Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (61.59 MB, 232 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">
<small>Hà Nội - 2022</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2"><small>Chuyên ngành : Dân tộc hoc</small>
<small>1.PGS. TS. Lâm Bá Nam</small>
<small>2. PGS. TS. Vương Xuân Tình</small>
<small>Hà Nội - 2022</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">LỜI CAM ĐOAN
<small>Tôi xin cam đoan luận án tiến sỹ Lịch sử, chuyên ngành Dân tộc học, vớiđề tài “Chăm sóc sức khỏe sinh sản của phụ nữ các dân tộc Tày, Nùng ở</small>
<small>huyện Văn Quan, tỉnh Lạng Sơn trong lao động xuyên biên giới Việt Nam —</small>
<small>Trung Quốc” là cơng trình nghiên cứu của tơi dưới sự hướng dẫn khoa học củaPGS. TS. Lâm Bá Nam và PGS. TS. Vương Xuân Tình. Các số liệu, kết quả nêutrong luận án là trung thực và chưa từng được ai cơng bố trong bất kỳ cơng trình</small>
<small>nào khác. Những quan điểm mà luận án kế thừa của các nhà nghiên cứu đi trước</small>
<small>đều được trích dẫn nguồn chính xác, cụ thé.</small>
<small>Hà Nội ngày tháng năm 2022</small>
<small>Nghiên cứu sinh</small>
<small>Hoàng Thị Lê Thảo</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4"><small>Trong q trình thực hiện và hồn thiện luận án “Chăm sóc sức khỏe sinh</small>
<small>sản của phụ nữ các dân tộc Tày, Nùng ở huyện Văn Quan, tỉnh Lạng Sơn</small>
<small>trong lao động xuyên biên giới Việt Nam — Trung Quốc”, tôi đã nhận được rất</small>
<small>nhiều sự giúp đỡ từ các cơ quan, tập thê và cá nhân.</small>
<small>Trước hết, tôi xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ và tin tưởng chia sẻ củangười dân huyện Văn Quan về chủ đề nghiên cứu của luận án. Tôi rất cảm ơnUBND huyện Văn Quan, Phịng Y tế, Phịng Văn hố, Phịng Lao động thươngbinh va xã hội, Công an huyện Văn Quan và UBND các xã, trạm y tế các xã đã tạođiều kiện thuận lợi cho tôi trên thực địa.</small>
<small>Tôi xin bày tỏ lời cảm ơn sâu sắc đến Lãnh đạo Viện Dân tộc học và các</small>
<small>đồng nghiệp đã tạo điều kiện cả về thời gian và mọi nguồn lực để tôi có thể theo</small>
<small>đi và hồn thành chương trình học tập nghiên cứu sinh.</small>
<small>Tôi cũng rất cảm ơn các thầy cô giáo trong khoa Nhân học (trường đại họcKhoa học Xã hội và Nhân văn, Hà Nội) đã truyền thụ kiến thức và nhiệt tình traođổi, góp ý khoa học dé tơi có thé từng bước xây dựng và phát triển các ý tưởng cho</small>
<small>nghiên cứu của mình.</small>
<small>Đặc biệt, tơi xin gửi lời cảm ơn và kính trọng sâu sắc đến PGS. TS. Lâm Bá</small>
<small>Nam, PGS. TS. Vương Xuân Tình là những người thầy trực tiếp hướng dẫn khoa</small>
<small>học từ những ngày đầu tìm van đề nghiên cứu đến khi tơi hoàn thành luận án này.</small>
<small>Nguồn tri thức dồi dao và sự nhiệt tình chỉ dạy của các thầy đã bồi đắp cho tôi từnhững định hướng ban đầu đến phương pháp triển khai trên thực địa và cả quátrình xây dựng, hoàn thiện bản thảo luận án. Đồng thời, sự tin tưởng và tận tâmcủa các thầy là nguồn động lực to lớn cho tơi kiên trì hồn thành luận án cũng nhưbước tiếp trên con đường nghiên cứu sau này.</small>
<small>Luận án không chỉ là kết quả nghiên cứu khoa học, mà cịn là q trình chotdi tiép nhan va duoc tiép sức rất nhiều từ tinh cảm và sự ủng hộ, động viên của</small>
<small>gia đình, bạn bè, đồng nghiệp.</small>
<small>Tơi xin gửi lời cảm ơn chân thành và trân trong!</small>
<small>Hà Nội, ngày tháng nam 2022</small>
<small>Nghiên cứu sinh</small>
<small>Hoàng Thị Lê Thảo</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5"><small>MỤC LỤC</small>
<small>DANH MỤC CHỮ VIET TAT</small>
<small>DANH MỤC CÁC HÌNH, BANG, BIEU DOMỞ ĐẦU</small>
<small>1. Lý do lựa chọn đề tài</small>
<small>2. Mục tiêu nghiên cứu</small>
<small>3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu</small>
<small>4.Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài</small>
<small>5. Bố cục của luận án</small>
<small>CHƯƠNG 1</small>
<small>TONG QUAN VAN DE NGHIÊN CỨU,</small>
<small>CO SO LY THUYET VA PHUONG PHAP NGHIEN CUU</small>
<small>1.1. Tổng quan vấn dénghién cứu</small>
<small>1.1.1. Các nghiên cứu về sức khỏe sinh sản của người lao động di cưvà nhóm lao động xuyên biên giới Việt - Trung</small>
<small>1.1.2. Nghiên cứu về sức khỏe sinh sản của phụ nữ dân tộc thiểu số ởViệt Nam</small>
<small>1.2. Các khái niệm nghiên cứu1.2.1. Sức khỏe sinh sản</small>
<small>1.2.2. Chăm sóc sức khỏe sinh sản</small>
<small>1.2.3. Lao động xuyên biên giới</small>
<small>1.3. Cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu</small>
<small>1.3.1. Cơ sở lý thuyết và cách tiếp cận trong nhân học y tế</small>
<small>1.3.2. Cơ sở lý thuyết, cách tiếp cận vấn đề di cư — sức khỏe1.3.3. Giả thuyết khoa học</small>
<small>1.3.4. Phương pháp nghiên cứu</small>
<small>Tiểu kết chương 1</small>
<small>50</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6"><small>CHƯƠNG 2</small>
<small>DIEU KIỆN KINH TE - XÃ HOI</small>
<small>VÀ BOI CANH LAO ĐỘNG XUYEN BIEN GIỚI</small>
<small>Ở HUYỆN VĂN QUAN, TỈNH LẠNG SƠN2.1. Khái quát điều kiện kinh tế - xã hội của huyện Văn Quan</small>
<small>2.1.1. Đặc điểm địa lý — tự nhiên</small>
<small>2.1.2. Dân cư - dân tộc</small>
<small>2.1.3. Đặc điểm kinh tế - xã hội</small>
<small>2.2. Khái quát về các dân tộc Tày, Nùng ở huyện Văn Quan</small>
<small>2.2.1. Đặc điểm kinh tế - xã hội của các dân tộc Tày, Nùng</small>
<small>2.2.2. Đặc điểm nhân khẩu, kinh tế - xã hội và sức khỏe sinh sản, laođộng xuyên biên giới của phụ nữ Tay, Ning được nghiên cứu trong</small>
<small>luận án</small>
<small>2.3. Tình hình lao động-việc làm và lao động xuyên biên giới ở huyện</small>
<small>Văn Quan</small>
