Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (57.54 MB, 276 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">
<small>Hà Nội — 2022</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">Chuyên ngành: Ngôn ngữ hoc so sánh - đối chiếu
Mã số: 62 22 02 41
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. NGUYÊN HỎNG CỒN
<small>Hà Nội — 2022</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của tơi. Các số liệu, kết quả
<small>được trình bày trong luận án này là trung thực, không trùng lặp và chưa từng được</small>
công bố trong bat kỳ công trình nào khác.
<small>Tác giả luận án</small>
Tran Thi Trung Hiéu
</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">LỜI CÁM ƠN
Trước hết, tôi xin gửi lời biết ơn sâu sắc tới PGS.TS. Nguyễn Hồng Cén nhà khoa học đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tơi, chia sẻ những ý kiến quý báu trong
-suốt thời gian học tập và hồn thành luận án. Tơi cảm thấy vơ cùng may mắn khi
được làm việc với Thay.
Ngồi ra, tôi chân thành cám ơn các thầy cô trong Khoa Ngôn ngữ họcTrường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội, cácchuyên gia về lĩnh vực ngôn ngữ học, ngoại ngữ ở Việt Nam đã giúp tôi trau déikiến thức chuyên môn trong q trình học tập và nghiên cứu.
<small>Tơi cũng xin cám ơn Ban Chủ nhiệm Khoa Ngôn ngữ học của Trường Đại</small>
học Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội, và Ban Chủ nhiệmKhoa Tiếng Anh của Trường Đại học Ngoại thương Hà Nội đã tạo điều kiện tốtnhất cho tôi trong suốt quá trình học tập và hồn thành luận án.
<small>Sau cùng, tơi xin cảm ơn gia đình đã ln bên tơi, bạn bè đã ln ủng hộ tơi,</small>
<small>đồng nghiệp đã ln khích lệ tôi trong thời gian qua.</small>
<small>Tác giả luận án</small>
Tran Thị Trung Hiếu
</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5"><small>MỤC LỤC</small>
986271022527. ::£°2ÍAäAä... 71. Lý do chọn đề tài...--- ¿52 tk EEk9EE9E12112112112121111111111121. 2111111111111 c0. 72. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu...- -- 2-2 + ++++++E+£EE£EE++EzExerxrrkerrerrkerkee 9
<small>3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án...-- 5+ «+ £++xx+eexseessees 104. Phương pháp nghiên cứu và ngữ liỆU... .-- - 6 S23 E 2 SE ng 11</small>
5. Ý nghĩa của luận án...---- 2-2 2 E+SE2E£2EE2EEEEEE2E12E157171121121171 11.21.1111, 12
6. Điểm mới của luận AN ...---¿- 2 + ©+£+S£2SE£EE£EEEEEEEEEEEEEEE211221271 21211211. re, 137. Bố cục của luận ấn...---- ¿2 E+SE£EE£2E2EE9E1E21211221271212112111171211 21111. 13
CHƯƠNG 1: TONG QUAN TINH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN 15
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu ...---2--2¿ 2£ ©5+22++2£+2E++£x+zzxzzxerxesrxs 151.1.1 Tình hình nghiên cứu về dịch thuật và dịch thuật Anh - Việt... 15
<small>1.1.2 Tình hình nghiên cứu về phát ngơn cầu khiến và dịch thuật phát ngơn cầu</small>
khiến Anh — VIiỆP...---¿-©2- ©5221 2x 21122122121121121127121121121111111211211 11111 xe. 21<small>1.2 Cơ sở lý luận...-:- 2-22 2+EE2EE22E122112711211211711211121171111111211 011111 ce6 28</small>
1.2.1 Dịch thuật và các vấn đề liên quan...---2- 2: 52252+2E+£E££E£EE2EEeEEerrerrerred 28
1.2.2. Hành động cầu khiến và phát ngơn cầu khiến ...----:-- ¿5z 42
CHUONG 2: KHAO SAT CÁC PHÁT NGƠN CAU KHIEN TIENG ANH
2.1. Tình hình str dụng các phát ngơn cầu khiến tiếng Anh trong “Gone with
2.1.2 Phân loại và thống kê các kiểu phát ngơn cầu khiến tiếng Anh trong “Gone
<small>\,211181:10140)0 khẳăẳäăẳ... 71</small>
2.2. Hình thức biểu hiện của các phát ngơn cầu khiến tiếng Anh trong tác
phẩm “Gone with the wÏHt”,... 5 Set kETEEE1111111 1111112111111 1 xerru 73
2.2.1 Khái quát về hình thức biểu hiện của các phát ngơn cầu khiến tiếng Anh trong
<small>“Gone with the WIfid””... - - - - << 1101111111111 11111 SE SE g05551 1 1k KEEEEEEEEEEEnghưy 73</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6"><small>2.2.2 Hình thức biểu hiện của các phát ngôn cầu khiến cạnh tranh trong “Gone with</small>
<small>7/6077. ... 95</small>
2.4. Tiểu kết... tt HH Hư gưệg 111
TIENG ANH QUA BAN DICH CUA DUONG TUONG ...--- 1133.1. Khái quát về cách dich các phát ngôn cầu khiến tiếng Anh sang tiếng Việt
<small>trong bản dịch của Dương Tường ...- --- cà SH HH Hệ, 113</small>
3.1.1 Cơ sở đánh giá dịch tương đương phát ngôn cầu khiến tiếng Anh trong bản
CAU KHIEN TIENG ANH CUA DƯƠNG TƯỜNG VA VU KIM THƯ... 1514.1. So sánh cách dịch các phát ngôn cầu khiến tiếng Anh của Dương Tường va
<small>M4.) 0 ... 151</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">4.1.1. Kết quả khảo sát cách dịch tương đương các phát ngôn cầu khiến tiếng Anh
<small>trong bản dịch của Dương Tường va Vũ Kim Thư... ... 5c 52c sSssscsseseexss 151</small>
4.1.2 So sánh cách dịch các phát ngơn cầu khiến cạnh tranh chính danh và khơngchính danh (điển cứu tiêu nhóm Ra lệnh/OreT')...-- 2 + + s+£s2 +2 £z£zz££+sez 1534.1.3. So sánh cách dich các phát ngôn cầu khiến hồ đồng khơng chính danh (điển
cứu tiêu nhóm Rủ/ Gợi ý (Sugggesf))...----¿- 2-55 2S2+EE£EEEEEEE2EEEEEEEECrErrrrrree 166
<small>4.1.4 Nhận XÉC... HH HH HH HH TT TT HH HH TH nh nh HH Hàng 176</small>
4.2. Đánh giá cách dịch các phát ngôn cầu khiến tiếng Anh của Dương Tường
<small>MAI .iiNMÌCÝ... 1764.2.1. Đánh giá cách dịch của Dương TưỜng ...- ---- 6 S5 + E+kEsesseesees 1774.2.2. Đánh gia cách dịch của Vũ Kim Tư... .-- 6 55 + + *irerrrsrrre 180</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">DANH MỤC CAC Ki HIEU VA CHỮ VIET TAT
<small>VKT = Vũ Kim Thư</small>
<small>Vụ = VỊ từ/ Verb (Động từ chính)O = Object (Tan ngữ)</small>
<small>Vnh = VỊ từ ngơn hành</small>
Vek = Vị từ cầu khiến
Vnhck = Vị từ ngôn hành cầu khiếnVttck = Vị từ tình thái cầu khiến
Tck = Tiểu từ cau khiến
CLCK = Chiến lược cầu khiến
YTBT = — Yếu tổ bổ trợ
+ = Thông tin giống nhau
<small>Thông tin khác nhau</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">DANH MỤC CÁC BANG
Bang 1.1: Các kiểu tương đương dịch thuật ...- --2- 5-52 2+S++Ec2Eczxerxerxerseree 39Bang 1.2: Bảng phân loại nhóm Khuyến lệnh theo A. Wierzbicka (1987)... 53Bảng 2.1: Phân loại khái quát các PNCK tiếng Anh trong tác pham theo mức độ de
dọa thé diện ...--c:-52 +22 2 222111222111 2...1. rrrrerie 72Bảng 2.2. Phân loại các PNCK tiếng Anh theo CLCK trực tiếp — gián tiếp... 73Bảng 2.3: Phân loại các PNCK tiếng Anh theo mơ hình cấu trúc của Blum Kulka và
<small>các cộng sự (1989: 2778-28) ... -- HH TH TH ng tr ườ 76</small>
<small>của Blum IKKa...- - s5 110119010 HT ng re 80</small>
Bảng 2.5: Phân loại các tiêu loại của PNCK tiếng Anh theo mức độ trực tiếp — gián tiếp 81
<small>Bảng 2.6: Tổng hợp các PNCK chính danh và khơng chính danh ... 84</small>
<small>Bang 2.7: Phân loại các PCNK cạnh tranh ... - --- c5 S+**+k+seeEseeeeeerseeers 85</small>
Bảng 2.8. Thống kê các PNCK khơng chính danh thuộc ...--..---:--:- 89Bảng 2.9: Phân loại các PNCK hòa đồng khơng chính danh...---- 2-2: 92Bảng 2.10: Phân loại hành động lệnh tiếng Anh trong nhóm ORDER ... 95
Bang 2.11: Phân loại các tiêu nhóm của nhóm Mệnh lệnh thức theo... 97Bang 2.12: Phân loại các tiéu nhóm của nhóm Rử/ Gợi ý theo động từ chính Head-Act105Bang 2.13: Thống kê tông hợp số lượng và tỉ lệ các PNCK thuộc...- 109Bảng 3.1: Bảng thống kê các PNCK theo các cách dich tương đương của DT...121
Bảng 3.2: Bang thống kê tương đương cụ thé từng tiểu nhóm theo ban dịch của DT..122
Bảng 4.1: Bảng thống kê các PNCK theo các cách dịch tương đương của DT và VKT 152Bang 4.2: Bảng thống kê tương đương cu thé từng tiểu nhóm theo bản dịch của DT
</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">DANH MỤC CÁC BIEU DO
Biểu đồ 2.1: Tỉ lệ các số lượng phát ngơn theo tiểu nhóm thuộc nhóm Mệnh
<small>lệnh there ...----¿-©2<2+2EE£2EEE2112711271211211271211211 T1. .T1.11 1111.1111 re. 103</small>
Biểu đồ 2.2: Tỉ lệ các số lượng phát ngơn theo tiểu nhóm thuộc nhóm Rủ/ Gợi ý 108
DANH MỤC CÁC HÌNH VE
Hình 1.1: Mơ hình lý thuyết dịch thuật của Bell...--- e- e+5e+x+ererererrreses 31
Hình 1.3: Mơ hình lý thuyết dịch thuật của C{ƒOFd... ..- --c«ssss+sseksseeessee 32
MỞ DAU
1. Lý do chọn đề tài
Dịch thuật đóng vai trò quan trọng trong đời sống xã hội và giao lưu văn hoácủa con người, là chiếc cầu nối giúp con người vượt qua những khác biệt về ngônngữ và văn hố, góp phần nâng cao hiệu quả giao tiếp, tăng cường hiểu biết lẫnnhau, duy trì và phát triển các mối quan hệ, giải quyết bất đồng quan điểm do ngơnngữ. Nếu khơng có dịch thuật, mỗi nước với những nền văn hóa khác nhau sẽ cólịch sử của riêng mình, phát triển biệt lập và khơng hình thành nên lịch sử thế giới.Dịch thuật là mạng kết nối cả quá khứ và hiện tại, mở ra tương lai của lịch sử thếgiới, vốn là kết quả của nhiều nền văn hóa, văn minh, ké cả văn minh thời cô đạichưa được giải mã. Trong nên kinh tế hội nhập, dịch thuật nói chung hay dịch thuậtAnh — Việt nói riêng càng đóng vai trị quan trọng. Tiếng Anh đã được chọn làmngôn ngữ quốc tế phổ thông nhất trong bối cảnh tồn cầu hóa và được sử dụng trongmọi lĩnh vực từ học tập, nghiên cứu khoa học đến kinh doanh hay giao dịch quốc tế.
