Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.14 MB, 108 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">
ĐHQG-HCM
Trường ĐHKHXH&NV <sup>Ngày nhận hồ sơ </sup>
<i><small>Do P.ĐN&QLKH ghi Mẫu: SV02 </small></i>
<b>ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC SINH VIÊN CẤP KHOA NĂM HỌC 2019 – 2020</b>
<b> </b>
<b>Tên đề tài: QUAN NIỆM HÔN NHÂN CỦA GIỚI TRẺ JAVA INDONESIA </b>
<b><small>Thành phần tham gia thực hiện đề tài </small></b>
<b><small>STT Họ và tên</small><sup>Chịu trách </sup><sub>nhiệm </sub><small>Điện thoại Email </small></b>
<small>1.Lê Thị Như Lài 1 Chủ nhiệm 0974717851 </small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
<b>TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN Khoa/Bộ môn Đông Phương Học </b>
</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4"><b>DẪN NHẬP ... 2 </b>
<b>1. Lý do chọn đề tài ... 2 </b>
<b>2. Mục tiêu nghiên cứu ... 3 </b>
<b>3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ... 3 </b>
<b>4. Tổng quan tình hình nghiên cứu ... 4 </b>
<b>5. Phương pháp nghiên cứu ... 5 </b>
<b>6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn ... 6 </b>
<b>7. Bố cục đề tài ... 6 </b>
<b>CHƯƠNG MỘT: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN ... 8 </b>
<b>1.1. Cơ sở lý luận ... 8 </b>
1.1.1. Tộc người và văn hóa tộc người ... 8
1.1.2. Hơn nhân và các loại hình hơn nhân ... 11
1.1.3. Khái niệm giao lưu tiếp biến văn hóa ... 14
1.1.4. Khái niệm tồn cầu hóa ... 16
<b>1.2. Cơ sở thực tiễn ... 17 </b>
1.2.1. Vài nét về tộc người Java ... 17
1.2.2. Địa bàn nghiên cứu ... 19
1.2.3. Các yếu tố tác động đến quan niệm hôn nhân ... 19
<b>Tiểu kết chương một... 21 </b>
<b>CHƯƠNG HAI: QUAN NIỆM HÔN NHÂN THEO TƠN GIÁO VÀ VĂN HĨA TRUYỀN THỐNG JAVA ... 22 </b>
<b>2.1. Quan niệm hôn nhân theo tôn giáo ở Indonesia ... 22 </b>
2.1.1. Quan niệm hôn nhân theo Islam giáo ... 22
2.1.2. Quan niệm hôn nhân theo Phật giáo ... 25
2.1.3. Quan niệm hôn nhân theo Hindu giáo ... 27
2.1.4. Quan niệm hôn nhân theo Khổng Giáo ... 31
2.1.5. Quan niệm hôn nhân theo Kito giáo ... 32
<b>2.2. Quy định của pháp luật Indonesia về hôn nhân ... 33 </b>
2.2.1. Cơ sở lý luận về hôn nhân theo Bộ luật số 1 năm 1974 của nước Cộng Hòa Indonesia ... 33
2.2.2. Các yêu cầu trong hôn nhân ... 34
</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">2.2.3. Ly hôn trong hôn nhân ... 35
<b>2.3. Quan niệm hôn nhân truyền thống Java ... 36 </b>
2.3.1. Độ tuổi kết hôn ... 36
2.3.2. Hôn nhân đồng tộc ... 38
2.3.3. Hôn nhân đồng tôn giáo ... 39
2.3.4. Hôn nhân môn đăng hộ đối ... 40
2.3.5. Hơn nhân tự nhiên (tự tìm hiểu) ... 41
<b>CHƯƠNG BA: QUAN NIỆM CỦA GIỚI TRẺ JAVA VỀ HÔN NHÂN HIỆN NAY ... 42 </b>
<b>3.1. Quan niệm của giới trẻ Java về hôn nhân ... 42 </b>
3.1.1. Độ tuổi kết hôn ... 42
3.1.2. Hôn nhân đồng tộc ... 44
3.1.3. Hôn nhân đồng tôn giáo ... 45
3.1.4. Hôn nhân môn đăng hộ đối ... 52
3.1.5. Hơn nhân tự nhiên (tự tìm hiểu) ... 53
<b>3.2. Quan niệm của giới trẻ Java về các hiện tượng hôn nhân mới trên thế giới .. 55 </b>
3.2.1. Quan niệm của giới trẻ Java về “sống thử” trước hôn nhân ... 55
3.2.2. Quan niệm của giới trẻ Java về hơn nhân “đồng tính” ... 63
3.2.3. Hơn nhân với người nước ngoài ... 74
<b>3.3. Các yếu tố làm thay đổi quan niệm hôn nhân của giới trẻ Java ... 92 </b>
3.3.1. Tồn cầu hóa (tiếp xúc tộc người, tiếp xúc văn hóa, trào lưu thế giới) ... 92
3.3.2. Trình độ học vấn của người Java được nâng cao ... 93
<b>Tiểu kết chương 3 ... 94 </b>
<b>KẾT LUẬN ... 96 </b>
<b>TÀI LIỆU THAM KHẢO ... 98 </b>
</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">Biểu đồ 3.1.1.2: Biểu đồ độ tuổi kết hôn của giới trẻ Java hiện nay
Biểu đồ 3.1.2.1; Biểu đồ thể hiện quan niệm của giới trẻ Java Indonesia về hôn nhân khác tộc.
Biểu đồ 3.1.3.1; Biểu đồ thể hiện quan niệm của giới trẻ Islam giáo về hôn nhân khác tôn giáo.
Biểu đồ 3.1.3.2; Biểu đồ thể hiện quan niệm của giới trẻ Kito giáo về hôn nhân khác tôn giáo.
Biểu đồ 3.1.3.3; Biểu đồ thể hiện quan niệm của giới trẻ Phật giáo về hôn nhân khác tôn giáo.
Biểu đồ 3.1.3.4; Biểu đồ thể hiện quan niệm của giới trẻ Hindu giáo về hôn nhân khác tôn giáo.
Biểu đồ 3.1.3.1; Biểu đồ thể hiện quan niệm của giới trẻ Khổng giáo về hôn nhân khác tôn giáo.
Biểu đồ 3.1.4.1; Biểu đồ thể hiện quan niệm của giới trẻ Java Indonesia về hôn nhân môn đăng hộ đối.
Biểu đồ 3.1.5.1; Biểu đồ thể hiện quan niệm của giới trẻ Java Indonesia về cách thức hôn nhân tự tìm hiểu.
Biểu đồ 3.2.1.1; Biểu đồ thể hiện quan niệm sống thử trước khi kết hôn của người Islam giáo
Biểu đồ 3.2.1.2; Biểu đồ thể hiện quan niệm sống thử trước khi kết hôn của người Kito giáo
Biểu đồ 3.2.1.3; Biểu đồ thể hiện quan niệm sống thử trước khi kết hôn của người Phật giáo
Biểu đồ 3.2.1.4; Biểu đồ thể hiện quan niệm sống thử trước khi kết hôn của người Hindu giáo
Biểu đồ 3.2.1.5; Biểu đồ thể hiện quan niệm sống thử trước khi kết hôn của người Khổng giáo
</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">Biểu đồ 3.2.2.1; Biểu đồ thể hiện quan niệm của giới trẻ Islam giáo về hơn nhân “cùng giới tính”
Biểu đồ 3.2.2.2; Biểu đồ thể hiện quan niệm của giới trẻ Kito giáo về hơn nhân “cùng giới tính”
Biểu đồ 3.2.2.3; Biểu đồ thể hiện quan niệm của giới trẻ Kito giáo về hơn nhân “cùng giới tính” có phải là điều cấm kỵ
Biểu đồ 3.2.2.4; Biểu đồ thể hiện quan niệm của giới trẻ Phật giáo về hơn nhân “cùng giới tính”
Biểu đồ 3.2.2.5; Biểu đồ thể hiện quan niệm của giới trẻ Phật giáo về hơn nhân “cùng giới tính” có phải là điều cấm kỵ
Biểu đồ 3.2.2.6; Biểu đồ thể hiện quan niệm của giới trẻ Hindu giáo về hơn nhân “cùng giới tính”
Biểu đồ 3.2.2.7; Biểu đồ thể hiện quan niệm của giới trẻ Hindu giáo về hôn nhân “cùng giới tính” có phải là điều cấm kỵ
Biểu đồ 3.2.2.8; Biểu đồ thể hiện quan niệm của giới trẻ Khổng giáo về hơn nhân “cùng giới tính”
Biểu đồ 3.2.3.1; Biểu đồ thể hiện quan niệm của giới trẻ Islam giáo về hơn nhân với người nước ngồi cùng tôn giáo
Biểu đồ 3.2.3.2; Biểu đồ thể hiện quan niệm của giới trẻ Islam giáo về hôn nhân với người nước ngồi khác tơn giáo
Biểu đồ 3.2.3.3; Biểu đồ thể hiện quan niệm của giới trẻ Islam giáo về hơn nhân với người nước ngồi có phải là điều cấm kỵ
Biểu đồ 3.2.3.4; Biểu đồ thể hiện quan niệm của giới trẻ Kito giáo về hôn nhân với người nước ngồi cùng tơn giáo
Biểu đồ 3.2.3.5; Biểu đồ thể hiện quan niệm của giới trẻ Kito giáo về hơn nhân với người nước ngồi khác tơn giáo
Biểu đồ 3.2.3.6; Biểu đồ thể hiện quan niệm của giới trẻ Kito giáo về hôn nhân với người nước ngồi khác tơn giáo có phải là điều cấm kỵ
</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">Biểu đồ 3.2.3.7; Biểu đồ thể hiện quan niệm của giới trẻ Phật giáo về hơn nhân với người nước ngồi cùng tơn giáo
Biểu đồ 3.2.3.8; Biểu đồ thể hiện quan niệm của giới trẻ Phật giáo về hơn nhân với người nước ngồi khác tôn giáo
Biểu đồ 3.2.3.9; Biểu đồ thể hiện quan niệm của giới trẻ Phật giáo về hôn nhân với người nước ngồi khác tơn giáo có phải là điều cấm kỵ
Biểu đồ 3.2.3.10; Biểu đồ thể hiện quan niệm của giới trẻ Hindu giáo về hôn nhân với người nước ngồi cùng tơn giáo
Biểu đồ 3.2.3.11; Biểu đồ thể hiện quan niệm của giới trẻ Hindu giáo về hơn nhân với người nước ngồi khác tôn giáo
Biểu đồ 3.2.3.12; Biểu đồ thể hiện quan niệm của giới trẻ Hindu giáo về hôn nhân với người nước ngồi khác tơn giáo có phải là điều cấm kỵ
Biểu đồ 3.2.3.13; Biểu đồ thể hiện quan niệm của giới trẻ Khổng giáo về hôn nhân với người nước ngồi cùng tơn giáo
Biểu đồ 3.2.3.14; Biểu đồ thể hiện quan niệm của giới trẻ Khổng giáo về hơn nhân với người nước ngồi khác tôn giáo
Biểu đồ 3.2.3.15; Biểu đồ thể hiện quan niệm của giới trẻ Khổng giáo về hôn nhân với người nước ngồi khác tơn giáo có phải là điều cấm kỵ
</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">1
<i>Đề tài “Quan niệm hơn nhân của giới trẻ Java Indonesia hiện nay (Nghiên cứu trường </i>
<i>hợp ở đảo Java)” là công trình nghiên cứu về văn hóa, đặc biệt là quan niệm hôn </i>
nhân. Đối tượng nghiên cứu của đề tài là quan niệm hôn nhân của giới trẻ Indonesia, cụ thể trường hợp ở đảo Java. Bằng các phương pháp nghiên cứu điều tra xã hội học, văn hóa học và một số thao tác như khảo sát dữ liệu, thống kê, phân tích dữ liệu, điều tra bảng hỏi và phỏng vấn sâu, cơng trình nghiên cứu được triển khai với hai nội dung chính: (1) Quan niệm hôn nhân theo tôn giáo và truyền thống Java ở Indonesia và (2) Quan niệm của giới trẻ Java về hôn nhân hiện nay.