<small>2.3.1. Tình hình lao động-việc làm</small>
<small>2.3.2. Hoạt động xuất cảnh trái phép sang Trung Quốc</small>
<small>2.3.3. Một số yêu tố thúc đây phụ nữ các dân tộc Tày, Nùng tham gialao động xuyên biên giới</small>
<small>2.3.4. Một số yêu tố hạn chế khi lao động xuyên biên giới trái phép2.3.5. Mạng lưới và tô chức của hoạt động lao động xuyên biên giớiTiểu kết chương 2</small>
<small>CHƯƠNG 3</small>
<small>CAC VAN DE SỨC KHỎE SINH SAN</small>
<small>VA MANG LUOI CHAM SOC SUC KHOE SINH SAN</small>
<small>3.1. Cac van dé sire khée sinh san</small>
<small>3.1.1. Các van dé sức khỏe sinh sản nơi xuất cư3.1.2. Các vấn đề sức khỏe sinh sản nơi nhập cư</small>
<small>3.2. Mạng lưới chăm sóc sức khỏe sinh sản</small>
<small>3.2.1. Mạng lưới chăm sóc sức khỏe sinh sản nơi xuất cư3.2.2. Mạng lưới chăm sóc sức khỏe sinh sản nơi nhập cư</small>
<small>120</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7"><small>CÁC YEU TO TÁC ĐỘNG DEN SỨC KHỎE SINH SAN</small>
<small>VÀ VIỆC CHĂM SÓC SỨC KHỎE SINH SẢN</small>
<small>4.1. Các yếu tố cá nhân</small>
<small>4.1.1. Trình độ học van và nghề nghiệp</small>
<small>4.1.2. Tâm lý chịu đựng, tiết kiệm</small>
<small>4.1.3. Rào cản ngơn ngữ</small>
<small>4.2. Các yếu tố văn hóa tộc người</small>
<small>4.2.1. Quan niệm về sức khỏe, sức khỏe sinh sản và động thái ứng phó</small>
<small>4.2.2. Quan niệm về việc có con và phải có con trai4.2.3. Tri thức y học dân gian</small>
<small>4.3. Các yếu tố kinh tế - xã hội</small>
<small>4.3.1. Điều kiện kinh tế và việc làm</small>
<small>4.3.2. Điều kiện sinh hoạt</small>
<small>4.3.3. Hạn chế trong khả năng di chuyển khỏi nơi ở khi lao động</small>
<small>xuyên biên giới</small>
<small>4.4. Yếu tố hệ thống, chính sách y tế</small>
<small>4.4.1. Hệ thống, chính sách y tế nơi xuất cư</small>
<small>4.4.2. Hệ thống, chính sách y tế nơi nhập cưTiểu kết chương 4</small>
<small>181196</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">: Nhân học Y tế
: Nhiễm khuẩn đường sinh sản
: Nhiễm khuẩn qua đường tình dục: Nhà xuất bản
<small>: Trung học cơ sở</small>
: Trung học phổ thông
<small>: Trang</small>
<small>: Sức khoẻ sinh sản: Uỷ ban nhân dân</small>
<small>: Xuyên biên giới</small>
<small>Hình 1.1.Hình 1.2.Hình 1.3.Bang 1.4.</small>
<small>Hình 2.10.</small>
<small>Hình 3.1.Hình 3.2.</small>
Biểu đồ 3.3.
<small>Hình 3.4.Bảng 3.5.</small>
Mơ hình hệ thống y tế đa ngun
<small>Khung phân tích Di cư — Sức khỏe của UNDP (2004)Khung phân tích DI cư — Sức khỏe của IOM (2017)</small>
<small>Thơng tín viên theo địa bàn cư trú</small>
Tỷ lệ hộ nghèo (theo chuẩn mới) của huyện Văn Quan
Thu nhập bình quân đầu người/năm của huyện Văn QuanMột số điều kiện kinh tế - xã hội của thi tran Văn Quan,
<small>xã Đại An, xã Tú Xuyên</small>
<small>Lịch nông vụ của người Tày, Nùng ở huyện Văn Quan</small>
sang Trung Quốc
<small>Quan tham gia lao động xuyên biên giới</small>
<small>Thu nhập tháng của hộ gia đình các dân tộc Tay, Nting</small>
<small>năm 2019</small>
<small>xuyên biên giới</small>
Mạng lưới xã hội và nơi lao động ở Trung Quốc của phụ<small>nữ các dân tộc Tày, Nùng huyện Văn Quan</small>
<small>Đường đời sinh sản cua N.2Đường đời sinh sản của N.21</small>
<small>Ty lệ sử dụng các biện pháp tránh thai hiện dai (theo xãvà theo năm)</small>
<small>Đường đời sinh san của T.59</small>
<small>104105</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">Biểu đồ 3.6Biểu đồ 3.7.
<small>Hình 3.8.</small>
<small>Hình 3.9.</small>
Biểu đồ 3.10.Biểu đồ 3.11:Biểu đồ 3.12.
Biểu đồ 4.1.Biểu đồ 4.2.Biểu đồ 4.3.
<small>Hình 4.4.</small>
Biểu đồ 4.5.Biểu đồ 4.6.
Tỷ lệ sinh con tại nhà chia theo nhóm tuổi người mẹ
Mạng lưới chăm sóc sức khỏe sinh sản nơi xuất cư
<small>của N.36</small>
<small>Mạng lưới chăm sóc sức khỏe sinh sản nơi nhập cưcủa N.36</small>
<small>Ty lệ sử dụng BP TT của phụ nữ các dân tộc Tay, Nùng</small>
(nơi xuất cư, nơi nhập cư)
Tày, Nùng (nơi xuất cư, nơi nhập cư)
khỏe sinh sản (nơi xuất cư, nơi nhập cư)
Học vấn của phụ nữ lao động xuyên biên giới ( theo
<small>dân tộc)</small>
Nghề nghiệp của phụ nữ lao động xuyên biên giới (theo
<small>dân tộc)</small>
<small>Thu nhập hộ gia đình năm 2019 (theo dân tộc)</small>
Hệ thống y tế khám chữa bệnh ở huyện Văn Quan
<small>động xuyên biên giới</small>
Điểm đến ở Trung Quốc của các nữ lao động dân tộc
<small>Tày, Nùng</small>
<small>170</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">MỞ ĐẦU
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, trong đó có chính sách mở cửa phát triểnkinh tế khu vực biên giới. Theo thống kê của Cục Cửa khẩu (thuộc Bộ tưlệnh Bộ đội biên phịng)", số lượt người xuất cảnh bằng giấy thơng hành qua
lượt đi lại qua biên giới trong thực tế, bởi cịn có nhiều trường hợp di cư tựdo qua các lối mòn, vượt biên bất hợp pháp. Người dân vùng biên có thê đi
làm ở bên kia biên giới theo mùa vụ hoặc sáng đi tối về. Bên cạnh đó, trongnhững năm gần đây, còn diễn ra hoạt động của người lao động Việt Nam
di cư theo con đường khơng chính thức, họ khơng nhận được sự hỗ trợ của
chính quyền nơi đến về các van đề việc làm, điều kiện sinh sống, an ninh, an<small>toàn lao động.</small>
<small>60% (Viện khoa học Lao động và Xã hội, 2013). Phòng Nhân sự va An</small>
sinh xã hội thành phố Sùng Tả (Quảng Tây) cũng đưa ra con số thống kê
sang Trung Quốc tham gia hoạt động chặt mía, làm nơng (Trương QuaDiệu, Qch Tiêu Tình, 2017). Trong điều kiện lao động XBG, phụ nữ dễ bị
nữ di cư khơng chi ảnh hưởng đến bản thân họ, mà cịn liên quan đến ngườichồng và những thành viên trong gia đình, dù có hay khơng cùng di cư.Đồng thời, việc chăm sóc SKSS phụ nữ cịn phản ánh những bối cảnh văn
XBG rat cần được quan tâm.
