Tải bản đầy đủ (.pdf) (232 trang)

Luận án tiến sĩ Lịch sử: Chăm sóc sức khỏe sinh sản của phụ nữ các dân tộc Tày, Nùng ở huyện Văn Quan, tỉnh Lạng Sơn trong lao động xuyên biên giới Việt Nam – Trung Quốc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (61.59 MB, 232 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

HOÀNG THỊ LÊ THẢO

CHAM SOC SỨC KHỎE SINH SAN CUA PHU NU’

CAC DAN TOC TAY, NUNG O HUYEN VAN QUAN, TINH LANG SONTRONG LAO ĐỘNG XUYEN BIEN GIỚI VIET NAM- TRUNG QUOC

LUẬN AN TIEN SY LICH SỬ

<small>Hà Nội - 2022</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

HOÀNG THỊ LÊ THẢO

CHAM SOC SỨC KHỎE SINH SAN CUA PHU NU’

CAC DAN TOC TAY, NUNG O HUYEN VAN QUAN, TINH LANG SONTRONG LAO ĐỘNG XUYEN BIEN GIỚI VIET NAM- TRUNG QUOC

<small>Chuyên ngành : Dân tộc hoc</small>

Mã số : 62 31 03 10

LUẬN ÁN TIEN SY LICH SỬ

NGƯỜI HƯỚNG DAN KHOA HỌC:

<small>1.PGS. TS. Lâm Bá Nam</small>

<small>2. PGS. TS. Vương Xuân Tình</small>

<small>Hà Nội - 2022</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

LỜI CAM ĐOAN

<small>Tôi xin cam đoan luận án tiến sỹ Lịch sử, chuyên ngành Dân tộc học, vớiđề tài “Chăm sóc sức khỏe sinh sản của phụ nữ các dân tộc Tày, Nùng ở</small>

<small>huyện Văn Quan, tỉnh Lạng Sơn trong lao động xuyên biên giới Việt Nam —</small>

<small>Trung Quốc” là cơng trình nghiên cứu của tơi dưới sự hướng dẫn khoa học củaPGS. TS. Lâm Bá Nam và PGS. TS. Vương Xuân Tình. Các số liệu, kết quả nêutrong luận án là trung thực và chưa từng được ai cơng bố trong bất kỳ cơng trình</small>

<small>nào khác. Những quan điểm mà luận án kế thừa của các nhà nghiên cứu đi trước</small>

<small>đều được trích dẫn nguồn chính xác, cụ thé.</small>

<small>Hà Nội ngày tháng năm 2022</small>

<small>Nghiên cứu sinh</small>

<small>Hoàng Thị Lê Thảo</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

LỜI CẢM ƠN

<small>Trong q trình thực hiện và hồn thiện luận án “Chăm sóc sức khỏe sinh</small>

<small>sản của phụ nữ các dân tộc Tày, Nùng ở huyện Văn Quan, tỉnh Lạng Sơn</small>

<small>trong lao động xuyên biên giới Việt Nam — Trung Quốc”, tôi đã nhận được rất</small>

<small>nhiều sự giúp đỡ từ các cơ quan, tập thê và cá nhân.</small>

<small>Trước hết, tôi xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ và tin tưởng chia sẻ củangười dân huyện Văn Quan về chủ đề nghiên cứu của luận án. Tôi rất cảm ơnUBND huyện Văn Quan, Phịng Y tế, Phịng Văn hố, Phịng Lao động thươngbinh va xã hội, Công an huyện Văn Quan và UBND các xã, trạm y tế các xã đã tạođiều kiện thuận lợi cho tôi trên thực địa.</small>

<small>Tôi xin bày tỏ lời cảm ơn sâu sắc đến Lãnh đạo Viện Dân tộc học và các</small>

<small>đồng nghiệp đã tạo điều kiện cả về thời gian và mọi nguồn lực để tôi có thể theo</small>

<small>đi và hồn thành chương trình học tập nghiên cứu sinh.</small>

<small>Tôi cũng rất cảm ơn các thầy cô giáo trong khoa Nhân học (trường đại họcKhoa học Xã hội và Nhân văn, Hà Nội) đã truyền thụ kiến thức và nhiệt tình traođổi, góp ý khoa học dé tơi có thé từng bước xây dựng và phát triển các ý tưởng cho</small>

<small>nghiên cứu của mình.</small>

<small>Đặc biệt, tơi xin gửi lời cảm ơn và kính trọng sâu sắc đến PGS. TS. Lâm Bá</small>

<small>Nam, PGS. TS. Vương Xuân Tình là những người thầy trực tiếp hướng dẫn khoa</small>

<small>học từ những ngày đầu tìm van đề nghiên cứu đến khi tơi hoàn thành luận án này.</small>

<small>Nguồn tri thức dồi dao và sự nhiệt tình chỉ dạy của các thầy đã bồi đắp cho tôi từnhững định hướng ban đầu đến phương pháp triển khai trên thực địa và cả quátrình xây dựng, hoàn thiện bản thảo luận án. Đồng thời, sự tin tưởng và tận tâmcủa các thầy là nguồn động lực to lớn cho tơi kiên trì hồn thành luận án cũng nhưbước tiếp trên con đường nghiên cứu sau này.</small>

<small>Luận án không chỉ là kết quả nghiên cứu khoa học, mà cịn là q trình chotdi tiép nhan va duoc tiép sức rất nhiều từ tinh cảm và sự ủng hộ, động viên của</small>

<small>gia đình, bạn bè, đồng nghiệp.</small>

<small>Tơi xin gửi lời cảm ơn chân thành và trân trong!</small>

<small>Hà Nội, ngày tháng nam 2022</small>

<small>Nghiên cứu sinh</small>

<small>Hoàng Thị Lê Thảo</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

<small>MỤC LỤC</small>

<small>DANH MỤC CHỮ VIET TAT</small>

<small>DANH MỤC CÁC HÌNH, BANG, BIEU DOMỞ ĐẦU</small>

<small>1. Lý do lựa chọn đề tài</small>

<small>2. Mục tiêu nghiên cứu</small>

<small>3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu</small>

<small>4.Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài</small>

<small>5. Bố cục của luận án</small>

<small>CHƯƠNG 1</small>

<small>TONG QUAN VAN DE NGHIÊN CỨU,</small>

<small>CO SO LY THUYET VA PHUONG PHAP NGHIEN CUU</small>

<small>1.1. Tổng quan vấn dénghién cứu</small>

<small>1.1.1. Các nghiên cứu về sức khỏe sinh sản của người lao động di cưvà nhóm lao động xuyên biên giới Việt - Trung</small>

<small>1.1.2. Nghiên cứu về sức khỏe sinh sản của phụ nữ dân tộc thiểu số ởViệt Nam</small>

<small>1.2. Các khái niệm nghiên cứu1.2.1. Sức khỏe sinh sản</small>

<small>1.2.2. Chăm sóc sức khỏe sinh sản</small>

<small>1.2.3. Lao động xuyên biên giới</small>

<small>1.3. Cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu</small>

<small>1.3.1. Cơ sở lý thuyết và cách tiếp cận trong nhân học y tế</small>

<small>1.3.2. Cơ sở lý thuyết, cách tiếp cận vấn đề di cư — sức khỏe1.3.3. Giả thuyết khoa học</small>

<small>1.3.4. Phương pháp nghiên cứu</small>

<small>Tiểu kết chương 1</small>

own nN NO Ss

<small>1012</small>

<small>50</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

<small>CHƯƠNG 2</small>

<small>DIEU KIỆN KINH TE - XÃ HOI</small>

<small>VÀ BOI CANH LAO ĐỘNG XUYEN BIEN GIỚI</small>

<small>Ở HUYỆN VĂN QUAN, TỈNH LẠNG SƠN2.1. Khái quát điều kiện kinh tế - xã hội của huyện Văn Quan</small>

<small>2.1.1. Đặc điểm địa lý — tự nhiên</small>

<small>2.1.2. Dân cư - dân tộc</small>

<small>2.1.3. Đặc điểm kinh tế - xã hội</small>

<small>2.2. Khái quát về các dân tộc Tày, Nùng ở huyện Văn Quan</small>

<small>2.2.1. Đặc điểm kinh tế - xã hội của các dân tộc Tày, Nùng</small>

<small>2.2.2. Đặc điểm nhân khẩu, kinh tế - xã hội và sức khỏe sinh sản, laođộng xuyên biên giới của phụ nữ Tay, Ning được nghiên cứu trong</small>

<small>luận án</small>

<small>2.3. Tình hình lao động-việc làm và lao động xuyên biên giới ở huyện</small>

<small>Văn Quan</small>

<small>2.3.1. Tình hình lao động-việc làm</small>

<small>2.3.2. Hoạt động xuất cảnh trái phép sang Trung Quốc</small>

<small>2.3.3. Một số yêu tố thúc đây phụ nữ các dân tộc Tày, Nùng tham gialao động xuyên biên giới</small>

<small>2.3.4. Một số yêu tố hạn chế khi lao động xuyên biên giới trái phép2.3.5. Mạng lưới và tô chức của hoạt động lao động xuyên biên giớiTiểu kết chương 2</small>

<small>CHƯƠNG 3</small>

<small>CAC VAN DE SỨC KHỎE SINH SAN</small>

<small>VA MANG LUOI CHAM SOC SUC KHOE SINH SAN</small>

<small>3.1. Cac van dé sire khée sinh san</small>

<small>3.1.1. Các van dé sức khỏe sinh sản nơi xuất cư3.1.2. Các vấn đề sức khỏe sinh sản nơi nhập cư</small>

<small>3.2. Mạng lưới chăm sóc sức khỏe sinh sản</small>

<small>3.2.1. Mạng lưới chăm sóc sức khỏe sinh sản nơi xuất cư3.2.2. Mạng lưới chăm sóc sức khỏe sinh sản nơi nhập cư</small>

<small>120</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

<small>CÁC YEU TO TÁC ĐỘNG DEN SỨC KHỎE SINH SAN</small>

<small>VÀ VIỆC CHĂM SÓC SỨC KHỎE SINH SẢN</small>

<small>4.1. Các yếu tố cá nhân</small>

<small>4.1.1. Trình độ học van và nghề nghiệp</small>

<small>4.1.2. Tâm lý chịu đựng, tiết kiệm</small>

<small>4.1.3. Rào cản ngơn ngữ</small>

<small>4.2. Các yếu tố văn hóa tộc người</small>

<small>4.2.1. Quan niệm về sức khỏe, sức khỏe sinh sản và động thái ứng phó</small>

<small>4.2.2. Quan niệm về việc có con và phải có con trai4.2.3. Tri thức y học dân gian</small>

<small>4.3. Các yếu tố kinh tế - xã hội</small>

<small>4.3.1. Điều kiện kinh tế và việc làm</small>

<small>4.3.2. Điều kiện sinh hoạt</small>

<small>4.3.3. Hạn chế trong khả năng di chuyển khỏi nơi ở khi lao động</small>

<small>xuyên biên giới</small>

<small>4.4. Yếu tố hệ thống, chính sách y tế</small>

<small>4.4.1. Hệ thống, chính sách y tế nơi xuất cư</small>

<small>4.4.2. Hệ thống, chính sách y tế nơi nhập cưTiểu kết chương 4</small>

<small>181196</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

: Dân tộc thiểu số

: Tổ chức Di cư quốc tế: Kế hoạch hố gia đình

: Nhân dân tệ (đơn vi tiền tệ Trung Quốc)

: Nhân học Y tế

: Nhiễm khuẩn đường sinh sản

: Nhiễm khuẩn qua đường tình dục: Nhà xuất bản

<small>: Trung học cơ sở</small>

: Trung học phổ thông

<small>: Trang</small>

<small>: Sức khoẻ sinh sản: Uỷ ban nhân dân</small>

: Việt Nam đồng (don vị tiền tệ Việt Nam)

<small>: Xuyên biên giới</small>

: Tổ chức Y tế thế giới

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

<small>Hình 1.1.Hình 1.2.Hình 1.3.Bang 1.4.</small>

Biéu dé 2.1.Biéu dé 2.2.

<small>Hình 2.10.</small>

<small>Hình 3.1.Hình 3.2.</small>

Biểu đồ 3.3.