Người nghiên cứu chọn đảo Java làm điểm nghiên cứu vì nơi này có mật độ dân số cao, có nhiều tộc người cư trú và có nhiều tơn giáo. Ở Indonesia, có sáu tơn giáo được chính phủ cơng nhận: Islam giáo, Thiên chúa giáo, Tin Lành, Phật giáo, Khổng giáo và Hindu giáo. Islam giáo là tơn giáo có đơng tín đồ nhất nhưng các tơn giáo khác vẫn có sự ảnh hưởng nhất định. Về quan niệm hôn nhân, trước đây người Java luôn tuân theo phong tục truyền thống và tơn giáo nhưng hiện nay giới trẻ đã có thay đổi do tiếp nhận những cái mới, do ảnh hưởng của tồn cầu hóa, …. Qua khảo sát bảng hỏi và phỏng vấn 100 bạn trẻ đến từ các tôn giáo khác nhau, kết quả cho thấy quan niệm hôn nhân của giới trẻ Java rất khác biệt so với truyền thống trước đây, đặc biệt về các hiện tượng sống thử trước hơn nhân, hơn nhân đồng tính và hơn nhân với người nước ngồi. Qua phân tích, cơng trình nghiên cứu nhận thấy có những yếu tố làm thay đổi quan niệm hôn nhân của giới trẻ Java như sự ảnh hưởng của tồn cầu hóa, trình độ giáo dục ngày càng được nâng cao. Mặc dù vậy, hiện nay người Indonesia vẫn giữ những truyền thống hôn nhân lâu đời nhưng trong tương lai chắc chắn sẽ có nhiều thay đổi. Vì suy nghĩ của giới trẻ có sự ảnh hưởng rất lớn đến sự thay đổi về văn hóa của Indonesia. Nhưng họ cần phải tiếp thu một cách có chọn lọc những thơng tin để hịa nhập mà khơng hịa tan nền văn hóa đậm chất Indonesia lâu đời này.
</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">2
Trong thời đại phát triển hiện nay, tình yêu và hôn nhân là một chủ đề được nhiều người nghiên cứu. Từ những bản nhạc xa xưa, những bộ phim vượt thời gian hay những tác phẩm văn học đầy ý nghĩa phần lớn đều bắt nguồn sáng tạo từ cảm hứng về hôn nhân hay tình u lứa đơi. Từ thuở xa xưa, con người đã có khái niệm về tình u và hơn nhân, nó là một trong những mục tiêu trọng yếu của đời người. Ai cũng mong ước, khát khao có được hạnh phúc cho riêng mình, để cùng nhau xây dựng tổ ấm vẹn tồn. Nó được đánh dấu qua một số hình thức nghi lễ dạm ngõ, cưới hỏi tùy thuộc vào tơn giáo, văn hóa, phong tục tập quán ở mỗi quốc gia, dân tộc.
Thế nhưng, để có thể chạm đến niềm khao khát ấy, họ phải tự mình vượt qua nhiều rào cản lớn. Những tục lệ khắt khe của thời đại phong kiến xưa đã đưa hôn nhân vào trong những quy định nghiêm ngặt. Tình u và hơn nhân phải chịu áp lực bởi chủng tộc màu da, tín ngưỡng-tơn giáo, bởi đẳng cấp giàu nghèo hay bởi lễ giáo gia đình và xã hội. Bước sang thời đại hiện nay, đã có một số quốc gia có cách nhìn thống hơn về tình u và hôn nhân. Chẳng hạn như cho phép sống thử trước hôn nhân, ly hôn, tái hôn hay hôn nhân cùng giới tính. Thế nhưng, vẫn cịn một số quốc gia giữ một số quan niệm riêng biệt mà nó thường bị chi phối nhiều bởi tín ngưỡng – tơn giáo, chẳng hạn như ở Indonesia.
Như chúng ta biết, Indonesia là một quốc gia quần đảo lớn nhất hành tinh với hơn 17.000 hòn đảo lớn nhỏ. Quần đảo nằm giữa hai hai đại dương lớn Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương. Từ xa xưa, khoảng đầu Công nguyên, những người Ấn đã lui tới đây ngày càng nhiều hơn, có quan hệ ngày càng mật thiết hơn với cư dân trên đảo, góp phần quan trọng trong việc phát triển kinh tế, cũng như giao thoa văn hóa tơn giáo. Chính vì lẽ đó, hiện nay Indonesia có rất nhiều tơn giáo như Hindu giáo, Phật giáo, Khổng giáo, Kito giáo, Islam giáo,…nhưng phần lớn dân cư ở đây đều theo Islam giáo. Theo khảo sát năm 2010, 87,2% dân số Indonesia là người Islam giáo. Số lượng người Islam giáo ở quốc gia Đông Nam Á này lớn nhất thế giới với khoảng 225 triệu. Tuy nhiên, Indonesia không được coi là nhà nước Islam giáo bởi Hiến pháp không công nhận Islam giáo là quốc giáo. Vì là một quốc gia phần lớn là Islam giáo nên những quan niệm về hôn nhân sẽ khác hơn so với các quốc gia trong khu vực. Cùng
</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">3
với sự giao thoa giữa các tôn giáo như Phật giáo, Hindu giáo, Khổng giáo và Kito giáo và Islam giáo, giới trẻ Indonesia sẽ có những quan niệm như thế nào về hơn nhân gia đình. Mà đảo Java là hịn đảo có số lượng cư dân sinh sống đông nhất Indonesia nên người làm đề tài sẽ tập trung nghiên cứu, phân tích về quan niệm hơn nhân của giới trẻ ở hòn đảo Java này.
Nghiên cứu về quan niệm hôn nhân của giới trẻ là một đề tài mang tính khoa học và thực tiễn. Là sinh viên ngành Đông Nam Á học, chuyên ngành Indonesia học, người
<i>làm đề tài chọn nghiên cứu về “Quan niệm hôn nhân của giới trẻ Java Indonesia hiện </i>
<i>nay (Nghiên cứu trường hợp ở đảo Java)”. Hy vọng đề tài này sẽ cung cấp cho người </i>
đọc những kiến thức bổ ích về quan niệm, suy nghĩ của giới trẻ Java Indonesia về hơn nhân gia đình hiện nay.
<b>2. Mục tiêu nghiên cứu </b>
<i>Với đề tài “Quan niệm hôn nhân của giới trẻ Java Indonesia hiện nay (Nghiên cứu </i>
<i>trường hợp ở đảo Java)” sẽ hướng đến những mục tiêu như sau: </i>
<i>Thứ nhất, tìm hiểu quan niệm hơn nhân theo tơn giáo (Islam giáo, Phật giáo, Hindu </i>
giáo, Khổng giáo và Kito giáo) và theo văn hóa truyền thống Java của người Java.
<i>Thứ hai, sau khi đã nhận diện được quan niệm hôn nhân theo văn hóa truyền thống </i>
Java, chúng tơi sẽ khảo sát và so sánh để tìm ra những quan niệm của giới trẻ Java về hôn nhân hiện nay.
<i>Thứ ba, qua quan niệm của giới trẻ Java về hơn nhân hiện nay, chúng tơi cũng tìm hiểu </i>
quan niệm của giới trẻ Java về các hiện tượng hôn nhân mới trên thế giới và các yếu tố làm thay đổi quan niệm hôn nhân của giới trẻ Java hiện nay.
<b>3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu </b>
<i><b>3.1. Đối tượng nghiên cứu </b></i>
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là quan niệm hôn nhân của giới trẻ Java ở Indonesia
<i>hiện nay </i>
<i><b>3.2. Phạm vi nghiên cứu </b></i>
<i>- Giới hạn về nội dung: đề tài chủ yếu nghiên cứu về quan niệm hôn nhân theo tôn </i>
giáo và truyền thống Java ở Indonesia. Sau đó nghiên cứu về quan niệm của giới trẻ
</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">4
Java về hơn nhân hiện nay. Bên cạnh đó cũng đưa ra những yếu tố tác động làm thay đổi quan niệm hôn nhân của giới trẻ Java.
<i>- Giới hạn về thời gian: Thời gian nghiên cứu đề tài chủ yếu tập trung từ sau thời kỳ </i>
Trật tự mới (năm 1998) cho đến nay.
<i>- Giới hạn về không gian: Người Java cư trú khắp các đảo ở Indonesia nhưng chủ yếu </i>
tập trung ở đảo Java nên đề tài chỉ nghiên cứu giới trẻ tại một số nơi ở đảo Java.
<b>4. Tổng quan tình hình nghiên cứu </b>
Cho đến nay ở Indonesia hay trên thế giới đã có rất nhiều cơng trình nghiên cứu về quan niệm hôn nhân của giới trẻ Java Indonesia hiện nay. Dưới đây chúng tôi xin điểm qua một số cơng trình như:
<i>- Cơng trình “Memelihara cinta (love) dalam pernikahan, sesuatu jalan yang </i>
<i>mencapai kebahagiaan” của tác giả Syurawasti Muhuddin. Cơng trình này nghiên cứu </i>
về cách để giữ gìn tình u trong hơn nhân gia đình cũng như có đề cập đến việc tình u học đường và những quy định khi yêu ở lứa tuổi này tại Indonesia.
<i>- Cơng trình “Hakekat Perkawinan menurut undang-undang perkawinan dan hukum </i>
<i>Islam dan hukum adat” của tác giả Santoso, xuất bản tại trường Đại Học Islam Sultan </i>
Agung Semarang. Cơng trình đề cập đến những luật lệ, quy định Islam giáo về hôn nhân cũng như mô tả bức tranh hôn nhân Islam giáo tại Indonesia thời kỳ trước cho đến nay.
<i>- Công trình “Hukum Perkawinan Islam dan Undang-Undang Perkawinan </i>
<i>(Undang-Undang No. 1 Tahun 1974 tentang Perkawinan)” của tác giả Soemiyati, xuất bản năm </i>
1997 tại Yogyakarta. Trong trang 4, tác giả đã đề cập đến những điều quan trọng trong hôn nhân mà người Islam cần phải biết và tuân theo. Điều này cũng gây ảnh hưởng ít nhiều đến tâm lý của giới trẻ hiện nay bị chi phối bởi luật lệ tôn giáo.
<i>- Cơng trình “Hukum Islam di Indonesia” của tác giả Ahmad Rafiq, xuất bản năm </i>
2000 tại Jakarta. Trong trang 56 và 57, tác giả đã nêu bật lên một số nguyên tắc sau khi kết hôn đối với người Islam giáo về việc công bằng trong hôn nhân, việc cho phép cưới nhiều hơn một vợ.
<i>- Cơng trình “Kembang Setaman Perkawinan (Analisis Kritis Kitab Uqud Al-Lujjayn)” </i>
của nhóm tác giả Forum Kajian Kitab Kuning được xuất bản tại Penerbit Buku
</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">5
Kompas Jakarta năm 2005. Trong cơng trình này, tác giả đã đề cập đến việc bình đẳng hơn nhân cũng như phụ nữ sau hôn nhân bị ngược đãi nặng nề nên họ cần phải có tiếng nói trong hơn nhân.
<i>- Cơng trình “Mencari solusi di tengah-tengah polemic perkawinnan lintas agama </i>
<i>dalam berbangsa dan bernegara” của tác giả Lutfi Chakim. Cơng trình đề cập đến </i>
những biện pháp giải quyết các vấn đề về kết hôn khác tôn giáo hay kết hôn với người nước ngồi.
<i>- Cơng trình “Indonesia: Inter-Religious Marriage” xuất bản tại The Law Library of </i>
Congress, Global Legal Research Center năm 2010. Cơng trình đề cập đến vấn đề hơn nhân liên tơn giáo, những khó khăn trong q trình kết hơn với người khác tơn giáo và cách giải quyết.
<i>- Cơng trình “Nikah Beda Agama Kenapa ke luar negeri?” của tác giả Dr. Sri </i>
Wahyuni, M.Ag., M.Hum xuất bản tại Penerbit Alvabet năm 2016. Cơng trình đã đề cập đến luật hôn nhân chung tại Indonesia, qui định chung về kết hôn khác tôn giáo và kết hơn với người nước ngồi.