<small>' Trích theo Cục lãnh sự (Bộ Ngoại giao), Tổ chức di cư quốc tế IOM (2017).</small>
<small>7</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12"><small>Văn Quan là một huyện thuộc tỉnh biên giới Lạng Sơn, tuy khơng có</small>
này sẽ góp thêm cho việc tìm hiểu những vấn đề về chăm sóc SKSS phụ nữ
<small>DTTS tại Lạng Sơn nói riêng cũng như các tỉnh thuộc khu vực biên giới</small>
Việt — Trung nói chung trong bối cảnh hoạt động làm thuê XBG diễn raphức tạp. Vì vậy, tơi đã lựa chọn đề tài của luận án tiến sỹ, chuyên ngành
<small>Dân tộc học, là “Chăm sóc sức khỏe sinh sản của phụ nữ các dân tộc Tày,Nung ở huyện Van Quan, tinh Lang Sơn trong lao động xuyên biên giới Việt</small>
làm thuê bên kia biên giới, góp phần xây dựng cơ sở khoa học cho việc tăng
<small>hóa tộc người vùng biên.</small>
<small>2. Mục tiêu nghiên cứu</small>
Mục tiêu chính của nghiên cứu này là tìm hiểu việc chăm sóc SKSS
sở khoa học để tăng cường việc chăm sóc SKSS của phụ nữ DTTS và an
<small>sinh xã hội vùng biên.</small>
1. Tìm hiểu bối cảnh kinh tế — xã hội của hoạt động lao động XBG
<small>của phụ nữ các dân tộc Tày, Nùng ở huyện Văn Quan.</small>
<small>của phụ nữ các dân tộc Tày, Nùng huyện Văn Quan lao động xuyên biên</small>
3. Đề xuất khuyến nghị nhằm xây dựng cơ sở khoa học cho việc tăng
— Trung Quốc.
</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">3.1. Đối twong nghiên cứu
<small>kê của Phòng Lao động, thương binh, xã hội — dân tộc huyện Văn Quan</small>
(2019) cho biết, 98,5% dân số toàn huyện là dân tộc Tày, Nùng. Trong đó,dân tộc Tay chiếm 34,6% và dan tộc Nùng chiếm 63,9% so với tổng dân số
<small>của huyện.</small>
độ tuổi sinh sản. Với quan điểm này, luận án không giới hạn độ tuổi của đối
<small>tượng nghiên cứu mà lựa chọn thơng tín viên dựa trên thời gian họ đã từng</small>
đi lao động làm thuê ở Trung Quốc trong phạm vi từ 1991-2019.
Trên cơ sở tham khảo các cơng trình nghiên cứu và thực tế điền đã,
<small>luận án giới hạn hoạt động lao động XBG được nghiên cứu là làm thuêtrong nông nghiệp (thu hoạch mía, làm cỏ, ...) và làm thuê trong nhà xưởng.</small>
<small>3.2. Pham vi nghiên cứu- Phạm vi không gian:</small>
trung triển khai ở thị trần Văn Quan, xã Đại An, xã Tú Xuyên. Bên cạnh đó,luận án thực hiện những cuộc phỏng vấn ngẫu nhiên, nên cịn có thơng tín
<small>viên ở các xã khác như Chu Túc, Văn An, Tân Đoàn, Tràng Sơn, Yên Phúc.</small>
Khoảng cách từ huyện Văn Quan đến cửa khẩu gần nhất (Đồng Đăngthuộc huyện Cao Lộc và Công Trắng thuộc huyện Văn Lãng, tỉnh LạngSơn) trung bình là 32 km. Đây là một trong những điều kiện thuận tiện dé
giới Việt - Trung. Theo thống kê của UBND huyện Văn Quan, từ năm
<small>2015-2019, mỗi năm trung bình có trên dưới 2 nghìn lượt người dân địa</small>
phương xuất cảnh trái phép sang Trung Quốc.
<small>- Pham vi thời gian:</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">Đề tài thực hiện nghiên cứu trong nhóm phụ nữ Tày, Nùng ở huyện
<small>Văn Quan đã từng lao động XBG Việt — Trung trong khoảng thời gian từ</small>
kiện cho việc xuất nhập cảnh và trao đơi hàng hóa giữa hai quốc gia. Từ đó,
các hoạt động giao thương, giao lưu văn hóa, lao động, học tập, ... diễn ra
thuận lợi và ngày càng sôi nỗi.
<small>Dương Ninh, 2010), đi qua 7 tỉnh là Điện Biên, Lai Châu, Lào Cai, Hà</small>
Vân Nam, Quảng Tây (trong đó, tiếp giáp chủ yếu là Khu tự trị dân tộc
gia (Vương Xuân Tình, 2014a), chiếm số đông là Tày, Nùng, Hmông, Dao.Sự phân bố dân cư các xã biên giới mang tính đặc thù của vùng núi cao,vùng sâu, vùng xa, địa hình bị chia cắt mạnh, khó khăn trong giao thơngcũng như phát triển kinh tế - xã hội. Thực tế cho thấy, khu vực biên giới là
thoa văn hóa diễn ra như là một yếu tố mang tính liên tục tại khu vực này(Lâm Bá Nam, 2011), là tất yếu và có tính lịch sử (Nguyễn Văn Chính,
<small>? Tháng 11/1991, Việt Nam và Trung Quốc ký Hiệp định tạm thời về việc giải quyết cơng việc trên vùng</small>
<small>biên giới, gồm có quản lý biên giới theo tình hình thực tế, thẩm quyền giải quyết biên giới cấp Chính phủ</small>
<small>và giữ mốc biên giới. Sau đó, Chi thị 98-CT ký ngày 27 tháng 3 năm 1992 của Chủ tịch Hội đồng Bộ</small>
<small>trưởng đã phê duyệt việc mở cửa 21 cửa khẩu tuyến biên giới Việt Nam — Trung Quốc, tạo điều kiện cho</small>
<small>việc xuất nhập cảnh và trao đồi hang hoá giữa hai quốc gia.</small>
<small>10</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15"><small>hơn vào các hoạt động này.</small>
Vì vậy, nghiên cứu về van dé chăm sóc SKSS của phụ nữ các dân tộcTay, Nùng lao động XBG Việt Nam — Trung Quốc có ý nghĩa khoa học lànghiên cứu đầu tiên, hệ thống về di cư và SKSS của phụ nữ DTTS lao động
của các cơng trình nghiên cứu khoa học mà cịn là đối tượng của các chươngtrình hành động cấp quốc tế và cấp quốc gia. Về cấp quốc tế, có thê kế đến
ASEAN lan thứ IV,.
Ở trong nước, Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 25/10/2017 của BanChấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XII về cơng tác dânsé trong tinh hinh mdi va Chiến lược Dân số Việt Nam đến năm 2030 đã
tế và nhóm lao động nữ di cư nói riêng cần được quan tâm, bởi đó là quyềnlợi của người lao động, đồng thời là một nội dung quan trọng dé dam bảo ansinh xã hội, chất lượng dân số quốc gia. Với những đặc thù riêng về tâm lý,thể chất, điều kiện làm việc, sinh hoạt, phụ nữ di cư cần được chăm sóc tốt
đề sức khỏe cho riêng người phụ nữ, mà cịn gián tiếp tăng cường chăm sóctốt hơn cho trẻ em và gia đình bởi vai trị quan trọng của phụ nữ trong gia
Nùng lao động XBG Việt - Trung có ý nghĩa thực tiễn đối với việc xây
<small>dựng các chính sách tang cường việc chăm sóc SKSS phụ nữ di cư, góp</small>
phần đảm bảo an sinh xã hội ở địa bàn tỉnh Lạng Sơn cũng như khu vực
<small>11</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, nội
<small>dung chính của luận án được chia thành 4 chương:</small>
<small>nghiên cứu.</small>
Chương 2: Điều kiện kinh tế - xã hội và bối cảnh lao động xuyên biên giới ở
<small>huyện Văn Quan, tỉnh Lạng Sơn.</small>
Chương 3: Các vấn đề sức khỏe sinh sản và mạng lưới chăm sóc sức khỏe
<small>sinh sản.</small>
<small>khỏe sinh sản.</small>
<small>12</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17"><small>Chương 1</small>
Nghiên cứu về van đề SKSS ở Việt Nam chỉ thực sự bắt đầu từ giữathập niên 80 và tăng lên đáng ké vào những năm đầu thập niên 90 của thé ky
dân số và phát triển tại thành phố Cairo (Ai Cập) (1994) đã góp phần mởrộng phạm vi nghiên cứu về SKSS tại nước ta. Trong đó, nhu cầu sức khỏecủa phụ nữ được quan tâm đặc biệt, nhất là SKSS.
