Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (16.79 MB, 103 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">
Trường ĐHKHXH&NV <sup>Ngày nhận hồ sơ </sup>
<i><small>Do P.ĐN&QLKH ghi Mẫu: SV02 </small></i>
<b>ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC SINH VIÊN CẤP TRƯỜNG NĂM HỌC 2019 – 2020</b>
<b> </b>
<b>NGƯỜI HOA Ở THỊ XÃ VĨNH CHÂU, TỈNH SÓC TRĂNG</b>
<b><small>Thành phần tham gia thực hiện đề tài </small></b>
<small>1. Đỗ Bá Điền 1 Chủ nhiệm 0325968899 </small> <sub>@gmail.com </sub><sup>danpis98 </sup><small>2. Trần Yến Vy Anh Tham gia 0772055777 </small> <sup>vyanhtran2712 </sup>
<small>@gmail.com 3. </small> <sup>Lê Hoàng Quỳnh </sup><sub>Như </sub> <small>Tham gia 0784980329 </small> <sup>quynhnhule2208 </sup>
<small>@gmail.com 4. Nguyễn Ngọc Như Ý Tham gia 0945220425 </small> <sup>nguyenngocnhuy3101 </sup>
<small>@gmail.com </small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
<b>TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN Khoa Đông phương học </b>
</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4"><b>MỤC LỤC </b>
PHẦN MỞ ĐẦU ... 2
1. Lý do chọn đề tài ... 2
2. Mục tiêu nghiên cứu ... 3
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ... 4
4. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ... 5
5. Phương pháp nghiên cứu ... 8
6. Ý nghĩa thực tiễn và ý nghĩa khoa học ... 9
7. Bố cục đề tài ... 9
CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN ... 11
1.1. Tổng quan về thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng ... 11
1.2. Khái quát về cộng đồng người Hoa ở thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng ... 12
<i>1.2.1. Nguồn gốc hình thành ... 13 </i>
<i>1.2.2. Dân số ... 14 </i>
<i>1.2.3. Đời sống kinh tế, văn hóa, giáo dục, xã hội ... 15 </i>
1.3. Việc sử dụng ngôn ngữ của cộng đồng người Hoa ở thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng ... 20
<i>2.1.2. Trong các cơ sở thờ tự công cộng ... 31 </i>
2.2. Trong các hoạt động lễ hội ... 36
Tiểu kết chương 2 ... 46
</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">CHƯƠNG 3: TÌNH HÌNH BẢO TỒN NGƠN NGỮ TRÊN BÌNH DIỆN GIÁO
<i>3.2.3. Phương thức giảng dạy, tiêu chuẩn và thành tích của trường ... 60 </i>
<i>3.2.4. Chi phí duy trì, nguồn bảo trợ và các hoạt động của nhà trường ... 67 </i>
<i>3.2.5. Những khó khăn của việc bảo tồn ngôn ngữ trong giáo dục trường học .... 71 </i>
</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6"><b>MỤC LỤC HÌNH ẢNH </b>
<i>Hình 1: Bản đồ thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng ... 11 </i>
<i>Hình 2: Tiếng Hoa được sử dụng khá phổ biến trên các bảng hiệu ... 16 </i>
<i>Hình 3, 4: Các hoạt động sử dụng tiếng Hoa trong đêm Tết Nguyên Tiêu ... 17 </i>
<i>Hình 5, 6: Một lớp học tiếng Hoa tại trường Bồi Thanh ... 18 </i>
<i>Hình 7: Liên hoan mừng Xuân 2018 Hội Đồng Hương Vĩnh Châu lần thứ XII .... 19 </i>
<i>Hình 8: Cách bài trí bàn thờ phổ biến của một hộ gia đình người Hoa ... 26 </i>
<i>Hình 9: Bức liễn ghi chữ “</i>神<i>” (Thần) và hai câu đối liễn hai bên trên bàn thờ của một người dân địa phương ... 27 </i>
<i>Hình 10: Bức liễn ghi chữ “</i>祖<i>” (Tổ) và hai câu đối liễn hia bên trên bàn thờ của một người dân địa phương ... 27 </i>
<i>Hình 11: Bức liễn ghi chữ “</i>祖堂<i>” (Tổ đường) và hai câu đối liễn hai bên trên bàn thờ của một người dân địa phương ... 28 </i>
<i>Hình 12: Câu đối liễn được sử dụng trong nhà (</i>心想事成家運興<i> - Tâm tưởng sự thành gia vận hưng - Tạm dịch: Cầu mong vạn sự như ý, gia đì nh may mắn) ... 28 </i>
<i>Hình 13: Cặp câu đối liễn được sử dụng trong gia đình ... 29 </i>
<i>Hình 14: Bàn thờ Thần của một hộ gia đình người Hoa gần khu vực chợ Vĩnh Châu ... 30 </i>
<i>Hình 15: Chùa Ơng Bổn (Phước Đức Chánh Thần) ... 31 </i>
<i>Hình 16: Trang trí trước cửa chùa Ơng ... 32 </i>
<i>Hình 17: Hai bức hồnh ở chùa Ơng ... 33 </i>
<i>Hình 18: Bảng ghi tên các thành viên trong Ban quản lý chùa Ơng và chùa Bà .. 34 </i>
<i>Hình 19: Sách giải xăm Bà bằng tiếng Hoa tại chùa Ông ... 34 </i>
</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7"><i>Hình 20: Người dân tham dự Tết Nguyên Tiêu tại chùa Ông Bổn ... 35 </i>
<i>Hình 26 : Một trong những câu hỏi trong trị chơi đố chữ dân gian ... 42 </i>
<i>Hình 27: Ban tổ chức đang chuẩn bị cho cuộc giao lưu thư pháp trong tết Nguyên Tiêu được tổ chức tại chùa Ông Bổn ở thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng ... 44 </i>
<i>Hình 28: Giao lưu thư pháp được tổ chức vào tết Nguyên Tiêu tại thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng ngày 19/02/2019 ... 45 </i>
<i>Hình 29: Các bài thư pháp giao lưu trong tết Nguyên Tiêu ... 45 </i>
<i>Hình 30: Người mẹ nói chuyện với đứa con bằng tiếng Tiều từ bé ... 49 </i>
<i>Hình 31: Đơi chồng Tiều vợ Kinh đang nói chuyện bằng tiếng Việt ... 51 </i>
<i>Hình 32: Trường PTCS Dân lập Bồi Thanh ... 57 </i>
<i>Hình 33: Trường Tiểu học Dân lập Tân Hưng ... 58 </i>
<i>Hình 34: Thơng báo chiêu sinh năm học 2018 - 2019 của trường Tiểu học Dân lập Cảnh Thành ... 59 </i>
<i>Hình 35: Sách </i>华语<i> của Bộ Giáo dục và đào tạo ... 60 </i>
<i>Hình 36: Giáo trình tiếng Tiều của trường PTCS Dân lập Bồi Thanh ... 61 </i>
</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8"><i>Hình 37: Giáo trình Hán ngữ Boya của nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà </i>
<i>Nội ... 62 </i>
<i>Hình 38: Lớp tiếng Hoa nâng cao tại trường PTCS Dân lập Bồi Thanh ... 63 </i>
<i>Hình 39: Hoạt động văn nghệ tại trường ... 65 </i>
<i>Hình 40: Lớp học tại trường Tiểu học Dân lập Cảnh Thành ... 66 </i>
<i>Hình 41: Lớp học tại trường Tiểu học Dân lập Tân Hưng ... 66 </i>
<i>Hình 42: Thời khóa biểu lớp 6 của trường PTCS Dân lập Bồi Thanh ... 67 </i>
<i>Hình 43: Thư viện do tập đồn Vạn Thịnh Phát tài trợ cho trường Bồi Thanh ... 68 </i>
<i>Hình 44: Hội đồng hương Vĩnh Châu - lan tỏa hoạt động vì an sinh xã hội ... 70 </i>
<i>Hình 45: Logo cơng ty cổ phần Tập đồn Vạn Thịnh Phát ... 71 </i>
<i>Hình 46: Tịnh xá Ngọc Châu Như ... 71</i>
</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9"><b>MỤC LỤC BẢNG BIỂU </b>
<i>Bảng 1: Số lượng và tỉ lệ dân cư ở Thị xã Vĩnh Châu phân theo dân tộc năm 2017 ... 14 Bảng 2: Thống kê dân số các dân tộc ở thị xã Vĩnh Châu năm 2017 ... 15 Bảng 3: Hiện trạng các phương ngữ của người Hoa ở TP.HCM hiện nay ... 20 </i>
</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">Đề tài của chúng tôi đề cập về tình hình bảo tồn ngơn ngữ của cộng đồng người Hoa tại thị Xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng. Báo cáo gồm có 3 chương, với chương một là khái quát chung về cộng đồng người Hoa tại địa bàn. Từ cơ sở chương một, chúng tôi đã chia tình hình bảo tồn ngơn ngữ của người Hoa tại đây thành 2 chương, tương đương với 2 phương diện là bảo tồn trong văn hóa và bảo tồn trong giáo dục. Vì vậy, ở chương hai chúng tơi tập trung vào điều tra tình hình bảo tồn ngôn ngữ trong hoạt động thờ cúng và lễ hội của cộng đồng người Hoa tại thị xã Vĩnh Châu. Cịn ở chương ba, chúng tơi đi sâu vào việc nghiên cứu hoạt động giáo dục ngôn ngữ dân tộc của người Hoa tại đây trong mơi trường gia đình và nhà trường.