<small>Dé giải quyết những van đề gặp phải khi giao tiếp với bạn bè quốc tế, dịch thuật là</small>
yếu tố không thể thiếu giúp hai bên hiểu rõ nhau hơn.
Mặt khác, xét từ góc độ ngơn ngữ học, dịch thuật trước hết là một hoạt động
giao tiếp bằng ngôn ngữ - giao tiếp liên ngữ, liên quan trực tiếp đến hệ thống ngôn
ngữ, đến năng lực ngôn ngữ và khả năng ngôn hành của con người với tư cách là
chủ thê của hoạt động giao tiếp. Vì vậy, dịch thuật được coi là đối tượng quan tâm
của ngôn ngữ học. Đây cũng là lý do đầu tiên chúng tôi lựa chọn hướng nghiên cứu
<small>thuộc vào tương đương dịch thuật được lựa chọn, phương pháp dịch thuật được sử</small>
dụng, và các nhân tố văn hoá- xã hội liên quan đến q trình dịch một tác phẩm.
“Khơng thé có dịch thuật nếu khơng có một nền tảng ngơn ngữ học vững chắc. Nềntảng này phải là sự nghiên cứu đối chiếu các hiện tượng ngôn ngữ và chỉ ra cáctương đồng giữa ngơn ngữ gốc và ngơn ngữ dịch. Đó là những tương ứng trong lĩnh
<small>vực từ vựng, thành ngữ, cú pháp và phong cách và chúng phải tạo thành cơ sở ngơn</small>
ngữ học của lí thuyết dịch” (Resker 1950: 156).
</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">Thứ hai, chúng tôi chọn các phát ngơn cầu khiến (PNCK) làm đối tượngnghiên cứu chính vì trong q trình giao tiếp, các phát ngơn này có khả năng tiềmtàng nguy cơ làm mất thể diện người đối thoại. Muốn đạt hiệu quả cao khi cầukhiến, người nói phải có nghệ thuật trong việc sử dụng các phương tiện ngôn ngữ
dé chuyên tải nội dung yêu cầu của mình. Tuy nhiên, hiện nay, chúng ta quan tâm
nhiều đến PNCK nhưng it ai quan tâm đến tính lịch đại và đồng đại của nó, đặc biệtcàng ít quan tâm van dé dịch thuật sao cho phù hợp. Việc chuyển dịch thành công
các PNCK Anh - Việt, cụ thể trong tác phẩm văn học, phụ thuộc nhiều vào ưu tiêncủa người dịch trong việc chọn lựa và thiết lập loại hình tương đương hợp lí. Khó
khăn lớn nhất trong dịch tương đương văn học Anh — Việt không phải là tìm từ vàcu trúc thích hợp dé dich sang ngôn ngữ dich, mà người dịch phải hiểu được nghĩamục đích và nghĩa liên tưởng của tồn bộ tác pham được dịch. Điều này khơng chỉđịi hỏi phải biết nghĩa của từ và mối quan hệ cú pháp, mà người dịch phải đặt mìnhtrong hồn cảnh lịch sử và văn hóa của tác phẩm, nhạy bén với tất cả các hình thứcsắc thái của các biện pháp tu từ được sử dụng.
Đề làm rõ van dé vừa trình bày, chúng ta cần so sánh các bản dịch của các
tác giả khác nhau cùng thời hoặc khác thời đại. Đây cũng là lí do tiếp theo chúng tơi
<small>chọn hướng nghiên cứu tương đương dịch thuật Anh — Việt, qua so sánh nguyên</small>
bản tác phẩm “Gone with the wind” (1936) của tác giả Margaret Mitchell và hai bandịch cùng tựa đề “Cuốn theo chiều gió” của dịch giả Vũ Kim Thư (VKT) (xuất bảnlần đầu trước năm 1975, Nhà xuất bản Văn hoc tái bản vào tháng 1 năm 2016) và
của dịch giả Dương Tường (DT) (xuất bản lần đầu 1987, Nhà xuất bản Hội Nhà văn
tái bản vào tháng 1 năm 2009). “Gone with the wind” là một tác pham văn học kinhđiển nổi tiếng và được nhiều người trên thế giới cũng như người Việt Nam yêuthích. Độ dài tác phẩm cho phép khai thác đủ dữ liệu về PNCK. 833 PNCK được
thống kê trong nguyên bản đủ độ tin cậy dé chúng tôi tiến hành mô tả, phân tích và
đánh giá. Việc chọn hai dịch giả khác nhau về giới tính, vùng miền và thời gian dịchtác pham (Dương Tường: dịch giả nam, người miền Bắc, dich tác phẩm năm 1987;Vũ Kim Thư: dịch giả nữ, người miền Nam, dịch tác phẩm trước năm 1975) sẽ cho
</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">chúng tơi cái nhìn đa chiều về cách chuyển dịch các PNCK Anh - Việt. Điều nàyrất hữu ích cho mục đích mà luận án đang hướng đến.
<small>Bên cạnh đó, chúng tơi chọn hướng nghiên cứu tương đương dịch thuật trong</small>
tác phẩm văn học vì những khoảng trống trong dịch thuật văn học ở Việt Nam cũng là
vấn đề đáng được bàn đến. Văn học dịch được coi là cây cầu kết nối giữa các nền văn
học khác nhau. Công chúng Việt Nam đã được tiếp cận với rất nhiều tác phẩm văn họckinh điển của thế giới nhờ sự nỗ lực của đội ngũ dịch giả và các nhà xuất bản. Tuynhiên, dịch thuật văn học Việt Nam đang ton tại nhiều van đề liên quan đến chất lượngdịch thuật, tính chuyên nghiệp của dịch giả tỉ lệ nghịch với nhu cầu thị hiếu của công
đang thiếu hệ thống lý luận về dịch thuật. Trong ba yếu tố của một nền dịch thuật là
<small>dịch, biên tập và phê bình, chúng ta chỉ tập trung làm được công đoạn dịch, không cóphê bình cho sách dịch. “Khi giới thiệu, chúng ta chỉ nêu nội dung và giá trị của sách</small>
gốc, không hề nhận xét một câu nào về bản dịch và dịch giả. Và mới đây, khi có mộttrang mạng nước ngoài chỉ ra các lỗi của nhiều bản dịch gần đây, chúng ta mới pháthiện ra rằng đến công đoạn biên tập cũng khơng có. Các nhà xuất bản, nhà sách hiện
nay khơng có người đọc chuẩn một bản dịch chứ đừng nói là đọc đối chiếu bản gốc”
(dẫn theo Pham Xn Ngun, 2014). Vì thế, dé có lý thuyết về dich văn chương canphải có sự hỗ trợ của ít nhất hai môn lí luận khác là: Văn học so sánh và Ngôn ngữ học,
cụ thê là ngôn ngữ học so sánh - đối chiếu.
<small>Với những lí do nêu trên, việc nghiên cứu so sánh tương đương dịch thuật các</small>
PNCK Anh - Việt là một dé tài rất có ý nghĩa và cần thiết trong bối cảnh hiện nay.2. Đối tượng và phạm vỉ nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là tương đương dịch thuật các PNCK Anh— Việt thé hiện qua nguyên bản tác phẩm “Gone with the wind” và hai ban dịch
tiếng Việt của Dương Tường và Vũ Kim Thư.
Về phạm vi nghiên cứu, chúng tơi khảo sát các PNCK chính danh và khơngchính danh trong các nhóm cầu khiến cạnh tranh và cầu khiến hịa đồng trong tồntác phẩm. Tuy nhiên, do số lượng và kiểu loại các PNCK khá lớn, chúng tôi giớihạn điển cứu tiêu nhóm Ra lệnh (Order) - một trong những điển hình của nhóm
</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14"><small>PNCK cạnh tranh có mức đe dọa thể diện cao và tiểu nhóm Rủ (Suggest) - một</small>
trong những điển hình của nhóm PNCK hịa đồng có mức đe dọa thé diện thấp. Khiđánh giá q trình dịch, chúng tơi chọn bản dịch của DT làm đối tượng nghiên cứutương đương chính, sau đó so sánh với bản dịch của VKT dé thấy rõ những ưu điểmvà hạn chế của hai dịch giả trong q trình dịch các PNCK. Lí do chúng tơi quantâm đến bản dịch của DT hơn vì bản dịch của DT được dịch sau năm 1975. Đây là
thời kì đất nước đã thong nhất nên bản dich ít có tính vùng miền hơn bản dịch của
<small>3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án3.1 Mục đích nghiên cứu</small>
<small>Thông qua việc nghiên cứu tương đương dịch thuật các PNCK Anh — Việt</small>
trong hai bản dịch tác phẩm “Gone with the wind”, luận án nhằm:
- Góp phần làm sáng tỏ thêm bản chất của tương đương dịch thuật nói chung và khả
<small>năng dịch tương đương các PNCK Anh - Việt nói riêng.</small>
- Chỉ ra sự ảnh hưởng của các nhân tố ngơn ngữ và các yếu tố ngồi ngơn ngữ (hồn
cảnh sống, ngơn ngữ và văn hố vùng miền) đối với việc lựa chọn cách dịch của
<small>dịch giả.</small>
- Hỗ trợ cho việc dạy và học cách dịch các PNCK từ tiếng Anh sang tiếng Việt, góp
phần nâng cao khả năng so sánh, đánh giá chất lượng bản dịch văn học Anh-Việt
cho sinh viên Việt Nam học tiếng Anh.
<small>3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu</small>
- Tổng quan tình hình nghiên cứu, xác lập cơ sở lý thuyết cho việc nghiên cứu, đánhgiá tương đương dịch thuật các PNCK Anh — Việt và xác lập các tiêu chí để đánh
<small>giá bản dịch.</small>
- Khảo sát (thống kê, phân loại) và mô tả các PNCK tiếng Anh được dùng trong
nguyên bản tác phẩm “Gone with the wind”.
- Khảo sát cách dịch các PNCK tiếng Anh sang tiếng Việt qua các bản dịch của DT<small>và VKT.</small>
<small>10</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">- So sánh cách dịch các PNCK trong các bản dich của DT và VKT dé thấy rõ nhữngưu điểm và hạn chế trong cách dịch của hai dịch giả.
<small>- Tìm hiểu các nhân tố chi phối dịch tương đương và những hạn chế trong việc dịch</small>
<small>các PNCK Anh — Việt ở hai bản dịch hữu quan.4. Phương pháp nghiên cứu và ngữ liệu</small>
<small>4.1 Phương pháp nghiên cứu</small>
Để khảo sát đối tượng nghiên cứu, ngoài hai phương pháp luận chung cho
<small>mọi khoa học là diễn dịch (deduction) và quy nap (induction), luận án sử dụng các</small>
<small>phương pháp nghiên cứu ngơn ngữ học chính sau đây:</small>
- Phương pháp miêu ta được dùng dé phân tích các đặc điểm (cấu trúc, ngữ nghĩa vàchức năng) của các PNCK được khảo sát trong văn bản nguồn (VBN) và các văn
<small>bản đích (VBĐ).</small>
<small>- Phương pháp phân tích dién ngơn được dùng dé khảo sát bối cảnh sử dụng các</small>
<small>PNCK trong các văn bản hữu quan.</small>
- Phương pháp so sánh đối chiếu nhằm xác định mức độ tương đương (qua những
tương đồng và khác biệt) giữa các đơn vi dịch thuật được khảo sát (câu/ phát ngơn)
<small>của VBN và VBĐ.</small>
<small>Ngồi ra, luận án còn sử dụng các thủ pháp nghiên cứu khác như so sánh,</small>
phân loại, thống kê, phân tích ngữ cảnh và ngôn ngữ học xã hội dé làm sáng tỏ cácvấn đề liên quan đến tương đương dịch thuật và mối quan hệ giữa q trình dịch vớihồn cảnh giao tiếp và bối cảnh lịch sử, văn hóa, xã hội.
