn tồn khác. Chính quyền triều Nguyễn đã cho phép các thuyền buôn Trung Hoa được hưởng nhữu ưu ái đặc biệt. Thuyền buôn Trung Hoa được được phép cập vào bất kỳ cảng biển nào của Việt Nam, miễn họ có thẻ bài thuyền do cơ quan quản lý cửa khẩu Trung Quốc cấp, cho phép xuất dương buôn bán, Tuy nhiên với các thuyền buôn phương Tây thì hồn tồn ngược lại, họ chỉ được phép cập bến ở Đà Nẵng

Ngoài ra, đối với người Hoa họ còn được hưởng một ưu ái đặc biệt khác là họ (tức người Hoa) không phân biệt thành phần xã hội, tuổi tác và giới tính đều được phép lên bờ và ở lại sinh sống trên đất Việt Nam theo các bang địa phương của họ.

Đến năm Kỷ Sửu (1829) trước sự gia tăng của số lượng người Hoa di cư, trong đó có một số người sinh sống tản mác khắp nơi, khiến cho việc quản lý khó khăn và có thể nảy sinh những vấn đề phức tạp. Nên triều đình buộc những người nhập cảnh muốn lưu ngụ lâu dài phải tuân thủ một số điều kiện.

Theo Khâm Định Đại Nam hội điển sự lệ có chép năm Minh Mạng thứ 10 (1829) đã đưa ra chỉ dụ nói khá đầy đủ về các quy định và thủ tục nhập cảnh như sau:

</div><span class="text_page_counter">Trang 40</span><div class="page_container" data-page="40">

<i>“Năm thứ 10, chuẩn y lời bàn cho tự nay hễ thuyền nước Thanh đến buôn bán tức thời đem nhập khẩu trong thuyền vào quyển sách đăng ký điểm mục, nộp cho đền cửa khẩu chỗ thuyền vào, quan đền cửa khẩu đưa nộp quan sở tại, quan sở tại chiếu trong sách trừ những thợ lái tàu và thủy thủ, trong đó có đáp chở hành khách, tức thời địi thuyền hợ tới cơng đường sức bảo: Từ trước người Thanh tới bản quốc đều cho chỗ ở để chịu thuế hiện hành đã thành sổ sách, nay đáp khách tới ngày càng nhiều đáng lẽ không cho đến ở, nhưng trót đã tình nguyện đến ở phải có người Minh Hương bang trưởng hiện ngụ ở đây đứng bảo kết ( như người Triều Châu thì bang trưởng Triều Châu đứng bảo lĩnh, người Quảng Đơng thì bang trưởng Quảng Đơng đứng bảo lĩnh v.v… ) để có chỗ ở ấn định, rồi chiếu lệ vào sổ chịu thuế mới cho được ở. Khơng như thế thì gạch sổ đưa về không được một người tới ở, để thuyền hộ ấy thông sức cho hành khách trong thuyền đều được biết rõ, rồi sức cho thuyền hộ ấy đưa hết cả về thuyền. Lại xét người trong thuyền hiện có người đứng bảo lĩnh cho đến ở là bao nhiêu người và đáp khách trở về bao nhiêu người kê ra từng hạng kê khai chuyên chở đó tư giao cho viên ở đồn cửa biển để chiếu sổ tra điểm cho phù hợp, rồi đưa về nước Thanh, giải tới cơ quan sở tại răn bảo cho nghiêm.” (Nội các Triều Nguyễn, tập 4, </i>

- Phải chịu ghi tên vào sổ bộ thuế và đóng thuế theo lệ. (Huỳnh Ngọc Đáng, 2018, tr.121)

Trước những quy định nhập cảnh khắt khe bắt đầu từ năm 1829, dòng người di cư từ Trung Hoa đến Việt Nam vẫn khơng giảm xuống. Mỗi năm ngày càng có nhiều người tiếp tục lên bờ. Trong số này có những người không đăng ký và ẩn lậu. Tai hại nhất là nhà nước không thể đánh thuế thân với những người này được.

</div>

×