</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11"><b>PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài </b>
Ngôn ngữ là một hệ thống ký hiệu được dùng làm phương tiện giao tiếp quan trọng nhất và phương tiện tư duy của con người. Bằng ngơn ngữ, chúng ta có thể truyền tải một cách chính xác bất kỳ một loại thơng tin nào, có thể diễn tả tâm trạng, tình cảm, miêu tả hành động hay sự vật. Ngôn ngữ là phương tiện chuyển tải văn hóa, tư duy, lưu giữ quá trình lịch sử và phản ánh quan niệm của dân tộc. Ngôn ngữ không chỉ là một hiện tượng của xã hội mà còn là một bộ phận cấu thành quan trọng của văn hóa. Mỗi hệ thống ngơn ngữ đều mang đậm dấu ấn văn hóa của cộng đồng người bản ngữ. Do đó, bảo tồn một ngơn ngữ cũng chính là góp phần gìn giữ và phát triển một nền văn hóa.<small>1</small>
Trong bối cảnh hội nhập và tồn cầu hóa đang diễn ra hiện nay, giao lưu văn hóa giữa các dân tộc diễn ra như một lẽ đương nhiên, mà ngôn ngữ với tư cách là cơng cụ chuyển tải văn hóa và tư duy của một dân tộc, cùng với quá trình giao lưu đó, ngơn ngữ riêng của dân tộc cũng bị mai một dần theo thời gian. Với tư cách vừa là công cụ giao tiếp vừa là một phần của văn hóa, ngơn ngữ là một hiện tượng xã hội đặc biệt, có chức năng phản ánh sự thay đổi của xã hội, đồng thời tác động vào xã hội, góp phần làm thay đổi xã hội. Ngơn ngữ khơng chỉ là phương tiện giao tiếp giữa các thành viên trong cùng một thế hệ, cùng sống một thời kỳ, mà còn là phương tiện giao tiếp giữa các thế hệ, là phương tiện để con người truyền tải thông tin cho các thế hệ tương lai.<small>2</small> Bối cảnh hội nhập hiện nay là một cơ hội phát triển tốt tuy nhiên nó cũng là thách thức đối với mỗi dân tộc trong vấn đề giữ gìn và phát huy những nét văn hóa truyền thống nói chung và ngơn ngữ nói riêng. Chính vì thế, các vấn đề ngơn ngữ của dân tộc thiểu số đã trở thành mối quan tâm của Nhà nước và những nhà nghiên cứu. Trong đó, ngơn ngữ của cộng đồng người Hoa là một đề tài chưa được lưu ý đúng mức.
Những dòng người Hoa từ miền Nam Trung Quốc đã di cư đến Nam Bộ nói chung, đến vùng đồng bằng sơng Cửu Long và phần đất phía tây sơng Hậu nói riêng vào khoảng cuối thế kỷ XVII, đầu thế kỷ XVIII và kéo dài cho đến năm 1949, trước khi nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa được thành lập. Trong q trình nhập cư ở tỉnh
<small>1 Hồng Dũng, Bùi Mạnh Hùng, Giáo trình Dẫn luận ngơn ngữ học, Nhà xuất bản Đại học Sư phạm, Hà Nội, 2007, tr. 8 </small>
<small>2 Hoàng Dũng, Bùi Mạnh Hùng, Giáo trình Dẫn luận ngơn ngữ học, Nhà xuất bản Đại học Sư phạm, Hà Nội, 2007, tr. 8 </small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">Sóc Trăng, người Hoa thuộc các nhóm ngơn ngữ địa phương (chủ yếu là người Triều Châu và người Quảng Đơng) đã sớm hịa nhập vào cùng người Khmer và người Kinh để xúc tiến công cuộc khai khẩn đất đai, phát triển sản xuất và thúc đẩy việc trao đổi, buôn bán với cả bên trong và ngồi cộng đồng. Người Hoa ở tỉnh Sóc Trăng, tập trung đông nhất ở thị xã Vĩnh Châu và là một trong ba thành phần dân cư quan trọng ở địa phương chỉ sau người Khmer và người Kinh.<small>3</small> Họ đã có những đóng góp đáng kể về mặt kinh tế, văn hóa và xã hội cho tỉnh Sóc Trăng nói riêng và đất nước Việt Nam nói chung. Mặc dù Sóc Trăng là một tỉnh có nhiều khu vực thuộc môi trường giao tiếp đa ngữ (tiếng Việt, tiếng Triều Châu, tiếng Hoa phổ thông, tiếng Khmer), thế nhưng tình hình bảo tồn ngơn ngữ dân tộc của cộng đồng người Hoa Triều Châu ở thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng vẫn cịn diễn ra rất mạnh mẽ. Vậy thì do đâu mà cộng đồng người Hoa tại đây lại có thể bảo tồn bản sắc ngơn ngữ của mình trong mơi trường giao tiếp đa ngữ tốt đến như thế? Chính vì vậy, việc nghiên cứu về những phương thức để bảo tồn ngôn ngữ là một đề tài hay và có ý nghĩa nhất định trong việc nghiên cứu và giúp đỡ việc bảo tồn ngôn ngữ của các dân tộc thiểu số.
<i><b>Tổng hợp những tiền đề trên, nhóm tác giả đã quyết định chọn đề tài “Tìm hiểu </b></i>
<i><b>tình hình bảo tồn ngơn ngữ của cộng đồng người Hoa ở thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng” làm đề tài nghiên cứu. Chúng tơi muốn cung cấp một bức tranh tổng quan về </b></i>
thực trạng bảo tồn ngơn ngữ và đi sâu vào tìm hiểu những phương thức mà cộng đồng người Hoa nơi đây sử dụng để giữ gìn ngơn ngữ và phát huy những tinh hoa văn hóa của mình. Bên cạnh đó, từ góc nhìn ngơn ngữ giúp chúng ta nhìn thấy được sự cố kết cộng đồng của cộng đồng người Hoa Triều Châu ở thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng.
<b>2. Mục tiêu nghiên cứu </b>
<i><b>Chúng tơi thực hiện đề tài “Tìm hiểu tình hình bảo tồn ngơn ngữ của cộng </b></i>
<i><b>đồng người Hoa ở thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng” để làm rõ các vấn đề: </b></i>
+ Ngôn ngữ của cộng đồng người Hoa ở thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng có được bảo tồn trên cả 2 phương diện lời nói và chữ viết khơng?
<small>3 Địa chí tỉnh Sóc Trăng</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">+ Trong cuộc sống hằng ngày và trong sinh hoạt cộng đồng, việc bảo tồn ngôn ngữ được diễn ra như thế nào?
+ Việc bảo tồn ngơn ngữ có cịn tồn tại trong các hoạt động tín ngưỡng nữa hay khơng?
+ Trường học đóng vai trị như thế nào trong q trình bảo tồn ngơn ngữ của cộng đồng người Hoa nơi đây?
Thơng qua đó, nhóm tác giả mong muốn có thể mơ tả được tình hình bảo tồn ngôn ngữ hiện nay của cộng đồng người Hoa ở thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng và những hình thức bảo tồn trên các phương diện của đời sống.
<b>3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu </b>
Về bình diện, chúng tơi tập trung nghiên cứu trên hai bình diện là văn hóa và giáo dục mà khơng tiến hành ở các bình diện khác như kinh tế, chính trị,… Nguyên nhân chủ yếu của điều này đã được đề cập ở hai hạn chế khách quan và chủ quan bên trên, ngoài ra cịn do hai bình diện này là hai bình diện dễ gặp nhất, dễ quan sát và có hiện tượng bảo tồn ngôn ngữ diễn ra thường xuyên nhất.
Về không gian, đề tài tập trung khảo sát các gia đình người Hoa thuộc phường 1, thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng. Nguyên nhân chủ yếu của điều này đã được đề cập ở hai hạn chế khách quan và chủ quan bên trên, ngồi ra cịn do do số người Hoa tập trung đông nhất ở đây (chiếm 22,4% toàn thị xã Vĩnh Châu), hai cơ sở sinh hoạt tín ngưỡng (Thanh Minh Cổ Miếu, Thiên Hậu Cổ Miếu) lớn nhất của cộng đồng người Hoa nơi đây đều tọa lạc trên địa bàn và phần lớn các tổ chức xã hội của người Hoa đều hoạt động mạnh mẽ ở đây.
</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">Về thời gian, chúng tơi nghiên cứu tình hình bảo tồn ngơn ngữ của cộng đồng người Hoa nơi đây từ khi định cư cho đến nay, chủ yếu là giai đoạn hiện nay.
<b>4. Lịch sử nghiên cứu vấn đề </b>
Người Hoa là một trong 54 dân tộc của Việt Nam, là một bộ phận của đất nước Việt Nam. Cộng đồng người Hoa ở Nam Bộ cũng là một cộng đồng dân cư quan trọng ở Việt Nam. Trong quá khứ cũng như hiện tại, cộng đồng người Hoa ở Nam Bộ đã góp phần tích cực cho cơng cuộc xây dựng và phát triển vùng đất Nam Bộ của Việt Nam. Chính vì vậy người Hoa ở Nam Bộ đã trở thành đối tượng và đề tài nghiên cứu được nhiều tác giả quan tâm. Năm 1991, Mạc Đường với bài viết nghiên cứu “Người Hoa ở Đồng bằng sông Cửu Long” đã đề cập đến nhiều vấn đề như: đặc điểm về dân số và dân cư, lịch sử di cư và q trình hịa hợp dân tộc. Nổi bật trong bài viết là chính sách của triều đình nhà Nguyễn đối với người Hoa và tinh thần đấu tranh chống phong kiến, chống giặc ngoại xâm của đồng bào người Hoa. Năm 2005, Phan An công bố sách “Người Hoa ở Nam Bộ”. Nội dung chính của cuốn sách đã giới thiệu một cách khái quát về người Hoa ở thành phố Hồ Chí Minh, đồng thời đem đến cái nhìn sâu hơn về những phương diện xung quanh cuộc sống của họ như: hoạt động kinh tế, tổ chức xã hội, sinh hoạt tín ngưỡng – tơn giáo, đời sống văn hóa, phong tục tập quán, lối sống, kiến trúc chùa Hoa,... Bên cạnh đó, tác giả cũng đã dành một phần để giới thiệu khái quát về nguồn gốc, dân cư, đời sống vật chất tinh thần của người ở Sóc Trăng. Cũng trong năm này, Trần Hồng Liên đã giới thiệu cuốn sách “Văn hóa người Hoa ở Nam Bộ - Tín ngưỡng và Tơn giáo”. Nội dung chính giới thiệu về những kiến trúc, cấu trúc điêu khắc, trang trí, sinh hoạt tín ngưỡng cũng như vai trị của người hoa tại Thành phố Hồ Chí Minh. Những nghiên cứu trên đã cung cấp một cái nhìn tổng quan về nguồn gốc cũng như đời sống vật chất tinh thần của người Hoa ở Nam Bộ.