- Thủ pháp so sánh được sử dụng để so sánh nội dung và hình thức biểu hiện của
<small>các PNCK trong VBN và 2 VBĐ nhằm xác định mức độ tương đương của các đơn</small>
<small>vị dịch thuật được khảo sát.</small>
- Thủ pháp phân loại: được dùng để phân loại các PNCK và các phương thức dịchPNCK theo sự khác nhau về nội dung, hình thức biểu hiện và mức độ tương đương.
- Thủ pháp thống kê ngôn ngữ: được sử dụng để thống kê các phương tiện ngônngữ, số lượng các PNCK được sử dụng trong nguyên bản và các bản dịch, đồng thời
để tính tỉ lệ phần trăm tương ứng. Kết quả thống kê được dùng làm căn cứ cho việc
<small>phân tích, nhận xét, đánh giá mang tính định tính.</small>
<small>11</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16"><small>- Thủ pháp phân tích ngữ cảnh: phân tích ngữ cảnh tình huống và ngữ cảnh văn hóa,</small>
<small>trong đó PNCK được sử dụng với những mục đích khác nhau.</small>
<small>- Thủ pháp phân tích ngơn ngữ học xã hội: nghiên cứu chuẩn mực và phong cách sử</small>
dụng PNCK riêng biệt theo lãnh thổ, sự biểu hiện của các vùng ngôn ngữ và
<small>phương ngữ khác nhau.4.2 Ngữ liệu nghiên cứu</small>
Ngữ liệu được sử dung dé minh hoa và dẫn chứng được lấy từ các nguồn khác nhau:
- Nguyên bản tác pham “Gone with the Wind” của tác giả Margaret Mitchell đượcnhà xuất bản Macmillan phát hành lần đầu năm 1936, Pan Macmillan tai bản vào
PNCK tiếng Việt tương ứng với 833 PNCK tiếng Anh đã tìm được.
5. Ý nghĩa của luận án5.1 Ý nghĩa lý luận
Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần làm sáng tỏ các vấn đề lý thuyết
về tương đương dịch thuật nói chung và phương pháp dịch tương đương các PNCK
<small>Anh — Việt nói riêng, đồng thời cũng đóng góp cho việc nghiên cứu dịch thuật văn</small>
bản nghệ thuật (văn học) từ tiếng Anh sang tiếng Việt.5.2 Ý nghĩa thực tiễn
<small>12</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">Kết quả nghiên cứu của luận án là tài liệu tham khảo cho những ngườinghiên cứu về dịch thuật, dịch văn học từ tiếng nước ngoài và là nguồn tham khảo
<small>hữu ích cho việc dạy, học mơn dịch thuật trong dạy và học Anh ngữ hiện đại. Hơn</small>
nữa, kết quả nghiên cứu còn hữu dụng trong thực tế ứng dụng các PNCK dé đạt
được mục đích cầu khiến phù hợp trong giao tiếp.6. Điểm mới của luận án
Ở Việt Nam, việc nghiên cứu PNCK theo cách tiếp cận mới này chỉ mới xuất
hiện trên mười năm nay và được nhiều người quan tâm đến. Tuy nhiên, đây là cơngtrình đầu tiên nghiên cứu tương đương dịch thuật các PNCK trong một tác phẩmvăn học tiếng Anh sang tiếng Việt.
Trước đó, cũng có tác giả chọn cùng nguyên tác và ban dịch dé đối chiếu
tương đương dịch thuật, nhưng đây là một trong những cơng trình đầu tiên so sánh
cách dịch các PNCK của cùng một tác phẩm văn học tiếng Anh trong 2 bản dịchtiếng Việt và giải thích những tương đồng và khác biệt giữa 2 bản dịch từ góc độngơn ngữ và văn hố. Rõ ràng, dịch (đặc biệt là dịch văn chương) bao gồm việc
<small>dịch giả chọn lựa những từ ngữ hay cách diễn đạt theo sở thích, phong cách và cảm</small>
nhận riêng của họ nhằm tạo cảm hứng cho người đọc. Do đó, những bản dịch khác
biệt của cùng một văn bản có thé rất khác nhau. Chúng thé hiện phong cách, tài
<small>năng và sự cảm thụ riêng của những dịch giả khác nhau.</small>
Các tác giả trước đây tập trung nghiên cứu các loại câu cầu khiến đích thựctrong tiếng Việt, có ngơn trung là cầu khiến; đồng thời cũng sử dụng những câu cóhình thức là cầu khiến nhưng ngôn trung không phải là cầu khiến, so sánh đối chiếuchúng với những câu cầu khiến đích thực. Đây cũng là hướng đi chúng tơi đangquan tâm nhưng sẽ khai thác cụ thể hơn trong luận án của mình với hình thứcPNCK trực tiếp và gián tiếp, so sánh giữa tiếng Anh và hai bản dịch tiếng Việt củahai dịch giả khác nhau dé tìm ra điểm giống nhau và khác nhau. Đây cũng là điểm
<small>mới của luận án mà chưa được các nhà nghiên cứu trước đó quan tâm.</small>
7. Bố cục của luận án
Ngồi phần mở đầu, kết luận, danh mục tải liệu tham khảo và phụ lục, luận án gồm
<small>bôn chương như sau:</small>
<small>13</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18"><small>- Chương | trình bày tổng quan tình hình nghiên cứu về dịch thuật và dịch thuật</small>
Anh - Việt, cơ sở lý thuyết liên quan đến dịch thuật, tương đương dịch thuật, PNCKvà một số vấn đề lý thuyết khác liên quan đến đề tài nghiên cứu.
- Chương 2 khảo sát và phân loại các PNCK tiếng Anh trong nguyên bản tác phẩm
“Gone with the wind” theo sự khác biệt về mức độ đe doa thé diện và mức độ trực
tiếp — gián tiếp. Theo đó, mỗi chiến lược với từng tiêu nhóm phát ngơn cụ thể sẽ lần
lượt được thống kê, phân tích và mơ tả chỉ tiết.
- Chương 3 khảo sát cách dịch các PNCK tiếng Anh sang tiếng Việt qua bản dịchcủa DT. Thông qua việc khảo sát cách dịch hai tiêu nhóm Ra lệnh (Order) và Rủ/Gợi ý (Suggest) từ tiếng Anh sang tiếng Việt, luận án sẽ làm rõ những điểm giống
<small>và khác nhau trong cách dịch các PNCK giữa nguyên bản và bản dịch của DT.</small>
- Chương 4 kết hợp vừa khảo sát cách dịch sang tiếng Việt các PNCK tiếng Anh
theo sự khác biệt về mức độ de doa thé điện và mức độ trực tiếp — gián tiếp qua bản
<small>dịch của VKT vừa so sánh cách dịch các PNCK này qua bản dịch của DT và VKT</small>
dé thay rõ những điểm giống nhau và khác nhau trong cách dịch PNCK tiếng Anh
sang tiếng Việt của hai dịch giả.
- Kết luận tóm tắt lại những nội dung chính được nghiên cứu trong luận án, những
kết quả đạt được, nêu một số hạn chế của luận án và gợi ý hướng nghiên cứu trong
<small>tương lai.</small>
<small>14</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">CHUONG 1: TONG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN
Trong chương này, chúng tơi sẽ trình bày tổng quan tình hình nghiên cứu vềdịch thuật và dịch thuật Anh — Việt, xác lập cơ sở lý thuyết liên quan đến dịch thuật,tương đương dịch thuật, PNCK và một số vấn đề lý thuyết khác liên quan đến đề tài
<small>nghiên cứu.</small>
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
1.L.1 Tình hình nghiên cứu về dịch thuật và dịch thuật Anh - Việt1.1.1.1 Tình hình nghiên cứu về dịch thuật
Đóng góp vai trị quan trọng trong lịch sử phát triển thế giới, dịch thuật trởthành trung tâm bàn luận của các thế hệ dịch giả, nhà ngôn ngữ và nhà lý thuyếtdịch thuật. Tuy nhiên, chỉ từ những năm 50 của thế kỷ XX, dịch thuật với tư cách là
<small>một hoạt động ngôn ngữ mới được các nhà ngôn ngữ học chú ý, và quan tâm ứng</small>
dụng các thành tựu ngôn ngữ học cho các nghiên cứu lý thuyết và hoạt động thựctiễn của mình. Trong vòng hơn nửa thế kỉ qua, thực tế nghiên cứu cho thấy, cácnghiên cứu về dịch thuật trên thé giới và Việt Nam đã xuất hiện và phát triển cùngvới sự phát triển của nhiều ngành khoa học khác nhau, đặc biệt là ngôn ngữ học,dưới sự ảnh hưởng của nhiều khuynh hướng và nhiều trường phái lý thuyết ngôn<small>ngữ học khác nhau.</small>
Trên thế giới, ứng dụng lý thuyết ngôn ngữ học so sánh đối chiếu, không thékhông ké đến cơng trình nghiên cứu của nhà dịch thuật Nga Resker (1950) va Vinay& Darbelnet (1958). Resker, trong bài báo VỀ “sự tương ung có quy luật khi dich ra
tiếng mẹ đ¿” (1950), đã mô tả và phân loại các tương ứng từ vựng giữa văn bản
nguồn và văn bản đích thơng qua phân tích đối chiếu những tương đồng và khác
<small>biệt giữa hai văn bản. Sau Resker, Darbelnet (1958) đã áp dụng phương pháp phân</small>
tích đối chiếu trong cơng trình nghiên cứu các đặc điểm phong cách và tu từ của vănbản nguồn và văn bản đích. Bên cạnh đó, lý thuyết ngữ pháp cải biến — tạo sinh củaN. Chomsky xuất hiện vào đầu những năm 60 của thế kỷ XX lần đầu tiên được nhà
<small>dịch thuật học Mỹ E. Nida vận dụng vào các cơng trình nghiên cứu dịch thuật của</small>
mình. Lý thuyết dịch của Nida (1964) được phát triển với mơ hình tương đương
<small>động hướng đên người đọc (reader-oriented dynamic equivalence) ở cap độ câu va</small>
<small>15</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">phân tích sâu cấu trúc của câu. Từ chức năng luận Praha, Jakobson (1959) là ngườiđầu tiên đã đưa các nguyên lý của tín hiệu học vào nghiên cứu dịch thuật và dựa vàosự khác biệt về hệ thống tín hiệu được sử dụng, ơng đã phân biệt được ba loại hình
<small>dịch thuật cơ ban là dịch nội ngôn (intralingual translation), dịch liên ngôn(interlingual translation) va dịch liên tín hiệu (intersemiotic translation). Ngồi ra,</small>
ly thuyết chức năng — hệ thống trong ngơn ngữ học có ảnh hưởng đến lý thuyết dịch
<small>thuật của các nhà dịch thuật người Anh như J.R Firth và J. Catford. Firth (1935) ung</small>
hộ quan điểm phải xem xét ý nghĩa của các đơn vị ngôn ngữ thông qua các chứcnăng của chúng trong ngữ cảnh và vận dụng vào dịch thuật: “toàn bộ vấn đề dịchthuật nằm ở lĩnh vực ngữ nghĩa học” (Firth, 1935). Catford (1965) lấy lý thuyết ngữpháp phân cấp của Halliday làm nền cho lý thuyết dịch thuật tương đương “tùy
thuộc vào mức độ tương ứng giữa các đơn vị ngôn ngữ ở các cấp độ cấu trúc khác
nhau”. Bên cạnh đó, vận dụng lý thuyết hoạt động giao tiếp trong dịch thuật, trong
<small>các cơng trình nghiên cứu dịch thuật của mình, Nida & Taber (1969) và Svejcer</small>
mơ tả và giải thích như là một hoạt động giao tiếp liên ngữ và liên văn hóa. Và trênbình diện ngữ dụng học, có thé ké đến các cơng trình của Blum-Kulka (1986) và
<small>Hatim & Mason (1991). Trong các nghiên cứu này, các tác giả đã đi sâu khai thác</small>
quá trình dịch thuật, sản phẩm dịch thuật và mối quan hệ giữa chúng với hoàn cảnhgiao tiếp trên các bình diện phân tích diễn ngơn.