Với chủ đề nghiên cứu đặt ra, luận án thực hiện tổng quan các kết quảnghiên cứu liên quan đến hai nội dung chính: một là, các nghiên cứu về
SKSS và tiếp cận dịch vụ chăm sóc SKSS của phụ nữ DTTS, trong đó quantâm đến phụ nữ các dân tộc Tày, Nùng.
1.1.1. Các nghiên cứu về sức khỏe sinh sản của người lao động di
<small>cu và nhóm lao động xun biên giới Việt - TrungCác cơng trình nghiên cứu trong nước</small>
Tháng 12 năm 2003, WHO xuất bản ấn phẩm “Di dân quốc tế, sứckhoẻ và nhân quyền” trong đó chú ý đến tình trạng phổ biến của các nguy
và SKSS đã có ảnh hưởng đến một số nghiên cứu của Việt Nam. Theo đó,WHO nhận định rang nhìn chung người di cư thường có nguy cơ rủi ro về
nhiên, do những rủi ro này là không dé nhận biết nên nhiều người di cu đãkhông tiếp cận hợp lý với các dịch vụ y tế cần thiết. Chăm sóc sức khoẻ là
<small>13</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">một trong số những rủi ro và khó khăn liên quan đến di cư và cần xem xéttrên diện rộng các vấn đề về văn hoá và xã hội của các hành vi có liên quanđến sức khoẻ (Lê Bạch Dương và Khuất Thu Hồng, 2008). Người di cư ít có
sở tại. Khi ốm đau, họ không đến khám chữa ở các cơ sở y té, ma thuong
vấn đề sức khỏe đã lựa chọn đến khám chữa bệnh ở các cơ sở V tẾ, có tới84% phải tự bỏ tiền túi để chỉ trả chỉ phí y tế, thuốc men và 12% là do gia
<small>đình họ chi trả do bản thân người lao động khơng có khả năng thanh toán.Khao sát các trường hợp nam giới ở tỉnh Phu Thọ đi lao động “chul” ở</small>
Trung Quốc, Nguyễn Song (2017) đưa ra con số hơn 70% số người trả lời
khi tình trạng bệnh khơng có chiều hướng khỏi thì họ mới tìm cách chữa tri.Lê Bạch Dương và Khuất Thu Hồng (chủ biên, 2008) cũng chỉ ra rằng, tại
<small>nhóm người di cu tạm thời va di cư dài hạn. Trong khi những người di cư có</small>
đăng ký hộ khẩu thường trú tại thành phố có thể được đưa vào trong các kế
<small>hoạch chăm sóc sức khoẻ của Nhà nước thì những người di cư tạm thời lại</small>
này khơng có BHYT tại địa phương nơi họ cư trú tạm thời. Tuy nhiên, đối
phản ánh được tình hình tiếp cận dịch vu chăm sóc sức khỏe va y tế ở nước
<small>14</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">Trong quá trình di cư (trước khi đi chuyên, trong quá trình di chuyển vàtrung chuyền, hịa nhập ở nơi chuyển đến), sức khỏe của người di cư chịuảnh hưởng của bối cảnh chung về kinh tế, xã hội và môi trường, điều kiệnsong, làm việc và mối liên kết với cộng đồng tại nơi chuyên đến và các yếutố liên quan cá nhân. Nghiên cứu của Trương Hiền Anh (2009) cho rằngkinh tế (thu nhập, tiền gửi về nha), học van va độ tuổi là những yếu tố ảnh
<small>của nữ di cư lao động ở Hà Nội.</small>
Tình trạng sức khoẻ và các hành vi liên quan đến sức khoẻ của ngườidi cư được đánh giá từ nhiều góc độ và trên những chỉ báo cụ thé. Trước hếtlà đánh giá của bản thân người lao động di cư. Xét trên chỉ báo về tình trạngốm đến mức phải nghỉ ít nhất một ngày trong 12 tháng qua, nhóm di cư tam
lẽ liên quan nhiều và bị ảnh hưởng bởi tỷ lệ làm việc cao hơn trong các cơngviệc có tính chất tạm thời, nguy hiểm và độc hại hơn trong khi thời gian làm
<small>khác. Một lý do khác là thường những người di cư tạm thời là những người</small>
<small>lưới xã hội của họ nhỏ hơn so với những người di cư lâu dài (Lê Bạch</small>
Dương và Nguyễn Thanh Liêm, 2011). Tâm lý, tinh thần của người di cưcũng là một chỉ báo sức khoẻ cần đánh giá. Đó là cảm giác mệt mỏi, suy
quan tâm nhất là việc tiếp cận và sử dụng dịch vụ y tế của người di cư. So
là hành vi phổ biến hơn trong nhóm dân số di cư tạm thời. Các tác giả đã
<small>15</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">đưa ra các chỉ báo về sức khoẻ và hành vi liên quan đến sức khoẻ của ngườilao động trên cơ sở phân nhóm đối tượng theo loại hình di cư, chứ chưa đềcập cụ thé đến việc chăm sóc sức khoẻ, trong đó có van đề SKSS của ho.
Quy mô di cư gia tăng đáng kể trong thời gian qua va sự di chuyêndân số cũng làm tăng thêm khả năng lây lan các bệnh lây truyền qua đườngtình dục, đặc biệt đối với nhóm lao động di cư đến sống và làm việc ở
những nơi có nguy cơ phơi nhiễm HIV cao như trung tâm đô thị, khu công
nghiệp, biên giới, cảng biển (Đặng Nguyên Anh, 2006). Lao động di cưthiếu kiến thức phịng tránh các bệnh lây truyền qua đường tình dục và ít cóđiều kiện tiếp cận các dịch vụ y tế công cộng. Cho dù di cư nội địa hayXBG, tự nguyện hay cưỡng bức, làn sóng nảy cũng tạo ra điều kiện và hoàncảnh đặc biệt khiến người di cư dé bị tổn thương và có nguy cơ nhiễm HIV
những gi xảy ra trong cuộc sống khi xa nhà, mà còn thay đổi cả những hành
<small>vi của mình” (Đặng Nguyên Anh, 2006). Nam giới thường có xu hướng</small>
<small>tinh dục ngồi hơn nhân, trong khi đó tỷ lệ sử dung bao cao su của người di</small>
người chủ và kẻ xấu. “Gia đình ở nhà lo lắng nhất cho người di cư là sức
<small>khỏe, thứ hai là tai nạn và rủi ro, thứ ba mới tới thu nhập và việc làm, trong</small>
<small>của người di cư” (Viện Xã hội học, 2009).</small>
Nhiều nghiên cứu nhìn nhận lao động XBG như một hình thức đi cư
<small>16</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">xã hội, người đi cư có thé giảm thiêu những rủi ro khi di chuyên và trongquá trình sinh sống ở nơi họ đến (Đặng Nguyên Anh, 1998). Quan điểmchung là với q trình tồn cầu hố, tiềm năng phát triển kinh tế do tự dotrao đổi thương mại mang lại cũng có thể được áp dụng đối với tự do đi lạicủa con người. Theo một nghiên cứu, “tự do hố lao động di cư XBG có thểmang lại lợi nhuận cao gấp 25 lần so với những lợi ích thu được từ các
toàn xã hội chỉ hỗ trợ chưa tới được 10% dân sé, người di cư càng dé bị ton
<small>đơ thị trong nước hoặc ở nước ngồi. Họ thường phải gánh chịu những rủi</small>
làm việc hay gia tăng nguy cơ lây nhiễm bệnh tật (Lê Bạch Dương và KhuấtThu Hồng chủ biên, 2008).