Về ngôn ngữ của các dân tộc thiểu số, trong q trình tìm hiểu, nhóm tác giả đã tìm hiểu được một số chính sách, sách, bài viết nghiên cứu về ngôn ngữ của các dân tộc thiểu số ở Việt Nam. Trong cuốn “Ngôn ngữ học xã hội” của mình, Nguyễn Văn Khang đã tập trung mơ tả tồn cảnh bức tranh ngôn ngữ - dân tộc ở Việt Nam, cuốn sách hướng đến một bức tranh toàn cảnh về tình hình ngơn ngữ ở Việt Nam gắn với thực tiễn của xã hội Việt Nam cũng như với các tập tục. Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc. Bức tranh ngôn ngữ - dân tộc ở Việt Nam khá đa dạng. Hiện tượng song ngữ, đa ngữ phổ
</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">biến ở tất cả các vùng. Tiếng Việt được coi là ngôn ngữ quốc gia, là phương tiện giao tiếp giữa các dân tộc ở Việt Nam. Tuy nhiên, sự khác biệt giữa các phương ngữ địa lí, phương ngữ xã hội vẫn cịn tồn tại. Mặt khác, không thể không học thêm các ngơn ngữ nước ngồi như tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Hán, tiếng Nga,... Điều này khiến cho bức tranh ngôn ngữ - xã hội ở Việt Nam càng phức tạp hơn. Cuốn sách này góp phần vào việc nghiên cứu các quyết sách về ngôn ngữ để giúp đất nước ta tiến lên sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Trong đề tài nghiên cứu “Xây dựng, sửa đổi chữ viết của các dân tộc người thiểu số ở Việt Nam: Những quan niệm phiến diện về công năng của chữ” của Lý Tùng Hiếu đã nói về vấn đề giữ gìn ngơn ngữ và chữ viết của các dân tộc thiểu số ở Việt Nam. Khái quát hơn, cuốn “Ngôn ngữ, chữ viết các dân tộc thiểu số ở Việt Nam (Những vấn đề chung)” của Nguyễn Hữu Hoành đã giới thiệu một cách có hệ thống ngơn ngữ các dân tộc thiểu số trên lãnh thổ Việt Nam, phác họa một bức tranh tổng thể đa dạng về các ngôn ngữ cũng như cho thấy được thực trạng sử dụng ngôn ngữ của dân tộc thiểu số hiện nay, nêu lên được các vấn đề về việc bảo tồn, giữ gìn các ngơn ngữ ấy.
Bên cạnh đó, cịn có các nghiên cứu riêng về các nhóm ngơn ngữ ở các địa phương ở Việt Nam như “Đặc điểm sử dụng ngôn ngữ của người Hoa ở thành phố Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu” của tác giả Hồng Quốc hay “Việc sử dụng ngơn ngữ của cộng đồng Chăm Islam ở An Giang” của nhóm sinh viên ngành Indonesia học, khoa Đông phương học, trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân Văn do Phù Châu Phú làm chủ nhiệm. Những đề tài nghiên cứu trên đã tìm hiểu về đặc điểm, tình hình sử dụng ngơn ngữ của các nhóm dân tộc và đồng thời đưa ra một vài kiến nghị, giải pháp cho việc bảo tồn ngôn ngữ của các cộng đồng người này trong bối cảnh đa ngữ tại địa phương. Ngoài ra cịn có những đề tài nghiên cứu về sự tiếp xúc ngôn ngữ của các dân tộc thiểu số trong bối cảnh cùng sinh hoạt với người Kinh như “Tiếp xúc ngôn ngữ giữa tiếng Khmer với tiếng Việt (trường hợp tỉnh Trà Vinh)” của Nguyễn Thị Huệ hay “Tiếp xúc ngôn ngữ Việt (Kinh) - Tày ở vùng Đông Bắc Việt Nam” của Đặng Thanh Phương. Những đề tài nghiên cứu trên đã cho thấy được một cách rõ nét về tình hình sử dụng ngơn ngữ của các dân tộc thiểu số ở địa phương mà họ đang sinh sống. Từ đó, cho thấy được một cái nhìn về sự quan trọng và tính cấp thiết trong việc nghiên cứu tình hình bảo tồn ngơn ngữ và giữ gìn bản sắc dân tộc truyền thống của các nhóm dân tộc thiểu số ở Việt Nam.
</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">Đi sâu vào nghiên cứu ngôn ngữ của dân tộc thiểu số ở Việt Nam, ngôn ngữ của người Hoa cũng là một đề tài nhận được sự quan tâm. Trong cuốn “Cảnh huống song ngữ Việt – Hoa tại đồng bằng sống Cửu Long” tác giả Hoàng Quốc đã đưa ra một bức tranh khá tổng quát về người Hoa và tiếng Hoa ở đồng bằng sông Cửu Long. Tác giả đã dành một chương để nói về đặc điểm sử dụng ngôn ngữ của người Hoa ở Sóc Trăng. Cuốn “Cảnh huống và chính sách ngơn ngữ ở Việt Nam trong thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế” do Nguyễn Đức Tồn chủ biên đã đề xuất những kiến nghị và giải pháp phục vụ cho việc xây dựng chính sách ngơn ngữ ở Việt Nam giai đoạn mới (từ 2015 - 2020). Trong nghiên cứu này, nhóm tác giả đã đề cập đến trường hợp sử dụng ngôn ngữ của người Hoa ở tỉnh Sóc Trăng. Ngồi ra, cịn có hai đề tài nghiên cứu về việc dạy tiếng Hoa cho cộng đồng người Hoa nơi đây là “Dạy Hoa văn của người Hoa nhóm Triều Châu tại đồng bằng sông Cửu Long (nghiên cứu trường hợp xã Vĩnh Hải, huyện Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng) của Trương Anh Tiến và “Giáo dục khả năng song ngữ Hoa – Việt cho học sinh người Hoa ở Sóc Trăng trong bối cảnh đa ngữ (Việt – Khmer – Hoa)” của Lê Huỳnh Như. Hai bài nghiên cứu này đã đưa ra một cách có hệ thống những phương pháp dạy tiếng Hoa cho những thế hệ sau của cộng đồng người Hoa nơi đây. Tuy nhiên, chỉ dừng lại ở nghiên cứu về việc dạy tiếng Hoa ở trường và dạy tiếng Hoa trong bối cảnh đa ngữ (tiếng Khmer, tiếng Kinh, tiếng Hoa).
Tóm lại, những cơng trình nghiên cứu trên chỉ tập trung nghiên cứu một bức tranh tồn cảnh về các khía cạnh của cộng đồng người Hoa ở Nam Bộ như nguồn gốc, đặc điểm dân cư, xã hội, kinh tế,… Còn về cộng đồng người Hoa ở thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng, chưa thực sự có cơng trình nghiên cứu về người Hoa nơi đây nhìn từ góc độ văn hóa và ngôn ngữ. Cộng đồng người Hoa Triều Châu ở thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng là một trong những cộng đồng người Hoa vẫn còn giữ được những nét văn hóa Trung Hoa khá đậm nét và chưa chịu ảnh hưởng nhiều của sự giao lưu tiếp biến
<i><b>văn hóa. Chính vì vậy, nhóm tác giả quyết định lựa chọn đề tài “Tìm hiểu tình hình </b></i>
<i><b>bảo tồn ngơn ngữ của cộng đồng người Hoa ở thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng” để </b></i>
đi sâu tìm hiểu kỹ về việc bảo tồn và những phương thức giữ gìn ngôn ngữ - một trong những nhân tố để giữ gìn bản sắc văn hóa của cộng đồng người Hoa Triều Châu nơi đây.
</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17"><b>5. Phương pháp nghiên cứu </b>
Để chứng minh cho giả thuyết nghiên cứu, nhóm tác giả đã sử dụng 4 phương pháp nghiên cứu chủ yếu. Đó là:
- Phương pháp tổng hợp tư liệu: thu thập, phân tích và tổng hợp tài liệu từ sách báo, các bài nghiên cứu, nhiều nguồn tư liệu khác nhau để có cơ sở lý luận khoa học vững chắc, thơng tin chính xác cho những phân tích trong đề tài, tạo nền tảng kiến thức cần thiết về người Hoa ở thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng. Trong nghiên cứu này, nhóm tác giả đã nghiên cứu các tài liệu về lịch sử hình thành, đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội của cộng đồng người Hoa ở thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng. Ngồi ra các chương khác cũng có áp dụng phương pháp này để làm tiền đề dẫn nhập vào nội dung chính.
- Phương pháp điều tra phỏng vấn: phỏng vấn cộng đồng người Hoa Triều Châu ở thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng thơng qua danh sách câu hỏi đã được soạn trước để thu thập được những thông tin về tình hình bảo tồn ngơn ngữ của cộng đồng người Hoa nơi đây và kiểm chứng lại những thông tin thu thập được từ phương pháp tổng hợp tư liệu nhằm tăng giá trị thực tiễn cho đề tài. Đây là phương pháp chủ yếu để thu thập dữ liệu thực tế.
- Phương pháp khảo sát bằng bảng hỏi: phương pháp này được thực hiện bằng việc sử dụng bảng hỏi để tiến hành điều tra cùng lúc nhiều hộ gia đình, từ đó thống kê thành các con số cụ thể nhằm rút ra được tình hình tổng quan.
- Phương pháp thống kê: thơng qua những số liệu thu thập được chúng tôi bằng phương pháp điều tra phỏng vấn, chúng tôi đã tiến hành xử lý, phân tích những hoạt động bảo tồn ngơn ngữ trong chương 2 và chương 3.