Tuy nhiên, Keenan (1973) lại nhắn mạnh mơ hình dịch thuật nên xét đến tất
cả các thành phan của văn bản. Việc dịch chính xác từ ngơn ngữ nguồn sang ngơn
<small>ngữ đích chưa đủ mà phải giữ được cách thức tương tác như trong nguyên bản.</small>
Gần đây, Hartmann (1980) và Gutt (1991) lại hướng người đọc nhiều về lý thuyếtdịch văn bản, bản dịch phải đi xa hơn cấp độ văn bản, hướng đến khám phá và đạtđược tính giao tiếp (communicative interaction), phải dịch được cái mà người đọc
bản dịch quan tâm. Quan điểm này đã được Peter Newmark (1995) phát triển ở
dé trong dịch thuật, chỉ ra các yếu tố dé xử lý vấn dé, liệt kê các phương án dịchthuật khả thi và đề xuất phương án phù hợp nhất dé tạo nên một bản dịch chất
<small>16</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21"><small>lượng nhất. Từ những phân tích trên đây, có thé nói, cách tiếp cận theo hướng giao</small>
tiếp là cách tiếp cận phổ biến nhất hiện nay trong các cơng trình nghiên cứu về dịchthuật trên thế giới.
Ở Việt Nam, cùng với sự phát triển của thực tiễn dịch thuật, ngay từ nhữngthế kỷ trước, việc nghiên cứu về dịch thuật đã thu hút sự chú ý của nhiều dịch giả,nhiều nhà văn cũng như các nhà nghiên cứu ngôn ngữ, văn học. Trong lịch sử
nghiên cứu về dịch thuật ở Việt Nam, Phan Huy Ích (1814) là dịch giả được đánh
giá thành công nhất với bản dịch “Chinh phụ ngâm” và các bài phê bình các bảndich cùng tác phẩm trước đó. Trong những năm đầu thế ky XX, các tác giả quantâm nhiều hơn đến dịch thuật, đặc biệt là dịch văn học từ Hán sang Việt. Từ saunăm 1954, các dịch giả, nhà văn và nhà nghiên cứu cũng chú ý nhiều hơn đến dịch
thuật, không kế dịch Hán -Việt mà cả dich từ các ngôn ngữ châu Âu sang tiéng
Việt. Ngày càng nhiều các bài viết, các bài phê bình bàn luận, chia sé kinh nghiệmdịch thuật hoặc nghiên cứu bố sung thêm lý thuyết về dịch thuật cịn chưa tồn diệntrước đó. Các hội nghị khoa học về dịch thuật được tô chức thường xuyên hơn,trong đó nhiều cơng trình chun khảo, tập bài hoặc kỷ yếu sau hội nghị được xuấtbản. Đặc biệt, Lê Quang Thiêm (1989) lần đầu tiên đã bàn luận đến một số vấn đềvề lý luận dịch thuật trong cơng trình “Đối chiếu các ngơn ngữ”. Mặc du nhữngđóng góp của tác giả còn đơn giản nhưng đã gợi mở những ý tưởng đầu tiên choviệc xây dựng một bộ môn nghiên cứu về dịch thuật và lý luận dịch thuật ở ViệtNam. Tuy nhiên, trong nghiên cứu dịch thuật ở Việt Nam, cho đến nay phan lớn các
cơng trình mới chỉ dừng lại ở mức độ mô tả, đối chiếu hoặc ứng dụng.
Gần đây, có rất nhiều tác phẩm nghiên cứu về dịch thuật khác được chúng tôitổng hợp theo trình tự thời gian và làm tài liệu tham khảo cho nội dung luận án về
dịch thuật nói chung, có thể kế đến như: Dịch thuật: từ lý thuyết đến thực hành(Nguyễn Thượng Hùng, 2005), Hoàng Văn Vân (2005) về bản chất và một số mơhình lý thuyết dịch thuật. Cơng trình nghiên cứu của Nguyễn Thượng Hùng đã tơng
hợp tương đối về lý thuyết dịch thuật và những vấn đề liên quan đến dịch thuật nói
chung và tương đương trong dịch thuật nói riêng. Nguyễn Hồng Cén cũng có nhiềuđóng góp về dịch thuật như Vấn dé tương đương trong dịch thuật (2001), Cơ sở
<small>17</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22"><small>ngôn ngữ học của nghiên cứu dịch thuật và bộ môn Dịch thuật học (2004), Dịch</small>
thuật: Bản chất và một số mơ hình lí thuyết (2005), Lược sử về dịch thuật (2006),Lược sử về nghiên cứu dịch thuật (2006), ... Ngoài ra, trong “Các phương pháp vathủ pháp dịch thuật”, Nguyễn Hồng Cơn (2006) cịn đề xuất và phân biệt phương
<small>pháp và thủ pháp dịch thuật, những lỗi thường gặp trong dịch thuật với những minh</small>
họa đối chiếu cụ thé tiếng Việt và một số ngôn ngữ. Hơn nữa, không thé khơng kế
đến những đóng góp của Lê Hùng Tiến (2007) về van đề phương pháp trong dịch
Trọng Tuấn (2008) về “Thông tin hàm ẩn trong dịch thuật văn chương” cũng được
<small>các nhà nghiên cứu dịch thuật quan tâm và đánh giá. Nhìn chung, những đóng góp</small>
của các tác giả rất đáng ghi nhận và làm phong phú thêm cho lý thuyết dịch thuật<small>nước nhà.</small>
<small>1.1.1.2. Tình hình nghiên cứu dịch thuật Anh — Việt</small>
Ứng dụng các lý thuyết về dịch thuật, với tư cách là đối tượng nghiên cứu
của ngơn ngữ học trong lí luận và thực tiễn, về gần đương thời, ở Việt Nam đã xuấthiện rất nhiều nghiên cứu về dịch Anh — Việt, trong đó chủ yếu là các luận án tiến singành ngôn ngữ học và ngôn ngữ học so sánh, đối chiếu. Đây cũng là nội dung
chúng tôi muốn khai thác sâu, trên cơ sở làm tài liệu tham khảo cho luận án của
mình. Trước hết, về van đề nghiên cứu dịch thuật Anh — Việt, Nguyễn Quốc Hùng(2005) đã đề cập đến cách dịch và kĩ thuật dịch từ tiếng Anh sang tiếng Việt trongcuốn sách “Hướng dan kĩ thuật dịch Anh — Việt”. Tác giả Lê Hùng Tién (2007) vớicơng trình nghiên cứu được đánh giá cao về “Van dé phương pháp trong dịch thuậtAnh — Việt”. Kế thừa và phát huy quan điểm của P. Newmark (1988), Lê Hùng Tiến
(2007) đã đề xuất phương pháp dịch nên được phân thành hai nhóm chính (hoặc
<small>chia đường hướng chính) là "ngữ nghĩa" và “ngữ dụng” hay theo ông là "ngun</small>
<small>văn” và "'tự do”.</small>
Trong vịng 20 năm qua, có đến hàng chục luận văn, luận án nghiên cứu về
dịch các kiểu câu, hành động ngơn từ, từ ngữ văn hóa hay thuật ngữ chuyên
ngành...từ tiếng Anh sang tiếng Việt. Từ năm 2007, Can Thị Thu Hà trong luận án
<small>tiên sĩ cua mình, đã nghiên cứu vê đặc điêm ngữ pháp của động từ “7o be” trong</small>
<small>18</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">tiếng Anh và đề xuất cách chuyển dịch sang tiếng Việt và Nguyễn Thị Ngọc Hànghiên cứu về “Cách chuyển dịch các yếu tô phủ định tiếng Anh sang tiếng Việt”.Trong luận án về “Khảo cứu việc dịch trạng từ tiếng Anh sang tiếng Việt (qua tácphẩm Harry Pottery’, Võ Ta Phuong (2011) đã tập trung nghiên cứu các trang từ
tiếng Anh về vị trí, cấu tạo và chức năng, sau đó tiễn hành khảo sát việc dịch củatrạng từ tiếng Anh sang tiếng Việt.
Nghiên cứu về từ ngữ văn hóa, có thể kể đến luận văn thạc Sỹ cua Kiều
Phương Nga (2007) về “Một số nhóm từ ngữ văn hóa trong tiếng Anh và các thủpháp chuyển dịch sang tiếng Việt”. Theo đó, tác giả đã chọn các từ ngữ thuộc haitrường từ vựng tên gọi động vật và trường từ vựng tên gọi thực vật trong tiếng Anhlàm đối tượng nghiên cứu. Từ đó, tác giả rút ra những nhận xét về cách thức chuyềndịch hai trường từ vựng này từ tiếng Anh sang tiếng Việt.