<b>5. Phương pháp nghiên cứu </b>
Để hồn thành đề tài nghiên cứu này, chúng tơi sử dụng các phương pháp nghiên cứu như sau:
<i>- Phương pháp điều tra bảng hỏi: Phương pháp này được sử dụng để thu thập ý kiến </i>
của giới trẻ Java về vấn đề hôn nhân thông qua bảng hỏi đã được thiết kế sẵn. Quan niệm hôn nhân của giới trẻ Java về độ tuổi kết hôn, hôn nhân đồng tộc, hôn nhân đồng tôn giáo, hôn nhân môn đăng hộ đối và hơn nhân tự nhiên (tự tìm hiểu)
<i>- Phương pháp phỏng vấn sâu: Phương pháp này được sử dụng để thu thập ý kiến, </i>
quan điểm của giới trẻ về các vấn đề liên quan đến hôn nhân hiện nay ở Indonesia như quan niệm của giới trẻ Java về các hiện tượng hôn nhân mới trên thế giới và các yếu tố làm thay đổi quan niệm hôn nhân của giới trẻ Java.
<i>- Phương pháp thống kê và xử lý số liệu là phương pháp thu thập, tổng hợp, trình bày </i>
số liệu và tính tốn các đặc trưng của đối tượng nghiên cứ nhằm phục vụ cho q trình phân tích, dự đốn và quyết định. Để có dữ liệu tổng qt về tình hình nghiên cứu, số liệu thu thập phải được xử lý tổng hợp, trình bày.
</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">6
<i>- Phương pháp nghiên cứu liên ngành lịch sử, tôn giáo và văn hóa: Phương pháp này </i>
được sử dụng để trình bày quan niệm hôn nhân theo tôn giáo và quan niệm hơn nhân theo văn hóa truyền thống của người Java. Từ đó, chúng tơi tiến hành so sánh để tìm ra quan niệm hơn nhân của giới trẻ Java ở Indonesia hiện nay.
<i>- Ngồi ra, đề tài cịn sử dụng một số thao tác để tiến hành phân tích tư liệu tổng hợp, </i>
phân loại tư liệu và tiến hành xử lý số liệu bằng phương pháp thống kê, phân tích, so sánh, .. để rút ra được những kết luận nghiên cứu.
<b>6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn </b>
<i>6.1. Ý nghĩa khoa học </i>
- Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần cung cấp những thông tin cần thiết về quan niệm hôn nhân theo tôn giáo và truyền thống Java và quan niệm hơn nhân của giới trẻ Java hiện nay. Từ đó giúp người đọc có cái nhìn bao qt hơn về hôn nhân tại đảo Java Indonesia. Song song đó, đề tài nghiên cứu cũng đưa ra những yếu tố làm thay đổi quan niệm hơn nhân của giới trẻ Java.
- Ngồi ra từ kết quả nghiên cứu của đề tài có thể được sử dụng để làm luận cứ khoa học cho các đề tài nghiên cứu tương tự khi muốn tìm hiểu sâu hơn về quan niệm hôn nhân theo tôn giáo và truyền thống của một tộc người nào đó.
<i>6.2. Ý nghĩa thực tiễn </i>
Kết quả của đề tài nghiên cứu này có thể được sử dụng làm tư liệu tham khảo cho sinh viên các ngành Indonesia học, Đơng phương học, nhân học, văn hóa học, …. và những ai muốn tìm hiểu về hơn nhân của người Java nói riêng và người Indonesia nói chung.
</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">7
Chương hai: Quan niệm hôn nhân theo tôn giáo và truyền thống Java ở Indonesia. Trong chương này sẽ nghiên cứu (1) quan niệm hôn nhân theo tôn giáo ở Indonesia; (2) quy định của pháp luật Indonesia về hôn nhân; (3) quan niệm hôn nhân truyền thống Java;
Chương ba: Quan niệm của giới trẻ Java về hôn nhân hiện nay. Trong chương này sẽ nghiên cứu (1) quan niệm của giới trẻ về hôn nhân; (2) quan niệm của giới trẻ về các hiện tượng mới trên thế giới; (3) các yếu tố làm thay đổi quan niệm hôn nhân của giới trẻ Java.
</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">Trong 3 yếu tố: ngôn ngữ, lãnh thổ và ý thức tộc người gắn với tộc danh thì yếu tố thứ ba có vai trị đặc biệt. Ý thức tự giác của tộc người gắn với tộc danh không chỉ là là yếu tố cần thiết mà còn là yếu tố đấy đủ cho bản sắc hóa tộc người. Khi có dấu hiệu thay đổi về ý thức tự giác của tộc người thì sẽ xuất hiện dấu hiệu thay đổi thành phần tộc người. Ở góc độ triết học, vấn đề tộc người khơng chỉ gói gọn trong q trình thu thập, phân tích các dữ liệu nhân chủng học một cách trực quan mà còn phải nghiên cứu những nhân tố tự nhiên và lịch sử xã hội để làm rõ quá trình phát sinh của một tộc người. Tộc người với các hình thái kinh tế - xã hội như một cơ thể xã hội gồm tập thể những con người luôn thống nhất, có tên tự gọi (tên chính trị), chiếm một lãnh thổ nhất định (khởi nguyên là quyền sở hữu đất đai của một cộng đống) và cùng có những đặc điểm chung về ngơn ngữ và văn hóa. Lịch sử lồi người với tính cách là tổng thể lịch sử của các cộng đồng. Quá trình hình thành nhà nước trong lịch sử nhân loại khởi đầu từ tộc người đã được Mác và Ăngghen đề cập trong các tác phẩm của mình.
Chẳng hạn như từ thị tộc, bộ tộc -> tập đồn người (có sự khác nhau về sở hữu) -> giai cấp (đấu tranh giai cấp -> nhà nước Con người với tính cách là con người hiện thực, là chủ thể lịch sử có q trình hình thành và phát triển gắn với sự biến đổi của các phương thức sản xuất trong những điều kiện địa lí tự nhiên nhất định. Chủ thể lịch sử khẳng định khơng gian sinh tồn của mình thơng qua việc xác định chủ quyền lãnh thổ. Ở điểm xuất phát, do chưa bị phân hóa nên mọi sự vật hiện tượng đều chưa có sự phân
<small>1 Truy cập ngày 09/01/2020. </small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">9
biệt. Qua quá trình vận động, những khác biệt dần dần lộ ra, từ đó dẫn đến những khoảng chênh về các giá trị. Lao động loài người cũng vậy. Hình thái kinh tế chiếm đoạt là phổ quát ở thời kì đầu tìm kiếm phương thức sống của nhân loại. Sản phẩm thời kì này chủ yếu do thu lượm từ tự nhiên. Khi nhận thấy những bất ổn của hình thức săn bắt, hái lượm con người chuyển sang các hình thức kiếm sống khác phù hợp với mơi trường mà họ đang cư trú. Do những lợi thế về mặt địa hình và khí hậu, người Phương Tây chọn lối sống chăn dắt bầy đàn cịn người phương Đơng chọn lối sống trồng trọt (gồm nông nghiệp khô và nông nghiệp lúa nước). Sản phẩm thời kì này thu được từ nền sản xuất dựa vào môi trường tự nhiên. “Ngay từ xưa, đời sống của con người đã dựa vào sản xuất, dựa vào một kiểu nào đó của nền sản xuất xã hội”<small>2</small>. Nền sản xuất ở giai đoạn đầu tiên dù ở dạng này hay dạng khác thì cũng chỉ là nền sản xuất “tự nhiên”. Nhưng nó là tiền đề cho toàn bộ lịch sử nhân loại, bảo đảm sự tồn tại của cá nhân con người cho đến ngày nay. Cách tiếp cận từ góc độ triết học, lịch sử, xã hội cho thấy bản chất tộc người được hình thành trong các mối quan hệ cơ bản: nhà nước, dân tộc, kinh tế, văn hóa. Đây là những mối quan hệ đồng thời cũng là những yếu tố tổng quát để xem xét bản chất tộc người. Trong q trình vận động, các tộc người ln có ý thức xây dựng, phát triển đồng thời giữ gìn, bảo vệ nhà nước, dân tộc (tộc danh và ý thức về tộc người), kinh tế, văn hóa của cộng đồng mình. Đó cũng chính là q trình giữ gìn bản sắc của một hoặc nhiều cộng đồng người có chung tộc danh (cũng có thể là quốc hiệu). Thực tế cho thấy, việc giữ gìn tộc người trước hết là giữ gìn tộc danh và ý thức về tộc người. Tức là những yếu tố thuộc lĩnh vực văn hoá, dân tộc chứ chưa phải lĩnh vực nhà nước. <small>3</small>
1.1.1.2. Văn hóa tộc người
Văn hóa phản ánh và thể hiện một cách sống động toàn bộ cuộc sống con người trong suốt q trình lịch sử. Văn hóa tạo nên một hệ thống các giá trị truyền thống bao gồm thẩm mĩ và lối sống, từ đó từng dân tộc xây dựng nên bản sắc riêng của mình. Văn hóa là tất cả những gì con người đã bỏ công sức để tạo ra; nó khác với những gì tồn tại trong tự nhiên ngoài con người. “Văn hoá là hệ thống hữu cơ các giá trị tinh thần và vật chất do con người sáng tạo và tích luỹ qua q q trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội”<sup>4</sup>. Văn hóa với tính
<small>2</small><i><small> C. Mác. (1973). Tư Bản, Phê phán khoa kinh tế chính trị. Nxb. Sự Thật Hà Nội, tr. 346. </small></i>
<small> Truy cập ngày 09/01/2020. 4</small><i><small> Trần Ngọc Thêm. (1996). Tìm về bản sắc văn hố Việt Nam. Nxb. TP. Hồ Chí Minh, tr. 27. </small></i>
</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">10
cách là yếu tố cấu thành tộc người bao gồm tri thức, tín ngưỡng, đạo đức, nghệ thuật, luật pháp, tập quán, sinh hoạt … là sự thể hiện bản chất năng lực con người với tính cách là thành viên của cộng đồng xã hội. “Văn hóa là tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà lồi người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”<sup>5</sup>. Nghiên cứu văn hóa với tính cách là yếu tố cấu thành tộc người cần phải xem xét trên cả trục đồng đại và lịch đại. Với sự liệt kê đầy đủ danh mục các hiện tượng văn hóa của một tộc người cho phép chúng ta có những nhận định sơ bộ về văn hóa tộc người cũng như bản sắc văn hoá tộc người. Khi nói đến văn hóa tộc người là nói đến những khía cạnh tiêu biểu của tộc người đó tạo nên những nét khác biệt với văn hóa các tộc người khác. Cũng cần thấy rằng văn hoá tộc người là một thực thể đa dạng và thống nhất. “Nếu coi thống nhất của văn hóa từ đa dạng, thì muốn củng cố sự thống nhất ấy, phải trên cơ sở bảo tồn và phát triển tính đa dạng của văn hóa, mà ở đây thể hiện rõ nhất là đa dạng văn hóa tộc người và văn hóa địa phương (văn hóa vùng). Sẽ khơng có sự thống nhất văn hóa nào vững chắc và lành mạnh lại dựa trên cơ sở thuần nhất hóa hay đơn nhất hóa văn hóa”<sup>6</sup>. Đời sống vật chất và đời sống tinh thần là hiện tượng phổ quát của các tộc người. Mặt khác, sự vận động về mặt tinh thần và vật chất của chủ thể văn hố ln gắn với khơng gian thời gian cụ thể. Nhờ có quan hệ với tự nhiên và xã hội mà chủ thể văn hố sáng tạo ra những sản phẩm có giá trị, đồng thời nhờ đó mà chủ thể có thể thể hiện mình trước tự nhiên và xã hội. Văn hố là sự thể hiện mình theo một cách riêng, trong điều kiện lịch sử cụ thể của một chủ thể văn hoá. Văn hoá theo hướng này có nghĩa là nét đặc thù về phong cách sống của tộc người. Nét đặc thù về phong cách sống của mỗi tộc người như là phương thức tái hiện những tập hợp tình cảm và lí trí nhằm khẳng định các giá trị chung của cộng đồng tộc người. Nói chung, nét đặc thù về phong cách sống là một biểu hiện của bản sắc văn hoá tộc người.
</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">11 1.1.2. Hơn nhân và các loại hình hơn nhân 1.1.2.1. Khái niệm hơn nhân
Trên thực tế, có nhiều cách hiểu khác nhau về hôn nhân. Hôn nhân thường là sự kết hợp giữa một người đàn ông được gọi là chồng và một người phụ nữ được gọi là vợ. Hôn nhân là sự kết hợp của các cá nhân về mặt tình cảm, xã hội, và hoặc tôn giáo một cách hợp pháp. Hôn nhân thường là kết quả của tình yêu nam nữ.