- Phương pháp quan sát, tham dự: chúng tôi áp dụng phương pháp thu thập thông tin của nghiên cứu xã hội học thực nghiệm kết hợp với việc ghi chép lại thông tin từ thực tế xã hội về nếp sống, sinh hoạt, lao động, sản xuất, phong tục, tập quán, tín ngưỡng,… của cộng đồng người Hoa thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng.
- Phương pháp liên ngành: nhìn nhận vấn đề bảo tồn ngôn ngữ thuộc các ngành khoa học khác nhau, cụ thể là văn hóa học, ngơn ngữ học, dân tộc học,… để có cái nhìn tồn diện hơn về vấn đề đang tìm hiểu.
</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">Ngồi các phương pháp trên chúng tơi cịn sử dụng một số phương pháp của các ngành khác như: điều tra tiếp cận của xã hội học, hồi cố của dân tộc học,… để làm rõ hơn các vấn đề trong bảo tồn ngôn ngữ.
<b>6. Ý nghĩa thực tiễn và ý nghĩa khoa học </b>
Về mặt thực tiễn, bài nghiên cứu đưa ra được bức tranh toàn cảnh về tình hình bảo tồn ngơn ngữ của cộng đồng người Hoa ở thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng. Đề tài cho thấy được thực trạng bảo tồn ngôn ngữ hiện nay cũng như các phương thức giữ gìn tiếng nói và chữ viết trên bình diện văn hóa và giáo dục của cộng đồng người Hoa ở địa phương. Đồng thời, cho thấy được ý thức dân tộc, sự cố kết cộng đồng và ý thức bảo tồn ngôn ngữ của lớp trẻ hiện nay ở cộng đồng người Hoa nơi đây. Từ đó, cung cấp thêm các tư liệu về người Hoa đặc biệt là ngôn ngữ truyền thống của họ.
Về mặt khoa học, bài nghiên cứu cung cấp cho ngành khoa học xã hội cái nhìn tồn diện hơn về tình hình bảo tồn ngơn ngữ của dân tộc Hoa. Đồng thời cung cấp luận cứ cho các cơng trình nghiên cứu bảo tồn ngơn ngữ dân tộc tại Việt Nam và cụ thể là việc bảo tồn ngôn ngữ của dân tộc Hoa.
</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19"><b>+ Chương 2: Tình hình bảo tồn ngơn ngữ của cộng đồng người Hoa ở thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng trên bình diện văn hóa </b>
Từ những thông tin được đề cập từ chương 1 kết hợp với thông tin thu được từ các phương pháp điều tra xã hội học, chương 2 của bài nghiên cứu trình bày tình hình bảo tồn ngơn ngữ của cộng đồng người Hoa ở thị xã Vĩnh Châu trên phương diện văn hóa. Trong chương 2 này, chúng tơi đào sâu việc bảo tồn ngôn ngữ thông qua việc thờ cúng trong gia đình, trong các cơ sở thờ tự công cộng và thông qua các hoạt động được tổ chức trong ngày tết Nguyên Tiêu của họ.
<b>+ Chương 3: Tình hình bảo tồn ngơn ngữ của cộng đồng người Hoa ở thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng trên bình diện giáo dục </b>
Trong chương 3 này chúng tôi tiếp tục trình bày việc bảo tồn ngôn ngữ trên phương diện giáo dục. Chúng tơi tìm hiểu tầm quan trọng của việc giáo dục trong gia đình và giáo dục trong trường học đối với việc bảo tồn ngôn ngữ của cộng đồng người Hoa nơi đây.
</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20"><b>CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN </b>
Dân tộc Hoa là một trong 54 dân tộc anh em ở Việt Nam. Những tinh hoa văn hóa của người Hoa đã làm phong phú thêm nền văn hóa của Việt Nam và đồng thời họ cũng có rất nhiều những đóng góp trong cơng cuộc xây dựng đất nước, xã hội Việt Nam. Do đó, nghiên cứu về các cộng đồng người Hoa ở Việt Nam cũng đã trở thành một đề tài thu hút nhiều học giả quan tâm. Bên cạnh việc nghiên cứu về những giá trị văn hóa thì việc nghiên cứu về ngơn ngữ của các cộng đồng người Hoa cũng có những giá trị nhất định trong việc tìm hiểu và bảo tồn văn hóa của họ. Ở phần này, nhóm thực hiện muốn cung cấp một bức tranh tổng quan về cộng đồng người Hoa ở thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng cũng như làm rõ việc sử dụng ngôn ngữ của Cộng đồng này để phục vụ cho những nghiên cứu tiếp theo.
<b>1.1. Tổng quan về thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng </b>
<i>Hình 1: Bản đồ thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng </i>
(Nguồn: Cổng thơng tin điện tử thị xã Vĩnh Châu)
Vĩnh Châu là một trong những thị xã ven biển của tỉnh Sóc Trăng, phía Đơng và Nam giáp biển Đơng, phía Tây giáp tỉnh Bạc Liêu, phía Bắc giáp huyện Mỹ Xuyên và Trần Đề.
Thị xã Vĩnh Châu có bờ biển dài 43km, tổng diện tích 4.733.948 ha. Về đơn vị hành chính, thị xã Vĩnh Châu có 4 phường (phường 1, phường 2, phường Vĩnh Phước, phường Khánh Hòa) và 6 xã (Lai Hịa, Vĩnh Tân, Vĩnh Hiệp, Hịa Đơng, Lạc Hịa, Vĩnh
</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">Hải) với 97 ấp, khóm, 36.937 hộ dân và 165.334 người vào năm 2015. Trong số đó dân tộc người Hoa có 6.384 hộ với 29.456 người, chiếm 17,81% dân số. Người Hoa tại huyện Vĩnh Châu đa số là người Triều Châu.<small>4</small>
Với vị trí địa lý thuận lợi về hệ thống giao thông đường thủy, đường bộ thông suốt đã tạo điều kiện cho việc giao lưu và phát triển nền kinh tế ven biển và là vị trí chiến lược hết sức quan trọng trong bảo vệ quốc phòng - an ninh của tỉnh. Đây là điều kiện cho Vĩnh Châu phát triển tiềm năng, thế mạnh về nông nghiệp, thuỷ hải sản và du lịch; là tiền đề hình thành các vùng sinh thái trọng điểm, với khí hậu đặc thù phát triển mạnh các nghề nuôi trồng, đánh bắt thuỷ hải sản và phát triển nông nghiệp đặc thù nổi tiếng như: tôm sú, cá kèo, nghêu, artemia, muối, củ cải trắng, củ hành tím, tỏi …<small>5</small>
Hệ thống sơng ngịi, kênh rạch tương đối chằng chịt. Sông Mỹ Thanh là tuyến đường thủy quan trọng nối liền từ cửa biển Mỹ Thanh qua sông Vàm Lẽo đến trung tâm tỉnh Bạc Liêu. Hệ thống giao thông đường bộ tuyến Quốc lộ Nam Sông Hậu là đầu mối giao thông quan trọng trong việc phát triển kinh tế và giao lưu hàng hóa, dịch vụ nối kết với vùng kinh tế phát triển ven sơng Hậu và tuyến đường Tỉnh 935 (đi Sóc Trăng) đã tạo điều kiện phát triển tiềm năng, lợi thế trong việc thúc đẩy nền kinh tế giữa các vùng trong khu vực, hình thành tam giác kinh tế động lực của tỉnh Sóc Trăng.<small>6</small>
Đặc trưng văn hóa cộng đồng Vĩnh Châu là người Kinh, Khmer, Hoa sống đan xen lẫn nhau và có truyền thống đồn kết, u thương giúp đỡ lẫn nhau trong sản xuất và đời sống. Địa hình người Hoa Triều Châu định cư tại Vĩnh Châu chủ yếu là trên đất giồng, có đoạn là đất giồng cát, có đoạn là đất cát pha nhưng đất giồng cát là chủ yếu. Dãy đất giồng cát dọc theo ven biển trải dài từ xã Vĩnh Hải đến phường Hiệp Thành, thành phố Bạc Liêu, dài khoảng 50km.<small>7</small>
<b>1.2. Khái quát về cộng đồng người Hoa ở thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng </b>
<b> </b> Ở nội dung này, chúng tôi sẽ tập trung cung cấp những thông tin khái quát về nguồn gốc hình thành, điều kiện kinh tế, xã hội... của cộng đồng người Hoa tại tỉnh Sóc Trăng nói chung và thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng nói riêng.
<small>4 Địa chí tỉnh Sóc Trăng </small>
<small>5 Cổng thơng tin điện tử thị xã Vĩnh Châu </small>
<small>6 Cổng thông tin điện tử thị xã Vĩnh Châu </small>
<small>7 Trương Anh Tiến, Dạy Hoa văn của người Hoa nhóm Triều Châu tại Đồng bằng sông Cửu Long (nghiên cứu trường hợp xã Vĩnh hải, huyện Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng)</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22"><i><b>1.2.1. Nguồn gốc hình thành </b></i>
Những dịng người Hoa từ miền Nam Trung Quốc đã di cư đến Nam Bộ nói chung, đến vùng Đồng bằng sơng Cửu Long và phần đất phía Tây sơng Hậu nói riêng vào khoảng cuối thế kỷ XVII, đầu thế kỷ XVIII và kéo dài cho đến năm 1949, trước khi nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa được thành lập. Trong q trình nhập cư ở tỉnh Sóc Trăng , người Hoa thuộc các nhóm ngơn ngữ địa phương (chủ yếu là người Triều Châu và người Quảng Đông) sớm đã hòa nhập vào người Khmer và người Kinh để xúc tiến công cuộc khai khẩn đất đai, phát triển sản xuất và thúc đẩy việc trao đổi, buôn bán với cả bên trong và ngoài cộng đồng.