Về dịch các thuật ngữ chuyên ngành, luận án tiến sĩ “Dich Anh — Việt vănbản khoa học” của Lưu Trọng Tuấn (2008) đã cung cấp các thơng tin về lí luận,phương pháp và các ngun lí cùng các quy tắc có tính thao tác dịch thuật ngữkhoa học Anh - Việt. Luận án tiến sĩ của Nguyễn Thị Bích Hường (2014) về
<small>“Cách dịch thuật ngữ Anh — Việt chuyên ngành cảnh sat” là một trong những</small>
cơng trình đầu tiên hệ thống hóa tương đối đầy đủ về đặc điểm (nguồn gốc, cấutạo từ, ngữ nghĩa và cách sử dụng) của thuật ngữ tiếng Anh và tiếng Việt chuyênngành cảnh sát đề xuất được 6 kĩ thuật dịch thuật ngữ từ tiếng Anh sang tiếng
<small>Việt chuyên ngành cảnh sát.</small>
Về dịch thuật các kiểu câu Anh — Việt, Trần Thu Hiền (2009) trong “Khảo
sát tình hình chuyển dịch câu hỏi từ tiếng Anh sang tiếng Việt trên một số văn bảndich Anh — Việt” đã trình bày những khái niệm liên quan đến câu nghi van, câu nghỉvấn đích thực và lưu ý một số vấn đề khi tiến hành chuyên dịch câu nghi vấn, khảosát những nét tương đồng và khác biệt về cau trúc và ngữ nghĩa của câu nghi vanđích thực giữa hai ngơn ngữ Anh — Việt. Ngồi ra, tác giả còn điểm luận những lưu
ý về việc sử dụng từ xưng hô trong chuyên dịch dé so sánh đối chiếu kiểu câu nghi
vấn đích thực trong tiếng Anh và tiếng Việt. Gần đây, có đề tài nghiên cứu củaHồng Cơng Bình (2015) về “Câu bị động tiếng Anh và các phương thức chuyển
<small>19</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">dịch sang tiếng Việt”. Trên cơ sở các hình thức tương đương dịch thuật, tác giảkhảo sát việc chuyên dịch câu bị động tiếng Anh sang tiếng Việt và đề xuất lựa
<small>chọn áp dụng phương thức dịch phù hợp.</small>
Về dịch văn học và thơ ca, luận án tiến sĩ ngữ văn của Trịnh Thị Thơm(2014) với đề tài “Nghiên cứu phương thức chuyển dịch phát ngơn có hàm ý từtiếng Anh sang tiếng Việt (Trên cứ liệu ngôn ngữ hội thoại trong tác phẩm van
hoc)” là cơng trình đầu tiên nghiên cứu phương thức chuyền dich phát ngơn có ham
ý từ tiếng Anh sang tiếng Việt. Luận án về “Nghiên cứu đánh giá phê bình bản dịch
<small>Anh- Việt trong lĩnh vực văn học (văn xuôi) ” của Phạm Thi Thủy (2015) hay luận án</small>
của Trịnh Thu Hang (2019) về dịch các yếu tố văn hóa trong tác phẩm Harry Portersang tiếng Việt cũng là những cơng trình có ý nghĩa trong lĩnh vực dịch văn học.Kết quả luận án của Phạm Thị Thủy chỉ ra khả năng kết hợp đa phương pháp trongnghiên cứu dịch thuật: phân tích định tính kết hợp với phân tích định lượng, câu hỏitrắc nghiệm dụng học và phỏng vấn nhóm. Gần đây, Đồn Thúy Quỳnh (2019)trong “Đặc điểm của dịch ca khúc và bản dịch ca khúc Anh — Việt” đã đặc biệt quantâm tới dịch loại hình ngôn bản phục vụ cho đời sống tinh thần của con người, đó làca khúc. Bài viết đã trình bay đặc điểm của dich ca khúc và ban dịch ca khúc Anh-
Từ những phân tích trên, có thé thấy rằng các nhà nghiên cứu trong và ngoài
<small>nước đã quan tâm và đi sâu vào các khía cạnh của dịch thuật nói chung và dịch</small>
thuật Anh — Việt nói riêng cũng như trong các ban dịch văn học. Gần nhất vớinghiên cứu của chúng tôi, Trần Thị Kim Tuyến (2016) đã thực hiện đề tài“Nghiên cứu từ ngữ xưng hô qua lời thoại nhân vật trong tác phẩm “Gone withthe wind” và bản dịch “Cuốn Theo Chiêu Giớ”. Bản dịch của Trần Thị KimTuyến lựa chọn là của dịch giả VKT do nhà xuất bản Thời Đại tái bản năm 2009.Chọn cùng nguyên tác và bản dịch để đối chiếu tương đương dịch thuật, nhưng
<small>hướng khai thác của chúng tôi không tập trung vào nghiên cứu từ ngữ xưng hô</small>
như Trần Thị Kim Tuyến mà tập trung vào khảo sát dich tương đương các PNCKAnh — Việt trong văn bản gốc va hai bản dịch của dịch giả DT (tái bản năm
<small>2009) và VKT (tái bản vào năm 2016).</small>
<small>20</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">1.1.2 Tình hình nghiên cứu về phát ngơn cau khiến và dịch thuật phát ngơn caukhiến Anh — Việt
1.1.2.1. Tình hình nghiên cứu phát ngôn cầu khiến trong tiếng Anh và tiếng Việt1) Tình hình nghiên cứu về câu/phát ngơn cau khiến tiếng Anh
Trong tiếng Anh, các phát ngôn cầu khiến (PNCK) thường được nghiên cứutheo hai hướng: 1) Từ góc độ ngữ pháp, PNCK là một trong bốn kiểu câu/ phátngôn được phân loại như trong ngôn ngữ học truyền thống: 2) Từ góc độ ngữ dụng,PNCK là các phát ngơn biểu hiện hành động ngôn từ cầu khiến.
bốn kiểu câu đơn cơ bản dựa vào cấu tạo ngữ pháp. Trong đó, câu cầu khiến đượcmiêu tả dưới dang Commands (ra mệnh lệnh) được phan biệt với các kiểu câu cịnlại là câu tường trình - Statements; câu nghỉ van — Questions và câu cảm thán —Exclamations. Radford (1997) cũng ủng hộ quan điểm của Quirk và các cộng sự(1985) và chia thành các loại câu/ mệnh đề tương tự. Theo đó, câu cầu khiến vớihình thức mệnh lệnh thức (Imperative) được phân biệt với câu trần thuật
(Declarative), nghi van Unterrogative) và cam than (Exclamative). Sadock &
Zwicky (1985), mặt khác lại cho rang chỉ có ba loại câu chính, trong đó câu mệnhlệnh cũng được miêu tả với thức mệnh lệnh (Imperatives) khác với câu trần thuật(Declaratives) và cau nghi van (Interrogative). Rõ rang, Sadock & Zwicky (1985)không phân loại mệnh đề ma phân loại câu. Bên cạnh đó, trong ngữ pháp truyềnthống ở châu Âu, vấn đề nghĩa cầu khiến hay mệnh lệnh thường gắn với phạm trù
ngữ pháp thức (mood), một phạm trù đặc trưng của động từ trong các ngơn ngữ biến
<small>hình. Trong đó thức mệnh lệnh (imperative mood) biểu thị nguyện vọng, yêu cầu</small>
của người nói đối với việc thực hiện hành động được nêu lên trong câu, phân biệt
<small>với những thức thường gặp trong các ngôn ngữ là thức tường thuật, thức giả định và</small>
thức điều kiện. Trên tư tưởng đó, Reis (1999) phân chia các loại câu theo chức năng
ngữ pháp của câu, đó là: câu cầu khiến với thức mệnh lệnh (imperatives) phân biệtvới câu trần thuật (declaratives) và cau nghi van (interrogatives). Nhu vay, theo
hướng phân loại thứ nhất, câu cầu khiến được hiểu là một trong 4 kiểu câu phân loạitheo mục đích phát ngơn như ngơn ngữ học truyền thống.
<small>21</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26"><small>Theo hướng nghiên cứu thứ hai — hướng nghiên cứu dụng học, Austin (1962)</small>
<small>trong cơng trình nghiên cứu “How to do things with words” (Nói là hành động) đãphân biệt phát ngơn nhận định/miêu tả (constatives) và phát ngôn ngôn hành</small>
(performatives). Theo ông, một lời nói được dùng dé thực hiện hành động thơngqua các hành động ngôn từ ngay tại thời điểm phát ngôn. Searle (1979) đã kế thừalý thuyết hành động ngôn từ của Austin và đề xuất năm nhóm hành động ngơn từchính: nhóm hành động tun bố (declarations), nhóm hành động biểu hiện(representatives), nhóm hành động biểu cảm (expressives), nhóm hành động điều
Theo đó, PNCK thuộc nhóm hành động điều khién/ chi phối (directives) và có théđược phân loại thành hai tiêu nhóm chính: Cầu khiến địi hỏi thông tin (requests for
information) và cầu khiến yêu cầu hành động (requests for action). Trong đó,
PNCK có thể được thê hiện băng đa dạng các cau trúc câu như mệnh lệnh, nghi vấn,phủ định, tuyên bố hay tỉnh lược (dẫn theo Sifianou, 1992). Các hành động ngôn từcầu khiến dùng để “nhấn mạnh mong muốn của người nói đối với người nghe déthực hiện hành động trong tương lai, bằng ngơn ngữ nói hoặc phi ngơn ngữ” (Blum-<small>Kulka, House & Kasper, 1989:11).</small>
Thực tế, rất nhiều các nghiên cứu về cầu khiến được thực hiện bằng các ngôn
ngữ khác nhau, tuy nhiên trong quá trình nghiên cứu về PNCK, nổi bật nhất cần chúý đến là cơng trình nghiên cứu “Loi yêu cau và lời xin lỗi trong giao thoa ngữ dụng
<small>học” (Cross-cultural pragmatics: Requests and apologies) được thực hiện tai bảy</small>
vùng lãnh thé khác nhau bởi tác gia Blum-Kulka và các cộng sự (1989). Hau hếtcác cơng trình nghiên cứu kể trên đều chịu ảnh hưởng kết quả nghiên cứu trong
<small>cơng trình Cross-Cultural Speech Act Realization Project (CCSARP) của </small>
Blum-Kulka và các cộng sự (1989). Trong nghiên cứu nay, các hành động ngôn từ yêu cầuvà xin lỗi bằng tiếng Anh được nghiên cứu trong ba vùng nói tiếng Anh khác nhau(Anh Úc, Anh Mỹ và Anh Anh), tiếng Pháp của người Canada, tiếng Đan Mạch,tiếng Đức và tiếng Do Thái. Theo quan điểm của CCSARP, có ba chiến lược cầukhiến là chiến lược cầu khiến trực tiếp (direct), chiến lược cầu khiến gián tiếp quy
<small>ước (conventionally indirect) và chiên lược câu khiên gián tiép phi quy ước </small>
<small>(non-22</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">conventionally indirect), sau đó được ứng dụng tồn cầu và chiến lược cầu khiếngián tiếp quy ước được sử dụng phô biến nhất trong câu cầu khiến ở hầu hết cácnước được nghiên cứu. Phần lớn các nghiên cứu về câu cầu khiến trong các ngônngữ không phải ngôn ngữ phương Tây đều đề cập đến ba chiến lược cầu khiến này,nhưng mỗi ngôn ngữ lại ưu tiên những chiến lược khác nhau.
Hành vi cầu khiến gián tiếp đã được Searle (1975) nghiên cứu rất kỹ. Bản
chất của hành vi cầu khiến có sự đe doa thé diện của người đối thoại nên trong một
số trường hợp, dé đạt được mục đích giao tiếp, người nói phải sử dụng các hìnhthức gián tiếp mang tính lịch sự (Brown & Levinson 1978, Levinson 1983, Sadock2004 và Searle 1975). Các nhà nghiên cứu cũng ủng hộ quan điểm phát ngôn nghivấn thường lịch sự hơn mệnh lệnh vì chúng tạo rõ khoảng cách hơn giữa mong
muốn của người nói và ban chất của phát ngôn. Nếu chú ý đến lịch sự, người nói cố
gang làm giảm ảnh hưởng đến thé diện của người nghe và che giấu ý định cầu khiếntrong phát ngơn. Sau này, có nhiều tác giả đi theo hướng nghiên cứu của Searle vàphát triển vấn đề theo hướng này.
Gần đây nhất, có hai cơng trình nghiên cứu về PNCK đáng chú ý. Đó là cơng
trình nghiên cứu về cầu khiến gián tiếp, các kiêu câu và lực ngơn trung của nhóm
<small>tác giả Nicolas Ruytenbeekab, Ekaterina Ostashchenkoa & Mikhail Kissines (2017)</small>
và luận văn thạc sỹ của Casey M. Riedmann (2017) về nhóm điều khién gián tiếp Indirect Directives (or When to Say “Please”). Trong nghiên cứu đầu tiên, nhóm tác
hướng các PNCK gián tiếp đều nên được chú ý. Nghiên cứu thứ hai chỉ ra rằng
mệnh đề với khuyết thiếu “You must” có thé được dùng như mệnh lệnh thức và bơsung quan điểm cho rằng câu cầu khiến với khuyết thiếu trong tiếng Anh cũng đượcdùng tương đương như thức mệnh lệnh. Kết quả hai nghiên cứu này cũng được
<small>chúng tôi quan tâm va ứng dung trong quá trình phân loại PNCK và phân tích dtrliệu luận án.</small>
2) Tình hình nghiên cứu về câu/phát ngôn câu khiến tiếng Việt
<small>23</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28"><small>Trong tiếng Việt, các nhà ngôn ngữ học cũng nghiên cứu về câu cầu khiến</small>
theo các khuynh hướng khác nhau, không thống nhất giữa ngữ pháp học và ngữ<small>dụng học.</small>
Trên quan điểm ngữ pháp học truyền thống, khi phân loại các kiểu câu theomục đích phát ngơn, ngữ pháp nhà trường chia thành bốn kiểu câu gồm câu trầnthuật, câu cầu khiến, câu nghi van và câu cảm thán. Mỗi kiêu câu được nhận diện vàgiải thích dựa vào những phương tiện ngơn ngữ điển hình. Theo đó, câu cầu khiếnlà câu có những từ cầu khiến như: hãy, đừng, chớ,...ẩi, thôi, nào, ...hay ngữ điệucần cầu khiến; dùng dé ra lệnh, yêu cầu, đề nghị, khuyên bảo,... Khi viết, câu cầukhiến thường kết thúc bằng dau chấm than, nhưng khi ý cầu khiến khơng được nhắn
mạnh thì có thể kết thúc bằng dấu chấm.