<small>Hình 3.4.Bảng 3.5.</small>

DANH MỤC CÁC HÌNH, BANG, BIEU DO

Mơ hình hệ thống y tế đa ngun

<small>Khung phân tích Di cư — Sức khỏe của UNDP (2004)Khung phân tích DI cư — Sức khỏe của IOM (2017)</small>

<small>Thơng tín viên theo địa bàn cư trú</small>

Tỷ trọng ngành trong cơ cấu kinh tế huyện Văn Quan

Tỷ lệ hộ nghèo (theo chuẩn mới) của huyện Văn Quan

Thu nhập bình quân đầu người/năm của huyện Văn QuanMột số điều kiện kinh tế - xã hội của thi tran Văn Quan,

<small>xã Đại An, xã Tú Xuyên</small>

<small>Lịch nông vụ của người Tày, Nùng ở huyện Văn Quan</small>

Số lượt người dân huyện Văn Quan xuất cảnh trái phép

sang Trung Quốc

Số lượng phụ nữ các dân tộc Tày, Nùng ở huyện Văn

<small>Quan tham gia lao động xuyên biên giới</small>

<small>Thu nhập tháng của hộ gia đình các dân tộc Tay, Nting</small>

<small>năm 2019</small>

Học vấn của phụ nữ các dân tộc Tày, Nùng lao động

<small>xuyên biên giới</small>

Mạng lưới xã hội và nơi lao động ở Trung Quốc của phụ<small>nữ các dân tộc Tày, Nùng huyện Văn Quan</small>

<small>Đường đời sinh sản cua N.2Đường đời sinh sản của N.21</small>

<small>Ty lệ sử dụng các biện pháp tránh thai hiện dai (theo xãvà theo năm)</small>

<small>Đường đời sinh san của T.59</small>

Số lượng sản phụ huyện Văn Quan không sinh con tại cơsở y tẾ

<small>104105</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

Biểu đồ 3.6Biểu đồ 3.7.

<small>Hình 3.8.</small>

<small>Hình 3.9.</small>

Biểu đồ 3.10.Biểu đồ 3.11:Biểu đồ 3.12.

Biểu đồ 4.1.Biểu đồ 4.2.Biểu đồ 4.3.

<small>Hình 4.4.</small>

Biểu đồ 4.5.Biểu đồ 4.6.

Tỷ lệ sinh con tại nhà chia theo nhóm tuổi người mẹ

Số con của phụ nữ các dân tộc Tày, Nùng tại thời điểmlao động xuyên biên giới lần đầu tiên

Mạng lưới chăm sóc sức khỏe sinh sản nơi xuất cư

<small>của N.36</small>

<small>Mạng lưới chăm sóc sức khỏe sinh sản nơi nhập cưcủa N.36</small>

<small>Ty lệ sử dụng BP TT của phụ nữ các dân tộc Tay, Nùng</small>

(nơi xuất cư, nơi nhập cư)

Các vẫn đề sức khỏe sinh sản của phụ nữ các dân tộc

Tày, Nùng (nơi xuất cư, nơi nhập cư)

Nguồn thông tin về sức khỏe sinh sản và chăm sóc sức

khỏe sinh sản (nơi xuất cư, nơi nhập cư)

Học vấn của phụ nữ lao động xuyên biên giới ( theo

<small>dân tộc)</small>

Nghề nghiệp của phụ nữ lao động xuyên biên giới (theo

<small>dân tộc)</small>

<small>Thu nhập hộ gia đình năm 2019 (theo dân tộc)</small>

Hệ thống y tế khám chữa bệnh ở huyện Văn Quan

Độ tuôi phụ nữ các dân tộc Tay, Nùng trong lần dau lao

<small>động xuyên biên giới</small>

Điểm đến ở Trung Quốc của các nữ lao động dân tộc

<small>Tày, Nùng</small>

<small>170</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

MỞ ĐẦU

1. Lý do lựa chọn đề tài

Trong những thập niên gần đây, Việt Nam thực hiện đổi mới, cơng

nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, trong đó có chính sách mở cửa phát triểnkinh tế khu vực biên giới. Theo thống kê của Cục Cửa khẩu (thuộc Bộ tưlệnh Bộ đội biên phịng)", số lượt người xuất cảnh bằng giấy thơng hành qua

biên giới đường bộ Việt Nam — Trung Quốc đã tăng từ 1.639.219 lượt năm2012 lên 6.119.415 lượt năm 2015. Con số này chỉ phản ánh một phần số

lượt đi lại qua biên giới trong thực tế, bởi cịn có nhiều trường hợp di cư tựdo qua các lối mòn, vượt biên bất hợp pháp. Người dân vùng biên có thê đi

làm ở bên kia biên giới theo mùa vụ hoặc sáng đi tối về. Bên cạnh đó, trongnhững năm gần đây, còn diễn ra hoạt động của người lao động Việt Nam

vào sâu nội địa Trung Quốc để làm thuê. Hoạt động di cư lao động XBGdiễn ra một cách tự do và tự phát, thậm chí là xuất nhập cảnh trái phép. Vì

di cư theo con đường khơng chính thức, họ khơng nhận được sự hỗ trợ của

chính quyền nơi đến về các van đề việc làm, điều kiện sinh sống, an ninh, an<small>toàn lao động.</small>

Trong số những lao động di cư tự do qua biên giới, nữ giới chiếm tới

<small>60% (Viện khoa học Lao động và Xã hội, 2013). Phòng Nhân sự va An</small>

sinh xã hội thành phố Sùng Tả (Quảng Tây) cũng đưa ra con số thống kê

cho biết, phụ nữ chiếm 70% tổng số lao động Việt Nam nhập cảnh trái phép

sang Trung Quốc tham gia hoạt động chặt mía, làm nơng (Trương QuaDiệu, Qch Tiêu Tình, 2017). Trong điều kiện lao động XBG, phụ nữ dễ bị

ton thương về sức khỏe, đặc biệt là SKSS, so với nam giới. SKSS của phụ

nữ di cư khơng chi ảnh hưởng đến bản thân họ, mà cịn liên quan đến ngườichồng và những thành viên trong gia đình, dù có hay khơng cùng di cư.Đồng thời, việc chăm sóc SKSS phụ nữ cịn phản ánh những bối cảnh văn

hóa — xã hội của họ. Do đó, các van đề liên quan SKSS của phụ nữ lao động

XBG rat cần được quan tâm.

<small>' Trích theo Cục lãnh sự (Bộ Ngoại giao), Tổ chức di cư quốc tế IOM (2017).</small>

<small>7</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

<small>Văn Quan là một huyện thuộc tỉnh biên giới Lạng Sơn, tuy khơng có</small>

đường biên trực tiếp, song có đơng phụ nữ đi làm th ở Trung Quốc.Nghiên cứu về việc chăm sóc SKSS của nữ lao động XBG ở địa phương

này sẽ góp thêm cho việc tìm hiểu những vấn đề về chăm sóc SKSS phụ nữ

<small>DTTS tại Lạng Sơn nói riêng cũng như các tỉnh thuộc khu vực biên giới</small>

Việt — Trung nói chung trong bối cảnh hoạt động làm thuê XBG diễn raphức tạp. Vì vậy, tơi đã lựa chọn đề tài của luận án tiến sỹ, chuyên ngành

<small>Dân tộc học, là “Chăm sóc sức khỏe sinh sản của phụ nữ các dân tộc Tày,Nung ở huyện Van Quan, tinh Lang Sơn trong lao động xuyên biên giới Việt</small>

Nam — Trung Quốc”. Nghiên cứu nhằm nhận diện thực trạng, phát hiệnnhững vấn đề trong chăm sóc SKSS nhóm phụ nữ DTTS tham gia hoạt động

làm thuê bên kia biên giới, góp phần xây dựng cơ sở khoa học cho việc tăng

cường chất lượng dịch vụ chăm sóc sức khỏe cũng như an sinh xã hội, văn

<small>hóa tộc người vùng biên.</small>

<small>2. Mục tiêu nghiên cứu</small>

Mục tiêu chính của nghiên cứu này là tìm hiểu việc chăm sóc SKSS

của phụ nữ các dân tộc Tày, Nùng từ góc độ văn hóa tộc người trong bốicảnh lao động XBG Việt Nam — Trung Quốc, qua đó góp phần xây dựng cơ

sở khoa học để tăng cường việc chăm sóc SKSS của phụ nữ DTTS và an

<small>sinh xã hội vùng biên.</small>

Mục tiêu cụ thể:

1. Tìm hiểu bối cảnh kinh tế — xã hội của hoạt động lao động XBG

<small>của phụ nữ các dân tộc Tày, Nùng ở huyện Văn Quan.</small>

2. Tìm hiểu các vấn đề, nguy cơ SKSS và cách thức chăm sóc SKSS

<small>của phụ nữ các dân tộc Tày, Nùng huyện Văn Quan lao động xuyên biên</small>

giới Việt Nam — Trung Quốc.

3. Đề xuất khuyến nghị nhằm xây dựng cơ sở khoa học cho việc tăng

cường chất lượng chăm sóc SKSS của phụ nữ DTTS lao động XBG Việt Nam

— Trung Quốc.

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối twong nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận án là việc chăm sóc SKSS của phụ nữ

các dân tộc Tày, Nùng ở huyện Văn Quan (tỉnh Lạng Sơn) xuất cảnh tráiphép dé tham gia hoạt động lao động XBG Việt Nam — Trung Quốc. Thống

<small>kê của Phòng Lao động, thương binh, xã hội — dân tộc huyện Văn Quan</small>

(2019) cho biết, 98,5% dân số toàn huyện là dân tộc Tày, Nùng. Trong đó,dân tộc Tay chiếm 34,6% và dan tộc Nùng chiếm 63,9% so với tổng dân số

<small>của huyện.</small>

SKSS là một khía cạnh quan trọng của sức khỏe con người, gắn vớimỗi người từ lúc là bào thai đến khi tuổi già, chứ khơng đóng khung trong

độ tuổi sinh sản. Với quan điểm này, luận án không giới hạn độ tuổi của đối

<small>tượng nghiên cứu mà lựa chọn thơng tín viên dựa trên thời gian họ đã từng</small>

đi lao động làm thuê ở Trung Quốc trong phạm vi từ 1991-2019.

Trên cơ sở tham khảo các cơng trình nghiên cứu và thực tế điền đã,

<small>luận án giới hạn hoạt động lao động XBG được nghiên cứu là làm thuêtrong nông nghiệp (thu hoạch mía, làm cỏ, ...) và làm thuê trong nhà xưởng.</small>

<small>3.2. Pham vi nghiên cứu- Phạm vi không gian:</small>

Đề tai lựa chon địa bàn nghiên cứu ở huyện Văn Quan, trong đó tập

trung triển khai ở thị trần Văn Quan, xã Đại An, xã Tú Xuyên. Bên cạnh đó,luận án thực hiện những cuộc phỏng vấn ngẫu nhiên, nên cịn có thơng tín

<small>viên ở các xã khác như Chu Túc, Văn An, Tân Đoàn, Tràng Sơn, Yên Phúc.</small>

Khoảng cách từ huyện Văn Quan đến cửa khẩu gần nhất (Đồng Đăngthuộc huyện Cao Lộc và Công Trắng thuộc huyện Văn Lãng, tỉnh LạngSơn) trung bình là 32 km. Đây là một trong những điều kiện thuận tiện dé

người dan huyện Văn Quan có thé di chuyên di sang lao động ở bên kia biên

giới Việt - Trung. Theo thống kê của UBND huyện Văn Quan, từ năm

<small>2015-2019, mỗi năm trung bình có trên dưới 2 nghìn lượt người dân địa</small>

phương xuất cảnh trái phép sang Trung Quốc.

<small>- Pham vi thời gian:</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">

Đề tài thực hiện nghiên cứu trong nhóm phụ nữ Tày, Nùng ở huyện

<small>Văn Quan đã từng lao động XBG Việt — Trung trong khoảng thời gian từ</small>

năm 1991? đến năm 2019. Năm 1991 là mốc thời gian bắt đầu mở lại hệthống cửa khẩu trên tuyến biên giới Việt Nam — Trung Quốc dé tạo điều

kiện cho việc xuất nhập cảnh và trao đơi hàng hóa giữa hai quốc gia. Từ đó,

các hoạt động giao thương, giao lưu văn hóa, lao động, học tập, ... diễn ra

thuận lợi và ngày càng sôi nỗi.