Theo “Người Hoa ở Nam Bộ” của Phan An, người Hoa ở Nam Bộ có nguồn gốc từ sự di dân của người Hán ở duyên hải phía Nam Trung Quốc nhập cư vào miền Nam Việt Nam qua nhiều thời kỳ và kéo dài trong nhiều thế kỷ. Đó là những nơng dân, thợ thủ cơng, binh lính, thương nhân, quan lại,… mà đa số là do nghèo đói và loạn lạc, đã rời bỏ đất nước Trung Hoa tìm đất mưu sinh. Cộng đồng người Hoa nơi đây hình thành do sự gặp gỡ của hai nhóm Dương Ngạn Địch (Mỹ Tho) và Mạc Cửu (Hà Tiên). Sau khi được chúa Nguyễn cấp phép thì hai nhóm người Hoa này đã cùng với một bộ phận người Việt, người Khmer tiến hành công cuộc khai hoang và biến Mỹ Tho và Hà Tiên trở thành những vùng đất trù phú, buôn bán tấp nập. Tuy nhiên người Hoa ở thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng lại khơng thuộc hai nhóm người Hoa này.
Người Hoa ở thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng di cư sang Việt Nam bắt đầu vào đầu thế kỉ XX theo hai con đường là đường bộ và đường biển. Họ đi bằng đường bộ là do chạy nạn và đi bằng đường biển là vì mưu sinh. Những người Hoa này chủ yếu đến từ tỉnh Quảng Đông và họ di cư thẳng vào vùng đất Vĩnh Châu. Vĩnh Châu là nơi thuận lợi đường thủy, đường biển, vì thế đã thu hút cộng đồng người Hoa gốc Triều Châu đến định cư.
Thời gian đầu cộng đồng người Hoa nơi đây sống tập trung ở vùng ven biển, chủ yếu là làm nông. Họ sống tập trung tại một khu vực riêng, chưa có sự cộng cư với các dân tộc khác. Qua thời gian, các khu dân cư của người Hoa dần được hình thành. Họ có vai trị rất quan trọng trong việc góp phần hình thành và phát triển các thị tứ, thành phố ở tỉnh Sóc Trăng trong các thời kỳ lịch sử từ trước đến nay.
</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">Quá trình hình thành cộng đồng người Hoa ở Vĩnh Châu còn là quá trình hịa hợp giữa người Hoa với các dân tộc anh em khác. Đó là sự giao lưu kinh tế, văn hóa, quan hệ cộng cư, quan hệ hơn nhân giữa người Hoa với người Việt và Khmer - các dân tộc vốn có mặt ở đây từ khá sớm. Quá trình này tạo nên một bức tranh sinh động về ngôn ngữ, phong tục tập quán,…
<i><b>1.2.2. Dân số </b></i>
Theo Niên giám thống kê tỉnh Sóc Trăng năm 2017, tồn thị xã Vĩnh Châu có 166.517 người, là nơi có số lượng người Hoa đơng nhất ở tỉnh Sóc Trăng. Điều này cũng dễ hiểu vì Vĩnh Châu là một trong những nơi mà người Hoa đặt chân đến đầu tiên. Hơn nữa đây là vùng đất được xem là có điều kiện thuận lợi bậc nhất của tỉnh, người Hoa đã đến đây sinh sống và định cư lâu dài. Ở thị xã Vĩnh Châu, người Kinh là 48.924 người chiếm 29,38%, người Khmer 88.006 người chiếm 52,85%, người Hoa 29.551 người chiếm 17,75%, còn lại là các dân tộc khác.
<b>Số lượng (người) Tỉ lệ (%) Kinh </b> 48.924 29,38%
<b>Khmer </b> 88.006 52,85%
<b>Khác </b> 36 0.02%
<b>Tổng </b> 166.517 100
<i>Bảng 1: Số lượng và tỉ lệ dân cư ở Thị xã Vĩnh Châu phân theo dân tộc năm 2017 </i>
(Nguồn: Niên giám thống kê Sóc Trăng 2017)
Người Hoa ở Vĩnh Châu phân bố khắp các phường xã trong thị xã. Tuy nhiên mật độ giữa các phường xã là khơng giống nhau. Có nơi rất đơng nhưng cũng có nơi rất ít. Điển hình như người Hoa sinh sống đơng nhất là ở phường 1 (6.629 người) và ít nhất là ở xã Vĩnh Hiệp (48 người). Có thể hình dung dân số trung bình dân tộc phân theo phường/xã của thị xã năm 2017 qua bảng số liệu sau:
</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24"><b>Xã, phường Tổng số Kinh Khmer Hoa </b>
<i>Bảng 2: Thống kê dân số các dân tộc ở thị xã Vĩnh Châu năm 2017 </i>
(Nguồn: Thống kê niên giám tỉnh Sóc Trăng, Nhà xuất bản Thống kê, 2018)
<i><b>1.2.3. Đời sống kinh tế, văn hóa, giáo dục, xã hội </b></i>
<b> *Kinh tế </b>
Người Hoa ở thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng sống tập trung thành một địa bàn, chủ yếu là khu vực chợ - trung tâm của các phường, xã của thị xã Vĩnh Châu. Người Hoa nơi đây chủ yếu làm kinh doanh, mua bán. Họ kinh doanh những mặt hàng nhu yếu phẩm cần thiết cho sinh hoạt hằng ngày. Ngoài ra, phần lớn các quán ăn trong địa bàn cũng là của người Hoa với những thức ăn truyền thống của người Hoa như mì gia, hủ tiếu,… Không chỉ kinh doanh những ngành cung cấp sản phẩm cho những sinh hoạt trong đời sống hằng ngày, người Hoa nơi đây còn tham gia vào các ngành dịch vụ.
</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25"><i>Hình 2: Tiếng Hoa được sử dụng khá phổ biến trên các bảng hiệu </i>
<b>(Nguồn: Nhóm tác giả) *Văn hóa </b>
Khi đến định cư ở thị xã Vĩnh Châu, cộng đồng người Hoa nơi đây cũng đã mang theo những tinh hoa văn hóa của dân tộc đến mảnh đất mới, khơng ngừng giữ gìn và phát triển. Cùng với quá trình sống và hòa nhập với người dân Việt Nam bản xứ, những giá trị văn hóa đó khơng những khơng bị mất đi mà nó cịn được tơ điểm thêm để vừa là một nét giá trị tinh thần đặc trưng của người Hoa vừa phù hợp, thích ứng với điều kiện của vùng đất mới.
Cộng đồng người Hoa Triều Châu khi di cư đến Vĩnh Châu đã cố gắng tạo cho mình một cuộc sống ổn định khơng chỉ về mặt vật chất mà cịn cả đời sống tinh thần. Văn hóa của cộng đồng người Hoa nơi đây là kết quả của quá trình chung sống với người Việt, người Khmer trong công cuộc khai khẩn vùng đất Nam Bộ trong nhiều thế kỷ qua. Trên vùng đất Vĩnh Châu, người Hoa đã chung nhau xây dựng các đền miếu, từ đường, làm nơi thờ cúng thần linh, tổ tiên, nơi tụ tập của cộng đồng trong ngày tết, ngày lễ. Họ lại cùng nhau mua đất làm nghĩa trang để có nơi chơn cất người chết. Nhu cầu học hành của con em người Hoa cũng sớm được đặt ra và mọi người cùng nhau xây trường, mời thầy giáo về dạy chữ Hoa. Người Hoa coi trọng các dịp lễ tết, hội hè trong năm, nhất là các ngày Tết Nguyên Đán, Nguyên Tiêu, Thanh Minh, rằm tháng Bảy, rằm
</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">tháng Tám,… Đó là dịp mọi người vui chơi, giải trí, thăm hỏi lẫn nhau. Múa rồng, múa lân, biểu diễn sân khấu hát Tiều, Triều kịch,… là hoạt động dân gian của người Hoa.<small>8</small>
Người Hoa ở thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng tơn thờ tín ngưỡng đa thần, phổ biến là các loại hình tín ngưỡng thờ Bà Thiên Hậu (天后聖母), Ơng Bổn hay cịn gọi là Phúc Đức Chánh Thần (福德正神) và Quan Thánh Đế Quân (關聖帝君) tại các miếu, là cơ sở tín ngưỡng của cộng đồng. Thơng thường trong các cơ sở tín ngưỡng của người Hoa ở Sóc Trăng, có nhiều vị thần linh được thờ cúng. Ngồi vị thần chính cịn có cịn thần tùng tự (phối tự) vai trò nhỏ hơn thần chính và thần phụ tự có vai trị thấp hơn thần tùng tự.<small>9</small> Các thần tùng tự và phụ tự là những nhân vật theo hầu hạ. Kiến trúc các miếu của người Hoa thường theo một mơ típ chung là tứ hợp viện, mái cong cao, trên móc có trang trí hình rồng bay, ở các hàng cột có trang trí câu đối, hồnh phi bằng chữ Hoa hoặc vật tứ linh (long, lân, quy, phụng),… Ở thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng hơn 20 cơ sở tín ngưỡng thờ tượng của người Hoa và một nghĩa trang dành riêng cho cộng đồng người Hoa Triều Châu ở đây. Hằng năm vào các dịp lễ lớn, cộng đồng người Hoa nơi đây sẽ đến các chùa, miếu tiến hành các nghi thức tơn giáo, tín ngưỡng, tổ chức các sinh hoạt văn nghệ dân gian, các hoạt động vui chơi giải trí. Các hoạt động tín ngưỡng, tơn giáo, văn nghệ của người Hoa thường đi kèm với các hoạt động từ thiện, tương trợ giúp đỡ người nghèo khổ.
<i>Hình 3, 4: Các hoạt động sử dụng tiếng Hoa trong đêm Tết Nguyên Tiêu tại chùa Ông Bổn </i>
<small>8</small><i><small> Phan An, Người Hoa ở Nam Bộ </small></i>
<small>9 Lâm Hồng Viên (chủ biên), Tín ngưỡng dân gian tỉnh Sóc Trăng </small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">(Nguồn: Nhóm tác giả)
<b>*Giáo dục </b>
Trước đây, việc học tập của con em người Hoa, chủ yếu là do cộng đồng người Hoa tự tổ chức. Ở thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng có một số trường như Bồi Thanh, Cảnh Thành, Tân Hưng,… do bà con người Hoa ở địa phương và có sự giúp đỡ của các đồn thể người Hoa ở Sài Gịn, nước ngồi xây dựng nên. Sau giải phóng, các trường Hoa được chuyển sang hệ thống giáo dục thống nhất trong cả nước. Ngoài chương trình phổ thơng, các học sinh người Hoa được học thêm một số tiết tiếng Triều Châu như là ngôn ngữ dân tộc và tiếng Hoa Phổ thông. Ở thị xã Vĩnh Châu, các em học sinh học của một số trường dân lập như Bồi Thanh, Tân Hưng, Cảnh Thành,… sẽ được học cả tiếng mẹ đẻ của mình là tiếng Triều Châu và tiếng Hoa phổ thông. Việc dạy thêm tiếng Hoa được cộng đồng người Hoa nơi đây đón tiếp nồng nhiệt vì con cháu thế hệ đời sau của họ có thể học tập và giữ gìn văn hóa của cha ơng.