Trần Trọng Kim (1940) là tác giả có quan điểm sớm nhất về khuynh hướng
<small>phân loại câu theo mục đích nói. Trong “Việt Nam văn phạm”, ơng có phân biệt 4</small>
kiểu câu; tuy nhiên, chưa thấy ông đề cập đến câu cầu khiến. Nguyễn Kim Thản(1964) trong “Nghiên cứu ngữ pháp tiếng Việt” chủ ý hai cách phân loại câu theo
kết câu ngữ pháp và theo mục đích nói. Theo ơng, câu cầu khiến được nhận diện
qua động từ mang ý nghĩa ngữ pháp mệnh lệnh, thê hiện yêu cầu, đề nghị của người
nói đối với người nghe. Nội dung của câu cầu khiến bao gồm các loại: mời mọc,
yêu cầu, mệnh lệnh, cắm đoán, chúc tụng. Lê Văn Lý (1968) khảo sát câu tiếng Việttrong “Sơ thảo ngữ pháp Việt Nam” và chia tiếng Việt thành 8 loại câu, trong đó,
câu khuyến lệnh được dùng dé bộc lộ ý muốn của mình. Diệp Quang Ban (2002)
trong “Ngữ pháp tiếng Việt”, gọi câu câu khiến là câu mệnh lệnh. Mục đích của loại
câu này là bày tỏ ý muốn nhờ hay bắt buộc người nghe thực hiện điều được nêu lêntrong câu và có những dấu hiệu hình thức nhận diện nhất định. Tác giả Bùi MạnhHùng (2011) trong quá trình phân loại câu, đề cập đến câu cầu khiến với tư cách làbiéu hiện trực tiếp của hành động cầu khiến (HDCK). Với tiếng Việt, dấu hiệu hình
thức của câu cầu khiến khơng được bộc lộ rõ. Theo quan niệm của tác giả, câu cầu
khiến có thể được phân loại chi bằng hai tiêu chí sau: (i) Câu có chứa các từ caukhiến như hãy/ đừng/ chớ và chủ thể của hãy/ đừng/ chớ bao giờ cũng ở ngôi thứ
<small>24</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">hai hoặc ở ngôi thứ nhất số nhiễu, dạng ngôi gộp; (ii) có khả năng thêm từ hãy/
<small>đừng/ chớ ở những ngôi đã nêu trên (dẫn theo Bùi Mạnh Hùng, 2011).</small>
<small>Trái lại, trên quan điểm ngữ dụng học, một số nhà ngôn ngữ học tiêu biểu là</small>
Hồ Lê (1989), Cao Xuân Hạo (1991), Đỗ Hữu Châu (1993), Nguyễn Thiện Giáp
<small>(1999, 2000), Nguyễn Đức Dân (2000) phân loại các phát ngôn theo hành động</small>
ngôn trung. Xét theo hành động ngôn trung, câu trần thuật có thể biểu hiện HDNT
trần thuật nhưng cũng có thé biểu hiện hành động ngơn trung khác (hỏi, cầu khiến,mời...), câu hỏi có thể biểu hiện HĐNT hỏi nhưng cũng có thé biểu hiện hành động
ngơn trung khác (cầu khiến, cảm thán...). Theo cách phân loại này thì PNCK là các
phát ngôn biéu hiện hành động ngôn trung cầu khiến (điều khiển), bất ké hình thứccú pháp của nó là gì (cầu khiến, tường thuật hay cảm thán).
Gần đây, có một số cơng trình nghiên cứu có giá tri về các mặt cụ thể củaPNCK. Về bình diện phương tiện biểu hiện, không thể không kẻ đến nghiên cứu vềhành động thỉnh cầu - so sánh giữa tiếng Anh và tiếng Việt của Nguyễn Văn Độ(1999). Tác giả khăng định mối liên hệ không thể tách rời giữa ngơn ngữ và văn hóatrong q trình nghiên cứu về hành động thỉnh cầu. Vé sự hoạt động của cácphương tiện từ vựng và ngữ pháp trong việc biểu thị ý nghĩa cầu khiến, có thể kếđến cơng trình nghiên cứu của Nguyễn Thị Hồng Chi (1998); về tính lịch sự trongcâu cầu khiến tiếng Việt (Vũ Thị Thanh Hương, 1999), câu cầu khiến tiếng Việt(Chu Thị Thủy An, 2002), sự hoạt động của những yếu tố thê hiện lịch sự trong câucầu khiến tiếng Việt (Phạm Thùy Chi, 2006). Những cơng trình này tìm hiểu về câu
cầu khiến từ góc độ ngữ pháp chức năng, ngữ dụng học hoặc kết hợp ngữ dụng học
và ngôn ngữ học xã hội để nghiên cứu. Mặc dù kết quả cụ thể của các nghiên cứunày chưa thật sự toàn diện nhưng cũng cho cái nhìn khái quát về câu/ PNCK tiếngViệt và các van đề liên quan.
Tác giả Đào Thanh Lan cũng dành nhiều tâm huyết với các cơng trình nghiêncứu rất có ý nghĩa về đề tài cầu khiến trong ngành ngôn ngữ học. Trong chuyênkhảo “Ngữ pháp ngữ nghĩa của lời cau khiến tiếng Việt” (2010), Đào Thanh Lan đãkế thừa lý thuyết hành động ngôn từ của các tác giả đi trước, đã gắn câu với hànhđộng ngôn từ và lý giải sự ảnh hưởng của các yếu tố đối với lực ngôn trung. DaoThanh Lan (2010) đã nghiên cứu lời cầu khiến với các phương thức biểu hiện hành
<small>25</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">động cau khiến trong tiếng Việt, theo đó cầu khiến người nghe thực hiện hành độngmình nêu ra hoặc cầu khiến người nghe cho phép mình thực hiện hành động. Tuynhiên, các nghiên cứu vẫn tồn tại những điểm chưa thống nhất giữa ngữ dụng và<small>ngữ pháp.</small>
Như vậy có hai cách tiếp cận về câu cầu khiến. Ngữ pháp truyền thống vàngữ pháp cấu trúc nghiên cứu câu cầu khiến như là một trong 4 kiêu câu phân loạitheo mục đích phát ngơn mà thực chất là theo hình thức cú pháp. Ngữ pháp chức
năng và ngữ dụng học nghiên cứu câu cầu khiến như là các phát ngôn biểu hiện
hành động ngôn từ cầu khiến, hay rộng hơn là các hành động ngôn từ thuộc nhómđiều khiển. Trong luận án này, chúng tơi nhấn mạnh đến câu cầu khiến theo cáchthứ 2, và thống nhất gọi là PNCK (xem mục 1.2.2 dưới đây).
1.1.2.2. Tình hình nghiên cứu dịch thuật phát ngôn câu khiến Anh —Việt
Như đã trình bày ở trên, PNCK tiếng Việt và các vấn đề liên quan được một
số nhà nghiên cứu quan tâm tuy chưa thực sự sâu sắc. Về vấn đề dịch thuật PNCK,
cũng có nhiều cơng trình nghiên cứu về PNCK tiếng Anh, so sánh đối chiếu vớiPNCK tiếng Việt. Có thé kể đến luận án về phương thức biéu hiện hành vi từ chối
<small>lời cầu khiến trong tiếng Anh (liên hệ với tiếng Việt) của Trần Chi Mai (2005). Về</small>
ý nghĩa lý luận, luận án góp phần làm rõ những tương đồng và khác biệt của cùngmột hành vi từ chối lời cầu khiến trong tiếng Anh - tiếng Việt ở cả hai mặt hìnhthức tổ chức và ngữ nghĩa — ngữ dụng, bước đầu giải thích những tương đồng, khácbiệt đó từ góc độ ngơn ngữ và văn hóa. Hà Câm Tâm (2005) đã nghiên cứu về“Requests by Vietnamese learners of English” (Lời cầu khiến của người Việt hoctiếng Anh). Kết quả nghiên cứu đã đóng góp thêm lý thuyết về lĩnh vực mà ít nhànghiên cứu Việt Nam quan tâm, đó là nghiên cứu về dụng học liên ngữ. Hà CâmTâm chỉ ra những khó khăn nhất định người Việt gặp phải khi ứng dụng lời cầukhiến với giọng thé hiện lịch sự băng tiếng Anh trong những tình huống cụ thé mànghiên cứu đưa ra dé tăng khả năng ngôn ngữ trong giao tiếp. Nguyễn Thị PhươngThảo (2010) và Trần Thị Phuong Linh (2012) déu nghiên cứu về chiến lược lịch sựtrong lời thỉnh cầu nhưng trong hai tác phẩm văn học khác nhau. Nguyễn ThịPhương Thảo (2010) nghiên cứu về chiến lược lịch sự trong lời thỉnh cầu trong
<small>26</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31"><small>“Tiếng chim hót trong bụi man gai” (Politeness strategies in request in “The thorn</small>
birds”) còn Trần Thị Phương Linh (2012) nghiên cứu về chiến lược lịch sự trong
lời thỉnh cầu của các nhân vật trong tiêu thuyết “Chạng vạng” của Stephenie Meyer
<small>(A study on politeness strategies in requests by the characters in the novel</small>
“Twilight” by Stephenie Meyer). Ngoài ra, Nguyễn Huynh Lâm (2016) tìm hiểu về
luận án của mình, Nguyễn Huỳnh Lâm đã so sánh đối chiếu hai ngôn ngữ tiếng Anh
và tiếng Việt đưới ánh sáng của lý thuyết ngữ dụng học. Những nét tương đồng và
dị biệt giữa hai ngơn ngữ qua phân tích, đối chiếu giúp xác định được những khókhăn về ngữ dụng mà người Việt gặp phải khi thực hiện lời cầu khiến băng tiếngAnh, những đặc thù văn hóa trong cách nói của người Việt góp phần vào việc giữgin bản sắc của ngôn ngữ dân tộc. Pham Thùy Chi (2006) tập trung nghiên cứu cácloại câu cầu khiến đích thực trong tiếng Việt, có ngơn trung là cầu khiến, tức làtrường hợp kiểu câu cầu khiến có sự tương hợp thực sự với kiểu ngôn trung (hànhvi ngôn từ thuộc nhóm điều khiến); đồng thời cũng sử dụng những câu có hình thứclà cầu khiến nhưng ngơn trung khơng phải là cầu khiến, so sánh đối chiếu chúng vớinhững câu cầu khiến đích thực. Đây cũng là hướng đi chúng tôi đang quan tâmnhưng sẽ khai thác cụ thê hơn trong luận án của mình với hình thức PNCK trực tiếp
và gián tiếp, so sánh giữa tiếng Anh và hai bản dịch tiếng Việt của hai dịch giả khác
nhau để tìm ra những điểm giống và khác nhau giữa VBN và VBĐ. Đây cũng làđiểm mới của luận án mà chưa được các nhà nghiên cứu trước đó quan tâm.