Dưới góc độ pháp luật căn cứ khoản 1 Điều 3 Luật Hơn nhân gia đình năm 2014, khái niệm hơn nhân được hiểu là hôn nhân là quan hệ giữa vợ và chồng sau khi kết hôn. Trên cơ sở khoản 1 Điều 3 Luật Hơn nhân gia đình hiện hành, hơn nhân được xem là kết quả của tình yêu, là sự kết hợp giữa một người đàn ông được gọi là chồng và một người phụ nữ được gọi là vợ. Đây là sự kết hợp giữa nam và nữ về tình cảm, xã hội, giới tính, tơn giáo một cách hợp pháp. Hôn nhân điều chỉnh mối quan hệ sinh lý giữa đàn ông và phụ nữ, cho phép nam nữ sống chung với nhau đồng thời đặt ra các quy định về quyền lợi và nghĩa vụ của vợ chồng với nhau. Trên thực tế, lễ cưới hỏi thường được xem là sự kiện đánh dấu sự chính thức bắt đầu của hơn nhân. Tuy nhiên, về mặt luật pháp, hôn nhân bắt đầu từ việc đăng ký kết hôn, là việc nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng với nhau theo quy định pháp luật khi đủ điều kiện kết hôn và đăng ký kết hơn tại cơ quan có thẩm quyền. Đồng thời, theo quy định Điều 36 Hiến pháp 2013, hôn nhân dựa trên nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ, là chế độ một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng và tơn trọng lẫn nhau. Các quốc gia trên thế giới tồn tại nhiều kiểu hôn nhân khác nhau như hôn nhân một vợ một chồng, hôn nhân nhiều vợ nhiều chồng, hôn nhân đa thê, hơn nhân đồng tính, nam nữ sống chung như vợ chồng. Tuy nhiên, pháp luật Việt Nam hiện nay chỉ công nhận chế độ hôn nhân một vợ một chồng. Đối với hơn nhân giữa những người cùng giới tính, mặc dù không cấm nhưng Nhà nước vẫn không thừa nhận hơn nhân đồng giới. Mục đích cơ bản nhất và quan trọng nhất của hôn nhân là việc sinh sản, nuôi dưỡng và giáo dục con cái của vợ chồng. Hơn nhân góp phần duy trì nịi giống, đảm bảo tương lai tồn tại của cả một dân tộc. Như vậy, hiểu một cách khái quát nhất, hôn nhân là sự kết hợp hoàn tự nguyện giữa 1 nam và 1 nữ trên cơ sở bình đẳng và tơn trọng nhau, được xác lập sau khi nam nữ đăng ký kết hôn khi đủ điều kiện kết hôn và tiến hành tại cơ quan có thẩm quyền.<small>7</small>
<small>7 Truy cập ngày 09/01/2020. </small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">12 1.1.2.2. Các loại hình hơn nhân
Hiện nay có một số loại hình hơn nhân phổ biến như hôn nhân một vợ một chồng, hôn nhân nhiều vợ nhiều chồng (đa thê, đa phu, quần hơn), hơn nhân giữa hai người cùng giới tính, hơn nhân theo tục lệ nối dây,…<small>8</small>
* Hôn nhân một vợ một chồng
Hôn nhân một vợ - một chồng là một hình thức hơn nhân giữa 1 nam và 1 nữ, trong đó mỗi cá nhân chỉ có một người hơn phối trong suốt cuộc đời của họ hoặc tại thời điểm đang xét đến. Đây là hình thức hơn nhân cơ bản và phổ biến nhất, được chấp nhận ở mọi nơi trên thế giới.
Nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng được cụ thể hóa trong quy định về các trường hợp cấm trong chế độ hôn nhân và gia định, Luật hơn nhân và gia đình năm 2014 quy
<i>định cấm “Người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với </i>
<i>người khác hoặc chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người đang có chồng, có vợ”. Tuy nhiên, nguyên tắc hôn nhân một vợ một </i>
chồng có ngoại lệ hay khơng? Nói cách khác, trường hợp nào pháp luật thừa nhận hơn nhân có nhiều vợ, nhiều chồng?
* Hôn nhân nhiều vợ nhiều chồng (đa thê, đa phu, quần hôn)
Đa phu thê là hôn nhân với nhiều hơn một người. Khi một nam giới lấy nhiều hơn một vợ trong cùng một thời điểm, được gọi là đa thê. Khi một phụ nữ lấy nhiều hơn một chồng trong cùng một thời điểm, được gọi là đa phu. Nếu hôn nhân gồm nhiều chồng và vợ, được gọi là kết hơn nhóm hoặc gọi là quần hôn.
Trong một số trường hợp pháp luật thừa nhận hơn nhân có nhiều vợ, nhiều chồng. Thứ nhất, trường hợp kết hôn trước khi Luật hơn nhân gia đình năm 1959 có hiệu lực (trước ngày 13/01/1960). Theo Luật này, những trường hợp kết hôn từ ngày 13/01/1960 mà vi phạm nguyên tắc một vợ một chồng thì được coi là khơng hợp pháp. Như vậy, những quan hệ hôn nhân được xác lập trước khi Luật này có hiệu lực, dù có nhiều vợ, nhiều chồng thì vẫn khơng vi phạm ngun tắc một vợ một chồng và được coi là hợp pháp. Tuy nhiên, do hoàn cảnh chiến tranh nên Luật này chỉ có hiệu lực đối
<i><small> Viện Nghiên cứu Phát triển Xã hội. (2015). Bộ Tài Liệu tập huấn các quyền đối với đất đai và tài sản trong hôn nhân và gia đình. Viện Nghiên cứu Phát triển Xã hội (ISDS), tr 9. </small></i>
</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">13
với miền Bắc. Ngoài ra, do tồn tại lịch sử, các quan hệ hôn nhân nhiều vợ, nhiều chồng trước ngày 13/01/1959 vẫn được coi là hợp pháp. Đối với miền Nam, theo Nghị quyết 76/CP năm 1977 thì Luật hơn nhân gia đình năm 1959 được áp dụng từ ngày 25/3/1977. Tương tự miền Bắc, những quan hệ hôn nhân nhiều vợ, nhiều chồng được xác lập trước ngày 25/3/1977 vẫn được công nhận hợp pháp.
Thứ hai, trường hợp bộ đội, cán bộ có vợ, có chồng ở miền Nam tập kết ra miền Bắc, lấy vợ, chồng khác. Theo Thông tư số 60/TATC ngày 22/2/1978 của Tịa án nhân dân tối cao thì nay nếu người vợ hoặc người chồng ở miền Nam vẫn khơng có quan hệ hơn nhân mới và muốn duy trì quan hệ hơn nhân trước đây thì cơng nhận cả hôn nhân mới và hôn nhân trước đây. Cần lưu ý rằng Thông tư này chỉ áp dụng đối với các đối tượng là cán bộ, bộ đội đã có vợ hoặc có chồng trong Nam, tập kết ra Bắc lấy vợ hoặc lấy chồng khác và chỉ đóng khung trong thời gian từ sau ngày ký hiệp định Giơ-ne-vơ đến ngày Quốc Hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam tuyên bố thống thất đất nước, Luật Hôn nhân và gia đình về nguyên tắc được áp dụng chung trong cả nước (tức ngày 25/3/1977). Như vậy, hôn nhân nhiều vợ nhiều chồng chỉ được công nhận trong các trường hợp trên. <small>9</small>
* Hơn nhân đồng tính
Hơn nhân đồng giới tạm hiểu là kết hơn giữa những người có cùng giới tính sinh học. Trước đây, tại Luật Hơn nhân và gia đình năm 2000, kết hôn giữa những người có cùng giới tính là một trong 5 trường hợp cấm kết hôn. Tuy nhiên, khi Luật Hơn nhân và Gia đình 2014 được áp dụng, thay thế cho Luật năm 2000, thì kết hơn đồng giới khơng cịn thuộc trường hợp bị cấm.
Thay vào đó, Luật mới chỉ quy định là nhà nước không thừa nhận hôn nhân giữa những người có cùng giới tính (Điều 8). Điều này cho thấy, pháp luật đã thay đổi cách nhìn với hơn nhân đồng giới, khơng nghiêm cấm một cách cứng nhắc như trước đây mà chỉ không thừa nhận, tức là khơng khuyến khích nhưng cũng khơng cho phép. Theo đó, các cặp đơi đồng tính vẫn có thể tổ chức đám cưới, vẫn được chung sống với nhau nhưng sẽ không được thừa nhận là vợ chồng về mặt pháp lý.
<small>9 Truy cập ngày 09/01/2020. </small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">14
Có thể thấy, dù hiện nay pháp luật chưa thừa nhận kết hôn đồng giới nhưng sự thay đổi nêu trên vẫn được coi là tín hiệu vui đối với những cặp đơi có cùng giới tính, là kết quả của một q trình vận động và thảo luận trong suốt một thời gian dài. Các cặp đơi đồng tính tại Việt Nam đều kỳ vọng rằng, việc Việt Nam cho phép kết hôn đồng giới như 25 quốc gia khác trên thế giới sẽ khơng cịn xa. Theo số liệu thống kê chưa đầy đủ, Việt Nam hiện có khoảng 2,5 triệu người đồng tính và hầu hết trong số họ đều khao khát được kết hơn với những người có cùng giới tính để đồng cảm, chia sẻ, quan tâm và chăm sóc lẫn nhau, cùng xây dựng hạnh phúc gia đình. Tuy nhiên, để thừa nhận kết hôn đồng giới vẫn là một vấn đề khó với các nhà làm luật. Bởi lẽ, nếu thừa nhận có thể sẽ gây ra những hệ lụy tiêu cực với xã hội, không phù hợp với thuần phong mỹ tục và nền văn hóa Á Đơng. Dưới góc độ pháp lý, thừa nhận hơn nhân đồng giới thì sẽ phải sửa đổi, bổ sung tất cả các quy định liên quan trong hệ thống pháp luật, như xác định quan hệ vợ chồng, quan hệ tài sản, xác định cha, mẹ con…<small>10</small>
1.1.3. Khái niệm giao lưu tiếp biến văn hóa
Giao lưu tiếp biến văn hóa (acculturation) là khái niệm được các nhà Nhân học phương Tây đưa ra vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, nhằm mạnh đến sự biến đổi văn hóa của tộc người trong xã hội đa tộc người. Giao lưu tiếp biến văn hóa là sự tương hỗ lẫn nhau giữa hai nền văn hóa. Sự tương hỗ này có khi diễn ra khơng cân xứng, và kết quả sẽ có một nền văn hóa bị hút vào trong một nền văn hóa khác, hoặc bị thay đổi bởi một nền văn hóa khác; hay cả hai nền văn hóa cùng thay đổi. <small>11</small>
Là khái niệm được các nhà Nhân học phương Tây đưa ra vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, khi tiến hành nghiên cứu về sự biến đổi văn hóa của các nhóm di dân người Châu Âu đến Mỹ với các nhóm dân tộc thiểu số sinh sống lâu đời trên đất Mỹ. Trong quá trình định cư trên đất Mỹ, nhóm cư dân da trắng đến từ Châu Âu đã có những tác động làm cho văn hóa của các cư dân da màu bản địa thay đổi theo chiều hướng mà các nhà khoa học gọi là đồng hóa văn hóa (cultural assimilation) cư dân bản địa. Theo Titiev, đồng hóa là kết quả khơng thể tránh khỏi của quá trình giao lưu tiếp biến văn hóa, bởi các giá trị của nền văn hóa “yếu hơn” sẽ bị hòa lẫn hoặc trở thành một bộ phận trong nền văn hóa có vai trò chi phối đời sống xã hội. Quá trình giao lưu tiếp
<small>10 Truy cập ngày 09/01/2020 </small>
<i><small> Huỳnh Ngọc Thu. (2011). Giao lưu tiếp biến văn hóa ở cộng đồng đa dân tộc (Việt, Khmer, Hoa) tại xã Bình An, huyện Kiên Lương, tỉnh Kiên Giang, Tạp chí phát triển KH&CN, tập 14, Số X1 – 2011, trang 38-39. </small></i>
</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">- Tiếp biến văn hóa sẽ hướng đến q trình đồng hóa.
- Việc tiếp biến văn hóa hay đồng hóa văn hóa sẽ diễn ra liên tục, không có sự kết thúc.