<i>Hình 5, 6: Một lớp học tiếng Hoa tại trường Bồi Thanh </i>
(Nguồn: Nhóm tác giả)
<b>*Xã hội </b>
Người Hoa tại thị xã (khu vực trung tâm) có một số hội đoàn thể: Hội Châu Quang, Hội Đồng Hương, Hội phụ huynh học sinh trường Bồi Thanh, Hội Thanh minh Cổ miếu, Hội từ thiện Nghĩa trang Triều Châu. Người Hoa nơi đây vẫn giữ được các lễ hội truyền thống khi họ còn ở Trung Quốc như: Tết Nguyên Đán, Tết Nguyên Tiêu, Tết Thanh Minh, vía cúng Thanh minh Cổ miếu, vía cúng Thiên hậu Cổ miếu. Các hội đồn của người Hoa có phân biệt rõ ràng khu vực và vấn đề mỗi hội phụ trách, nhưng vẫn có điểm giao thoa như một người có thể làm ở nhiều hội đồn khác nhau và các hội thương xuyên hỗ trợ qua lại lẫn nhau những lúc có cơng việc lễ cúng. Mạng lưới xã hội người
</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">Hoa tại đây không chỉ giới hạn trong thị xã Vĩnh Châu (khu vực trung tâm) mà mở rộng ra nhiều khu vực trong thị xã, mở rộng ra khác xã phường khác như Vĩnh Hải, Lạc Hịa và những huyện ngồi Vĩnh Châu như xã Lịch Hội Thượng của huyện Trần Đề và kéo dài đến tận thành phố Bạc Liêu và thành phố Sóc Trăng. Mạng lưới xã hội này được thiết lập từ rất lâu và được duy trì qua nhiều thế hệ. Yếu tố hệ thống thân tộc và kết hôn, thân hữu, công việc kinh doanh, tất cả tổng hợp lại được kết hợp vận dụng để giúp cho hoạt động quy trình văn hóa, tín ngưỡng lễ hội hoặc công việc kinh doanh được tốt hơn. Điều này trong một số cộng đồng tộc người khác cũng có nhưng có lẽ cách duy trì mạng lưới này của người Triều Châu có nhiều đặc thù. [19;42-43]
Tóm lại, qua những phong tục tập quán, đời sống tín ngưỡng, tôn giáo,… của cộng đồng người Hoa Triều Châu ở tỉnh Sóc Trăng đã cho thấy được những nét văn hóa vẫn cịn mang đậm màu sắc của họ, đồng thời thấy được những nét văn hóa này vẫn còn ảnh hưởng rất sâu sắc và chi phối những hoạt động sinh hoạt hằng ngày của cộng đồng người Hoa nơi đây. Những nét văn hóa đặc trưng này còn giúp cộng đồng người Hoa hòa nhập được với người Kinh, người Khmer đang cùng sinh sống trong khu vực. Ngồi ra cịn thấy được tỉnh Sóc Trăng có một màu sắc văn hóa vơ cùng đặc trưng của một vùng đất đa dân tộc, đa văn hóa, qua đó cho thấy tính thống nhất trong đa dạng do q trình giao thoa văn hóa giữa các dân tộc rõ nét.
<i>Hình 7: Liên hoan mừng Xuân 2018 Hội Đồng Hương Vĩnh Châu lần thứ XII </i>
(Nguồn: Cổng thông tin điện tử Hội Đồng Hương Vĩnh Châu)
</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29"><b>1.3. Việc sử dụng ngôn ngữ của cộng đồng người Hoa ở thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng </b>
Mỗi một dân tộc trên thế giới đều có ngơn ngữ riêng của dân tộc mình. Ngơn ngữ đóng vai trị vơ cùng quan trọng trong q trình hình thành, phát triển và giữ gìn văn hóa của mỗi dân tộc. Người Hoa cũng vậy, họ cũng có ngơn ngữ riêng mình để duy trì, phát triển những tinh hoa văn hóa của dân tộc mình và lưu truyền lại cho các thế hệ sau này. Trong quá trình di cư đến Việt Nam, người Hoa cũng mang theo ngơn ngữ và văn hóa của mình đến vùng đất mà họ định cư, cụ thể ở Vĩnh Châu, Sóc Trăng. Đồng thời, trải qua nhiều biến đổi của xã hội, người Hoa ở đây đã sử dụng nhiều cách thức khác nhau để bảo tồn và lưu giữ ngôn ngữ của mình. Trong phần này, chúng tơi sẽ mơ tả khái quát về ngôn ngữ hiện đang sử dụng, đối tượng và không gian sử dụng ngôn ngữ của người Hoa ở thị xã Vĩnh Châu, Sóc Trăng để có được nền tảng cho những nghiên cứu tiếp theo về tình hình bảo tồn ngơn ngữ của họ.
<b>Tên nhóm địa phương </b>
<b>(Bang) </b>
<b>Phương ngữ </b>
<b>Hệ phương ngữ </b>
Quảng Đông <sup>Tiếng Quảng Châu </sup><sub>(tiếng Quảng phủ) </sub> <sup>Tiếng Quảng, tiếng </sup><sub>Quảng Đông </sub> Việt Triều Châu Tiếng Triều Châu <sup>Tiếng Tiều, tiếng </sup>
Triều Châu
Mân Phúc Kiến Tiếng Hạ Môn Tiếng Phúc Kiến
Hải Nam Tiếng Hải Khẩu Tiếng Hải Nam
<i>Bảng 3: Hiện trạng các phương ngữ của người Hoa ở TP.HCM hiện nay (Nguồn: Hồ Minh Quang, Du Quế Tiên, “Việc sử dụng ngôn ngữ của cộng đồng người Hoa ở TP. HCM”, Kỷ yếu Tọa đàm Khoa học “Người Hoa ở Nam Bộ, Việt </i>
Nam”, 2017)
Người Hoa ở Việt Nam thường có 5 nhóm ngơn ngữ chính là Quảng Đông, Triều Châu, Phúc Kiến, Hải Nam và tiếng Khách Gia (Hakka, đơi khi cịn gọi là tiếng Hẹ) trong đó tiếng Quảng Đơng được sử dụng rộng rãi nhất trong cộng đồng người Hoa ở Việt Nam, nhiều nhất là ở khu vực Chợ Lớn, quận 5,6 thành phố Hồ Chí Minh. Cộng
</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">đồng người Hoa ở Việt Nam cịn có tiếng phổ thơng, là ngôn ngữ được giảng dạy trong trường lớp.
Ngôn ngữ chung của cộng đồng người Hoa ở thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng chính là tiếng Triều Châu hay còn gọi là tiếng Tiều thuộc hệ phương ngữ Mân. Bởi tiểu cộng đồng người Hoa Triều Châu chiếm tỉ lệ đơng nhất trong các nhóm địa phương người Hoa ở thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng và trong thời gian dài định cư ở nơi đây, nhóm Hoa Triều Châu đã thành cơng trong việc làm cho những nhóm Hoa địa phương khác chấp nhận tiếng nói của họ là ngơn ngữ chung. Đây là một lợi thế rất lớn để tiếng Hoa phương ngữ duy trì và phát huy chức năng giao tiếp trong phạm vi gia đình và trong nội bộ cộng đồng. Bên cạnh đó, họ cịn phải học ngơn ngữ chính thức của Việt Nam là tiếng Việt và ngoại ngữ trong trường học, ở đây là tiếng Anh theo chương trình đào tạo của Bộ giáo dục. Ngoài ra, một số gia đình người Hoa ở đây cho con em mình theo học tại các trường dân lập do cộng đồng người Hoa thành lập như trường Bồi Thanh, Cảnh Thành, Tân Hưng,… còn được học thêm tiếng Hoa Phổ thơng. Chính vì thế, bắt đầu từ thế hệ thứ ba có một số con em người Hoa cịn biết thêm tiếng Hoa Phổ thơng.
Theo những thông tin nhận được từ phương pháp điều tra phỏng vấn và điều tra bảng hỏi của nhóm tác giả, những bậc cao niên trong cộng đồng người Hoa ở thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng đều có khả năng nghe hiểu, giao tiếp thuần thục bằng tiếng Tiều. Đối với những người thuộc nhóm tuổi trung niên, mức độ sử dụng tiếng Tiều của họ giảm đi so với thế hệ thứ nhất nhưng họ vẫn giữ được khả năng giao tiếp ngôn ngữ Tiều do yêu cầu phải dùng tiếng Tiều để giao tiếp với các thành viên cịn lại trong gia đình. Ở thế hệ này, thời lượng sử dụng tiếng Tiều của họ trong giao tiếp vẫn được duy trì ở mức cao. Đối với lớp trẻ trong cộng đồng người Hoa hiện nay, tác động từ môi trường sống, các nhu cầu trong việc giao lưu học tập, đời sống thường nhật và phát triển xã hội đã ảnh hưởng rất lớn đến việc sử dụng ngơn ngữ mẹ đẻ của nhóm đối tượng này. Hiện nay, vẫn còn khoảng 90% gia đình vẫn cịn duy trì lệ chỉ nói ngơn ngữ Tiều trong gia đình, cịn những khi giao tiếp trong trường học, trong kinh doanh hoặc trong cộng đồng, họ sẽ ưu tiên sử dụng tiếng Việt. Nhóm tuổi này có mức độ sử dụng tiếng mẹ đẻ và tiếng Việt là 50:50, họ sẽ sử dụng tiếng mẹ đẻ trong gia đình, trong cộng đồng người Hoa và sẽ sử dụng tiếng Việt khi ra ngoài xã hội, khi có nhu cầu giao tiếp với các dân tộc khác.