Lao động XBG là một nhu cầu khách quan, biểu hiện rõ nét nhất củasự phát triển không đồng đều giữa hai vùng lãnh thổ cạnh đường giáp biên.
giới của hai quốc gia là nguyên nhân cơ bản tạo nên dòng lao động đặc thùnay (Tran Quý Long, 2015). Nhu cầu lao động nông-lâm nghiệp của Trung
này, đi làm thuê ở bên kia biên giới được xem là một chiến lược về laođộng, việc làm (Đặng Thị Hoa, 2016) để đối phó với tình trạng thiếu việc
biên. Đối với các DTTS ở biên giới Việt Nam, lao động làm thuê ở TrungQuốc là lựa chọn ưu tiên vì thu nhập cao, địa bàn gần và thành phần dân tộc,
<small>3 Trích theo Lê Bạch Dương và Khuất Thu Hồng (chủ biên, 2008).</small>
<small>17</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">ngôn ngữ tập quán tương đồng, làm các công việc quen thuộc và sống ở
Đính, 2008). Thực tế này phần nào phản ánh tình hình đi chuyên và phân bốdân cư ngày càng phức tạp ở vùng biên. Hoạt động làm thuê ở Trung Quốcmột mặt đem lại hiệu quả kinh té tức thi, nhung an chứa nhiều hệ lụy tiêu
của dân cư vùng biên (Nguyễn Văn Minh, 2019).
Nghiên cứu ở các tỉnh biên giới gồm Lạng Sơn, Cao Bằng, Hà Giang,Nghệ An, Kon Tum, Trần Thị Hồng (2015) phát hiện rằng, tình trạng đi làm
việc ở Trung Quốc diễn ra phổ biến hơn so với hai nước láng giềng khác làLào, Campuchia. Điều này được lý giải bởi sức hút của sự phát triển kinh tếở bên kia biên giới và mối quan hệ đồng tộc từ trong lịch sử của cộng đồng
2008). Người DTTS ở vùng biên đã đi sâu vào nội địa Trung Quốc từ vàichục đến hang trăm km dé làm thuê cho chủ người Trung Quốc với những
<small>môi giới lao động hoặc tự đi (Bùi Xuân Đính, 2008).</small>
Người Tày, Nùng bắt đầu đi làm thuê bên Trung Quốc từ năm 1999
<small>nâng cao thu nhập của người dân” (Phạm Thị Thu Hà, 2013). Những lao</small>
động XBG thường đi làm theo thời vụ, nhất là sau thu hoạch mùa màng, có
<small>18</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">Bản Thau (xã Tân Thanh, huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn) của Phạm ThịThu Hà (2013) cho thấy, địa điểm người lao động đến làm thuê ở TrungQuốc chủ yếu là Pò Chải (Bằng Tường) hoặc đi sâu vào những vùng nội địanhư Nam Ninh, Phúc Kiến, Chiết Giang. Họ tham gia các hoạt động nôngnghiệp (trồng và thu hoạch mía, sản pham từ rừng, bốc vác bến tau, xe, làmxây dựng, làm trong các nhà xưởng). Đánh giá của tác giả đối với hoạt động
phương. Ngồi ra, lao động XBG cịn góp phần dẫn đến những biến đổitrong văn hoá — xã hội tộc người (sự thay đổi về nhà cửa, trang phục, ngơnngữ, quan hệ ứng xử trong gia đình, dịng họ, làng bản, xuất hiện tệ nạn xã
Một số nghiên cứu cho rằng, việc qua lại biên giới quốc gia trong
<small>thậm chí được tăng cường hơn trong giai đoạn hiện nay (Lý Hành Sơn,</small>
2014). Tuy nhiên, vấn đề được các nghiên cứu đặt ra cảnh báo là tình trạngđi sang biên giới làm việc hoàn toàn tự phát, trái phép. Họ chủ yếu làm các
<small>là 51,2% — 48,4% (Uy ban dân tộc, 2017). Tuy nhiên, chỉ 6,2% lao độngDTTS có việc làm đã qua đào tạo, trong đó lao động nam đã được đào tạo</small>
nhiều hơn lao động nữ. Những khó khăn trong tìm kiếm việc làm cũng làmột trong những nguyên nhân để phụ nữ tham gia thị trường lao động
<small>khơng chính thức ở bên kia biên giới. Việc đi lao động XBG của phụ nữ đặt</small>
là nạn nhân cua tinh trạng xâm hại tình duc, bi bắt cóc hoặc bn bán người(Trần Q Long, 2015). Một trong những hạn chế của nghiên cứu lao động
<small>XBG, theo nhóm tác giả Vũ Trường Giang (2018) là việc xem xét và giải</small>
<small>19</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">quyết mối quan hệ tộc người và liên tộc người trong quan hệ di cư XBG
va thé chế nhà nước. “Trao đổi mau dich, văn hóa, hơn nhân và các quan hệdân sự khác giữa hai bên đường biên đang thay đổi nhanh chóng” (NguyễnVăn Chính, 2019). Tuy nhiên, những ảnh hưởng đến sức khoẻ và chăm sóc<small>sức khỏe, trong đó có SKSS, của lao động XBG chưa được các tác giả quan</small>
<small>Các cơng trình nghiên cứu của nước ngoài.</small>
cứu của các học giả nước ngoài. Nhiều học giả quan tâm đến van dé sinh ké,
chung đều cho răng các hoạt động thương mại và buôn bán ở biên giới Việt
<small>— Trung trở nên sôi động từ khoảng hai thập niên trở lại đây. Cùng với đó,</small>
và buôn bán người, vấn đề giới và hôn nhân XBG. Yuk Wah Chan (2013)thực hiện nghiên cứu ở Lào Cai và cho rằng thay vì tập trung vào các con số
<small>các hoạt động khu vực biên giới từ việc phân tích mạng lưới thương nhân</small>
các thời kỳ lịch sử như: thời Pháp thuộc, chiến tranh chống Mỹ, chiến tranhbiên giới, thời kỳ Đổi mới. Cho đến hôm nay, hoạt động sinh kế xuyên quốcgia đem lại nhiều cơ hội và cũng nhiều rủi ro. Điển hình cho hoạt động bn
những thách thức mưu sinh khi ở “bên lề”, bằng sự thận trọng tham gia và
<small>thích nghi với những vân đê hiện đại. Tác giả cho răng, việc mở cửa biên</small>
<small>20</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">giới giữa hai quốc gia đã làm đa dạng hơn rất nhiều hoạt động sinh kế biên
<small>giới cũng như gia tăng sự hội nhập của các DTTS vào việc xây dựng, thực</small>
hiện các quy định của Nhà nước. Trong nghiên cứu XBG, không thé phủnhận ảnh hưởng của đường biên giới chính trị đối với đường biên giới sinh
tìm hiểu trong bối cảnh văn hóa phức tạp, đan xen ở các khu vực cao
tác giả, các quyết định lựa chọn sinh kế của các tộc người vùng biên chịuảnh hưởng của phong tục tập quán, mối quan hệ dòng họ, làng bản và thựctế an sinh xã hội.