- Tiếp biến văn hóa và đồng hóa văn hóa dẫn đến sự đồng nhất, pha trộn, làm cho văn hóa của nhóm nhỏ hịa lẫn vào văn hóa của nhóm trội hơn. Việc này thường diễn ra ở những thế hệ kế tiếp. Như vậy có thể thấy, giao lưu tiếp biến văn hóa là kết quả biểu hiện sự biến đổi bộ phận văn hóa của tộc người (yếu hơn các tộc người khác về mặt dân số, kinh tế, chính trị,…) trong xã hội đa tộc người. Sự biến đổi này là do các cá nhân trong tộc người tham gia vào các vị trí xã hội của nền văn hóa khác (có vai trị chi phối xã hội), như cùng sống chung trong một khu vực, cùng tham gia vào các hoạt động giáo dục, kinh tế, chính trị… và rồi bản thân của cá nhân tự thay đổi cho phù hợp với văn hóa mới. Giao lưu tiếp biến văn hóa là sự tương hỗ lẫn nhau giữa hai nền văn hóa. Sự tương hỗ này có khi diễn ra không cân xứng, và kết quả sẽ có một nền văn hóa bị hút vào trong một nền văn hóa khác, hoặc bị thay đổi bởi một nền văn hóa khác hay cả hai nền văn hóa cùng thay đổi.
Từ cơ sở lý thuyết trên, ta thấy nguyên nhân dẫn đến quá trình giao lưu tiếp biến văn hóa là do sự tiếp xúc lâu dài giữa các tộc người khác nhau với các nền văn hóa khác nhau. Điều kiện để các nền văn hóa có thể tiếp xúc lâu dài, dẫn đến quá trình tiếp biến văn hóa là do những nhân tố như:
- Các dân tộc với nền văn hóa khác nhau cùng sống chung trong một khu vực có sự tương đồng về mặt địa lý, lịch sử, kinh tế, chính trị… nên dẫn đến q trình giao lưu tiếp biến văn hóa.
Ví dụ: Người Việt sinh sống trên đất Camphuchia, đến ngày tết Cholchnam Thmay (từ ngày 14-16 tháng 4 Dương lịch) của người Khmer, họ tích cực tham gia, hưởng ứng
</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">16
các trò chơi dân gian của người Khmer. Hoặc đến ngày tết Âm lịch của người Việt, người Hoa trên đất Campuchia, người Khmer cũng nhiệt tình ủng hộ. Họ cũng tham gia vào lễ tết, cũng làm bánh tét (chrut), đi lễ chùa, thăm hỏi lẫn nhau.
- Các tộc người cùng tham gia vào một thể chế chính trị, một hệ thống giáo dục nên cũng dẫn đến quá trình giao lưu tiếp biến văn hóa. Ví dụ: người Karen ở Thái Lan là tộc người thiểu số. Vào thập niên 50, họ được chính quyền Thái Lan quan tâm, đưa họ tham gia vào hệ thống giáo dục của chính quyền. Từ đó, người Karen có nhiều học sinh đến học ở trường Thái. Sau đó thì đa số người Karen sống ở Thái nói tiếng Thái rành hơn tiếng Karen và có nhiều người đã giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế và chính trị ở Thái. Những người Karen được đào tạo ở Thái trở thành người phát ngơn có thế lực cho người Karen ở Thái. Và, họ được công nhận là cơng dân của Thái Lan, có quyền như người Thái.
- Hoặc các tộc người tiếp nhận một tôn giáo mới thông qua cơ chế truyền đạo nên văn hóa của họ cũng bị biến đổi. Trong lịch sử, văn hóa của nhiều tộc người đã có sự thay đổi khi tiếp nhận một tôn giáo mới. Sự thay đổi có thể là thay đổi nhận thức về thế giới quan, thay đổi. về lễ nghi trong cộng đồng, thay đổi về lối sống – sinh hoạt văn hóa… Như vậy, giao lưu tiếp biến văn hóa là một khái niệm nói đến sự biến đổi để thích nghi của các loại hình văn hóa tộc người trong quá trình tiếp xúc lâu dài dưới nhiều hình thức giữa các nền văn hóa với nhau.<small>12</small>
1.1.4. Khái niệm tồn cầu hóa
Từ giữa thập niên 70 thế kỷ XX đến nay khái niệm " tồn cầu hóa " bắt đầu được đề cập một cách rộng rãi. Thực ra tồn cầu hóa đã là một xu thế phát triển nảy sinh trong quá trình bùng nổ cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, đặc biệt cách mạng tin học và viễn thông trong khoảng hơn 30 năm trở lại đây. "Tồn cầu hóa” là thuật ngữ dùng để chỉ những hiện tượng (những mối quan hệ và q trình) vốn chưa có tính chất tồn cầu song đang có khuynh hướng vươn lên thành hiện tượng toàn cầu nhờ sử dụng những thành tựu mới của cách mạng khoa học và công nghệ.
Tồn cầu hóa (globalization) khác với quốc tế hóa (in-ternationalization) ở chỗ quốc tế hóa là một quá trình thể chế hóa quan hệ giữa các dân tộc trên những tiêu chuẩn và hệ
<i><small> Huỳnh Ngọc Thu. (2011). Giao lưu tiếp biến văn hóa ở cộng đồng đa dân tộc (Việt, Khmer, Hoa) tại xã Bình An, huyện Kiên Lương, tỉnh Kiên Giang, Tạp chí phát triển KH&CN, tập 14, Số X1 – 2011, trang 38-40. </small></i>
</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">17
thống chung đã được cộng đồng quốc tế chấp nhận. Nó được thực hiện thơng qua việc ký kết các điều ước, hiệp định và tập quán quốc tế. Có thể nói trên một số phương tiện quốc tế hóa là bước đầu để đi đến tồn cầu hóa. Nếu quốc tế hóa thiên về xu thế chủ quan nào đó tài tồn cầu hóa thiên về xu hướng khách quan. Chẳng han chế độ mậu dịch tự do đã được quốc tế hóa bằng việc kết hiệp định GATT. Q trình quốc tế hóa này sẽ được tồn cầu hóa trong tương lai với sự tham gia của đại bộ phận các nước trên thế giới.
Toàn cầu hóa trái lại diễn ra một cách lặng lẽ nhờ cả phương tiện thơng tin tồn cầu mà khơng cần phải thông qua một định chế quốc tế nào. Q trình tồn cầu hóa hiện nay tuy mới chỉ ở giai đoạn ban đầu nhưng đã được thể chế hóa thành 3 mạng hưới có liên hệ chặt chẽ với nhau.
Mạng lưới thông tin toàn cầu hay " làng thơng tin tồn cầu ” mà cơ bản là internet để tạo nét đường thông tin cao tốc
Hệ thống đại siêu thị tồn cầu là cơng cụ của các Cơng ty siêu quốc gia để tồn cầu hóa các sản phẩm của họ.
Chợ văn hóa tồn cầu gồm: phim ảnh, tỉ, đài, nhạc, tạp chí, các trị chơi, đồ chơi và các cơng viên là những phương tiện để truyền bá các hình ảnh toàn cầu, nghệ thuật toàn cầu, giá trị toàn cầu và cuối cùng là con người toàn cầu.
Hệ thống trụ sở lao động toàn cầu gồm mạng lưới các nhà máy, công xưởng, ván phòng luật sư, trung tâm dịch vụ kinh tế - kỹ thuật tức là tất cả những nơi sản xuất hàng hóa, xử lý thơng tin và cung cấp dịch vụ.<sup>13</sup>
1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Vài nét về tộc người Java
Người Java là tộc người lớn nhất ở Indonesia, có địa bàn cư trú bản địa là Trung Java, Đông Java và Yogyakarta. Mặc dù đảo Java chỉ chiếm 7% diện tích Indonesia nhưng đây là nơi cư trú của hơn 60 % dân số Indonesia. Chính vì sự mất cân bằng dân số giữa những hòn đảo như vậy nên ngay từ thế kỷ XVIII, chương trình di dân từ đảo Java đến những hịn đảo khác ít người hơn đã được chính quyền thuộc địa Hà Lan thực hiện.
<small>13</small>
<i><small> Huỳnh Khái Vinh. (2001). Những vấn đề văn hóa Việt Nam đương đại. Tập 2. Hà Nội: Khoa học Xã hội, trang </small></i>
<small>31-32. </small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">Người Java là tộc người có dân số đông nhất trong các tộc người ở Indonesia, khoảng 95.217.022 người, chiếm 40,22% tổng dân số Indonesia. <small>15</small>Đồng thời, Java là tộc người có nền văn hóa lâu đời và nổi bật hơn so với các tộc người khác ở Indonesia. Người Java có nguồn gốc từ đảo Java, cư dân bản địa của đảo này. Josef Glinka khẳng định rằng “cách đây 2 triệu năm trên đảo Java đã có người cư trú. Có bằng chứng cho thấy sự tiến hoá từ Homo erectus sang Homo sapiens đã diễn ra ở đây. Tuy nhiên, trong khoảng thời gian từ 200.000 đến 40.000 năm trước Cơng Ngun, vẫn chưa tìm thấy hoá thạch nào ở đây để cho phép tái dựng lại q trình tiến hố đó. Cách đây 40.000 năm, ở đảo Java và phần lớn quần đảo Indonesia đã có người Homo sapiens sinh sống ban đầu có nguồn gốc từ tộc người Autromelanesid, khoảng 10.000 năm trải qua quá trình Mongoloid hố. Q trình Mongoloid hố này diễn ra tương đối sâu rộng trong một ngàn năm gần đây.
Địa bàn cư trú lâu đời của người Java là đảo Java, một trong năm đảo lớn của quần đảo Indonesia. Đảo Java có chiều dài hơn 1.200km và rộng 500km, nằm trên bờ phía Nam của quần đảo Indonesia. Hòn đảo này chiếm 7 % diện tích đất liền của Indonesia.<small>16</small>Đảo Java được chia làm bốn tỉnh (Banten, Tây Java, Trung Java, Đông Java), một đặc khu (thành phố Yogyakarta) và một đặc khu thủ đơ (Jakarta).
Java nằm giữa đảo Sumatra ở phía Tây và đảo Bali ở phía Đơng, cịn đảo Kalimantan nằm ở phía Bắc, Sunda ở phía Tây, Ấn Độ Dương ở phía Nam và eo biển Bali cùng eo biển Madura ở phía Đơng.
<small>14</small><i><small> Koentjaraningrat. (1984). Kebudayaan Jawa (Văn hóa Java). PN Balai Pustaka Jakarta, hlm. 5. </small></i>
<small>15</small><i><small> Ahsan Naim & Hendry Syaputra. (2010). Kewarganegaraan, suku bangsa, agama dan bahasa sehari - hari penduduk Indonesia (Quốc tịch, tộc người, tôn giáo và ngôn ngữ hàng ngày của người dân Indonesia), Badan </small></i>
<small>Pusat Statistik, Jakarta – Indonesia, hlm. 9. </small>
<small>16</small><i><small> Koentjaraningrat. (1984). Kebudayaan Jawa (Văn hóa Java). PN Balai Pustaka Jakarta, hlm. 3. </small></i>
</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">19 1.2.2. Địa bàn nghiên cứu
Đảo Java là nơi sinh sống của khoảng 135 triệu người với mật độ dân số là 981 người/km, đảo Java được xem là đảo đông dân nhất thế giới. Dân cư trên đảo phần lớn là tín đồ của Islam giáo (93 %), một số ít theo Hindu giáo (1-2 %), số cịn lại theo những tơn giáo khác. Mặc dù là đảo nhỏ nhưng đảo Java có nhiều thành phần tộc người nhất trong số các đảo ở Indonesia. Trên đảo có ba ngơn ngữ chính, trong đó tiếng Java chiếm ưu thế và là ngơn ngữ bản địa của hơn 60 triệu người tại Indonesia, kể đến là tiếng của người Sunda, họ chủ yếu cư trú ở vùng phía Tây của đảo Java. Hầu hết cư dân trên đảo Java sử dụng song ngữ trong giao tiếp hàng ngày, tiếng Indonesia là ngôn ngữ thứ nhất hoặc thứ hai của họ. Chính vì vậy mà Java là đảo có sự đa dạng về tín ngưỡng, tơn giáo, tộc người và văn hóa.