4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài

4.1. Ý nghĩa khoa học

Việt Nam có 1.449,566 km đường biên giới với Trung Quốc (Vũ

<small>Dương Ninh, 2010), đi qua 7 tỉnh là Điện Biên, Lai Châu, Lào Cai, Hà</small>

Giang, Cao Bang, Lang Sơn, Quang Ninh và giáp 2 tỉnh cua Trung Quốc là

Vân Nam, Quảng Tây (trong đó, tiếp giáp chủ yếu là Khu tự trị dân tộc

Choang). Đây là khu vực có địa hình phức tạp, nhiều núi cao, vực sâu. Khuvực biên giới Việt — Trung có 26 tộc người có quan hệ dân tộc xuyên quốc

gia (Vương Xuân Tình, 2014a), chiếm số đông là Tày, Nùng, Hmông, Dao.Sự phân bố dân cư các xã biên giới mang tính đặc thù của vùng núi cao,vùng sâu, vùng xa, địa hình bị chia cắt mạnh, khó khăn trong giao thơngcũng như phát triển kinh tế - xã hội. Thực tế cho thấy, khu vực biên giới là

vùng đất lịch sử và văn hóa của cộng đồng các DTTS, là địa bàn chiến lượctrọng yếu của quốc gia. Các dân tộc vùng biên có đời sống văn hóa — xã hộiđa dạng, đặc biệt là các quan hệ XBG. Sự giao lưu kinh tế - xã hội, giao

thoa văn hóa diễn ra như là một yếu tố mang tính liên tục tại khu vực này(Lâm Bá Nam, 2011), là tất yếu và có tính lịch sử (Nguyễn Văn Chính,

Hiện nay, cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội và giao lưu hội nhậpquốc tế, đã xuất hiện các luồng di cư XBG bat hợp pháp với mục đích lao

<small>? Tháng 11/1991, Việt Nam và Trung Quốc ký Hiệp định tạm thời về việc giải quyết cơng việc trên vùng</small>

<small>biên giới, gồm có quản lý biên giới theo tình hình thực tế, thẩm quyền giải quyết biên giới cấp Chính phủ</small>

<small>và giữ mốc biên giới. Sau đó, Chi thị 98-CT ký ngày 27 tháng 3 năm 1992 của Chủ tịch Hội đồng Bộ</small>

<small>trưởng đã phê duyệt việc mở cửa 21 cửa khẩu tuyến biên giới Việt Nam — Trung Quốc, tạo điều kiện cho</small>

<small>việc xuất nhập cảnh và trao đồi hang hoá giữa hai quốc gia.</small>

<small>10</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">

động làm thuê, buôn bán và phụ nữ DTTS cũng tham gia ngày càng nhiều

<small>hơn vào các hoạt động này.</small>

Vì vậy, nghiên cứu về van dé chăm sóc SKSS của phụ nữ các dân tộcTay, Nùng lao động XBG Việt Nam — Trung Quốc có ý nghĩa khoa học lànghiên cứu đầu tiên, hệ thống về di cư và SKSS của phụ nữ DTTS lao động

XBG trong bối cảnh văn hóa và cấu trúc xã hội vùng biên.4.2. Ý nghĩa thực tiễn

Van dé sức khỏe của người di cư trở thành mối quan tâm khơng chỉ

của các cơng trình nghiên cứu khoa học mà cịn là đối tượng của các chươngtrình hành động cấp quốc tế và cấp quốc gia. Về cấp quốc tế, có thê kế đến

như: Nghị quyết 61.17 về Sức khỏe người di cư của WHO (2008), “Khuyếnnghị về thách thức y tế đối với di cư lao động châu Á” (2011) tại diễn đàn

ASEAN lan thứ IV,.

Ở trong nước, Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 25/10/2017 của BanChấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XII về cơng tác dânsé trong tinh hinh mdi va Chiến lược Dân số Việt Nam đến năm 2030 đã

yêu cầu quan tâm, dau tư đối với nhóm dân số dé bị tổn thương trong đó cóngười di cư. Việt Nam có gần 9% dân số di cư quốc tế (Khôi Nguyên,2020). Van dé sức khỏe của người di cư nói chung, trong đó có di cư quốc

tế và nhóm lao động nữ di cư nói riêng cần được quan tâm, bởi đó là quyềnlợi của người lao động, đồng thời là một nội dung quan trọng dé dam bảo ansinh xã hội, chất lượng dân số quốc gia. Với những đặc thù riêng về tâm lý,thể chất, điều kiện làm việc, sinh hoạt, phụ nữ di cư cần được chăm sóc tốt

về sức khỏe nói chung và SKSS nói riêng. Điều đó khơng chỉ giải quyết vấn

đề sức khỏe cho riêng người phụ nữ, mà cịn gián tiếp tăng cường chăm sóctốt hơn cho trẻ em và gia đình bởi vai trị quan trọng của phụ nữ trong gia

Do đó, nghiên cứu về chăm sóc SKSS của phụ nữ các dân tộc Tày,

Nùng lao động XBG Việt - Trung có ý nghĩa thực tiễn đối với việc xây

<small>dựng các chính sách tang cường việc chăm sóc SKSS phụ nữ di cư, góp</small>

phần đảm bảo an sinh xã hội ở địa bàn tỉnh Lạng Sơn cũng như khu vực

<small>11</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">

miền núi phía Bắc, hướng tới các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội theo

vùng và của đất nước nói chung.5. Bố cục của luận án

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, nội

<small>dung chính của luận án được chia thành 4 chương:</small>

Chương 1: Tổng quan van đề nghiên cứu, cơ sở lý thuyết và phương pháp

<small>nghiên cứu.</small>

Chương 2: Điều kiện kinh tế - xã hội và bối cảnh lao động xuyên biên giới ở

<small>huyện Văn Quan, tỉnh Lạng Sơn.</small>

Chương 3: Các vấn đề sức khỏe sinh sản và mạng lưới chăm sóc sức khỏe

<small>sinh sản.</small>

Chương 4: Các yếu tố ảnh hưởng đến sức khỏe sinh sản và việc chăm sóc sức

<small>khỏe sinh sản.</small>

<small>12</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">

<small>Chương 1</small>

TONG QUAN VAN DE NGHIÊN CUU,

CO SO LY THUYET VA PHUONG PHAP NGHIEN CUU

1.1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu

Nghiên cứu về van đề SKSS ở Việt Nam chỉ thực sự bắt đầu từ giữathập niên 80 và tăng lên đáng ké vào những năm đầu thập niên 90 của thé ky

XX. Dấu mốc quan trọng là những kết quả đạt được tại Hội nghị quốc tế về

dân số và phát triển tại thành phố Cairo (Ai Cập) (1994) đã góp phần mởrộng phạm vi nghiên cứu về SKSS tại nước ta. Trong đó, nhu cầu sức khỏecủa phụ nữ được quan tâm đặc biệt, nhất là SKSS.

Với chủ đề nghiên cứu đặt ra, luận án thực hiện tổng quan các kết quảnghiên cứu liên quan đến hai nội dung chính: một là, các nghiên cứu về

SKSS, tiếp cận dịch vụ chăm sóc SKSS của nhóm lao động di cư, trong đóquan tâm đến nhóm lao động XBG Việt - Trung; hai là, các nghiên cứu về

SKSS và tiếp cận dịch vụ chăm sóc SKSS của phụ nữ DTTS, trong đó quantâm đến phụ nữ các dân tộc Tày, Nùng.

1.1.1. Các nghiên cứu về sức khỏe sinh sản của người lao động di

<small>cu và nhóm lao động xun biên giới Việt - TrungCác cơng trình nghiên cứu trong nước</small>

Tháng 12 năm 2003, WHO xuất bản ấn phẩm “Di dân quốc tế, sứckhoẻ và nhân quyền” trong đó chú ý đến tình trạng phổ biến của các nguy

cơ cho sức khoẻ của người di cư trên thé giới, bao gồm cả sức khoẻ tình dục

và SKSS đã có ảnh hưởng đến một số nghiên cứu của Việt Nam. Theo đó,WHO nhận định rang nhìn chung người di cư thường có nguy cơ rủi ro về

sức khoẻ cao hơn so với người không di cư. Trên cơ sở tiếp cận của WHO,

nghiên cứu của Viện Khoa học lao động và xã hội (2013) cho rằng, phụ nữ

di cư đễ bị tổn thương về sức khỏe, đặc biệt là SKSS, so với nam giới. Tuy

nhiên, do những rủi ro này là không dé nhận biết nên nhiều người di cu đãkhông tiếp cận hợp lý với các dịch vụ y tế cần thiết. Chăm sóc sức khoẻ là

<small>13</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">

một trong số những rủi ro và khó khăn liên quan đến di cư và cần xem xéttrên diện rộng các vấn đề về văn hoá và xã hội của các hành vi có liên quanđến sức khoẻ (Lê Bạch Dương và Khuất Thu Hồng, 2008). Người di cư ít có

ý thức chăm sóc sức khoẻ và hiếm khi sử dụng các dịch vụ y tế so với dân

sở tại. Khi ốm đau, họ không đến khám chữa ở các cơ sở y té, ma thuong

hoặc khơng làm gì hoặc tự chữa chạy. Cac tác gia cho biết, tỷ lệ nữ giới di

cư tự chữa bệnh là 76% so với nam giới là 70%. Trong số ít những người có

vấn đề sức khỏe đã lựa chọn đến khám chữa bệnh ở các cơ sở V tẾ, có tới84% phải tự bỏ tiền túi để chỉ trả chỉ phí y tế, thuốc men và 12% là do gia

<small>đình họ chi trả do bản thân người lao động khơng có khả năng thanh toán.Khao sát các trường hợp nam giới ở tỉnh Phu Thọ đi lao động “chul” ở</small>

Trung Quốc, Nguyễn Song (2017) đưa ra con số hơn 70% số người trả lời

rằng ho đã từng bị các bệnh NKQDTD, nhưng đã không lựa chọn các cơ sởy tế dé khám chữa do sợ tốn kém chi phí hoặc xấu hồ với người quen, chỉ

khi tình trạng bệnh khơng có chiều hướng khỏi thì họ mới tìm cách chữa tri.Lê Bạch Dương và Khuất Thu Hồng (chủ biên, 2008) cũng chỉ ra rằng, tại

những quốc gia mà dân số được quản lý thông qua hệ thống đăng ký hộkhẩu như ở Việt Nam và Trung Quốc thì ln có sự khác biệt rõ ràng giữa

<small>nhóm người di cu tạm thời va di cư dài hạn. Trong khi những người di cư có</small>

đăng ký hộ khẩu thường trú tại thành phố có thể được đưa vào trong các kế

<small>hoạch chăm sóc sức khoẻ của Nhà nước thì những người di cư tạm thời lại</small>

khơng được tính đến trong kế hoạch đó. Đại đa số những người thuộc nhóm

này khơng có BHYT tại địa phương nơi họ cư trú tạm thời. Tuy nhiên, đối

voi di cư quéc tế, theo Cục Lãnh sự - Bộ Ngoại giao, số liệu hiện có khơng

phản ánh được tình hình tiếp cận dịch vu chăm sóc sức khỏe va y tế ở nước

đến, nơi lao động Việt Nam làm việc và cư trú (Vũ Thị Minh Hạnh, 2013).

Đặc điểm của những dòng di cư Việt Nam là di cư cá nhân tự do ngàycàng phổ biến, di cư theo mùa vụ ngày càng tăng, phụ nữ di cư ngày càngnhiều, độ tuổi của người di cư ngày càng trẻ (Vũ Thị Minh Hạnh, 2013).