Tiếp theo nhận định kết hôn XBG trở thành một chiến lược sống của
<small>cư dân vùng biên của Yuk Wah Chan (2013), nhóm tác giả Liang Maochun</small>
khơng trục xuất, mặc dù đây là hoạt động bất hợp pháp. Ở Trung Quốc, đặcbiệt khu vực nông thôn, miễn núi, nam giới ngày càng ít cơ hội kết hơn do
Đơng Nhiệm, 2005). Tuy nhiên, các hoạt động di cư XBG trái phép vẫn tiếptục xảy ra cho dù có sự cam đốn, khơng chỉ xuất phát từ tương đồng văn
Chính phủ Trung Quốc và Việt Nam chưa thiết lập được sự hợp tác phù hợp
(bất hợp pháp) và hợp pháp nhưng khơng có tổ chức ngày càng tăng (Nelyn
<small>21</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">khâu Tân Thanh, huyện Văn Lãng và cửa khâu Đồng Đăng, huyện Cao
<small>Lộc), Donald Hickerson (2012) đã phân loại các hình thức di cư XBG ở</small>
Lạng Sơn gồm: đi lại qua biên giới hàng ngày, di cư hợp pháp, di cư bất hợppháp. Từ đó, tác giả có các phân tích về mạng lưới di cư XBG từ góc độ vốn
<small>xã hội, mạng lưới xã hội.</small>
phương thức di cư XBG, mối quan hệ qua lại, thu nhập và đời sống của họtại địa điểm làm việc. Theo đó, mặc dù được trả tiền cơng ít hơn so vớingười địa phương, nhưng nữ lao động Việt Nam không đòi hỏi về điều kiệnăn ở, làm việc, mà còn rất vui vẻ tham gia các sự kiện văn hóa dân tộc ngaytại các làng bản Trung Quốc nơi họ đến làm. Có thé nói, sự “đồng cảm văn
định này, Tần Hong Tang và các cộng sự (2012) cho rằng nguyên nhân căn
Trung chính là mối quan hệ qua lại trong thời gian dài của cư dân biên giớihai nước mà hình thành nên tính “dung hợp” lẫn nhau về văn hóa.
Trong khi đó, Hà Hữu Lương, Trần Yến Lệ (2019) nhìn nhận vấn đề
<small>giới. Theo các tác giả, người lao động phi pháp Việt Nam vào khu vực biên</small>giới Quảng Tây làm cơng việc chặt mía mang tính thời vụ bắt đầu xuất hiệntừ sớm sau khi mở cửa biên giới Trung-Việt cuối thập niên 90 của thé ky
vùng biên giới. Vì vậy, cần có những chính sách phù hợp dé tạo điều kiện
<small>* Trích theo Vĩ Phúc An (2014).Š Trích theo Vĩ Phúc An (2014).</small>
<small>22</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">làm việc hợp pháp cho lao động Việt Nam, đồng thời đảm bảo công việccho lao động Trung Quốc.
Qua các nghiên cứu của học giả nước ngồi, có thé thấy rằng chủ désinh kế, hôn nhân, mạng lưới xã hội khu vực biên giới Việt - Trung thu hútnhiều mối quan tâm nhất. Các học giả cho rằng lao động XBG như mộtchiến lược sinh kế và qua đó làm rõ bản sắc văn hóa, quan hệ với Nhà nước,
thiếu văng cơng trình hoặc nhắc đến một cách mờ nhạt về đời sống của
<small>người lao động Việt Nam khi làm việc ở bên kia biên giới, những khó khan,</small>
những nhu cau và quyên lợi của họ. Trong đó, van dé sức khỏe va có nhữngrủi ro về SKSS của các lao động Việt Nam hoàn toàn chưa được đề cập.
thiểu số ở Việt Nam
quốc (UNFPA, 2010a) đã thực hiện rà soát 58 nghiên cứu thực hiện trongcác năm từ 2000 đến 2007. Đánh giá chung cho thấy, đa phần các nghiên
nghiên cứu chọn nam giới, còn các nghiên cứu khác đều chọn nữ giới là đốitượng đích. Nam giới chỉ tham gia như là đối tượng phụ trong vai trò củacác trưởng bản, già làng, cán bộ y tế. Xét về độ ti của đối tượng tham gia
làm mẹ an toàn, KHHGD, sức khoẻ tinh dục và NKQDTD, hệ thống y té va
phan các nghiên cứu đều tìm mối liên quan giữa các yếu tố tác động với vanđề nghiên cứu (82,8%) hoặc đơn thuần mô tả về kiến thức-thái độ-hành vi
<small>23</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">(13,8%) (UNFPA, 2010a, tr. 5). Tổng hợp qua các nghiên cứu, UNFPA(2010a) cho rằng kiến thức về các bệnh NKĐSS của đại đa số phụ nữ đồng
cá nhân (kiến thức, thông tin, ngôn ngữ), yếu tổ môi trường kinh tế - xã hội
Chăm sóc SKSS cho người DTTS là một trong những trọng tâm hỗ
trợ của Chương trình quốc gia 7 (2006-2010)” của Quỹ Dân số Liên hợpquốc hợp tác với Việt Nam. Theo UNFPA (2010b), các DTTS sống tập
và trình độ phát triển. Đối với lĩnh vực chăm sóc sức khỏe nói chung vàSKSS nói riêng cho các DTTS, Chính phủ, Bộ Y tế và các bộ, ngành chức
được cải thiện, nâng cao rõ rệt. Tuy nhiên, thực trạng về SKSS của cácDTTS ở nhiều vùng núi cao vẫn còn nhiều van dé, thé hiện ở những chỉ sốtử vong mẹ, tử vong sơ sinh và trẻ em, mắc HIV, phá thai và mức sinh... so
phương pháp (UNFPA, 2010b). Công tác truyền thông chưa chú trọng đến
những ngày lễ hội, chợ phiên... để tổ chức các hoạt động tuyên truyền
<small>Š Nghiên cứu ở Cao Bằng</small>
<small>7 Mục đích của chương trình quốc gia 7 (CP7) của UNFPA (2006-2010) là góp phan tăng cường chấtlượng cuộc sống cho mọi người dân Việt Nam, tập trung chủ yếu vào người chưa có gia đình, cộng đồng</small>
<small>DTTS ở vùng khó khăn, những người di cư, bà mẹ và trẻ sơ sinh, đưa các chính sách vào triển khai thực hiện</small>
<small>tới tuyến cơ sở (tuyến xã).</small>
<small>24</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">truyền thơng phổ biến là thơng tin về làm mẹ an toàn, KHHGĐ; nội dung itđược chú ý tuyên truyền là phòng tránh các bệnh NKQDTD và HIV, thơngtin về nạo phá thai va chăm sóc sau nạo pha thai. Đối với việc tiếp cận dịch
của địa phương. Do đó, hạn chế chủ yếu của đội y tế lưu động huyện là dịchvụ không thường xuyên và chưa thực sự gần với người DTTS.
Chăm sóc SKSS là một phần quan trọng trong chính sách y tế nóiriêng và chính sách với người DTTS nói chung vi van dé này có liên quanmật thiết đến sức khỏe trẻ em và hiệu quả xóa đói giảm nghèo. Những chỉ
phô biến, khoảng 36%, tuy nhiên Tay và Nùng năm trong nhóm các dân tộc
<small>BPTT hiện đại nào, tỷ lệ này tương ứng ở dân tộc Nùng là 20% và Tày22%.</small>
nhìn nhận là một thách thức với việc phát triển các dịch vụ y té tai day. Mac
quốc gia (Bộ Y tế, Niên giám thống kê Y tế, 1997), nhưng khả năng cung
<small>25</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">thiếu cán bộ, khơng có điều kiện nâng cao nghiệp vụ chun môn, khôngđảm bảo vệ sinh, cán bộ y tế là người DTTS hoặc cán bộ y tế là nữ có tỷ lệthấp... Theo Điều tra mức sống dân cư Việt Nam 1997-1998, người nghèoít sử dụng dịch vụ y tế hơn người giàu; người Kinh có mức độ sử dụng dịch
sử dụng dịch vụ khám chữa bệnh và bán thuốc tư nhân nhiều hơn, ở cả vùngnúi và đồng bằng. Đây là điểm mới trong việc tiếp cận dịch vụ y tế củangười dân nói chung, cũng như người DTTS khu vực miền núi nói riêng.