Hịn đảo này là trung tâm của một số đế quốc Hindu - Phật giáo, vương quốc Islam giáo hùng mạnh và là trung tâm của thiết chế Đồng Ấn Hà Lan. Java cũng là trung tâm của các Cuộc đấu tranh giành độc lập cho Indonesia vào các thập niên 1930 và 1940 ủa thế ký trước Java chiếm ưu thế về mặt chính trị, kinh tế và văn hóa hơn 6 với các đảo khác của Indonesia.<small>17</small>
Đảo Java nằm ở vị trí địa chiến lược, là trung tâm của quần đảo Indonesia cũng như khu vực Đông Nam Á, là cửa ngõ nối liền hai đại dương lớn, đó là Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương, đồng thời là cầu nối giữa châu Đại dương, châu Á với châu Âu. Chính nhờ vị trí địa chiến lược này, từ lâu đảo Java đã trở thành nơi dừng chân của nhiều thương buồn nước ngồi. Do đó, đây là cơ hội cho người Java tiếp xúc và giao lưu với thế giới bên ngoài từ rất sớm.
1.2.3. Các yếu tố tác động đến quan niệm hôn nhân
Hôn nhân có vai trị rất quan trọng trong cuộc sống và nó bị chi phối bởi nhiều yếu tố chẳng hạn như tôn giáo, địa bàn cư trú, tiếp xúc tộc người.
Đa số mọi người nghĩ rằng hôn nhân là kết quả của một tình yêu, một mối quan hệ đặc biệt, tình nguyện và hợp pháp của cả hai người. Tuy nhiên, hơn nhân giữa một người có tôn giáo và một người “không tôn giáo” thường thuận lợi hơn là hôn nhân giữa
<small>17</small><i><small> Nguyễn Thanh Tuấn. (2016). Vai trò của Islam giáo trong văn hóa nghệ thuật của người Java ở Indonesia. </small></i>
<small>Luận án Tiến sĩ Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, trang 44-49. </small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">20
những người khác niềm tin tôn giáo. Thực tế, với những người theo tôn giáo, không ai muốn mình là người yếu thế trong niềm tin, nên cả hai đều muốn chứng tỏ rằng đạo của mình là tốt. Đó cũng là điều hết sức bình thường trong tâm lý của một người được học và thực hành giáo lý tơn giáo. Nhưng khơng phải cái món mà mình ăn thấy ngon, thì người khác cũng phải thấy ngon giống như mình đã ăn. Vậy nên, trước khi có được sự hịa hợp, cả hai hãy sống đúng với những lời dạy về lịng từ bi, tình u thương nơi Phật hay Chúa của mình, đừng để sự áp đặt miễn cưỡng bên ngoài làm tổn thương đến tình u và lịng tự trọng của mỗi bên. Gia đình của hai bên cũng phải hiểu và tơn trọng điều đó ở con cái. Đành rằng vừa có tình u chân thật, vừa có cùng một niềm tin tơn giáo sẽ thuận lợi hơn, nhưng đó khơng phải là điều kiện duy nhất để có được hạnh phúc. Hạnh phúc là quá trình chung sống, vun đắp, gìn giữ, trân trọng, vượt qua thử thách…của cả hai người. Bởi nếu niềm tin tôn giáo là điều kiện duy nhất quyết định hạnh phúc, thì tại sao ngay từ đầu người ta khơng chọn những người có cùng tôn giáo để yêu và kết hôn? Và nếu yếu tố khác niềm tôn giáo ở đây được xem là cản trở lớn nhất cho hạnh phúc, vậy tại sao họ phải yêu nhau, bất chấp việc biết rằng sẽ khó có hạnh phúc? Vậy họ tìm đến với nhau bằng tình yêu, tình dục, lợi dụng vật chất hay cịn điều gì khác? Nếu hiểu được rằng từ xưa đến nay, tình u thương con người ln lớn hơn niềm tin tơn giáo, thì mỗi bên sẽ khơng để những áp đặt vơ lý đó diễn ra. Chính vì những cặp hơn nhân khác đạo dùng niềm tin tơn giáo của mình để can thiệp q sâu vào tình yêu, nên mới tạo ra hết mâu thuẫn này đến mâu thuẫn khác, dẫn đến có khơng ít lứa đôi phải từ bỏ tình yêu của mình, mang trong lòng những đau khổ, ốn giận khơng dứt đối với phía ngăn cản, làm cho mâu thuẫn tôn giáo tăng lên…
Ở đây, những chức sắc tôn giáo phải chịu một phần trách nhiệm. Sự ép buộc cải đạo bằng hôn nhân (hay tiền bạc, chức vụ, việc làm, du học…) có thể đến từ hai nguyên do:
1. Xuất phát từ những quan niệm chỉ biết đạo mình là tốt, còn đạo khác là xấu 2. Do lo sợ trước việc suy giảm tín đồ và sự kém hấp dẫn trong tơn giáo của mình. Tình u và hơn nhân địi hỏi mỗi cá nhân phải vượt lên tín điều, giáo điều để giữ gìn hạnh phúc của riêng mình. Đừng xem việc cải đạo như một phần thưởng của chiến
</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29"><b>Tiểu kết chương một </b>
Indonesia là một đất nước vạn đảo, trong đó đảo Java là một hịn đảo với diện tích khơng quá lớn nhưng nó chiếm vị trí quan trọng trong sự phát triển kinh tế của Indonesia.
Tại đảo Java, phần lớn tộc người Java bản địa sinh sống, bên cạnh đó cũng có những tộc người khác như tộc người Sunda, Betawi, Madura…Bởi vì họ sinh sống ở đây đã từ rất lâu nên văn hóa đã được hình thành theo thời gian và thêm sự ảnh hưởng từ các tộc người, tín ngưỡng địa phương khác nên quan niệm của họ trong đó có quan niệm về hơn nhân cũng sẽ khác so với trước đây.
Nhưng trải qua quá trình tồn cầu hóa, giao lưu tiếp biến văn hóa đã hướng họ đến q trình đồng hóa, hịa lẫn và chịu ảnh hưởng bởi những tộc người khác nên từ đó dần dần hình thành những tư tưởng, suy nghĩ mới.
Các yếu tố như tôn giáo, địa bàn cư trú và sự giao thoa văn hóa, tiếp xúc tộc người cũng ảnh hưởng rất lớn đến quan niệm suy nghĩ về hôn nhân.
<small>18 Truy cập 14/06/2020 </small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">22
<b>CHƯƠNG HAI: </b>
2.1.1. Quan niệm hôn nhân theo Islam giáo
Islam giáo là tôn giáo lớn thứ hai trên thế giới, sau Kitô giáo. Islam giáo là tôn giáo đang phát triển nhanh nhất dù xét về mặt lịch sử, đây là tơn giáo mang tính quốc tế ra đời muộn nhất. Có thể nói tại các quốc gia Islam giáo, mỗi mặt của cuộc sống đều do Islam giáo chỉ đạo, mọi chuẩn mực hành vi, hoạt động xã hội của mỗi công dân đều được qui định rất rõ ràng. Trong cuộc sống hàng ngày, Islam giáo có những quy định rất cụ thể về những điều Muslim được phép làm và những điều không được phép làm. Về mặt nội dung, những qui định về những điều Muslim được phép làm và những điều không được phép làm được chia thành ba lĩnh vực chính liên quan đến các khía cạnh đời sống khác nhau của mỗi Muslim: đời sống riêng tư; đời sống gia đình; đời sống thường ngày. Trong khuôn khổ bài viết này, chúng tôi chỉ đề cập đến những quy định của Islam giáo liên quan đến hơn nhân và đời sống gia đình.
Về kết hôn người Muslim luôn quan tâm đến chuyện hôn sự. Khi con cái trưởng thành, đến tuổi kết hôn, cha mẹ sẽ đôn đáo lo chuyện hôn nhân cho con. Nếu cha mẹ qua đời, anh, chị, em ruột thịt và các bậc bề trên thân thích sẽ đứng ra lo việc hôn nhân khi những thành viên nhỏ tuổi trong gia đình đến tuổi trưởng thành. Đây là một quy định bất thành văn đối với Muslim. Về mặt tôn giáo, nam Muslim không được phép kết hôn với phụ nữ thờ bụt tượng, đa thần mà chỉ được phép kết hôn với nữ Muslim, phụ nữ theo Kitô giáo và Do thái giáo. “Các người được phép cưới các trinh nữ tự do có đức tin (không phải là nữ nô lệ) và cả các trinh nữ tự do trong số người dân đã được ban cho Kinh sách…” (Qur’an, 5: 5). Islam giáo cho rằng dù các tín đồ Kitơ giáo và Do thái giáo đã bóp méo và sửa chữa Kinh sách nhưng cả Islam giáo, Kitô giáo và Do Thái giáo đều là các tôn giáo khởi nguồn từ Abraham11 nên nam Muslim được phép kết hôn với phụ nữ theo Kitô giáo và Do thái giáo. Nữ Muslim không được phép kết hôn với nam giới theo Kitô giáo, Do thái giáo (dân Kinh sách) và đàn ông thờ bụt tượng, đa thần mà chỉ được phép kết hôn với nam Muslim. Như vậy, Islam giáo cho phép nam Muslim kết hôn với phụ nữ theo Kitô giáo và Do thái giáo nhưng lại không
</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">23
cho phép nữ Muslim làm điều tương tự vì Islam giáo cho rằng trong gia đình, đàn ơng luôn là trụ cột, là người chịu trách nhiệm và điều hành mọi công việc. Người chồng không phải Muslim có thể ngăn cản vợ thực hiện những nghĩa vụ tơn giáo của mình, vì vậy cuộc sống vợ chồng có thể trở nên bất hịa hoặc người vợ vì nghe lời chồng sẽ lơ là thực hiện những nghĩa vụ tơn giáo của mình và rơi vào trọng tội khi vi phạm những quy định của Islam giáo. Về mặt đạo đức, nữ Muslim chỉ được phép kết hôn với đàn ơng ngay chính trong đạo, có phẩm chất, nhân cách tốt còn nam Muslim chỉ được phép kết hơn với phụ nữ có đức hạnh, khơng được phép kết hôn với phụ nữ phạm tội và khơng tốt. Cịn thiên sứ Mohammad nói : “…Hãy kết đôi với người phụ nữ ngoan đạo, ngươi sẽ gặt hái được điều tốt đẹp và phúc lành” (Hadith do Al Bukhari và Muslim ghi lại, 4802 và 1466).<small>19</small>
Về mặt quan hệ thân tộc, cùng huyết thống, nam Muslim bị cấm kết hôn với vợ của cha đẻ (mẹ kế dù đã li dị chồng hay đã trở thành góa phụ); cấm kết hơn với mẹ đẻ, bà nội, bà ngoại, con gái, cháu gái ruột (cháu nội, cháu ngoại) chị gái, em gái (chị em ruột hoặc chị em cùng mẹ khác cha hoặc cùng cha khác mẹ); bác gái, cơ, dì (chị, em của cha đẻ hay mẹ đẻ dù đó là bác, cơ, dì ruột hay bác, cơ, dì cùng cha khác mẹ hoặc cùng mẹ khác cha với cha, mẹ); cháu gái họ (con gái của anh, em trai, chị, em gái); cấm kết hôn với mẹ vợ; con gái riêng của vợ (do cuộc hôn nhân trước); con dâu (vợ của con trai); chị, em gái của vợ… Bên cạnh đó, Islam giáo cịn cấm Muslim kết hơn với vú ni (người cho trẻ bú trong hai năm đầu tiên của cuộc đời, khi sữa mẹ là nguồn ni dưỡng chính của trẻ với điều kiện số lần bú khơng ít hơn năm lần và lần nào đứa trẻ cũng được bú no đến khi tự dừng lại, không bú nữa); cấm kết hôn với con gái, chị, em, cháu gái của vú ni; cấm kết hơn với phụ nữ có chồng. Về vấn đề phụ nữ có chồng cần phải làm rõ rằng phụ nữ đã có chồng chỉ được quyền kết hôn với người đàn ông khác khi hôn nhân đổ vỡ do chồng chết hoặc ly hôn và cô ta đã chấm dứt thời gian Iddah. Không được phép kết hôn trong thời gian Iddah để tránh lẫn lộn con cái giữa hai cuộc hôn nhân trước và sau.