<small>14</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">

Trong quá trình di cư (trước khi đi chuyên, trong quá trình di chuyển vàtrung chuyền, hịa nhập ở nơi chuyển đến), sức khỏe của người di cư chịuảnh hưởng của bối cảnh chung về kinh tế, xã hội và môi trường, điều kiệnsong, làm việc và mối liên kết với cộng đồng tại nơi chuyên đến và các yếutố liên quan cá nhân. Nghiên cứu của Trương Hiền Anh (2009) cho rằngkinh tế (thu nhập, tiền gửi về nha), học van va độ tuổi là những yếu tố ảnh

hưởng nhiều nhất đến kiến thức, quan niệm và thực hành chăm sóc SKSS

<small>của nữ di cư lao động ở Hà Nội.</small>

Tình trạng sức khoẻ và các hành vi liên quan đến sức khoẻ của ngườidi cư được đánh giá từ nhiều góc độ và trên những chỉ báo cụ thé. Trước hếtlà đánh giá của bản thân người lao động di cư. Xét trên chỉ báo về tình trạngốm đến mức phải nghỉ ít nhất một ngày trong 12 tháng qua, nhóm di cư tam

thời (tương tự nhóm lao động XBG có tính chất mùa vụ) có tình trạng sứckhoẻ yếu nhất so với người di cư lâu dài hoặc không di cư. Kết quả này có

lẽ liên quan nhiều và bị ảnh hưởng bởi tỷ lệ làm việc cao hơn trong các cơngviệc có tính chất tạm thời, nguy hiểm và độc hại hơn trong khi thời gian làm

việc trung bình của nhóm di cư tạm thời lại nhiều hơn so với các nhóm di cư

<small>khác. Một lý do khác là thường những người di cư tạm thời là những người</small>

năm trong độ tuổi trẻ và “khó nằm yên” được một chỗ khi ốm. Đồng thời,áp lực kiếm tiền để tiết kiệm cho bản thân và gia đình lớn trong khi mạng

<small>lưới xã hội của họ nhỏ hơn so với những người di cư lâu dài (Lê Bạch</small>

Dương và Nguyễn Thanh Liêm, 2011). Tâm lý, tinh thần của người di cưcũng là một chỉ báo sức khoẻ cần đánh giá. Đó là cảm giác mệt mỏi, suy

nhược; cảm giác bồn chén, lo lắng; cảm giác cô đơn; mức độ hài lịng vớithực tế cơng việc và sức khoẻ. Các hành vi có ảnh hưởng đến sức khoẻ, nhưsử dụng thuốc lá và rượu bia, trong nữ giới thấp hơn hắn nam giới. Đáng

quan tâm nhất là việc tiếp cận và sử dụng dịch vụ y tế của người di cư. So

sánh của Lê Bạch Dương và Nguyễn Văn Thiêm (2011) cho thấy tự điều trị

là hành vi phổ biến hơn trong nhóm dân số di cư tạm thời. Các tác giả đã

<small>15</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">

đưa ra các chỉ báo về sức khoẻ và hành vi liên quan đến sức khoẻ của ngườilao động trên cơ sở phân nhóm đối tượng theo loại hình di cư, chứ chưa đềcập cụ thé đến việc chăm sóc sức khoẻ, trong đó có van đề SKSS của ho.

Quy mô di cư gia tăng đáng kể trong thời gian qua va sự di chuyêndân số cũng làm tăng thêm khả năng lây lan các bệnh lây truyền qua đườngtình dục, đặc biệt đối với nhóm lao động di cư đến sống và làm việc ở

những nơi có nguy cơ phơi nhiễm HIV cao như trung tâm đô thị, khu công

nghiệp, biên giới, cảng biển (Đặng Nguyên Anh, 2006). Lao động di cưthiếu kiến thức phịng tránh các bệnh lây truyền qua đường tình dục và ít cóđiều kiện tiếp cận các dịch vụ y tế công cộng. Cho dù di cư nội địa hayXBG, tự nguyện hay cưỡng bức, làn sóng nảy cũng tạo ra điều kiện và hoàncảnh đặc biệt khiến người di cư dé bị tổn thương và có nguy cơ nhiễm HIV

(UNRTF, 2008). Đồng thời, sự thay đổi môi trường sống cũng ảnh hưởngđến lối sống của mỗi cá nhân. “Người đi làm ăn xa không chỉ trải nghiệm

những gi xảy ra trong cuộc sống khi xa nhà, mà còn thay đổi cả những hành

<small>vi của mình” (Đặng Nguyên Anh, 2006). Nam giới thường có xu hướng</small>

uống rượu, một số thử hít heroin, ma t, đánh bài, cờ bạc. Tình trạng xa giađình và cơ đơn khiến người di cư tìm đến các dịch vụ mại dâm, các quan hệ

<small>tinh dục ngồi hơn nhân, trong khi đó tỷ lệ sử dung bao cao su của người di</small>

cư rất thấp. Do đó, họ dễ nhiễm HIV/AIDS và có khả năng lây truyền chovợ, bạn tình và có thê gián tiếp cho con cái (Nguyễn Hiệp Thương chủ biên,tr. 8). Nữ giới có thé gặp phải sự quấy rối và lạm dung tình dục bởi những

người chủ và kẻ xấu. “Gia đình ở nhà lo lắng nhất cho người di cư là sức

<small>khỏe, thứ hai là tai nạn và rủi ro, thứ ba mới tới thu nhập và việc làm, trong</small>

khi mục đích của di cư chủ yếu là kinh tế. Điều này thé hiện sự bap bênhtrong tổ chức cuộc sông và những khó khăn trở ngại trong việc tiếp cận y tế

<small>của người di cư” (Viện Xã hội học, 2009).</small>

Nhiều nghiên cứu nhìn nhận lao động XBG như một hình thức đi cư

lao động quốc tế (Vũ Trường Giang và cộng sự, 2018). Dựa vào mạng lưới

<small>16</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">

xã hội, người đi cư có thé giảm thiêu những rủi ro khi di chuyên và trongquá trình sinh sống ở nơi họ đến (Đặng Nguyên Anh, 1998). Quan điểmchung là với q trình tồn cầu hố, tiềm năng phát triển kinh tế do tự dotrao đổi thương mại mang lại cũng có thể được áp dụng đối với tự do đi lạicủa con người. Theo một nghiên cứu, “tự do hố lao động di cư XBG có thểmang lại lợi nhuận cao gấp 25 lần so với những lợi ích thu được từ các

chương trình chỉ tập trung vào tự do hoá thương mại va tiền tệ” (Rodrick,Dani, 2002)”. Ở châu Á, khi mà bảo trợ xã hội chính thức và mạng lưới an

toàn xã hội chỉ hỗ trợ chưa tới được 10% dân sé, người di cư càng dé bị ton

thương. Do vậy, mặc dù di dân đóng góp cho phát triển, người di cư lạithường khơng được tính đến trong các chương trình cung cấp các bảo trợ xãhội thiết yếu. Người di cư thường bị cô lập cả về mặt xã hội và địa lý,thường chỉ được tuyển dụng trong các khu vực kinh tế “vơ hình” tại các khu

<small>đơ thị trong nước hoặc ở nước ngồi. Họ thường phải gánh chịu những rủi</small>

ro nghiêm trọng nhất như tuyển dụng cưỡng bức, bóc lột lao động tại nơi

làm việc hay gia tăng nguy cơ lây nhiễm bệnh tật (Lê Bạch Dương và KhuấtThu Hồng chủ biên, 2008).

Lao động XBG là một nhu cầu khách quan, biểu hiện rõ nét nhất củasự phát triển không đồng đều giữa hai vùng lãnh thổ cạnh đường giáp biên.

Những khác biệt về mức sống, thu nhập, sức ép sinh kế giữa hai vùng biên

giới của hai quốc gia là nguyên nhân cơ bản tạo nên dòng lao động đặc thùnay (Tran Quý Long, 2015). Nhu cầu lao động nông-lâm nghiệp của Trung

Quốc rất lớn trong khi lao động (giản đơn) của Việt Nam lại rất nhiều. Lúc

này, đi làm thuê ở bên kia biên giới được xem là một chiến lược về laođộng, việc làm (Đặng Thị Hoa, 2016) để đối phó với tình trạng thiếu việc

làm, đáp ứng nhu cầu nâng cao thu nhập của hộ gia đình ở khu vực giáp

biên. Đối với các DTTS ở biên giới Việt Nam, lao động làm thuê ở TrungQuốc là lựa chọn ưu tiên vì thu nhập cao, địa bàn gần và thành phần dân tộc,

<small>3 Trích theo Lê Bạch Dương và Khuất Thu Hồng (chủ biên, 2008).</small>

<small>17</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">

ngôn ngữ tập quán tương đồng, làm các công việc quen thuộc và sống ở

vùng nông thôn phù hợp với cuộc sống của họ như ở quê nhà (Bùi Xuân

Đính, 2008). Thực tế này phần nào phản ánh tình hình đi chuyên và phân bốdân cư ngày càng phức tạp ở vùng biên. Hoạt động làm thuê ở Trung Quốcmột mặt đem lại hiệu quả kinh té tức thi, nhung an chứa nhiều hệ lụy tiêu

cực lâu đài về an ninh chính trị, nảy sinh tâm lý so sánh, bat ơn trong tâm lý

của dân cư vùng biên (Nguyễn Văn Minh, 2019).

Nghiên cứu ở các tỉnh biên giới gồm Lạng Sơn, Cao Bằng, Hà Giang,Nghệ An, Kon Tum, Trần Thị Hồng (2015) phát hiện rằng, tình trạng đi làm

việc ở Trung Quốc diễn ra phổ biến hơn so với hai nước láng giềng khác làLào, Campuchia. Điều này được lý giải bởi sức hút của sự phát triển kinh tếở bên kia biên giới và mối quan hệ đồng tộc từ trong lịch sử của cộng đồng

người Tày, Nùng vùng biên giới Việt Nam với người Choang ở Trung Quốc(Lý Hành Sơn, Trần Thị Mai Lan, đồng chủ biên, 2017; Nguyễn Thị Yên,

2008). Người DTTS ở vùng biên đã đi sâu vào nội địa Trung Quốc từ vàichục đến hang trăm km dé làm thuê cho chủ người Trung Quốc với những

công việc thường liên quan đến canh tác nông nghiệp như trồng, chăm sócvà khai thác mía, chuối, dứa, hay trong các nhà xưởng. Thời điểm đi laođộng nhiều nhất là vào những tháng cuối năm, lúc gặt hái xong. Khi đi, họsử dụng giấy thơng hành với tính chất như đi thăm thân hay đi chợ, thậm chíđi theo đường mịn khơng cần giấy tờ, đi theo chủ th lao động, theo người

<small>môi giới lao động hoặc tự đi (Bùi Xuân Đính, 2008).</small>

Người Tày, Nùng bắt đầu đi làm thuê bên Trung Quốc từ năm 1999

và gia tăng trong giai đoạn 2003-2004 đến nay (Trần Thị Mai Lan, 2008).Lao động XBG có tác động tích cực đối với đời sống kinh tế hộ gia đình.“Việc làm thuê là hệ qua tat yếu trong điều kiện thiếu việc làm và nhu cầu

<small>nâng cao thu nhập của người dân” (Phạm Thị Thu Hà, 2013). Những lao</small>

động XBG thường đi làm theo thời vụ, nhất là sau thu hoạch mùa màng, có

thé đi ngắn ngày (sáng đi, tối về), hoặc đi cả tuần và lâu hơn. Nghiên cứu tại

<small>18</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">

Bản Thau (xã Tân Thanh, huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn) của Phạm ThịThu Hà (2013) cho thấy, địa điểm người lao động đến làm thuê ở TrungQuốc chủ yếu là Pò Chải (Bằng Tường) hoặc đi sâu vào những vùng nội địanhư Nam Ninh, Phúc Kiến, Chiết Giang. Họ tham gia các hoạt động nôngnghiệp (trồng và thu hoạch mía, sản pham từ rừng, bốc vác bến tau, xe, làmxây dựng, làm trong các nhà xưởng). Đánh giá của tác giả đối với hoạt động

lao động XBG từ góc nhìn kinh tế, là sự gia tăng thu nhập cho người dân địa

phương. Ngồi ra, lao động XBG cịn góp phần dẫn đến những biến đổitrong văn hoá — xã hội tộc người (sự thay đổi về nhà cửa, trang phục, ngơnngữ, quan hệ ứng xử trong gia đình, dịng họ, làng bản, xuất hiện tệ nạn xã

Một số nghiên cứu cho rằng, việc qua lại biên giới quốc gia trong

hoạt động kinh tế giữa các dân tộc đã diễn ra rất lâu đời và vẫn được duy trì,

<small>thậm chí được tăng cường hơn trong giai đoạn hiện nay (Lý Hành Sơn,</small>