Số liệu điều tra dân số và nhà ở Việt Nam năm 2009 của Tổng cục
<small>sử dụng các BPTT nói chung và BPTT hiện đại cao, dam bảo mức sinh thay</small>
sử dụng là phụ nữ; (2) SKSS bị tôn thương va đang đứng trước những thách
đề dân số - KHHGĐ nghiêm trọng (Nguyễn Bảo Đồng, Đào Quang Vinh,
vụ y tế lại thấp hơn so với những vùng khác và 20% người dân tự điều trị
phương pháp chữa bệnh dân gian, y học cơ truyền dé chữa bệnh. Có nhiềutrường hợp kết hợp cả hai phương pháp y học hiện đại và y học cổ truyền.
<small>26</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">Đề phân tích sự cơng bằng trong tiếp cận/sử dụng các dịch vụ y tẾ,
<small>Nguyễn Duy Khuê (2004) đã trích dẫn 3 nhóm phân loại của học giả</small>
tế. Đó là: (1) Nhu cầu, bao gồm tình trạng sức khoẻ, cảm nhận của cá nhân
nghề nghiệp, đó là những vấn đề liên quan đến thái độ, giá trị và kiến thức
thống chăm sóc sức khoẻ (như chỉ phí, thiếu bác sỹ) cũng ảnh hưởng đếncác tiếp cận tiềm năng. Nghiên cứu cụ thé ở huyện Ba Vi, nơi tập trung 3
<small>nội trú và ngoại trú) là 1.899.000 VND với dân tộc Tay và 3.749.000 VND</small>
với dân tộc Nùng, so với con số tương ứng 2.193.000 VND trung bình khu
phương diện nào đó cũng thể hiện tỷ lệ người DTTS đến các cơ sở y tế để
<small>27</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32">khám chữa bệnh. Tỷ lệ thấp trong khi các số liệu về tình trạng sức khỏe,
tìm hiểu. “Phần lớn người DTTS nghèo và ở vùng sâu có thẻ BHYT miễnphí, tuy nhiên gánh nặng tài chính của một số dịch vụ/thuốc không nằmtrong danh mục chỉ trả của bảo hiểm đã hạn chế người DTTS nghèo hưởng
việc tiếp cận va sử dụng dịch vụ y tế cần cải thiện cơ chế trao đôi thông tintrực tiếp giữa người dân và chính quyền địa phương trong việc đáp ứng nhu
Hệ thống cung cấp dịch vụ SKSS/KHHGĐ ở khu vực miền núi, vùngsâu vùng xa chưa đảm bảo về tính thuận tiện, an tồn, đa dạng và chất lượng
kinh tế cũng như tập quán văn hoá sẽ tạo nên những đặc điểm sinh sản khác
khẳng định: “Trong SKSS có một số khía cạnh xã hội mà Việt Nam chưa đề
hội nhạy cảm và phụ thuộc nhiều vào truyền thống văn hố dân tộc, mơi
<small>® CARE là tổ chức nhân đạo quốc tế chống đói nghèo tồn cầu và cứu trợ khan cấp.? Trích theo Hồng Thị Miên (2004).</small>
<small>28</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33"><small>phong tục tập quán trong hôn nhân, chăm sóc trước/sau sinh, các quan niệm</small>
đến sự tham gia của người chồng đối với việc chăm sóc sức khoẻ người vợđang mang thai là trình độ học vấn và độ ti (Phạm Thu Hà, 2013). Người
<small>động chăm sóc SKSS nói chung.</small>
Các nghiên cứu về van dé sức khỏe và chăm sóc sức khỏe phụ nữ các
<small>dán tộc Tày, Nùng.</small>
Nghiên cứu về dân tộc Tày, Nùng ở Việt Nam có những cơng trình
<small>Nam” (La Văn Lô, Đặng Nghiêm Van, 1968), “Văn hóa Tay — Nùng” (HàVăn Thư, Lã Văn Lơ, 1984), “Các dân tộc Tày, Nùng ở Việt Nam” (ViệnDân tộc học, 1992), “Dân tộc Nùng ở Việt Nam” (Hoàng Nam, 1992).</small>
khía cạnh liên quan đến chăm sóc sức khỏe nói chung và chăm sóc SKSSnói riêng. Các cơng trình nghiên cứu về dân tộc Tày, Nùng cịn hạn chế
<small>trong miêu ta, phân tích những nhận thức, quan niệm, thực hành của người</small>
Miên, 2004; Vi Văn An, 2006; Nguyễn Hữu Phương, 2007). Còn quan niệm
tơn giáo — tín ngưỡng. Trong niềm tin của mình, người Tay, Nùng phân biệt
<small>! Trích theo Hồng Thị Miên (2004).</small>
<small>29</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34"><small>Đặng Nghiêm Vạn, 1968; Hà Văn Thư, Lã Văn Lơ 1984). Chính quan niệm</small>
này làm nảy sinh nghề cúng bái trong dân gian nhằm đuôi ma, trừ tà, giải
rằng đau 6m là do hôn lia xác hoặc một siêu nhiên nhập vào xác, đánh đuổihay xúc phạm đến hồn (Viện Dân tộc học, 1992). Các cơng trình trên đây đãcó những đóng góp quan trọng trong nghiên cứu về chăm sóc sức khỏe
tục tập qn, hơn nhân gia đình, nghi lễ vịng đời...
Trong những năm gần đây, nghiên cứu về sức khỏe và chăm sóc sức
đổi của hoạt động chăm sóc sức khỏe ba mẹ và trẻ em trong bối cảnh cơngnghiệp hóa, hiện đại hóa cũng đã bước đầu được quan tâm (Hoàng Thị Lê
Có thê thấy, các nghiên cứu vấn đề sức khỏe và chăm sóc sức khỏe
<small>dân tộc Tày, Nùng nói chung và ở huyện Văn Quan nói riêng vẫn đang tập</small>
quán). Nội dung y tế - sức khỏe được lồng ghép trong các nghiên cứu hoặcđược tiếp cận theo hướng tri thức địa phương, phong tục tập quán và bước
khai thác các nội dung khác trong hoạt động chăm sóc sức khỏe và trong kếtnối với các van dé kinh tế - xã hội hiện nay. Vi vậy, tôi thấy rang cần có sựbồ khuyết bằng việc nghiên cứu đi sâu nội dung SKSS và hướng đến nhóm
<small>30</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35"><small>1.2. Các khái niệm nghiên cứu1.2.1. Sức khoẻ sinh sản</small>
Tại hội nghị Y tế Quốc tế (New York, 1946), Tổ chức Y tế thế giớiWHO đã định nghĩa “Sức khỏe là tình trạng hồn toàn khỏe mạnh về thêchất, tinh thần và xã hội chứ khơng phải chỉ là tình trạng khơng có bệnh tật
phát triển (ICPD)'" đã thơng qua Chương trình hành động, trong đó Chương
<small>VII đã đưa ra định nghĩa: “Sức khoẻ sinh sản là trạng thai khoẻ mạnh hoàn</small>
cho nam và nữ bao gồm cả vị thành niên ở tất cả các nơi, khả năng điều hoàsinh sản của họ một cách an tồn và có hiệu quả; có thai lúc nào họ muốn, có
<small>thai an tồn, mang thai đủ tháng, khơng có bệnh tật, tàn tật hoặc tử vong liên</small>
quan đến sinh sản hay tinh dục và nuôi dưỡng trẻ em” (Hoàng Thị Miên,
Sau hội nghị Cairo (1994), Việt Nam nỗ lực thực hiện các chương
KHHGĐ: tạo điều kiện cho các Cặp vợ chồng và cá nhân quyết định một
<small>cách tự do và có trách nhiệm về sơ con và khoảng cách giữa các lân sinh;</small>
<small>!! Tổ chức năm 1994 tại Cai-rô (Ai Cập) với sự tham gia của 179 quốc gia, trong đó có Việt Nam.</small>
<small>31</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36"><small>(3) Nạo hút thai: ngăn ngừa nạo hút thai thông qua dịch vụ KHHGĐ mở</small>
rộng, nạo thai an toàn và quản lý các biến chứng của nạo thai; (4) Các bệnh
dung hành động của chương trình SKSS rất rộng. Từ thực tế khảo sát tại địa
<small>bàn nghiên cứu, luận án tập trung vào các nội dung: KHHGD, làm mẹ an</small>
toàn, các bệnh viêm nhiễm phụ khoa.