Muslim khơng được phép hỏi cưới góa phụ hay phụ nữ ly dị chồng khi chưa qua thời gian Iddah. Nếu muốn, anh ta chỉ có thể nói bóng gió nói về nguyện vọng kết hơn của mình nhưng không được phép tuyên bố công khai. Cũng như vậy, Muslim bị cấm hỏi
<i><small> Syafi’in Mansur. (2017). Homoseksual dalam Perspektif Agama-Agama di Indonesia. Aqlania, Vol. 08. No. </small></i>
<small>01 (Januari-Juni) 2017, hlm. 40-42. </small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32">24
cưới một cô gái đã hứa hôn với một Muslim khác tuy nhiên nếu người hỏi cưới trước đã hủy hơn hoặc cho phép thì người đến sau vẫn có quyền hỏi cưới cơ gái này. Mặc dù phụ nữ Muslim luôn phải tuân thủ những quy định chặt chẽ về trang phục nhưng hôn nhân là việc hệ trọng vì vậy để tránh trường hợp kết hơn mà khơng có một chút khái niệm nào về người vợ tương lai của mình, Muslim được phép nhìn thấy cơ gái mà mình đã lựa chọn trước khi kết hôn. Một số học giả Islam giáo cho rằng việc nhìn ngắm chỉ hạn chế ở khuôn mặt và hai bàn tay, một số khác lại cho rằng chàng trai có thể nhìn thấy cô gái trong trang phục mà cô ta thường xuất hiện trước mặt cha đẻ, anh em ruột hay những người họ hàng.
Mặc dù việc hỏi cưới là việc của người đàn ông nhưng quyết định kết hôn với anh ta hay không lại là quyền của cô gái và không một ai kể cả cha đẻ hay người giám hộ có quyền ép buộc cơ gái phải kết hôn nếu cô ta không đồng ý. Ngược lại, người cha cũng khơng được phép trì hỗn cuộc hơn nhân của con gái mình khi có người đàn ơng có đạo đức và xứng đáng hỏi cưới cô gái. Thiên sứ Mohammad nói “Một khi người có hạnh kiểm và đức hạnh tốt đến hỏi cưới thì nên chấp nhận, nếu khơng thì sẽ gây sự xáo trộn và bất lành cho xã hội” (Hadith do At Tirmidhi ghi lại).<small>20</small>
Islam giáo cho phép Muslim lấy tối đa bốn vợ với điều kiện phải đối xử công bằng với vợ về mọi mặt (đồ ăn, thức uống, áo quần, nhà ở, chi tiêu cũng như phân chia thời gian dành cho mỗi người...). Những người khơng thể làm trịn các nghĩa vụ trên không được lấy hơn một vợ. Việc cho phép lấy đến bốn vợ này có vẻ rất kỳ quặc theo quan niệm của phương Tây hay một số nước khác tuy nhiên Islam giáo cho rằng điều này nhằm đáp ứng nhu cầu và đảm bảo lợi ích của tất cả mọi người như chồng muốn có con mà vợ bị vơ sinh hay bệnh tật; nhu cầu tình dục của chồng lớn nhưng vợ lại ốm đau không thể đáp ứng; vợ mắc những chứng bệnh không thể chữa trị nên không thể thực hiện bổn phận của mình; sau chiến tranh, nhiều đàn ông ngã xuống trên chiến trường và vợ họ trở thành góa phụ cần có người chăm sóc.... Một số người có quan niệm sai lầm khi cho rằng hiện tượng đa thê ra đời cùng Islam giáo, tuy nhiên trên thực tế, đa thê đã tồn tại trước Islam giáo từ rất lâu. Vào thời kỳ đó, cư dân Ả rập có thể lấy đến hàng chục thậm chí hàng trăm bà vợ. Sau khi ra đời, Islam giáo chỉ cho phép đàn
<i><small> Syafi’in Mansur. (2017). Homoseksual dalam Perspektif Agama-Agama di Indonesia. Aqlania, Vol. 08. No. </small></i>
<small>01 (Januari-Juni) 2017, hlm. 40-42. </small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">2.1.2. Quan niệm hôn nhân theo Phật giáo
Hôn nhân là một điều cần thiết cho mỗi con người trải qua cuộc sống. Mỗi tơn giáo đều có ý nghĩa riêng trong việc hiểu ý nghĩa của hôn nhân đặc biệt là trong Phật giáo. Phật giáo coi hôn nhân khơng phải là một cái gì đó tinh khiết hoặc không tinh khiết. Phật giáo không coi hôn nhân là một nghĩa vụ tôn giáo cũng như một điều thiêng liêng được định sẵn trên thiên đường. Hôn nhân theo nghĩa của Phật giáo được định nghĩa nhiều hơn như một sự ràng buộc thể chất và tinh thần giữa một người đàn ông và một người phụ nữ với một mục đích hình thành gia đình hạnh phúc. Để tạo nên một gia đình hạnh phúc, chúng ta phải tuân theo lời dạy của Đức Phật về thực hành chánh niệm. Đức Phật đã chỉ ra nền tảng của một cuộc hơn nhân hài hịa và cân bằng.
Đạo Phật chỉ đưa ra những hướng dẫn cũng như chuẩn mực của cuộc sống hôn nhân nhưng không quy định thể chế và pháp luật kết hôn, ly hôn hoặc thừa kế một cách chi tiết.
Dù là những kinh điển Phật giáo không đề cập đến vấn đề chế độ một vợ một chồng hoặc là chế độ đa phu đa thê, song người Phật tử tại gia được khuyên hạn chế ở chế độ một vợ một chồng. Đức Phật không đặt ra những luật lệ cho đời sống hôn nhân nhưng
<small>21</small><i><small> Đặng Thị Diệu Thúy. (2018). Những quy định của Islam giáo về tình dục, hơn nhân và đời sống gia đình. Tạp </small></i>
<small>chí Nghiên cứu Nước ngoài, Tập 34, Số 3 (2018), trang 180-193. </small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34">26
đưa ra những lời khuyên cần thiết dạy chư Phật tử tại gia làm thế nào để sống một đời sống hơn nhân hạnh phúc. Có những sự liên hệ phong phú trong những bài pháp của Ngài rằng người ta nên khôn ngoan và khéo léo trung thành với chế độ một vợ một chồng và không tham đắm vào sắc dục và bỏ vợ mình đi theo những người phụ nữ khác. Đức Phật nhận ra rằng một trong những nguyên nhân chính của sự suy vi của người đàn ông là sự dính líu của anh ta đối với những người phụ nữ khác. (Kinh Parabhava) Người đàn ông phải nhận ra những khó khăn, những thử thách và nỗi phiền phức mà anh ta phải chịu đựng chỉ vì để duy trì người vợ và gia đình. Những khó khăn này sẽ được thổi phồng lên nhiều lần khi đối diện với những tai ương. Biết được những yếu điểm của bản chất con người, Đức Phật chế giới luật khuyên chư đệ tử Ngài tránh vi phạm giới dâm. Quan điểm của Phật giáo về vấn đề hơn nhân rất là khai phóng. Trong Phật giáo, hôn nhân được xem như một vấn đề mang tính cá nhân và riêng tư chứ khơng phải là một trách nhiệm đối với tơn giáo. Khơng có quy luật nào trong Phật giáo buộc con người phải kết hôn, hoặc là ở độc thân hoặc là sống một đời sống hoàn toàn trinh bạch. Giới luật cũng không đặt ra cho người Phật tử buộc họ phải sinh con cái hoặc là điều chỉnh số lượng con cái mà họ phải sinh. Đạo Phật cho phép mỗi cá nhân hồn tồn có quyền tự do quyết định cho chính bản thân mình về tất cả những vấn đề liên quan đến đời sống hơn nhân gia đình. Người ta có thể hỏi rằng tại sao Tăng sĩ Phật giáo khơng lập gia đình bởi vì khơng có luật nào đồng ý hoặc chống lại việc lập gia đình của họ. Lý do hiển nhiên rằng để được phục vụ cho nhân loại, người tu sĩ đã chọn một lối sống tôn thờ chủ nghĩa độc thân. Những vị nào xuất gia tu tập và từ bỏ đời sống hơn nhân gia đình một cách tình nguyện để tránh xa những lời cam kết thế gian nhằm duy trì sự an lạc nội tâm và dành hết cuộc đời của mình phục vụ cho nhu cầu phát triển tâm linh và giải thoát cứu cánh của tha nhân. Mặc dù người xuất gia theo Phật giáo không cử hành một lễ cưới, song họ cũng có thể thực hiện tinh thần phục vụ của tôn giáo để mà ban phước cho cặp tình nhân mới cưới.
Ly hơn hay ly dị không cấm theo quan điểm của Phật giáo mặc dù quy luật tất yếu chắc chắn là không thể phát sinh nếu những mệnh lệnh (giới luật) của Đức Phật được tuân giữ một cách nghiêm khắc. Nam và nữ phải có quyền tự do chia ta nhau nếu họ thực sự khơng thể hợp tình hợp ý nhau. Chia tay là cách chọn lựa thích hợp nhất để tránh cảnh khổ đau của cuộc sống gia đình phải diễn ra trong một khoảng thời gian dài. Đức Phật còn đi xa hơn nữa là khuyên người đàn ông già không nên lấy vợ trẻ bởi
</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35">27
vì người già và người trẻ không thể tương hợp nhau, sẽ tạo ra những vấn đề khơng đáng, sự bất hồ và sự suy vi (Kinh Parabhava). Một xã hội phát triển thông qua một hệ thống những mối quan hệ xoắn vào nhau và tương quan tương duyên nhau. Mỗi mối quan hệ là một sự cam kết hết lòng hỗ trợ và bảo vệ nhau trong một nhóm hay cộng đồng người. Hơn nhân đóng một vai trị rất quan trọng trong mạng lưới những quan hệ của sự hỗ trợ và bảo vệ lẫn nhau này. Một cuộc hôn nhân tốt đẹp phải phải triển và phát huy dần dựa trên cơ sở của sự hiểu biết chứ không dựa trên sự ép buộc, gượng ép, xuất phát từ lòng chung thuỷ và thành thật với nhau chứ không chỉ hoàn toàn dựa trên sự ham muốn. Thể chế của hôn nhân cung cấp một nền tảng tốt đẹp cho sự phát triển của văn hoá, một sự hội nhập vui vẻ của hai cá nhân để được nuôi dưỡng và thốt khỏi trạng thái cơ đơn buồn tẻ, sự nghèo khổ và sợ hãi. Trong hôn nhân, mỗi bên phát huy một vai trò bổ sung cho nhau, tạo nên sức mạnh và dũng khí đạo lý, mỗi bên biểu lộ sự công nhận vai trò hỗ trợ và đánh giá cao những kỹ năng của nhau. Không nên mang ý niệm trọng nam khinh nữ, hoặc trọng nữ kinh nam. Mỗi bên hỗ tương cho nhau, làm một người bạn đời dựa trên sự bình đẳng, biểu lộ sự nhã nhặn, hào phóng, yên tĩnh và nhiệt tâm với nhau.<small>22</small>
2.1.3. Quan niệm hôn nhân theo Hindu giáo
Người theo đạo Hindu từ thời cổ đã chia cuộc đời một người đàn ông thành bốn thời kỳ. Lối sống ấy, trải qua nhiều thế kỷ chịu ảnh hưởng của Islam giáo và của người Anh, đã phai nhạt và ngày nay không tồn tại nữa.
<i>Brahmachrya (độc thân từ bé cho đến 25 tuổi); đây là thời kỳ đầu tiên chàng thiếu </i>
niên, sau khi được làm lễ đeo sợi dây thiêng, rời gia đình để đi học. Trường học (gurukula) thường là những căn lều cỏ giữa rừng hoặc nơi xa xóm làng. Tại đó, thầy giáo sống cùng với gia đình mình và đám môn sinh. Môn sinh không bị phân biệt vị trí xã hội, phải chăm sóc thầy mình như cha đẻ và làm mọi công việc lao động chân tay ở trường. Môn sinh được học thần chú Gayatri (kinh cầu), học yoga, nghiên cứu các bản kinh, nghệ thuật, khoa học và học cách sống đời giản dị, tự kỷ luật thanh đạm. Họ được rèn giũa để phát ngôn chân thật, làm việc mà không quên tinh thần Dharma, phục vụ người cao tuổi, kính trọng cha mẹ, sư phụ và khách quý như kính trọng thần thánh.