2014). Tuy nhiên, vấn đề được các nghiên cứu đặt ra cảnh báo là tình trạngđi sang biên giới làm việc hoàn toàn tự phát, trái phép. Họ chủ yếu làm các

việc thuộc lao động phổ thơng, khơng có giấy tờ hợp pháp, nên dé gặp rủiro. Nam giới DTTS có việc làm chiếm tỷ lệ cao hơn nữ giới, với 52% so với48%; và con số tương ứng ở dân tộc Nùng là 52,2% - 47,5%, ở dân tộc Tày

<small>là 51,2% — 48,4% (Uy ban dân tộc, 2017). Tuy nhiên, chỉ 6,2% lao độngDTTS có việc làm đã qua đào tạo, trong đó lao động nam đã được đào tạo</small>

nhiều hơn lao động nữ. Những khó khăn trong tìm kiếm việc làm cũng làmột trong những nguyên nhân để phụ nữ tham gia thị trường lao động

<small>khơng chính thức ở bên kia biên giới. Việc đi lao động XBG của phụ nữ đặt</small>

ra vấn đề cần quan tâm hơn bởi họ dễ trở thành nạn nhân của sự bóc lột, đốixử tàn tệ, phải làm việc trong những điều kiện như nơ lệ và cuối cùng có thể

là nạn nhân cua tinh trạng xâm hại tình duc, bi bắt cóc hoặc bn bán người(Trần Q Long, 2015). Một trong những hạn chế của nghiên cứu lao động

<small>XBG, theo nhóm tác giả Vũ Trường Giang (2018) là việc xem xét và giải</small>

<small>19</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">

quyết mối quan hệ tộc người và liên tộc người trong quan hệ di cư XBG

vượt qua các vách ngăn biên giới quốc gia, phong tục tập quán truyền thống

va thé chế nhà nước. “Trao đổi mau dich, văn hóa, hơn nhân và các quan hệdân sự khác giữa hai bên đường biên đang thay đổi nhanh chóng” (NguyễnVăn Chính, 2019). Tuy nhiên, những ảnh hưởng đến sức khoẻ và chăm sóc<small>sức khỏe, trong đó có SKSS, của lao động XBG chưa được các tác giả quan</small>

tâm đề cập.

<small>Các cơng trình nghiên cứu của nước ngoài.</small>

Các van đề XBG khu vực biên giới Việt — Trung đã thu hút nghiên

cứu của các học giả nước ngoài. Nhiều học giả quan tâm đến van dé sinh ké,

bản sắc tộc người vùng biên và mối quan hệ với Nhà nước. Nhận định

chung đều cho răng các hoạt động thương mại và buôn bán ở biên giới Việt

<small>— Trung trở nên sôi động từ khoảng hai thập niên trở lại đây. Cùng với đó,</small>

đã xuất hiện những van đề nổi cộm như du lịch và du lịch tinh dục, buôn lậu

và buôn bán người, vấn đề giới và hôn nhân XBG. Yuk Wah Chan (2013)thực hiện nghiên cứu ở Lào Cai và cho rằng thay vì tập trung vào các con số

tăng trưởng, cần quan tâm nhìn nhận các vấn đề ở khu vực biên giới từ gócđộ văn hóa của kinh tế vùng biên, các quan hệ nội tại (gia đình, thân tộc),quan hệ với chính quyên, Nhà nước, các trải nghiệm tương tác XBG. Cũngchọn điểm thực địa ở Lào Cai, học giả S. Turner (2010, 2015) đã nghiên cứu

<small>các hoạt động khu vực biên giới từ việc phân tích mạng lưới thương nhân</small>

bn bán xuyên quốc gia. Nghiên cứu này có xem xét theo chiều dọc qua

các thời kỳ lịch sử như: thời Pháp thuộc, chiến tranh chống Mỹ, chiến tranhbiên giới, thời kỳ Đổi mới. Cho đến hôm nay, hoạt động sinh kế xuyên quốcgia đem lại nhiều cơ hội và cũng nhiều rủi ro. Điển hình cho hoạt động bn

bán xun quốc gia ở địa bàn nghiên cứu là buôn vải, buôn trâu, các hoạtđộng thương mại quy mô nhỏ. Cư dân biên giới đang phải đối mặt với

những thách thức mưu sinh khi ở “bên lề”, bằng sự thận trọng tham gia và

<small>thích nghi với những vân đê hiện đại. Tác giả cho răng, việc mở cửa biên</small>

<small>20</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">

giới giữa hai quốc gia đã làm đa dạng hơn rất nhiều hoạt động sinh kế biên

<small>giới cũng như gia tăng sự hội nhập của các DTTS vào việc xây dựng, thực</small>

hiện các quy định của Nhà nước. Trong nghiên cứu XBG, không thé phủnhận ảnh hưởng của đường biên giới chính trị đối với đường biên giới sinh

kế. Sự dịch chuyên xuyên quốc gia được T. Forsyth và J. Michaud (2011)

tìm hiểu trong bối cảnh văn hóa phức tạp, đan xen ở các khu vực cao

nguyên biên giới giữa các nước Trung Quốc, Việt Nam và Lào. Theo nhóm

tác giả, các quyết định lựa chọn sinh kế của các tộc người vùng biên chịuảnh hưởng của phong tục tập quán, mối quan hệ dòng họ, làng bản và thựctế an sinh xã hội.

Tiếp theo nhận định kết hôn XBG trở thành một chiến lược sống của

<small>cư dân vùng biên của Yuk Wah Chan (2013), nhóm tác giả Liang Maochun</small>

va Chen Wen (2014) cho rằng hôn nhân không hôn thú XBG Việt — Trunglà làn sóng ngày càng mở rộng và đường như được chính quyền “xử nhẹ” và

khơng trục xuất, mặc dù đây là hoạt động bất hợp pháp. Ở Trung Quốc, đặcbiệt khu vực nông thôn, miễn núi, nam giới ngày càng ít cơ hội kết hơn do

ty lệ mat cân đối giới tính thừa nam thiếu nữ và khó khăn về kinh tế. Vì vậy,việc nhập cư phụ nữ có thể đã giải quyết khủng hoảng kết hôn ở khu vựcbiên giới Trung Quốc. Việc kết hôn XBG trái phép khơng những gây ra khókhăn cho cơng tác quản lý dân số và KHHGĐ vùng biên giới mà cịn tạonên những nguy co cho sự ơn định và an ninh biên phịng (Chu Kiện, Lưu

Đơng Nhiệm, 2005). Tuy nhiên, các hoạt động di cư XBG trái phép vẫn tiếptục xảy ra cho dù có sự cam đốn, khơng chỉ xuất phát từ tương đồng văn

hóa, quan hệ đồng tộc, mà cịn bởi các dịch vụ mơi giới, bn bán người.

Chính phủ Trung Quốc và Việt Nam chưa thiết lập được sự hợp tác phù hợp

dé giải quyết những van đề như vậy của làn sóng hơn nhân này.

Số lượng di cư XBG ở Việt Nam theo con đường khơng chính thức

(bất hợp pháp) và hợp pháp nhưng khơng có tổ chức ngày càng tăng (Nelyn

Chavez, 2013). Nghiên cứu trường hợp ở Lạng Son (chủ yếu là khu vực cửa

<small>21</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">

khâu Tân Thanh, huyện Văn Lãng và cửa khâu Đồng Đăng, huyện Cao

<small>Lộc), Donald Hickerson (2012) đã phân loại các hình thức di cư XBG ở</small>

Lạng Sơn gồm: đi lại qua biên giới hàng ngày, di cư hợp pháp, di cư bất hợppháp. Từ đó, tác giả có các phân tích về mạng lưới di cư XBG từ góc độ vốn

<small>xã hội, mạng lưới xã hội.</small>

Nghiên cứu cụ thể hơn về nhóm đối tượng phụ nữ Tay, Nung ở LạngSơn đi lao động ở Trung Quốc, Vĩ Phúc An (2014) tập trung phân tích

phương thức di cư XBG, mối quan hệ qua lại, thu nhập và đời sống của họtại địa điểm làm việc. Theo đó, mặc dù được trả tiền cơng ít hơn so vớingười địa phương, nhưng nữ lao động Việt Nam không đòi hỏi về điều kiệnăn ở, làm việc, mà còn rất vui vẻ tham gia các sự kiện văn hóa dân tộc ngaytại các làng bản Trung Quốc nơi họ đến làm. Có thé nói, sự “đồng cảm văn

hóa” và những lợi ích kinh tế trực tiếp đã có ảnh hưởng quyết định đến việccư dân biên giới các nước xung quanh di cư xuyên quốc gia đến khu vựcbiên giới Trung Quốc từ thé kỷ XXI đến nay (Hà Minh, 2012). Cùng nhận

định này, Tần Hong Tang và các cộng sự (2012) cho rằng nguyên nhân căn

bản của di cư lao động xuyên quốc gia của các cư dân vùng biên giới Việt —

Trung chính là mối quan hệ qua lại trong thời gian dài của cư dân biên giớihai nước mà hình thành nên tính “dung hợp” lẫn nhau về văn hóa.

Trong khi đó, Hà Hữu Lương, Trần Yến Lệ (2019) nhìn nhận vấn đề

di cư lao động XBGở góc độ tăng cường hệ thống lập pháp và quản lý biên

<small>giới. Theo các tác giả, người lao động phi pháp Việt Nam vào khu vực biên</small>giới Quảng Tây làm cơng việc chặt mía mang tính thời vụ bắt đầu xuất hiệntừ sớm sau khi mở cửa biên giới Trung-Việt cuối thập niên 90 của thé ky

trước, thế nhưng khi đó chủ yếu xuất hiện ở các làng biên giới với hình thứcvần cơng. Nhóm đối tượng này đã giải quyết nhu cầu lao động thời vụ ở

vùng biên giới. Vì vậy, cần có những chính sách phù hợp dé tạo điều kiện

<small>* Trích theo Vĩ Phúc An (2014).Š Trích theo Vĩ Phúc An (2014).</small>

<small>22</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">

làm việc hợp pháp cho lao động Việt Nam, đồng thời đảm bảo công việccho lao động Trung Quốc.

Qua các nghiên cứu của học giả nước ngồi, có thé thấy rằng chủ désinh kế, hôn nhân, mạng lưới xã hội khu vực biên giới Việt - Trung thu hútnhiều mối quan tâm nhất. Các học giả cho rằng lao động XBG như mộtchiến lược sinh kế và qua đó làm rõ bản sắc văn hóa, quan hệ với Nhà nước,

mạng lưới xã hội, các chính sách quản lý xuất nhập cảnh. Tuy nhiên, cịn

thiếu văng cơng trình hoặc nhắc đến một cách mờ nhạt về đời sống của

<small>người lao động Việt Nam khi làm việc ở bên kia biên giới, những khó khan,</small>

những nhu cau và quyên lợi của họ. Trong đó, van dé sức khỏe va có nhữngrủi ro về SKSS của các lao động Việt Nam hoàn toàn chưa được đề cập.