<small>1.2.2. Chăm sóc sức khỏe sinh sản</small>
<small>“Chăm sóc sức khỏe sinh sản là một tập hợp các phương pháp, kỹ</small>
thuật và dịch vụ nhằm giúp cho con người có tình trạng sức khỏe sinh sảnkhỏe mạnh thơng qua việc phòng chống và giải quyết những vấn đề liênquan đến sức khỏe sinh sản” (Lê Huy Tuan, 2020). Nói cách khác, chăm sóc
<small>bạn, tình yêu, hơn nhân, gia đình, sinh đẻ và chăm sóc con cái; bệnh tật,</small>
nhất là các bệnh NKQDTD. Về thé chất, bộ máy sinh sản phải được bình
người có sự thoải mái, hài lịng, khơng lo lắng liên quan đến bộ máy sinhsản. Về đời sống xã hội, mỗi người phải được xã hội tôn trọng và đối xửcông băng về các quyên sinh sản và tinh dục. Có thé thấy, mục đích củachăm sóc SKSS là nâng cao chất lượng cuộc sống và mối quan hệ giữa conngười với con người mà không chỉ dừng lại ở chăm sóc y tế và tư vấn một
Thực tế hiện nay, sự phát triển kinh tế - xã hội địi hỏi nhu cầu chăm
<small>nữ khơng chỉ khn hẹp trong góc độ y học. Bởi vì, nhu câu sức khoẻ của</small>
<small>32</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37">phụ nữ rất đa dạng, không chỉ giới hạn trong độ tuổi sinh sản (15-49 tuổi).SKSS của phụ nữ có liên quan và chịu tác động của nhiều yếu tố: nghềnghiệp, tình cảm và tinh thần, bạo lực gia đình, tệ nạn xã hội (mại dâm,bn bán phụ nữ...), các định kiến xã hội - văn hoá... Như vậy, SKSS cóliên quan đến nhiều vấn đề xã hội. Việc chăm sóc SKSS của phụ nữ cần
<small>được mở rộng khơng chỉ ở góc độ sinh học mà cịn đặt trong tương quan các</small>
<small>1.2.3. Lao động xuyên biên giới</small>
<small>Theo IMO, người lao động XBG là những người có hoặc khơng có</small>
dia ban làm việc có định. Họ thường thay đổi noi làm, nơi ở, di chuyển giữanhiều địa điểm để đảm bảo khả năng thu nhập tốt hơn và để trốn tránh
<small>Theo phân loại của Viện Khoa học lao động và xã hội (2013), các di</small>
<small>Theo phân loại của Bùi Xuân Đính, Nguyễn Ngọc Thanh (chủ biên,</small>
khâu, đi làm ăn xa (làm thuê nông nghiệp). Theo các tác giả, “đi làm ăn xa”là khái niệm chỉ những người vì nhiều lý do khác nhau phải đời quê hươngđể mưu sinh tại các địa phương (cả ở trong nước và ngồi nước), bằng cáccơng việc khác nhau với thời gian đài ngày; một thời gian lại trở về nghỉ ngơi,
Trên cơ sở tham khảo các cơng trình nghiên cứu và thực tế khảo sát,chúng tôi tiếp cận hoạt động lao động XBG của phụ nữ các dân tộc Tày,Ning ở huyện Văn Quan là việc làm thuê ở Trung Quốc mỗi dot tối thiêu từ
<small>33</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38">một tuần trở lên, xuất cảnh khơng có giấy thơng hành hoặc có giấy thơnghành nhưng không đảm bảo đầy đủ pháp lý, không được tổ chức bởi các
<small>đơn vị hợp pháp. Người lao động tham gia hoạt động lao động XBG mà</small>
khơng có hợp đồng lao động, không thuộc phạm vi điều chỉnh của LuậtNgười lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng (2006).
<small>hàng hóa, bn bán người, bn lậu, mại dâm, môi giới, phiên dịch, cửu</small>
Đề nghiên cứu vẫn đề chăm sóc SKSS của phụ nữ dân tộc Tày, Nùng
thành một phân ngành riêng, gọi là NHYT. Thuật ngữ “Nhân học y tế”
<small>II, nhưng mãi tới sau những năm 1970, thuật ngữ này mới được sử dụng</small>
rộng rãi. NHYT tìm hiểu về cách thức mọi người ở những nền văn hóa khácnhau và những nhóm xã hội khác nhau giải thích về ngun nhân của tìnhtrạng sức khỏe, cách thức điều trị mà họ tin tưởng và người mà họ tìm đếnkhi 6m đau, bệnh tật. Đồng thoi, NHYT cũng nghiên cứu những niềm tin vàthực hành đó có liên quan đến những thay đổi về thé chất và tâm lý của con
<small>người, ở cả góc độ sức khỏe va bệnh tật (Helman, 1990). NHYT được coi là“một ngành van hoá — sinh học (“bio-cultural discipline”) quan tâm tới cảkhía cạnh sinh học và văn hoá — xã hội của ứng xử con người và những cách</small>
<small>mà các nhân tô này tương tác với nhau, ảnh hưởng tới sức khoẻ và bệnh tật</small>
<small>34</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 39</span><div class="page_container" data-page="39">NHYT không chỉ đặc trưng bởi một lý thuyết duy nhất (Thomas
phạm vi và mục tiêu nghiên cứu đã đưa ra, luận án sử dụng các lý thuyết và
1.3.1.1. Ly thuyết và cách tiếp cận diễn giải văn hoá
nghiên cứu của ông về hiện tượng nuôi ga chọi ở Ba-li (Indonesia) và được
<small>thực nghiệm di tìm quy luật mà là một khoa học giải thích đi tìm ý nghĩa.</small>
của họ về các sự kiện và các vật xung quanh. Vì vậy, nghiên cứu nhân họckhông phải là một sự mô tả hời hợt, chỉ nghiên cứu những biểu hiện bênngồi có thể quan sát được của các hiện tượng văn hoá xã hội, mà là một sựmơ tả sâu, nghiên cứu để tìm ra ý nghĩa của các hiện tượng quan sát được.Đối với các nhà nhân học, vẫn đề về sức khỏe, đau ốm hay bệnh tật chỉ có
hóa là một phần của khả năng chỉ ra những vấn đề của người bệnh thơng qua
<small>" Trích theo Đặng Vũ Trung và cộng sự (2003).</small>
<small>3 Trích theo Nguyễn Văn Thắng, Hồng Lương (2010).</small>
<small>35</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 40</span><div class="page_container" data-page="40">các nhìn nhận về kinh tế, chính trị và các yếu tố xã hội có ảnh hưởng đến tình
<small>trang sức khỏe, hành vi sức khỏe (Winkelman, 2009).</small>
Các nghiên cứu về chủ đề sức khỏe sử dụng cách tiếp cận diễn giảivăn hóa dé giải thích ý nghĩa của hành vi, cách ứng xử liên quan tới bệnhtật, sức khỏe và chăm sóc sức khỏe theo quan điểm của những người dân địa
<small>hóa khác nhau suy nghĩ, ứng xử với bệnh tật, nguyên nhân gây bệnh cũng</small>
như cách họ tô chức xã hội của mình nhằm phịng chống bệnh tật” (Fabrega,
<small>phụ nữ, trẻ em.</small>
<small>hệ văn hóa đa ngun (xem Hình 1.1). A. Kleiman (1978) đưa ra mơ hình hệ</small>
chính thống (chun mơn), y học phơ thơng (thường thức).