Trên đây, chúng tơi vừa trình bày tổng quan tình hình nghiên cứu về dịchthuật và dịch thuật PNCK Anh - Việt. Qua phân tích, chúng tơi nhận thấy rằng cách
tiếp cận theo hướng giao tiếp là cách tiếp cận phổ biến nhất trong các nghiên cứu vềdịch thuật trên thế giới. Ở Việt Nam, ngày càng nhiều các cơng trình, bài viết chiasẻ bình luận và nghiên cứu bổ sung thêm lý thuyết về dịch thuật chưa hồn thiệntrước đó. Trong đó, nơi bật có cơng trình nghiên cứu của Lê Quang Thiêm (1989) -
lần đầu tiên bàn luận vấn đề dịch thuật trong “Đối chiếu các ngôn ngữ”. Sự xuất
hiện của lý thuyết đối chiếu các ngôn ngữ giúp cho việc so sánh, đối chiếu giữaVBN và VBD trở nên rõ ràng hơn. Khi nghiên cứu về dịch thuật các PNCK Anh —
Việt, các nhà ngôn ngữ học tiếp cận theo hai khuynh hướng khác nhau: quan điểm<small>27</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32">ngữ pháp học truyền thống và quan điểm ngữ dụng học. Do đó, các nghiên cứu vẫn
tồn tại những điểm chưa thống nhất giữa ngữ dụng và ngữ pháp. Trong luận án này,chúng tôi nghiên cứu về PNCK Anh - Việt dưới góc độ ngữ dụng học và phân loại
<small>các PNCK theo hành động ngôn trung.1.2 Cơ sở lý luận</small>
1.2.1 Dịch thuật và các vấn đề liên quan
1.2.1.1 Các quan niệm về dịch thuật và nghiên cứu dịch thuật
Theo quan điểm truyền thống, dịch thuật là một tiến trình chuyên dich từ ngữ
<small>và ý nghĩa từ một văn bản của ngôn ngữ này sang một văn ban sử dụng ngôn ngữ</small>
khác, từ ngôn ngữ gốc, ngôn ngữ nguồn sang ngơn ngữ đích. Cũng có thé nói, dịch
<small>là cơng việc mã hóa cái ý nghĩa và dạng thức trong ngữ đích qua việc giải mã cái ý</small>
nghĩa và dạng thức của ngữ nguồn. Cách dịch tự nhiên giúp người đọc tiếp cận dễdàng với văn bản gốc, làm người đọc trong ngôn ngữ được dịch cảm thấy như tácgiả trực tiếp nói với mình, viết cho mình, và tác giả thực sự có những cảm xúc và
<small>cái nhìn như người đọc, có cùng văn hóa với người đọc. Tuy nhiên, với cách dịch</small>
truyền thống này, vai trò của dịch giả bị xem nhẹ, và tác phẩm trong bản chính vẫn
được xem là quan trọng hơn bản dịch. Do đó, vấn đề dịch thuật được rất nhiều tácgiả quan tâm và đưa ra nhiều khái niệm dịch thuật theo quan điểm riêng của mình.Qua các định nghĩa, người ta thấy được các quan điểm về vấn đề dịch rất khác nhau,từ đó, đưa đến những lý thuyết khác nhau trong nghiên cứu lĩnh vực này.
Phân tích các tài liệu nghiên cứu về dịch thuật hiện tại, Nguyễn Hồng Cén
(2006) cho rằng thuật ngữ dịch thuật (translation) được dùng với ba nghĩa đượctrình bày dưới đây: (i) nghĩa thứ nhất chỉ sản phẩm của quá trình dịch thuật, tức làvăn bản (hay diễn ngôn), được chuyên dịch từ ngôn ngữ này sang ngơn ngữ kháchay từ hệ thống tín hiệu này sang hệ thống tín hiệu khác, (ii) nghĩa thứ hai chỉ bảnthân quá trình dịch thuật, tức là quá trình chuyển dịch một văn bản (ở dạng nói hay
viết) từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác, hay rộng hơn, từ hệ thống tín hiệu này
sang hệ thống tín hiệu khác, khơng bao gồm sản phẩm của q trình đó. Cách hiểunày phản ánh quan niệm cho rằng dịch thuật khơng phải là một sản phẩm mà là mộtq trình thay thế hình thức biéu hiện của một văn bản, đó là "sự thay thé chất liệu
<small>28</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">ngôn bản của ngôn ngữ này bằng chất liệu ngôn bản của ngôn ngữ khác" (Catford
trình dịch thuật và sản phẩm dịch thuật. Do là sự thé hiện của quan niệm coi dịch
và sản phâm, chủ quan và khách quan, ngôn ngữ và phi ngôn ngữ (Nida và Taber
<small>những định nghĩa tương đối chỉ tiết và được chú ý nhiều là định nghĩa của Peter</small>
Newmark (1995). Ông cho rằng “dịch là một nghệ thuật, một nỗ lực thay thế mộtthông điệp, một diễn ngôn của một văn bản hay ngôn bản trong một ngôn ngữ bằngmột thông điệp hay một diễn ngôn giống như vậy trong một văn bản hay ngôn bảncủa một ngơn ngữ khác.” Ơng cũng nhìn chuyện dịch như một khoa học
<small>(translation as a science), một kỹ nang (translation as a skill), một nghệ thuật</small>
(translation as an art) liên quan đến khiếu thâm my. Do đó, những bản dich khácbiệt của cùng một văn bản có thé rất khác nhau. Chúng thé hiện phong cách, tài
<small>năng và sự cảm thụ riêng của những dịch giả khác nhau.</small>
Mặc dù mối quan hệ giữa các khái niệm hoạt động dịch thuật, quá trình dịch
thuật và sản phẩm dịch thuật trong thực tế cịn gây tranh cãi, nhưng đồng tình vớicác nhà nghiên cứu dịch thuật theo quan điểm giao tiếp, chúng tôi cho rằng cầnphân biệt hoạt động dịch thuật với quá trình dịch thuật và sản phẩm dịch thuật, cũng
như là các thành tố của nó. Nói cách khác, từ quan điểm giao tiếp, Nguyễn Hồng
tiếp bằng ngơn ngữ bao hàm trong bản thân nó cả quá trình dịch thuật với tư cách là
quá trình giao tiếp và sản phẩm dịch thuật như là sản phẩm của q trình giao tiếp.
<small>Trên quan niệm đó, luận án sử dụng thuật ngữ "dich thuật" (translation) theo nghĩa</small>
<small>' Translation is the replacement of textual material in one language (source language) by equivalent textual material in</small>
<small>other language (target language) (J.C. Catford- 1965)</small>
<small>? Translation is the communicative process which takes place within a social context. (Hatim and Mason 1990: 3)3 Translation consists in reproducing in the receptor language the closest natural equivalent of the source language</small>
<small>message, first in terms of meaning and secondly in terms of style (Nida & Taber- 1974)</small>
<small>29</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34">rộng nhất của từ này dé chỉ hoạt động dịch thuật nói chung và phân biệt nó với qtrình dịch thuật (translating process) và sản phẩm dịch thuật (translation product)với tư cách là các thành tố của hoạt động dịch thuật.
Quan niệm dịch thuật cũ (kế cả quan niệm của các nhà nghiên cứu dịchthuật theo quan điểm ngôn ngữ học như Resker và Catford) tập trung sự chú ý
đến các tương đương hình thức của văn bản, trong đó các dịch giả tự đặt cho
mình nhiệm vụ phải tái tạo lại được các đơn vị dịch thuật tương đương về mặthình thức cùng các đặc điểm phong cách của nó. Các nhà nghiên cứu dịch thuậttheo quan điểm giao tiếp cho rằng một quan niệm như vậy về bản chất dịch thuậtlà quá đơn giản, vì nó chỉ chú ý đến phương diện ngơn ngữ - VBN và VBD hayngữ nguồn và ngữ đích của hoạt động dịch thuật mà bỏ qua vai trò của các nhântố phi ngôn ngữ. Theo các nhà nghiên cứu này, để hiểu bản chất của hoạt độngdịch thuật cần phải xem xét nó cả ở hai khía cạnh ngơn ngữ và phi ngôn ngữ.Muốn vậy, coi dịch thuật như một hoạt động ngôn ngữ là chưa đủ mà cần phảixem xét nó như một hoạt động giao tiếp.
Nói tóm lại, phần lớn nhà nghiên cứu coi nghiên cứu dịch thuật là một bộphận của ngôn ngữ học và dịch thuật là một q trình giao tiếp. Dịch thuật có liên
<small>quan chặt chẽ với ngôn ngữ va việc sử dụng ngơn ngữ. Các nha ngơn ngữ học Việt</small>
Nam cũng có nhiều tranh luận trên diễn đàn chuyên ngành về dịch thuật, cụ thể vềviệc chuyên dịch văn bản từ ngữ nguồn là tiếng Anh sang ngữ dich là tiếng Việt.Cao Xuân Hạo (2005) đã bàn đến dịch thuật như là một q trình gom bén congđoạn: (i) Phân tích ngun ban trong ngôn ngữ nguồn (Source Language) đề “hiéu”thật rõ tác giả “muốn nói” gì; (i) Xóa cách ngơn từ hóa của ngun bản
<small>(Deverbalisation of the text); (11) Phân tích những đặc trưng trong nội dung và hình</small>
thức của nguyên bản (qua một siêu ngôn ngữ ước định; (iv) Tái ngơn từ hóa bằngngơn ngữ đích để có được một văn bản tương đương với nguyên bản
<small>ngơn ngữ này sang một ngơn ngữ khác, cịn phải chuyền dịch nó “một cách trung</small>
<small>* “Reverbalisation in the Target Language so that the text obtained would be equivalent to the written in the Source</small>
<small>30</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35">thành trong chừng mực có thể, cả về nội dung lẫn hình thức' (Cao Xuân Hạo,2005). Quan điểm này cũng là kim chỉ nam cho chúng tơi trong q trình nghiêncứu so sánh, đối chiếu VBN và VBĐ của luận án này.
Lịch sử nghiên cứu dịch thuật đề cập đến 4 mơ hình lý thuyết dịch thuật
<small>chính, đó là mơ hình của Roger Thomas Bell, Peter Newmark, J.C Catford và</small>
Eugene A.Nida. Đầu tiên, Roger T. Bell (1987) đề xuất mơ hình lý thuyết dịch thuậtnhấn mạnh q trình chuyển hóa hoạt động tâm sinh lý trong đọc hiểu VBN sangquá trình tâm sinh lý trong diễn đạt viết VBĐ. Mơ hình lý thuyết dịch thuật của Bellđược thê hiện rõ trong hình 1.1.
Hình 1.1: Mơ hình lý thuyết dịch thuật của Bell
(Nguồn: Bell, 1987)
<small>Mơ hình thứ hai là mơ hình của Peter Newmark (1916-2011) - giáo sư day</small>
môn dịch thuật trường Đại học Bách khoa Luân Đôn và Đại học Surrey - Anh. Ông
<small>phân biệt ra hai khuynh hướng dịch thuật là khuynh hướng ngữ nghĩa (semantic</small>
approach) và khuynh hướng giao tiếp (communicative approach). Khuynh hướngngữ nghĩa gần giống như lối trực dịch, nghĩa là bám sát cấu trúc ngữ nghĩa, cấu trúccú pháp và ý nghĩa từ vựng chính xác của nguyên bản. Khuynh hướng giao tiếp gầngiống như lối phóng dịch, nghĩa là cố gắng tạo ra hiệu quả đối với người đọc giốngnhư hiệu quả của nguyên tác. Chúng tôi trình bày mơ hình lý thuyết địch thuật của
<small>Peter Newmark trong hình 1.2.</small>
<small>31</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36">Hình 1.2: Mơ hình lý thuyết dịch thuật của Peter Mark
<small>SOURCE LANGUAGE BIAS TARGET LANGUAGE BIAS</small>
chuyền mã một văn bản từ ngữ này sang ngữ khác. Mơ hình lý thuyết dịch thuật củaCatford được thê hiện qua 3 bước của quá trình dịch thuật như hình 1.3.