1.1.2. Nghiên cứu về sức khỏe sinh sản của phụ nữ dân tộc

thiểu số ở Việt Nam

Đối với chủ đề SKSS và DTTS ở Việt Nam, Quỹ Dân số Liên hợp

quốc (UNFPA, 2010a) đã thực hiện rà soát 58 nghiên cứu thực hiện trongcác năm từ 2000 đến 2007. Đánh giá chung cho thấy, đa phần các nghiên

cứu sử dụng thiết kế nghiên cứu cắt ngang và phương pháp kết hợp nghiêncứu định tính và định lượng. Tuy nhiên, vì thiết kế nghiên cứu chỉ ở dạngcắt ngang, số đối tượng thường nhỏ nên việc tìm ra các mối liên hệ vẫn cònthiếu tin cậy và thiếu băng chứng khoa học thuyết phục cao. Chỉ có 01

nghiên cứu chọn nam giới, còn các nghiên cứu khác đều chọn nữ giới là đốitượng đích. Nam giới chỉ tham gia như là đối tượng phụ trong vai trò củacác trưởng bản, già làng, cán bộ y tế. Xét về độ ti của đối tượng tham gia

thì đại đa số thuộc độ tuổi sinh đẻ. Các nghiên cứu tập trung về nội dung

làm mẹ an toàn, KHHGD, sức khoẻ tinh dục và NKQDTD, hệ thống y té va

mơ hình y tế hỗ trợ. Một số các chủ đề như trẻ sơ sinh, vị thành niên, vôsinh, SKSS của người cao tuôi hầu như rất ít hoặc khơng có nghiên cứu. Da

phan các nghiên cứu đều tìm mối liên quan giữa các yếu tố tác động với vanđề nghiên cứu (82,8%) hoặc đơn thuần mô tả về kiến thức-thái độ-hành vi

<small>23</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">

(13,8%) (UNFPA, 2010a, tr. 5). Tổng hợp qua các nghiên cứu, UNFPA(2010a) cho rằng kiến thức về các bệnh NKĐSS của đại đa số phụ nữ đồng

bào DTTS cịn rất hạn chế, hơn 4/5 người Hmơng, Tày” hồn tồn khơngbiết về các bệnh này và khi có triệu chứng của bệnh NKĐSS, chỉ khoảng2/5 phụ nữ đến khám tai cơ sở y tế. Các nguyên nhân đưa ra bao gồm yếu tố

cá nhân (kiến thức, thông tin, ngôn ngữ), yếu tổ môi trường kinh tế - xã hội

- văn hố và yếu tơ dịch vụ y tế.

Chăm sóc SKSS cho người DTTS là một trong những trọng tâm hỗ

trợ của Chương trình quốc gia 7 (2006-2010)” của Quỹ Dân số Liên hợpquốc hợp tác với Việt Nam. Theo UNFPA (2010b), các DTTS sống tập

trung chủ yếu ở miền núi với nhiều khó khăn về điều kiện tự nhiên, kinh tế

và trình độ phát triển. Đối với lĩnh vực chăm sóc sức khỏe nói chung vàSKSS nói riêng cho các DTTS, Chính phủ, Bộ Y tế và các bộ, ngành chức

năng có liên quan đã có nhiều chính sách, chiến lược và chương trình canthiệp. Vì vậy, sức khỏe nói chung và SKSS nói riêng của đồng bào DTTS đã

được cải thiện, nâng cao rõ rệt. Tuy nhiên, thực trạng về SKSS của cácDTTS ở nhiều vùng núi cao vẫn còn nhiều van dé, thé hiện ở những chỉ sốtử vong mẹ, tử vong sơ sinh và trẻ em, mắc HIV, phá thai và mức sinh... so

với các vùng miền khác trong cả nước. Nghiên cứu tại các tỉnh miền núi(Sơn La, Đắk Lắk, Ninh Thuận) cho thấy truyền thơng thay đổi hành vichăm sóc SKSS cho người DTTS, nhưng chưa đổi mới nhiều về nội dung và

phương pháp (UNFPA, 2010b). Công tác truyền thông chưa chú trọng đến

thế mạnh của văn hoá truyền thống ở từng địa phương, ví dụ, khơng thấycán bộ dé cập đến van dé vận động già làng, trưởng bản, tận dụng lợi thế

những ngày lễ hội, chợ phiên... để tổ chức các hoạt động tuyên truyền

chuyên đổi hành vi chăm sóc SKSS. Các tinh được khảo sát đều tiến hành

<small>Š Nghiên cứu ở Cao Bằng</small>

<small>7 Mục đích của chương trình quốc gia 7 (CP7) của UNFPA (2006-2010) là góp phan tăng cường chấtlượng cuộc sống cho mọi người dân Việt Nam, tập trung chủ yếu vào người chưa có gia đình, cộng đồng</small>

<small>DTTS ở vùng khó khăn, những người di cư, bà mẹ và trẻ sơ sinh, đưa các chính sách vào triển khai thực hiện</small>

<small>tới tuyến cơ sở (tuyến xã).</small>

<small>24</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">

cơng tác truyền thơng theo các hình thức giống nhau như: truyền thông trựctiếp, tờ rơi, lỗng ghép vào các hoạt động cung cấp các dich vụ y tế, lồngghép vào các hoạt động của các ban, ngành đoàn thé. Trong đó, nội dung

truyền thơng phổ biến là thơng tin về làm mẹ an toàn, KHHGĐ; nội dung itđược chú ý tuyên truyền là phòng tránh các bệnh NKQDTD và HIV, thơngtin về nạo phá thai va chăm sóc sau nạo pha thai. Đối với việc tiếp cận dịch

vụ chăm sóc SKSS, nghiên cứu của UNFPA (2010) chỉ ra rang, mơ hìnhcán bộ y tế thơn bản cung cấp dịch vụ tại gia đình khơng phổ biến ở các tinhmiền núi, do mật độ dân cư thưa và điều kiện giao thơng đi lại khó khăn.Đồng thời, đội y tế lưu động của tuyến huyện đến xã chỉ khám chữa bệnhtheo chiến dịch, địa điểm là trạm y tế xã, không xem xét đến yếu tố mùa vụ

của địa phương. Do đó, hạn chế chủ yếu của đội y tế lưu động huyện là dịchvụ không thường xuyên và chưa thực sự gần với người DTTS.

Chăm sóc SKSS là một phần quan trọng trong chính sách y tế nóiriêng và chính sách với người DTTS nói chung vi van dé này có liên quanmật thiết đến sức khỏe trẻ em và hiệu quả xóa đói giảm nghèo. Những chỉ

số đáng quan tâm là việc khám thai, lựa chọn nơi sinh và sử dung BPTT. Sốliệu điều tra thời điểm năm 2015 (Phùng Đức Tùng và cộng sự, 2017) chothay: tỷ lệ phụ nữ DTTS đến các cơ sở y tế dé khám thai ít nhất một lần mớiđạt 70,9%, con số này ở dân tộc Tày là 82%. Tập quán sinh con tại nhà rất

phô biến, khoảng 36%, tuy nhiên Tay và Nùng năm trong nhóm các dân tộc

có ty lệ sinh con ở cơ sở y tế cao từ 80% trở lên. Tỷ lệ sử dụng BPTT hiệnđại cịn thấp. Có đến 23% phụ nữ DTTS đã kết hôn không sử dụng một

<small>BPTT hiện đại nào, tỷ lệ này tương ứng ở dân tộc Nùng là 20% và Tày22%.</small>

Điều kiện địa lý, giao thông của khu vực miền núi phía Bắc được

nhìn nhận là một thách thức với việc phát triển các dịch vụ y té tai day. Mac

dù số lượng cơ sở và nhân lực y tế là tương đối đầy đủ so với chuẩn mực

quốc gia (Bộ Y tế, Niên giám thống kê Y tế, 1997), nhưng khả năng cung

cấp dịch vụ của các tỉnh miền núi phía Bắc (trong đó có Lạng Sơn) lại kém

<small>25</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">

hơn nhiều so với nhu cầu của người dân, do điều kiện địa hình xa xơi vàđường sá cách trở (Bùi Thế Cường, 2002). Trong đó, các trạm y tế tuyến xãtồn tại rất nhiều vấn đề hạn chế, như thiếu phương tiện, thiếu thuốc men,

thiếu cán bộ, khơng có điều kiện nâng cao nghiệp vụ chun môn, khôngđảm bảo vệ sinh, cán bộ y tế là người DTTS hoặc cán bộ y tế là nữ có tỷ lệthấp... Theo Điều tra mức sống dân cư Việt Nam 1997-1998, người nghèoít sử dụng dịch vụ y tế hơn người giàu; người Kinh có mức độ sử dụng dịch

vụ y tế cao gấp hai lần đồng bào DTTS. Các số liệu về tỷ lệ khám thai, sinhcon tại co SỞ y tẾ, sử dụng BPTT hiện dai của phụ nữ DTTS khu vực miềnnúi phía Bắc ln thấp hơn mức trung bình của cả nước. Đáng lưu ý lànghiên cứu của Bùi Thế Cường (2002) đã chỉ ra rằng người dân ngày càng

sử dụng dịch vụ khám chữa bệnh và bán thuốc tư nhân nhiều hơn, ở cả vùngnúi và đồng bằng. Đây là điểm mới trong việc tiếp cận dịch vụ y tế củangười dân nói chung, cũng như người DTTS khu vực miền núi nói riêng.

Số liệu điều tra dân số và nhà ở Việt Nam năm 2009 của Tổng cục

Thống kê đã phản ánh các van đề liên quan đến dân số - SKSS 1a: (1) Tỷ lệ

<small>sử dụng các BPTT nói chung và BPTT hiện đại cao, dam bảo mức sinh thay</small>

thế, nhu cầu tránh thai rất lớn gây áp lực cung cấp, tuyệt đại bộ phận người

sử dụng là phụ nữ; (2) SKSS bị tôn thương va đang đứng trước những thách

thức mới gay gắt; (3) Ở các tỉnh miền núi và cao nguyên hiện có nhiều van

đề dân số - KHHGĐ nghiêm trọng (Nguyễn Bảo Đồng, Đào Quang Vinh,

2011). Vì vậy, có 3 nội dung chăm sóc sức khỏe cần quan tâm trong thờigian tới là: sức khỏe trẻ em, sức khỏe phụ nữ, sức khỏe người già. Số liệuthực địa của nhóm tác giả Nguyễn Bảo Đồng, Đào Quang Vinh (2011) tạiLang Sơn, Lao Cai, Điện Biên cho thấy người dân ở những tỉnh này có ty lệmắc bệnh cao, nhu cầu chăm sóc sức khỏe lớn nhưng khả năng tiếp cận dịch

vụ y tế lại thấp hơn so với những vùng khác và 20% người dân tự điều trị

khi 6m đau. Những người không đến cơ sở y tế khám chữa bệnh đều dùng

phương pháp chữa bệnh dân gian, y học cơ truyền dé chữa bệnh. Có nhiềutrường hợp kết hợp cả hai phương pháp y học hiện đại và y học cổ truyền.

<small>26</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">

Rất nhiều trường hợp chữa bệnh tại các cơ sở y tế không khỏi hoặc khơngđỡ thì về nhà chữa bằng y học cổ truyền, thậm chí dùng cả phương phápcúng dé chữa bệnh.

Đề phân tích sự cơng bằng trong tiếp cận/sử dụng các dịch vụ y tẾ,

<small>Nguyễn Duy Khuê (2004) đã trích dẫn 3 nhóm phân loại của học giả</small>

Andersen (1995) về những yếu tố quan trọng quyết định đến việc sử dụng y

tế. Đó là: (1) Nhu cầu, bao gồm tình trạng sức khoẻ, cảm nhận của cá nhân

hoặc đánh giá của nhân viên y tế; (2) Điều kiện của các nguồn lực, trong đócung cap cho bệnh nhân các phương tiện sử dụng dich vu, như thu nhập, baohiểm xã hội, khoảng cách giao thông: (3) Giải quyết các yếu tổ tồn tại trướckhi khởi phát bệnh tật và nhu cầu chăm sóc, như tudi, giới, dân tộc, học vấn,

nghề nghiệp, đó là những vấn đề liên quan đến thái độ, giá trị và kiến thức

về sức khoẻ và dịch vụ chăm sóc sức khoẻ. Hơn nữa, các đặc điểm của hệ

thống chăm sóc sức khoẻ (như chỉ phí, thiếu bác sỹ) cũng ảnh hưởng đếncác tiếp cận tiềm năng. Nghiên cứu cụ thé ở huyện Ba Vi, nơi tập trung 3

dân tộc là Kinh, Mường, Dao, đã chỉ ra rằng lựa chọn đầu tiên trong chămsóc sức khoẻ là tự chữa tri (50,7%), việc sử dụng dich vụ y tế tư nhân vàtrạm y tế xã là tương đương nhau (lần lượt là 18% và 17,1%), trong khi đó,chỉ có 8,8% tìm đến các cơ sở y tế tuyến huyện trở lên (Nguyễn Duy Khuê,

Chi tiêu y tế bình quân một người năm 2018 có khám chữa bệnh (gồm cả

<small>nội trú và ngoại trú) là 1.899.000 VND với dân tộc Tay và 3.749.000 VND</small>

với dân tộc Nùng, so với con số tương ứng 2.193.000 VND trung bình khu

vực trung du, miền núi phía Bắc và 1.824.000 VNĐ trung bình cả nước(Tổng cục Thống kê, 2019). Chỉ báo về tỷ lệ sử dụng thẻ BHYT ở một

phương diện nào đó cũng thể hiện tỷ lệ người DTTS đến các cơ sở y tế để

<small>27</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32">

khám chữa bệnh. Tỷ lệ thấp trong khi các số liệu về tình trạng sức khỏe,

bệnh tật của người DTTS có những vấn đề cần quan tâm (tảo hôn, hôn nhâncận huyết, tỷ lệ tử vong trẻ em dưới 5 tuôi, ...) cho thấy có những lý do cần

tìm hiểu. “Phần lớn người DTTS nghèo và ở vùng sâu có thẻ BHYT miễnphí, tuy nhiên gánh nặng tài chính của một số dịch vụ/thuốc không nằmtrong danh mục chỉ trả của bảo hiểm đã hạn chế người DTTS nghèo hưởng

các dịch vụ y tế. Khoảng cách đi lại cùng chất lượng dịch vụ y tế và thái độ

đón tiếp khách hàng của các nhân viên y tế là những rào cản phổ biến hạnchế việc tiếp cận và sử dụng dịch vụ y tế của người nghèo. Việc giảm đi cácrào cản này có thê mang lại những tác động tích cực đối với phúc lợi kinh tếxã hội nói chung” (CAREỶ, 2016). Theo đề xuất của CARE, dé cải thiện

việc tiếp cận va sử dụng dịch vụ y tế cần cải thiện cơ chế trao đôi thông tintrực tiếp giữa người dân và chính quyền địa phương trong việc đáp ứng nhu

cầu chăm sóc sức khoẻ sinh sản.