<small>22 Truy cập ngày 12/04/2020 </small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36">28
<i>Grahasthya (làm chủ gia đình): sau khi hồn tất việc học hành, mơn sinh trở về nhà, </i>
lập gia đình. Hơn nhân khơng chỉ là một sự thỏa thuận mà là một bước thiêng liêng trong sự phát triển tinh thần của con người. Người vợ là Ardhangini, hay là một nửa của người chồng, cho nên khơng có một nghi lễ tơn giáo nào được chồng thực hiện mà lại thiếu người vơ. Người chủ gia đình phải thực hiện đạo đức tốt, làm ra tàisản vật chất, được phép hưởng đời sống dục lạc với người bạn đời của mình và đạt tới giải thoát bằng cách tuân theo những quy tắc đạo đức. Thời kỳ thứ hai này được coi là quan trọng nhất trong bốn thời kỳ. Người chủ gia đình kiếm sống phù hợp với nguyên tắc đạo đức và phải dành 1/10 thu nhập vào việc từ thiện. Anh ta phải lo việc an cư bằng cách xây một căn nhà cho vợ. Rồi anh ta có bổn phận chăm sóc, giáo dục con cái, sau đó dựng vợ gả chồng cho chúng. Thực hiện những nghĩa vụ tinh thần và nghĩa vụ xã hội, vượt qua mọi thử thách khó khăn mà không đi chệch tinh thần Dharma giúp cho người đàn ông trở thành người cao quý.
<i>Vanaprastha (hưu trí): người đàn ông bước sang thời kỳ thứ ba, lúc con cái đã có gia </i>
đình riêng và tự lập. Đây là lúc cặp vợ chồng trung niên được nghỉ ngơi, tức là đã đến lúc chấm dứt những ràng buộc và ham muốn trần tục, lui về cuộc sống bình yên của thiền định, tập trung và theo đuổi những mối quan tâm về tinh thần.
<i>Sanyas (lánh đời): thời cổ, đây là lúc người đàn ông từ bỏ mọi ham muốn, mọi nhu </i>
cầu, không dùng đến tiền bạc và xa lánh cõi tục. Họ sống nhờ cúng dường và hoa quả trong rừng, dành hết thời gian vào việc thiền định. Lúc này, họ được gọi là Jivanmukta-người đã được giải thoát khỏi cuộc sống bình thường.
Cưới xin
Phần lớn hôn nhân của người Hindu là do cha mẹ sắp đặt, mặc dù ngày nay đã có thay đổi trong những thành phố lớn. Việc trai gái tự quyết việc hơn nhân của mình bị xem là khơng đúng đắn. Ngày nay, do sự phát triển của giáo dục hiện đại, trai gái có dịp gặp nhau, khác với thời xưa, họ chỉ biết mặt nhau trong đám cưới, thậm chí đêm tân hơn, chú rễ vén mạng cô dâu lên thì mới lần đầu tiên nhìn thấy nhau. Đã có nhiều truyền thuyết về việc đánh tráo cô dâu trong các nghi lễ trước đám cưới, phải đến đêm tân hôn mới phát hiện ra. Việc dạm hỏi do nhà gái thực hiện, thông qua người làm mối. Thời xưa, người làm mối thường là giáo sĩ hoặc một người thợ cắt tóc, nhưng ngày nay có thể là một người bạn chung của hai gia đình. Một khi bắt đầu thỏa thuận,
</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38">30 Phụ nữ trong xã hội Hindu
Địa vị của phụ nữ trong xã hội luôn thể hiện tầm cỡ lớn hay nhỏ của một nền văn hóa hoặc của một tơn giáo. Quan niệm như vậy, người theo đạo Hindu cho rằng phụ nữ Hindu thường có được địa vị cao hơn so với phụ nữ các tơn giáo khác. Phụ nữ có thể đạt đến trình độ học vấn cao nhất và trong lịch sử có nhiều phụ nữ là nhà tiên tri hoặc triết gia. Đến thăm nhà một người Ấn Độ hiện nay, xin hãy thận trọng, bởi vì bà nội trợ trong nhà rất có thể là người có học vị tiến sĩ, nhưng sau khi lấy chồng, tự nguyện lui về làm việc nhà. Từ cổ đại, bà Gargi, vợ của Mandanamishra, đã được bổ nhiệm làm chánh án nhờ trình độ học vấn un bác. Những bà hồng như Kaikeye đã giúp chồng rất nhiều trong những trận chinh chiến. Thời ấy, phụ nữ không bị tảo hôn. Họ được quyền chọn chồng và có thể lấy chồng khác đẳng cấp, khác dân tộc. Cũng có tình trạng đa thê, nhưng chủ yếu là trong tầng lớp vua chúa, hồng thân, những người coi việc cưới cơng chúa của các vương quốc láng giềng như một thái độ chính trị và thắt chặt bang giao. Một người đàn bà được coi là hiện thân của nữ thần (Shakti) và người đàn ơng (Shaktiman) bị coi là chưa hồn thiện nếu khơng có người đàn bà bên cạnh. Ngay cả các vị thần cũng vậy. Mỗi một vị nam thần trong nhóm tam thần đều có những nữ thần của mình, đó là Sarasvati (Thần Học Vấn, vợ Brahma), Laksmi (Thần Tài Lộc, vợ Vishnu), Parvati (Thần Quyền Lực, vợ Shiva).
Tất cả nghi lễ, đặc biệt là lễ Tết cầu phúc, do một người đàn ông đứng ra thực hiện, đều bị coi là chưa hồn chỉnh nếu khơng có người vợ tham gia. Xúc phạm một người phụ nữ bị coi là xúc phạm Đấng Toàn Năng. Theo thời gian, khi người ngoại bang đến xâm lược Ấn Độ, tàn sát dân chúng và sự phân biệt đẳng cấp trở nên cực đoan, phụ nữ theo đạo Hindu bị mất vai trò độc lập, phải chịu phụ thuộc vào đàn ông. Nhiều hủ tục vẫn tồn tại đến ngày nay như hôn nhân phải do cha mẹ sắp đặt, phụ nữ phải có hồi mơn mới lấy được chồng, phụ nữ bị nhà chồng bạc đãi, bé gái sơ sinh bị thủ tiêu… Từ đầu thế kỷ XIX, bắt đầu một phong trào tìm kiếm những giá trị tinh thần và định giá lại những giá trị cũ. Những nhà cải cách như Ram Mohan Roy, Ishwar Chandra Vidyasagar, Swami Vivekananda, Mahatma Gandhi truyền bá tư tưởng cần thiết thanh lọc khỏi Hindu giáo những lễ nghi, những giáo điều, trong đó có cả sự bất bình đẳng đối với phụ nữ.
</div><span class="text_page_counter">Trang 39</span><div class="page_container" data-page="39">31
Phụ nữ trong xã hội Ấn Độ hiện đại có được nhiều quyền tự do (trừ ở nông thôn hoặc vùng sâu vùng xa, nơi hủ tục vẫn tồn tại) và có quyền thừa kế tài sản.<small>23</small>
2.1.4. Quan niệm hôn nhân theo Khổng Giáo
Khổng Giáo (Nho giáo) là một tôn giáo do Khổng Tử đề xướng và được các môn đồ của ông phát triển với mục đích xây dựng một xã hội hài hịa, trong đó con người biết ứng xử theo lẽ phải và đạo đức, đất nước thái bình, thịnh vượng. Tôn giáo này không quy định một cách rõ ràng về LGBT và bao gồm các cuộc hôn nhân đồng giới, cả nam và nữ. Giáo lý trong tôn giáo của Khổng Tử ủng hộ hôn nhân giữa nam và nữ, là một trong những nghĩa vụ thiêng liêng và mong muốn hạnh phúc cho con người. Họ có thể kết hơn và tạo ra một gia đình hạnh phúc, ni dưỡng con những điều tốt nhất có thể. Điều này đúng với mục đích chính của hơn nhân trong Khổng Giáo là sự hịa hợp. Một gia đình hịa thuận có nghĩa là nó chứa tình u trong đó giống như câu nói được nhắc đến trong cuốn sách của Susi: "Nếu một gia đình hịa thuận, u thương, chắc chắn cả đất nước cũng sẽ yêu thương và đồn kết. Nếu mỗi gia đình khơng hịa hợp, chắc chắn cả đất nước sẽ chìm trong bầu khơng khí buồn bã”.
Hôn nhân trong Khổng giáo đều hướng đến một gia đình hài hịa, u thương và có những đứa con thuộc về cả hai người. Điều đó có nghĩa là Khổng giáo khơng cho phép các cuộc hôn nhân khác tôn giáo và đặc biệt là hôn nhân đồng tộc. Mặc dù tơn giáo này, nó quy định rõ ràng về đồng tính luyến ái hoặc LGBT, nhưng cũng có nhắc đến vấn đề kết hôn và sinh con để có một gia đình hạnh phúc. Trong vấn đê này, Ông Uung Sendana với tư cách là đại diện của Hội đồng Khổng giáo Indonesia [MATAKIN]. tuyên bố rằng cộng đồng LGBT không ảnh hưởng đến cộng động và không phạm tội gì cả. Họ là phải được yêu thương, không được bài trừ cộng đồng LGBT mà phải giúp họ đi đúng hướng để giúp họ tim ra được chính bản thân mình. Ơng Haryono cịn tuyên bố rằng họ sẽ tiếp tục đấu tranh cho cộng đồng LGBT, chúng tôi yêu cầu phải loại bỏ phân biệt đối xử về giới tính, thực hiện các quyền cơ bản và đối xử bình thường với họ.<small>24</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 40</span><div class="page_container" data-page="40">32 2.1.5. Quan niệm hôn nhân theo Kito giáo
Kitô giáo là một tôn giáo được đề xướng bởi Chúa Giêsu Kitô để cứu nhân loại. Kito giáo này phản đối với các hành vi đồng tính luyến ái hoặc LGBT, thậm chí chửi bới và trừng phạt những ai vi phạm bằng những hình phạt nghiêm khắc chống lại người đồng tính hoặc LGBT. Điều này được quy định trong sách của Lê-vi như sau: "Đàn ông không nên quan hệ với đàn ơng, Chúa ghét những hành động đó. Khi một người đàn ông giao hợp với người đàn ông khác, họ phạm tội ghê tởm và đồi bại, và cả hai phải bị kết án tử hình. Họ sẽ chết vì lỗi lầm do chính họ gây ra” Đồng tính luyến ái hoặc LGBT hành động trong Cựu Ước nhấn mạnh rằng hành động đó là một hành động ghê tởm và đáng khinh thậm chí bị kết án tử hình vì họ đã có những hành vi trái pháp luật. Khi một người nam và một người nữ kết hôn, họ trở thành vợ chồng theo luật tự nhiên. Hôn nhân của họ là một khế ước, có giá trị trước mặt Thiên Chúa. Đối với người Kitô hữu, hôn nhân không chỉ là một khế ước, mà cịn là một bí tích. Thánh Gioan Kim Khẩu nói: “Hơn nhân là bí tích tình u... Khi vợ chồng nên một trong hơn nhân, cả hai khơng cịn là hình ảnh dưới trần nữa, mà là hình ảnh của Chúa trên trời.”<small>25</small>
Khi người Kito giáo kết hôn với một người khác tơn giáo hoặc với người nước ngồi sẽ vấp phải rất nhiều quy định và nguyên tắc. Người muốn theo đạo phải qua thời gian dự tịng ít là 6 tháng (đơi khi rút xuống cịn 3 tháng), khơng những để học giáo lý mà cịn để có được và sống đức tin. Vì vậy, khơng thể chấp nhận rút ngắn, trừ trường hợp nguy tử hay vì lý do nghiêm trọng nào đó. Việc ảnh xin học đạo với thời gian ngắn hầu như là không được. Tốt nhất là anh ấy xin học đạo cho đủ thời gian dự tòng ở khu vực của ảnh.
Khác đạo là một ngăn trở tiêu hôn. Quyền miễn chuẩn ngăn trở này thuộc Đấng bản Quyền, tức là Đức Giám Mục, cha Tổng Đại Diện, cha Đại Diện Giám Mục. Mặt khác, cũng tùy theo quy định của Giáo phận là có ban miễn chuẩn khác đạo cho trường hợp kết hôn với người ngoại quốc hay không. Một số giáo phận có quy định khơng ban miễn chuẩn, có lẽ vì thấy q khó khăn trong việc điều tra tình trạng thong dong của người ngoại quốc. Ngoài ra, khi ban ơn miễn chuẩn Đấng Bản quyền phải thấy có lý do chính đáng và vì lợi ích các linh hồn. Cha chỉ có thể cho những thơng tin tổng qt
<small>25 Truy cập ngày 27/05/2020 </small>
</div>