Hình 1.3: Mơ hình lý thuyết dịch thuật của Catford
</div><span class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37">đương tự nhiên và gần gũi nhất đối với thông điệp của ngôn ngữ gốc, trước hết là
rằng dịch thuật có thê được mơ tả ở ba cấp độ chức năng (functional levels): nhưmột khoa học, như một kỹ năng và như một nghệ thuật. E.A. Nida đã đề xuất
một sơ đồ tông quát về q trình chuyển từ ngơn ngữ gốc sang ngơn ngữ tiếp nhận
<small>như hình 1.4.</small>
Hình 1.4: Mơ hình lý thuyết dịch thuật của E. A. Nida
<small>SOURCE LANGUAGE RECEPTOR LANGUAGE</small>
<small>TEXT TRANSLATION</small>
<small>ANALYSES RESTRUCTURING</small>
<small>TRANSFER =</small>
(Nguồn: E.A. Nida, 1964)
Như vậy, theo A. E. Nida va Peter Newmark, van dé tiên quyết trong côngtác phiên dich van là lột tả hết được ý nghĩa của thơng điệp gốc. Quan điểm của
Nida có thể phù hợp với phương pháp giao tiếp hiện đại, tuy nhiên, đối với phongcách văn học — hình thức chuyền giao thơng điệp ít nhất cũng quan trọng bằng hayhơn nội dung được chuyên giao thì lý thuyết của Nida chưa thực sự thỏa đáng. Dùvậy, cũng khơng thê phủ nhận đóng góp của ơng về q trình dịch thuật làm ba giaiđoạn chính được trình bày ở trên rất hữu ích cho người mới bắt đầu phiên dịch.Peter Newmark đưa ra nhận xét tổng quan như sau: “Bởi vì nhân tố chủ chốt khi
quyết định cách thức dịch là tầm quan trọng nội tại của từng đơn vị ngữ nghĩa trong
văn bản nên tuyệt đại đa số các văn bản đòi hỏi phải dịch theo phương pháp giaotiếp và phương pháp ngữ nghĩa”. Do đó, luận án này cũng lấy tiền đề mơ hình lý
thuyết dịch thuật của Peter Newmark phân tích tương đương dịch thuật các PNCK
Anh - Việt của tác phẩm văn học được lựa chọn.
<small>> “Translating is reproducing in the receptor language the closest natural equivalent of the source language, first in</small>
<small>terms of meaning and second in terms of style” (Nida, 1964)</small>
<small>33</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38">1.2.1.2 Đối chiếu ngôn ngữ trong nghiên cứu dịch thuật
Thuật ngữ “Ngôn ngữ học đối chiếu” (Contrastive Linguistics) hay “phantích đối chiếu” (Contrastive Analysis) thường được dùng dé chỉ phương pháp hoặcphân ngành nghiên cứu đối chiếu hai hay nhiều ngôn ngữ. Mục đích của nghiên cứuđối chiếu ngơn ngữ là làm sáng tỏ những nét tương đồng và không tương đồng hoặcchỉ làm sáng tỏ những nét không tương đồng của hai hay nhiều ngôn ngữ. Nguyên
tắc nghiên cứu chủ yếu của đối chiếu ngôn ngữ là nguyên tắc đồng đại (dẫn theo Lê
Quang Thiêm, 2008: 37). Theo đó, đối chiếu các ngôn ngữ cho khả năng xác định
<small>không chỉ các dữ kiện và hiện tượng có các chức năng tương tự trong các ngơn ngữ</small>
được đối chiếu, mà cịn xác định vị trí của chúng trong các hệ thống theo chức năng.Lê Quang Thiêm (2008) nhân mạnh quan hệ tác động qua lại giữa ngôn ngữ
học đối chiếu với lý luận và thực tiễn dịch thuật. Theo đó, lý luận dịch ngôn ngữ
xem xét việc dịch như là một sự chuyền mã, là một sự cải biến giữa các ngôn ngữ,là một hoạt động sáng tạo ngôn ngữ từ văn bản gốc ra bản dịch. Ông thừa nhậnnghiên cứu đối chiếu tạo ra điều kiện cho việc giải quyết cơ sở ngôn ngữ của lý luậnphiên dịch và phiên dịch cung cấp nhiều điều cần thiết cho nghiên cứu đối chiếu.Tuy nhiên, không thé phủ nhận sự khác nhau rõ rệt giữa chúng. Phân tích đối chiếu
“nghiên cứu sự tương đồng và dị biệt hoặc đặc trưng riêng của mỗi ngôn ngữ trong
sự so sánh, đối chiếu với ngôn ngữ khác” (Lê Quang Thiêm, 2008:62). Trong khi
<small>đó, dịch thuật nghiên cứu “xem xét sự tương ứng tương đương của các phương tiện</small>
biểu đạt khi biểu hiện một nội dung đồng nhất” (Lê Quang Thiêm, 2008:62). Rõ
<small>ràng, Lê Quang Thiêm phân biệt tương ứng trong ngôn ngữ và tương ứng trong dịch</small>
thuật (hay còn gọi là tương đương dịch thuật). Bên cạnh đó, ngơn ngữ học đối chiếuchỉ nghiên cứu đối chiếu cấu trúc — hệ thống ngôn ngữ, tách khỏi các nhân tố bênngồi; cịn dịch thuật tiến hành sự phân tích ngơn ngữ trong mối quan hệ trực tiếpvới những nhân tố bên ngồi ngơn ngữ như cả hai nền văn hóa, hai phạm vi “trithức nền”. Ngồi ra, có quan niệm cho răng sự khác nhau giữa nghiên cứu đối chiếu
và lý luận dịch thuật là dựa trên mối tương ứng lưỡng phân ngơn ngữ - lời nói. Theo
đó, ngơn ngữ học đối chiếu sẽ hướng vào việc tìm tòi những giống nhau và khácnhau bat biến thé của hai hệ thống ngơn ngữ; cịn dịch thuật sẽ nghiên cứu những
<small>34</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 39</span><div class="page_container" data-page="39">tương ứng biến thể, nghĩa là các hệ hình phiên dịch được phát hiện qua đối chiếucác văn bản. Tuy nhiên, theo Lê Quang Thiêm (2008: 64), “ngơn ngữ bao gồm cả
<small>hệ hình lẫn cú đoạn, cịn lời nói chỉ là những biến thể đa dạng của các cấu trúc</small>
tương ứng”. Như vậy, không tồn tại một sự phân giới cứng nhắc giữa ngôn ngữ và
lời nói cũng như giữa ngơn ngữ học đối chiếu và dịch thuật.
Theo Bùi Mạnh Hùng (2008), dịch là chuyên một cách trung thành tất cảnhững gi được biểu dat trong một văn bản từ ngôn ngữ nguồn sang ngôn ngữ đích.Muốn thực hiện được điều đó, dịch giả phải hội tụ đủ nhiều điều kiện, trong đó có
sự hiểu biết thấu đáo những điểm khác biệt giữa hai ngôn ngữ. Những khác biệt đó
chỉ có thể xác định thơng qua nghiên cứu đối chiếu. Tuy nhiên, theo ông, đối chiếungôn ngữ và đối chiếu ngôn ngữ trong dịch thuật (đối chiếu dịch thuật) có nhữngđiểm giống và khác biệt cơ bản. Về điểm giống nhau, cả hai lĩnh vực này có một
điểm tương đồng quan trọng là cả hai đều quan tâm đến việc xem xét cùng một nội
dung được thé hiện bằng những cách khác nhau như thé nào. Trong thời gian gầnđây, các nhà ngôn ngữ học đối chiếu ngôn ngữ và đối chiếu dịch thuật đều dùng
<small>chung khối ngữ liệu đa ngữ, chung phần mềm hỗ trợ cho việc tìm kiếm những thơng</small>
tin cần thiết từ khối ngữ liệu điện tử và đều phải giải quyết những vấn đề có liên
nhau. Về mục đích, vào giai đoạn đầu, đối chiếu ngơn ngữ nhằm mục đích lý
thuyết, nhắm đến những ứng dụng dạy tiếng thuần túy hay còn gọi là đối chiếu lýthuyết. Trong khi đó, đối chiếu ngơn ngữ trong dịch thuật được gọi là đối chiếu ứngdụng hay đối chiếu có định hướng. Nghĩa là hướng đến mục đích ứng dụng thựctiễn. Mục đích cụ thé của ngơn ngữ học đối chiếu lí thuyết là xây dựng những mơhình thích hợp dé phân tích đối chiếu nhằm giải quyết những van đề liên quan đến
<small>ngôn ngữ học đại cương, loại hình học, ngơn ngữ học mơ tả, ngơn ngữ học tri nhận</small>
hay những vấn đề về ngôn ngữ và văn hóa. Cịn mục đích của ngơn ngữ học đốichiếu ứng dụng trong dịch thuật là phục vụ cho những nhu cầu cụ thể và có tính
<small>thực tiên mà q trình nghiên cứu đơi chiêu có những đặc điêm riêng. Cơng trình</small>
<small>35</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 40</span><div class="page_container" data-page="40"><small>nghiên cứu đối chiếu ngơn ngữ mang tính trừu tượng rất cao, cịn nghiên cứu đối</small>
chiếu ngơn ngữ trong dịch thuật thì thường cụ thể hơn, khơng chỉ phụ thuộc vàonhững cứ liệu ngôn ngữ thuần túy mà phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác. Về nhiệmvụ, Bùi Mạnh Hùng (2008: 91) cho rằng đối chiếu ngôn ngữ có nhiệm vụ quantrọng là xây dựng lý thuyết về đối chiếu các ngơn ngữ, như mơ hình lý thuyết vàkhái niệm cơng cụ thích hợp đề đối chiếu các ngôn ngữ, xác định những yếu tố nào
của ngôn ngữ có thé đối chiếu với nhau và đối chiếu như thé nào. Kết qua cụ thé
của nghiên cứu đối chiếu ngơn ngữ có thể vận dụng vào trong dịch thuật. Ngược lại,đối chiếu ngơn ngữ trong dịch thuật có thể cung cấp thêm ngữ liệu cho ngôn ngữhọc đối chiếu lý thuyết, giúp ngôn ngữ học đối chiếu lý thuyết phát triển và hồnthiện các mơ hình lý thuyết và bộ máy khái niệm công cụ. Rõ ràng, đối chiếu ngônngữ trong dịch thuật chỉ là một phạm vi ứng dụng trong các phạm vi rất đa dạng vàphong phú của đối chiếu ngôn ngữ. Bat kế nghiên cứu đối chiếu ngơn ngữ thuần túylý thuyết hay có định hướng ứng dụng cũng đều mang đến những kết quả quan yếuđối với những lĩnh vực ứng dụng, cụ thé là dịch thuật.
<small>Trên đây, Bùi Mạnh Hùng (2008: 151) đã đối chiếu ngơn ngữ trên cơ sở</small>
<small>phân biệt các bình diện phân tích ngơn ngữ: ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp và ngữ</small>
dụng. Vận dụng vào luận án, chúng tôi đối chiếu tương đương dịch thuật các PNCKAnh - Việt giữa VBN và các VBĐ trên bốn bình diện chủ yếu là ngữ âm, ngữ pháp,ngữ nghĩa và ngữ dung theo Nguyễn Hồng Cơn (2001) mà chúng tơi sẽ trình bay
<small>ngay sau đây trong mục 1.2.1.3.</small>
1.2.1.3 Tương đương dịch thuật và các kiểu tương đương dịch thuật
Trong vòng hơn nửa thế kỉ qua, vấn đề tương đương dịch thuật vẫn đangnhận được nhiều sự quan tâm từ các dịch giả và các nhà ngôn ngữ. Tương đươngtrong dịch thuật là “khái niệm trung tâm của bất cứ cơng trình nghiên cứu nào vềdịch thuật” (Munday, 2001) mặc dù khái niệm về tương đương và ứng dụng dịchtương đương trong nghiên cứu lý thuyết dịch vẫn còn gây nhiều tranh cãi. Đã có rất
nhiều tác giả bàn đến tương đương trong dịch thuật, đặc biệt là khi các tác giả bàn
<small>36</small>
</div>