</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">Phần lớn người Hoa ở thị xã Vĩnh Châu đều rất thành thạo trong việc nói tiếng Triều Châu, xét về khả năng đọc, viết chữ Hán thì có đến 48,2% số người được hỏi biết đọc, viết chữ Hán với các mức độ biết khác nhau. Tuy nhiên, mục đích học tập tiếng Hoa Phổ thơng của phần lớn lớp trẻ hiện nay chỉ vì công việc sau này, biết thêm tiếng Hoa phổ thông sẽ có lợi hơn trong việc tìm kiếm một cơng việc tốt. Chính vì thế, hiện nay thời gian sử dụng tiếng Tiều của lớp trẻ trong cộng đồng người Hoa ở thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng đã ít lại càng ít hơn, do phải phân chia với nhiều thứ tiếng khác. Do đó, người Hoa ở đây, đặc biệt là những người lớn tuổi, có trình độ học vấn, lo lắng thế hệ con cháu họ sau này sẽ khơng nói được tiếng mẹ đẻ, vì thế hệ của họ qua đi thì chẳng cịn lại bao nhiêu người biết tiếng mẹ đẻ. Song, có một điều đáng mừng cho cộng đồng người Hoa ở đây là hiện nay ở thị xã Vĩnh Châu có đài phát thanh phát cả 3 thứ tiếng: Việt, Hoa (tiếng Triều Châu), Khmer, phát cùng một nội dung nhưng dịch ra 3 thứ tiếng, để mỗi dân tộc hiểu về tình hình kinh tế xã hội của địa phương bằng tiếng dân tộc của mình.<small>10</small>
Người Hoa ở thị xã Vĩnh Châu khơng chỉ sống xen kẽ với người Kinh mà cịn cộng cư với người Khmer từ bao đời nay nên đa số người Hoa ở lứa tuổi trưởng thành đều biết tiếng Khmer và chủ yếu là biết tiếng Khmer qua mơi trường tự nhiên, theo đó đã xuất hiện trạng thái song ngữ tự nhiên Hoa – Khmer. Động cơ của người Hoa biết tiếng Khmer là để hòa nhập cộng đồng và để thuận tiện trong làm ăn bn bán với người Khmer, vì dân số Khmer tại huyện Vĩnh Châu đông gấp đôi dân số người Hoa. Ngồi ra cịn do yếu tố quan hệ hơn nhân khác tộc giữa người Hoa và người Khmer cũng là một những lí do để người Hoa biết tiếng Khmer.
Như vậy, trải qua thời gian dài thích nghi với mội trường sống mới, giống như những tộc người thiểu số khác ở Việt Nam, người Hoa ở thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng hiện nay trên cơ bản có khả năng sử dụng 3 loại ngơn ngữ: ngơn ngữ tồn dân – tiếng Việt, ngơn ngữ dân tộc – tiếng Triều Châu và ngôn ngữ của người Khmer - tiếng Khmer.
Nhìn chung, người Hoa thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng vẫn cịn giữ gìn khá tốt ngơn ngữ của mình. Tuy nhiên, hiện nay phạm vi sử dụng tiếng Triều Châu chỉ cịn
<small>10</small><i><small> Hồng Quốc, Sự lựa chọn ngôn ngữ trong giao tiếp: Nghiên cứu trường hợp người Hoa ở huyện Vĩnh Châu, </small></i>
<i><small>tỉnh Sóc Trăng, Tạp chí Ngơn ngữ và Đời sống, số 5 (233) - 2014, tr.71 -78 </small></i>
</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32">được giới hạn trong phạm vi gia đình, sinh hoạt cộng đồng, xóm, ấp giữa những người đồng tộc và một số bối cảnh giao tiếp hạn chế (cầu cúng, tế lễ, ca hát). Đồng thời trong bối cảnh giao lưu, tiếp biến văn hóa với hai cộng đồng dân tộc khác ở khu vực là Kinh và Khmer cũng đã làm cho tiếng Triều Châu - thứ tiếng có địa vị cao trong gia đình của người lại trở thành một thứ tiếng ít được sử dụng trong đời sống xã hội. Do đó, cũng như ngơn ngữ của các dân tộc thiểu số khác, tiếng Triều Châu của cộng đồng người Hoa ở thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng rất cần được bảo tồn và phát triển như một nét bản sắc văn hóa.
Tóm lại trong phần này, chúng tôi đã khái quát được vấn đề thực trạng sử dụng ngôn ngữ của người Hoa tại nơi đây với các tần suất sử dụng khác nhau tùy thuộc vào từng đối tượng và từng hoàn cảnh. Tuy rằng hiện nay ngôn ngữ xã hội là tiếng Việt đang chiếm ưu thế, thế nhưng việc sử dụng tiếng Tiều trong các mơi trường sinh hoạt gia đình, cộng đồng được xuất hiện khá nhiều và còn lưu giữ được nhiều nét văn hóa – xã hội thơng qua các hoạt động sử dụng tiếng Tiều của người dân địa phương. Những điều này đã làm tiền đề giúp chúng tôi đi sâu vào việc mô tả các phương pháp bảo tồn ngôn ngữ của người dân địa phương thông qua các hoạt động xã hội, tại các điểm trường học và các nghị định khuyến học của nhà nước.
<b>Tiểu kết chương 1 </b>
Trong chương 1, chúng tôi đã trình bày một cách khái quát về nguồn gốc hình thành, những đặc điểm về khu vực sinh sống, về đời sống vật chất và tinh thần của cộng đồng người Hoa Triều Châu ở thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng. Qua đó, cung cấp một bức tranh tồn cảnh về đời sống văn hóa - xã hội cũng như tình hình lưu giữ những nét văn hóa tinh hoa dân tộc cho đến ngay này của cộng đồng người Hoa nơi đây.
Cùng với việc tìm hiểu về cộng đồng người Hoa Triều Châu nơi đây và để trang bị cho việc tìm hiểu về tình hình bảo tồn ngôn ngữ của họ, chúng tôi cũng đã đi sâu vào tìm hiểu việc sử dụng ngơn ngữ hiện nay của họ. Trong chương 1 này, nhóm tác giả đã trình bày một cách khái quát mức độ và không gian sử dụng tiếng mẹ đẻ của cộng đồng người Hoa nơi đây. Từ đó, cho thấy được một cách khái qt tình hình bảo tồn ngơn ngữ trong đời sống văn hóa - xã hội của cộng đồng người Hoa nơi đây vẫn còn diễn ra khá mạnh mẽ, tuy nhiên lại bị hạn chế về mặt không gian.
</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">Như vậy, trong chương 1 nhóm thực hiện đã trình bày hệ thống cơ sở lý luận làm tiền đề để phục vụ cho q trình tìm hiểu tình hình bảo tồn ngơn ngữ hiện nay cũng như những hình thức bảo tồn ngơn ngữ của cộng đồng người Hoa ở thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng đang được diễn ra trên hai bình diện chủ yếu là văn hóa và giáo dục.
</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34"><b>CHƯƠNG 2: TÌNH HÌNH BẢO TỒN NGƠN NGỮ TRÊN BÌNH DIỆN VĂN HÓA </b>
Cộng đồng người Hoa Triều Châu ở thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng là một cộng đồng bảo tồn rất tốt ngôn ngữ riêng của dân tộc mình. Các hoạt động bảo tồn ngôn ngữ của họ luôn xuất hiện trong các sinh hoạt hằng ngày của đời sống. Đặc biệt là trong những dịp lễ hội quan trọng hay trong hoạt động thờ cúng của cộng đồng người Hoa nơi đây, chúng ta ln nhìn thấy dù ít hay nhiều các hoạt động giữ gìn ngơn ngữ dân tộc. Họ ln cố gắng bảo tồn ngơn ngữ dân tộc mình trên cả hai phương diện là chữ viết và tiếng nói trong các hoạt động của đời sống.
<b>2.1. Trong hoạt động tín ngưỡng </b>
Đối với cộng đồng người Hoa, các hoạt động liên quan đến tín ngưỡng truyền thống là một việc rất thiêng liêng và đóng vai trị quan trọng trong đời sống tinh thần của họ. Chính vì vậy, trong các hoạt động thờ cúng, người Hoa tại thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng đã lưu lại khá nhiều những chất liệu màu mỡ mang đậm bản sắc dân tộc. Việc chỉ sử dụng ngôn ngữ dân tộc trên các vật liệu thờ cúng như các câu đối liễn, lá xăm,... là một phương thức bảo tồn ngôn ngữ bằng chữ viết được người dân nơi đây lưu truyền qua nhiều thế hệ và khơng có dấu hiệu bị hịa lẫn với các văn hóa ngoại lai. Trong phần này, chúng tôi sẽ giới thiệu các nét đặc trưng trong việc bảo tồn ngôn ngữ chữ viết (cũng chính là chữ Hán) qua các hoạt động thờ cúng tại gia và tại các cơ sở thờ tự cộng đồng để mơ tả tình hình bảo tồn ngơn ngữ đang diễn ra trên bình diện văn hóa.
<i><b>2.1.1 Trong gia đình </b></i>
Các hoạt động tín ngưỡng là một phần khơng thể thiếu trong đời sống văn hóa của người Hoa nói chung và cộng đồng người Hoa tại thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng nói riêng. Trong gia đình, cộng đồng người Hoa nơi đây vẫn ln sử dụng các vật dụng có chữ Hán để bày trí cho căn nhà của mình. Những vật trang trí có chữ Hán ln được để ở những nơi bắt mắt trong nhà như bàn thờ ở chính giữa căn nhà hay những câu đối liễn được dán hai bên cửa. Mặc dù chỉ là những chi tiết rất nhỏ trong cả căn nhà rộng lớn, thế nhưng thông qua đó có thể thấy được họ ln ý thức việc gìn giữ ngơn ngữ của mình. Thơng qua phương pháp điều tra phỏng vấn, chúng tơi khơng tìm thấy được chất liệu ngơn ngữ của các văn hóa khác trên các vật dụng trong gia đình người Hoa. Từ đó, có
</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35">thể thấy được việc bảo tồn ngơn ngữ chữ viết qua các vật trang trí trong nhà vẫn còn được lưu giữ mạnh mẽ, chưa có dấu hiệu bị mai một.