Hệ thống cung cấp dịch vụ SKSS/KHHGĐ ở khu vực miền núi, vùngsâu vùng xa chưa đảm bảo về tính thuận tiện, an tồn, đa dạng và chất lượng

cao. Ngoài những yếu tố kinh tế, xã hội thì văn hố tộc người có tác độngkhơng nhỏ tới việc tiếp cận và sử dụng dịch vụ chăm sóc SKSS/KHHGDcủa người dân (Hồng Thị Miên, 2004; Tran Minh Hang, 2006; Phạm ThuHà, 2013). Charles Keyes (1999), một nhà nhân học người Mỹ có nhiềukinh nghiệm nghiên cứu về Đông Nam Á và Việt Nam cho rằng: “Điều kiện

kinh tế cũng như tập quán văn hoá sẽ tạo nên những đặc điểm sinh sản khác

nhau của mỗi dân tộc”. Ở Việt Nam, GS. Tôn Thất Bách (1998)'” cũng

khẳng định: “Trong SKSS có một số khía cạnh xã hội mà Việt Nam chưa đề

cập đến, đó là quan hệ tình dục, giới, giáo dục giới tính — những van đề xã

hội nhạy cảm và phụ thuộc nhiều vào truyền thống văn hố dân tộc, mơi

trường xã hội và trình độ phát triển của đất nước”. Văn hóa có tác động đếnchăm sóc SKSS. Điều này có thé phân tích trường hop của phụ nữ Tay về

<small>® CARE là tổ chức nhân đạo quốc tế chống đói nghèo tồn cầu và cứu trợ khan cấp.? Trích theo Hồng Thị Miên (2004).</small>

<small>28</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">

<small>phong tục tập quán trong hôn nhân, chăm sóc trước/sau sinh, các quan niệm</small>

về vơ sinh, bệnh lây qua đường tình dục, đường sinh sản Hồng Thị Miên(2004). Cịn với dân tộc Hmơng tại tỉnh Sơn La, những yếu tố ảnh hưởng

đến sự tham gia của người chồng đối với việc chăm sóc sức khoẻ người vợđang mang thai là trình độ học vấn và độ ti (Phạm Thu Hà, 2013). Người

chồng có trình độ học vấn càng cao và độ ti dưới 35 thì quan tâm nhiềuhơn đến chăm sóc sức khỏe của người vợ trong thai kỳ. Tuy nhiên, yếu tôđược nhắc đến đầu tiên là các giá trị, thói quen trong cộng đồng. Nói cáchkhác, những phong tục tập quán, quan niệm truyền thống là một yếu tố quantrọng ảnh hưởng đến không chỉ việc chăm sóc sức khoẻ thai kỳ, mà các hoạt

<small>động chăm sóc SKSS nói chung.</small>

Các nghiên cứu về van dé sức khỏe và chăm sóc sức khỏe phụ nữ các

<small>dán tộc Tày, Nùng.</small>

Nghiên cứu về dân tộc Tày, Nùng ở Việt Nam có những cơng trình

tiêu biéu như: “Sơ lược giới thiệu các nhóm dân tộc Tày, Nùng, Thái ở Việt

<small>Nam” (La Văn Lô, Đặng Nghiêm Van, 1968), “Văn hóa Tay — Nùng” (HàVăn Thư, Lã Văn Lơ, 1984), “Các dân tộc Tày, Nùng ở Việt Nam” (ViệnDân tộc học, 1992), “Dân tộc Nùng ở Việt Nam” (Hoàng Nam, 1992).</small>

Những tác phẩm này đã trình bày bao qt, tồn điện về mọi mặt đời sốngkinh tế - văn hóa — xã hội của người Tay, Nùng, nhưng chưa đi sâu vào các

khía cạnh liên quan đến chăm sóc sức khỏe nói chung và chăm sóc SKSSnói riêng. Các cơng trình nghiên cứu về dân tộc Tày, Nùng cịn hạn chế

<small>trong miêu ta, phân tích những nhận thức, quan niệm, thực hành của người</small>

dân về chăm sóc sức khỏe, SKSS. Nội dung này thường được lồng ghéptrong các trình bày về tục lệ sinh đẻ, tri thức y học dân gian, những bàithuốc cô truyền (Viện Dân tộc học, 1992; Hoang Nam, 1992; Hoàng Thi

Miên, 2004; Vi Văn An, 2006; Nguyễn Hữu Phương, 2007). Còn quan niệm

sức khỏe của người Tày, Nùng được đề cập đơi chỗ trong những tìm hiểu về

tơn giáo — tín ngưỡng. Trong niềm tin của mình, người Tay, Nùng phân biệt

<small>! Trích theo Hồng Thị Miên (2004).</small>

<small>29</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34">

ma lành va ma dit. Ma dit có thé gây ốm dau cho con người (La Văn Lô,

<small>Đặng Nghiêm Vạn, 1968; Hà Văn Thư, Lã Văn Lơ 1984). Chính quan niệm</small>

này làm nảy sinh nghề cúng bái trong dân gian nhằm đuôi ma, trừ tà, giải

hạn, chữa bệnh cho người, cầu an, lễ hội cúng thần. Người Tày, Nùng cho

rằng đau 6m là do hôn lia xác hoặc một siêu nhiên nhập vào xác, đánh đuổihay xúc phạm đến hồn (Viện Dân tộc học, 1992). Các cơng trình trên đây đãcó những đóng góp quan trọng trong nghiên cứu về chăm sóc sức khỏe

truyền thống của người Tay, Nùng. Đó là những phân tích, tìm hiểu và miêutả sâu, tiếp cận việc chăm sóc sức khỏe từ góc độ tri thức địa phương, phong

tục tập qn, hơn nhân gia đình, nghi lễ vịng đời...

Trong những năm gần đây, nghiên cứu về sức khỏe và chăm sóc sức

khỏe của phụ nữ Tày, Nùng đã được tiếp cận từ góc độ tri thức địa phươngvà phong tục tập quán (Hoàng Thùy Dương, 2015). Đồng thời, những biến

đổi của hoạt động chăm sóc sức khỏe ba mẹ và trẻ em trong bối cảnh cơngnghiệp hóa, hiện đại hóa cũng đã bước đầu được quan tâm (Hoàng Thị Lê

Thảo, 2009), đặc biệt là việc truyền thông và dịch vụ KHHGD (Bề Trung

<small>Anh, 1998)</small>

Có thê thấy, các nghiên cứu vấn đề sức khỏe và chăm sóc sức khỏe

<small>dân tộc Tày, Nùng nói chung và ở huyện Văn Quan nói riêng vẫn đang tập</small>

trung khai thác theo chủ dé truyền thống (văn hóa dân gian, phong tục tập

quán). Nội dung y tế - sức khỏe được lồng ghép trong các nghiên cứu hoặcđược tiếp cận theo hướng tri thức địa phương, phong tục tập quán và bước

đầu đề cập đến những biến đổi nói chung. Cho đến nay, cịn thiếu vắng việc

khai thác các nội dung khác trong hoạt động chăm sóc sức khỏe và trong kếtnối với các van dé kinh tế - xã hội hiện nay. Vi vậy, tôi thấy rang cần có sựbồ khuyết bằng việc nghiên cứu đi sâu nội dung SKSS và hướng đến nhóm

đối tượng đặc thù là phụ nữ các dân tộc Tày, Nùng lao động XBG.

<small>30</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35">

<small>1.2. Các khái niệm nghiên cứu1.2.1. Sức khoẻ sinh sản</small>

Tại hội nghị Y tế Quốc tế (New York, 1946), Tổ chức Y tế thế giớiWHO đã định nghĩa “Sức khỏe là tình trạng hồn toàn khỏe mạnh về thêchất, tinh thần và xã hội chứ khơng phải chỉ là tình trạng khơng có bệnh tật

hay ốm đau”. Đây là một quan điểm khá hài hòa, tổng hợp được quan điểmsức khỏe theo cách tiếp cận y sinh học và cả cách nhìn nhận của y học dângian, người dân. Trên cơ sở quan điểm này, Hội nghị quốc tế về Dân số và

phát triển (ICPD)'" đã thơng qua Chương trình hành động, trong đó Chương

<small>VII đã đưa ra định nghĩa: “Sức khoẻ sinh sản là trạng thai khoẻ mạnh hoàn</small>

toàn về thé chất, tinh than và xã hội chứ không chỉ là bệnh tật hay ốm dau,trong tat cả mọi thứ liên quan đến hệ thong sinh sản, các chức năng và quátrình của nó” (UNFPA, 1994). Điều nay cho thấy, tat cả mọi đối tượng, dùlà nam hay nữ, già hay trẻ, đều có quyền được tiếp nhận thơng tin và tiếpcận các dịch vụ chăm sóc SKSS an tồn và hiệu quả. Nguyên tắc của dịchvụ SKSS được các quốc gia thống nhất là “Dịch vụ (chăm sóc SKSS) tạo ra

cho nam và nữ bao gồm cả vị thành niên ở tất cả các nơi, khả năng điều hoàsinh sản của họ một cách an tồn và có hiệu quả; có thai lúc nào họ muốn, có

<small>thai an tồn, mang thai đủ tháng, khơng có bệnh tật, tàn tật hoặc tử vong liên</small>

quan đến sinh sản hay tinh dục và nuôi dưỡng trẻ em” (Hoàng Thị Miên,

Sau hội nghị Cairo (1994), Việt Nam nỗ lực thực hiện các chương

trình hành động nhằm nâng cao chất lượng và đa dạng hoá các loại hìnhdịch vụ chăm sóc SKSS đáp ứng nhu cầu của người dân. Chương trìnhSKSS đã được cụ thê hố thành các nội dung hành động là: (1) Làm mẹ antoàn, chăm sóc trước — trong — sau sinh, tránh các biến chứng thai sản; (2)

KHHGĐ: tạo điều kiện cho các Cặp vợ chồng và cá nhân quyết định một

<small>cách tự do và có trách nhiệm về sơ con và khoảng cách giữa các lân sinh;</small>

<small>!! Tổ chức năm 1994 tại Cai-rô (Ai Cập) với sự tham gia của 179 quốc gia, trong đó có Việt Nam.</small>

<small>31</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36">

<small>(3) Nạo hút thai: ngăn ngừa nạo hút thai thông qua dịch vụ KHHGĐ mở</small>

rộng, nạo thai an toàn và quản lý các biến chứng của nạo thai; (4) Các bệnh

NKDSS và các bệnh NKQDTD; (5) Giáo dục, truyền thông; (6) Ngăn ngừavà điều trị vô sinh; (7) Sức khoẻ vị thành niên. Có thê thấy, phạm vi các nội

dung hành động của chương trình SKSS rất rộng. Từ thực tế khảo sát tại địa

<small>bàn nghiên cứu, luận án tập trung vào các nội dung: KHHGD, làm mẹ an</small>

toàn, các bệnh viêm nhiễm phụ khoa.

<small>1.2.2. Chăm sóc sức khỏe sinh sản</small>

<small>“Chăm sóc sức khỏe sinh sản là một tập hợp các phương pháp, kỹ</small>

thuật và dịch vụ nhằm giúp cho con người có tình trạng sức khỏe sinh sảnkhỏe mạnh thơng qua việc phòng chống và giải quyết những vấn đề liênquan đến sức khỏe sinh sản” (Lê Huy Tuan, 2020). Nói cách khác, chăm sóc

SKSS là các hoạt động tăng cường SKSS, phòng chống bệnh tật và chữa trịbệnh khi đau ốm, hướng tới việc đảm bảo tình trạng SKSS của con ngườikhỏe mạnh về thé chất, về tinh thần và về đời sơng xã hội. Các hoạt độngnày cịn bao gồm việc tăng cường tuyên truyền giáo dục và can thiệp vềnhận thức, hành vi về SKSS với các nội dung như: sức khỏe thể chất; tình

<small>bạn, tình yêu, hơn nhân, gia đình, sinh đẻ và chăm sóc con cái; bệnh tật,</small>

nhất là các bệnh NKQDTD. Về thé chất, bộ máy sinh sản phải được bình

thường và khỏe mạnh về hoạt động tình dục và sinh sản. Về tinh thần, con

người có sự thoải mái, hài lịng, khơng lo lắng liên quan đến bộ máy sinhsản. Về đời sống xã hội, mỗi người phải được xã hội tôn trọng và đối xửcông băng về các quyên sinh sản và tinh dục. Có thé thấy, mục đích củachăm sóc SKSS là nâng cao chất lượng cuộc sống và mối quan hệ giữa conngười với con người mà không chỉ dừng lại ở chăm sóc y tế và tư vấn một

cách đơn thuần cho việc sinh sản và những bệnh tật liên quan.

Thực tế hiện nay, sự phát triển kinh tế - xã hội địi hỏi nhu cầu chăm

sóc sức khoẻ, SKSS ngày càng tăng. Việc tiếp cận chăm sóc SKSS của phụ

<small>nữ khơng chỉ khn hẹp trong góc độ y học. Bởi vì, nhu câu sức khoẻ của</small>

<small>32</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37">

phụ nữ rất đa dạng, không chỉ giới hạn trong độ tuổi sinh sản (15-49 tuổi).SKSS của phụ nữ có liên quan và chịu tác động của nhiều yếu tố: nghềnghiệp, tình cảm và tinh thần, bạo lực gia đình, tệ nạn xã hội (mại dâm,bn bán phụ nữ...), các định kiến xã hội - văn hoá... Như vậy, SKSS cóliên quan đến nhiều vấn đề xã hội. Việc chăm sóc SKSS của phụ nữ cần

<small>được mở rộng khơng chỉ ở góc độ sinh học mà cịn đặt trong tương quan các</small>

van đề xã hội — văn hóa như đói nghèo, bất bình dang giới, sự hưởng lợichính sách, sự tiếp cận thông tin...

<small>1.2.3. Lao động xuyên biên giới</small>

<small>Theo IMO, người lao động XBG là những người có hoặc khơng có</small>

dia ban làm việc có định. Họ thường thay đổi noi làm, nơi ở, di chuyển giữanhiều địa điểm để đảm bảo khả năng thu nhập tốt hơn và để trốn tránh

những quản lý của chính quyền.

<small>Theo phân loại của Viện Khoa học lao động và xã hội (2013), các di</small>

cư qua biên giới có các hình thức: xét về pháp lý có di cư hợp pháp va di cưbất hợp pháp; xét về tính chất thời gian có di cư tự do con thoi theongày/tuần/tháng, di cư không thường xuyên và di cư dé định cư lâu dài; xétvề quy mơ có di cư đơn lẻ và di cư cả hộ gia đình.

<small>Theo phân loại của Bùi Xuân Đính, Nguyễn Ngọc Thanh (chủ biên,</small>

2013), các hoạt động lao động qua biên giới gồm: bán hàng kiêm phiên dịchcho người Trung Quốc, tô chức bốc vác, vận chuyển hàng hóa ở các cửa

khâu, đi làm ăn xa (làm thuê nông nghiệp). Theo các tác giả, “đi làm ăn xa”là khái niệm chỉ những người vì nhiều lý do khác nhau phải đời quê hươngđể mưu sinh tại các địa phương (cả ở trong nước và ngồi nước), bằng cáccơng việc khác nhau với thời gian đài ngày; một thời gian lại trở về nghỉ ngơi,

giải quyết công việc gia đình rồi lại đi đợt khác.

Trên cơ sở tham khảo các cơng trình nghiên cứu và thực tế khảo sát,chúng tôi tiếp cận hoạt động lao động XBG của phụ nữ các dân tộc Tày,Ning ở huyện Văn Quan là việc làm thuê ở Trung Quốc mỗi dot tối thiêu từ

<small>33</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38">

một tuần trở lên, xuất cảnh khơng có giấy thơng hành hoặc có giấy thơnghành nhưng không đảm bảo đầy đủ pháp lý, không được tổ chức bởi các

<small>đơn vị hợp pháp. Người lao động tham gia hoạt động lao động XBG mà</small>

khơng có hợp đồng lao động, không thuộc phạm vi điều chỉnh của LuậtNgười lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng (2006).

Hoạt động lao động XBG bao gồm làm th trong nơng nghiệp (thu hoạchmía, làm cỏ,...) và làm thuê trong nhà xưởng. Đối tượng nghiên cứu củaluận án không bao gồm các hoạt động lao động XBG khác, như: bn bán

<small>hàng hóa, bn bán người, bn lậu, mại dâm, môi giới, phiên dịch, cửu</small>

1.3. Cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu

Đề nghiên cứu vẫn đề chăm sóc SKSS của phụ nữ dân tộc Tày, Nùng

trong lao động XBG, luận án đã chọn các lý thuyết, cách tiếp cận trongNHYT và các lý thuyết, khung phân tích về Di cư và Sức khỏe.

1.3.1. Cơ sở lý thuyết và cách tiếp cận trong Nhân học Y tế

Những nghiên cứu của nhân học trong lĩnh vực sức khoẻ đã phát triển

thành một phân ngành riêng, gọi là NHYT. Thuật ngữ “Nhân học y tế”

(Medical Anthropology) đã được nêu ra từ trước đại chiến thế giới lần thứ

<small>II, nhưng mãi tới sau những năm 1970, thuật ngữ này mới được sử dụng</small>

rộng rãi. NHYT tìm hiểu về cách thức mọi người ở những nền văn hóa khácnhau và những nhóm xã hội khác nhau giải thích về ngun nhân của tìnhtrạng sức khỏe, cách thức điều trị mà họ tin tưởng và người mà họ tìm đếnkhi 6m đau, bệnh tật. Đồng thoi, NHYT cũng nghiên cứu những niềm tin vàthực hành đó có liên quan đến những thay đổi về thé chất và tâm lý của con

<small>người, ở cả góc độ sức khỏe va bệnh tật (Helman, 1990). NHYT được coi là“một ngành van hoá — sinh học (“bio-cultural discipline”) quan tâm tới cảkhía cạnh sinh học và văn hoá — xã hội của ứng xử con người và những cách</small>

<small>mà các nhân tô này tương tác với nhau, ảnh hưởng tới sức khoẻ và bệnh tật</small>

<small>34</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 39</span><div class="page_container" data-page="39">

trong suốt tiến trình lich sử của nhân loại” (Foster & Anderson, 1998)!*. Cácnghiên cứu của NHYT cung cấp hiểu biết về các van dé có liên quan tới sứckhoẻ, bệnh tật, và cách phòng tránh, cách điều trị của con người trong xã hội

cụ thé, và góp phan trực tiếp vào giải quyết các van dé đó

NHYT không chỉ đặc trưng bởi một lý thuyết duy nhất (Thomas

Barfield, 1997) và có nhiều cách tiếp cận trong NHYT. Với đối tượng,

phạm vi và mục tiêu nghiên cứu đã đưa ra, luận án sử dụng các lý thuyết và

cách tiếp cận trong NHYT như sau:

1.3.1.1. Ly thuyết và cách tiếp cận diễn giải văn hoá

Thuyết diễn giải văn hoá lần đầu tiên được Geertz đề cập trong

nghiên cứu của ông về hiện tượng nuôi ga chọi ở Ba-li (Indonesia) và được

hệ thống thành cách tiếp cận lý thuyết trong cơng trình “Giải thích văn hóa”(Geertz, 1973)”. Theo đó, văn hoá là một mạng lưới ý nghĩa và một hệthống các biểu tượng. Việc phân tích văn hố khơng phải là một khoa học

<small>thực nghiệm di tìm quy luật mà là một khoa học giải thích đi tìm ý nghĩa.</small>

Văn hố khơng tồn tại ngồi các cá nhân, mà nằm trong những lời giải thích

của họ về các sự kiện và các vật xung quanh. Vì vậy, nghiên cứu nhân họckhông phải là một sự mô tả hời hợt, chỉ nghiên cứu những biểu hiện bênngồi có thể quan sát được của các hiện tượng văn hoá xã hội, mà là một sựmơ tả sâu, nghiên cứu để tìm ra ý nghĩa của các hiện tượng quan sát được.Đối với các nhà nhân học, vẫn đề về sức khỏe, đau ốm hay bệnh tật chỉ có

thé hiểu được khi đặt trong bối cảnh cuộc sống hàng ngày của cộng đồng, cánhân cụ thể. Do đó, nhà nghiên cứu ln quan tâm đến các mối quan hệ xãhội và tương tác xã hội (H. O. Mogensen và cộng sự, 2005). Đề làm được

như vậy, cần thiết lập mối quan hệ hoà hợp, lựa chọn thơng tín viên, hệ

thống tài liệu, văn bản... Đồng thời, kiến thức về hệ thống và tổ chức văn

hóa là một phần của khả năng chỉ ra những vấn đề của người bệnh thơng qua

<small>" Trích theo Đặng Vũ Trung và cộng sự (2003).</small>

<small>3 Trích theo Nguyễn Văn Thắng, Hồng Lương (2010).</small>

<small>35</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 40</span><div class="page_container" data-page="40">

các nhìn nhận về kinh tế, chính trị và các yếu tố xã hội có ảnh hưởng đến tình

<small>trang sức khỏe, hành vi sức khỏe (Winkelman, 2009).</small>

Các nghiên cứu về chủ đề sức khỏe sử dụng cách tiếp cận diễn giảivăn hóa dé giải thích ý nghĩa của hành vi, cách ứng xử liên quan tới bệnhtật, sức khỏe và chăm sóc sức khỏe theo quan điểm của những người dân địa

phương, trong một cộng đồng cụ thé. Với cách tiếp cận này, nhà nghiên cứutập trung tìm hiểu “cách thức các cá nhân là thành viên của những nền văn

<small>hóa khác nhau suy nghĩ, ứng xử với bệnh tật, nguyên nhân gây bệnh cũng</small>

như cách họ tô chức xã hội của mình nhằm phịng chống bệnh tật” (Fabrega,

1975) '. Trước đây, NHYT thường quan tâm đến văn hóa của các tộc ngườibên ngồi nền văn hóa của nhà nghiên cứu. Tuy nhiên, đến nay, NHYT mởrộng sự quan tâm của mình đến các tiểu nhóm văn hóa trong xã hội, đặc biệtcác nhóm dễ bi ton thương như người nghèo, người khuyết tật, người di cư,

<small>phụ nữ, trẻ em.</small>

Theo cách tiếp cận diễn giải, hệ thống y tế được nhìn nhận như là một

<small>hệ văn hóa đa ngun (xem Hình 1.1). A. Kleiman (1978) đưa ra mơ hình hệ</small>

thống y tế gồm 3 đơn nguyên văn hóa. Đó là: y học dân gian, y học hiện đại

chính thống (chun mơn), y học phơ thơng (thường thức).

Hình 1.1. Mơ hình hệ thống y tế đa nguyên

</div>

×