<i>Hình 8: Cách bài trí bàn thờ phổ biến của một hộ gia đình người Hoa </i>
(Nguồn: Nhóm tác giả)
Đầu tiên nhóm tác giả sẽ khái quát các vấn đề xung quanh cách bày trí trên bàn thờ của các hộ gia đình người Hoa tại địa phương. Phần lớn họ theo tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên. Đồng thời họ cịn rất coi trọng việc bày trí trên bàn thờ. Thơng thường họ sẽ chia bàn thờ hai phần chính là thờ Tổ và thờ Thần. Đặc biệt, họ sử dụng rất nhiều chữ Hán trên các vật dụng bày trí bàn thờ.
Đối với bàn thờ Tổ, họ sẽ đặt ở vị trí chính diện, trên đó được đặt một bức liễn màu đỏ đề chữ “祖” hoặc là “祖堂” - nghĩa là tổ/tổ đường để thờ cúng ông bà. Phía bên phải sẽ là bàn thờ Thần, trên đó họ cũng đặt một bức liễn màu đỏ ghi chữ “神”- có nghĩa là thần, dành cho việc thờ cúng các vị thần theo tín ngưỡng của người dân địa phương. 100% gia đình người Hoa trên địa bàn mà nhóm tác giả có cơ hội tiếp xúc đều có bàn thờ viết bằng chữ Hán. Ngồi ra, hai bên phần chữ trung tâm của bức liễn sẽ có hai câu đối liễn được ghi bằng chữ Hán. Ý nghĩa của các câu đối liễn này khơng có sự đồng nhất, đa phần mang các hàm ý như cầu mong cuộc sống trường thọ, tài lộc, gia đạo bình an.
</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36"><i>Hình 9: Bức liễn ghi chữ “</i>神<i>” (Thần) và hai câu đối liễn hai bên trên bàn thờ của một người dân địa phương </i>
(Nguồn: Nhóm tác giả)
<i>Hình 10: Bức liễn ghi chữ “</i>祖<i>” (Tổ) và hai câu đối liễn hia bên trên bàn thờ của một người dân địa phương </i>
(Nguồn: Nhóm tác giả)
</div><span class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37"><i>Hình 11: Bức liễn ghi chữ “</i>祖堂<i>” (Tổ đường) và hai câu đối liễn hai bên trên bàn thờ của một người dân địa phương </i>
(Nguồn: Nhóm tác giả)
Tiếp theo là cách trang trí của các hộ gia đình người Hoa tại địa phương, họ thường dùng những vật dụng màu đỏ và có chữ Hán trang trí bên trên như các câu đối liễn, lồng đèn đỏ,... hoặc sử dụng những câu đối trắng khi nhà có tang sự. Khi người Hoa di cư sang các vùng lãnh thổ ở Việt Nam, cụ thể là cộng đồng người Hoa tại thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng, họ vẫn bảo lưu được nét văn hóa đặc trưng này.
<i>Hình 12: Câu đối liễn được sử dụng trong nhà (</i>心想事成家運興<i> - Tâm tưởng sự thành gia vận hưng - Tạm dịch: Cầu mong vạn sự như ý, gia đì nh may mắn) </i>
(Nguồn: Nhóm tác giả)
Đây được xem như là một vật trang trí mang hàm ý chúc phúc, những lời hay ý đẹp hướng con người đến với chân, thiện, mỹ bằng những câu đối chữ Hán được viết thư pháp nắn nót, tinh xảo trên nền giấy đỏ. Họ thường treo những câu đối liễn tại hai
</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38">bên cửa nhà. Nội dung của những câu đối liễn này thường rõ ràng, súc tích, ý tứ cô đọng nhưng vẫn biểu đạt được tâm tư nguyện vọng, tình cảm của con người một cách khách quan nhất ví dụ như mong cầu sự phú quý bình an, cuộc sống trường thọ, con cháu hịa thuận, gia đình hạnh phúc.
Ví dụ như các nội dung như“作婦須知勤儉好, 治家應教子孫賢” (Tác phụ tu tri cần kiệm tảo, Trị gia ưng giáo tử tôn hiền. Tạm dịch “Làm vợ nên hay cần kiệm giỏi, Trị nhà phải dạy cháu con hiền.”), “德承先祖千年盛, 福荫兒孙百世荣” (Đức thừa tiên tổ thiên niên thịnh, Phúc ấm nhi tôn bách thế gia. Tạm dịch “Tổ tiên tích đức ngàn năm thịnh, con cháu nhờ ơn vạn đại vinh), “天長地久心相印,花好月圓情永結”(Thiên trường địa cửu tâm tương ấn, Hoa hảo nguyệt viên tình vĩnh kết. Tạm dịch: Cầu mong tình yêu mãi trường tồn theo thời gian),... Và còn nhiều các nội dung đa dạng khác nhau thể hiện các ý nguyện cầu mong cho gia chủ.
<i>Hình 13: Cặp câu đối liễn được sử dụng trong gia đình (</i>年年順景福星到<i>, </i>歲歲平安
<i>Gia đình mọi năm đều gặp nhiều thuận lợi, bình an, may mắn và hạnh phúc)</i>
(Nguồn: Nhóm tác giả)
Cách bài trí trong nhà và trên bàn thờ cúng gia tiên của người Hoa có thể minh chứng cho việc bảo tồn ngôn ngữ chữ viết vẫn cịn trong giai đoạn mạnh mẽ. Vì khi cịn chữ viết thì vẫn có khả năng lưu giữ văn hóa dân tộc. Mặc dù hiện nay, 85% thế hệ thứ hai, ba của cộng đồng người Hoa Triều Châu có những hạn chế trong việc hiểu rõ ý nghĩa của các chữ trên bàn thờ và các câu đối liễn thế nhưng họ vẫn giữ được ý thức trong việc trang trí nhà cửa theo cái cách cha ơng của họ đã làm từ bao đời nay.
</div><span class="text_page_counter">Trang 39</span><div class="page_container" data-page="39"><i>Hình 14: Bàn thờ Thần của một hộ gia đình người Hoa gần khu vực chợ Vĩnh Châu </i>
(Nguồn: Nhóm tác giả)
Ngồi việc bảo tồn ngơn ngữ bằng cách gìn giữ hình thức bày trí liễn và câu đối liễn tiếng Hoa, người dân địa phương cịn sử dụng chất liệu ngơn ngữ dân tộc để khấn vái trong khi thờ cúng. Cũng giống việc sử dụng tiếng Tiều để giao tiếp, người Hoa sẽ dùng ngôn ngữ này để cầu xin khi thờ cúng ông bà. Điều này sẽ tạo thêm không gian sử dụng cho ngôn ngữ Tiều dẫn đến việc bảo tồn ngôn ngữ có nhiều điều kiện để phát triển.
Tóm lại, cách người Hoa bảo tồn ngôn ngữ mẹ đẻ của họ thông qua việc thờ cúng tại nhà vẫn cịn trong giai đoạn bảo lưu mạnh mẽ, chưa có dấu hiệu hịa lẫn văn hóa của người Kinh và người Khmer trong khu vực, được thể hiện qua bàn thờ gia tiên nói chung và các chất liệu trang trí thờ cúng nói riêng. Ngồi ra, cách bài trí truyền thống thì cộng đồng người Hoa nơi đây vẫn sử dụng ngơn ngữ Tiều của mình trong các hoạt động khấn vái và dùng chữ Hán trên các vật dụng thờ cúng. Chính vì vậy, ngơn ngữ ở đây đã phát huy được vai trò chất truyền dẫn những nét văn hóa đặc trưng thơng qua chữ viết (chữ Hán) và những lời cầu khấn bằng tiếng Tiều. Điều này dẫn đến khả năng lưu truyền tục thờ cúng và ngôn ngữ dân tộc tại địa phương được giữ vững và phát triển qua các thế hệ sau.
</div><span class="text_page_counter">Trang 40</span><div class="page_container" data-page="40"><i><b>2.1.2. Trong các cơ sở thờ tự cơng cộng </b></i>
Tín ngưỡng thờ cúng dân gian là sự sùng bái và thờ cúng các vị thần dân gian. Tín ngưỡng thờ cúng dân gian phổ biến trong các cộng đồng người Hoa trên cả nước và người Hoa Triều Châu ở thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng cũng không ngoại lệ. Người Hoa Triều Châu ở thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng tơn thờ các vị thần linh dân gian mà họ gọi một cách thân thiết là Ông và Bà. Việc thờ Ông và Bà của người Hoa không chỉ đơn thuần là tín ngưỡng dân gian, mà trong đó cịn pha lẫn các hình thức của Đạo giáo, Phật giáo và cả tư tưởng Nho gia. Họ thờ các vị thần này ở các cơ sở thờ tự do cộng đồng người Hoa trên địa bàn cùng nhau xây dựng nên, có người được phân cơng trơng nom và quản lý bài bản. Nhóm tác giả đã tiến hành khảo sát hai cơ sở thờ tự là Thanh Minh Cổ Miếu (清明古廟) mà cộng đồng người Hoa nơi đây gọi là chùa Ông và Thiên Hậu Cổ Miếu (天後古廟) mà cộng đồng người Hoa nơi đây gọi là chùa Bà nằm ở phường 1, thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng.
<i>Hình 15: Chùa Ơng Bổn (Phước Đức Chánh Thần) </i>
(Nguồn: Nhóm tác giả)
Qua các cuộc khảo sát thực tế, chúng tơi nhìn thấy được tại các ngơi chùa thờ Ông và Bà, chữ Hán xuất hiện và tồn tại với tần suất cao. Tại các cơ sở thờ tự này có thể thấy, ngay từ khi đặt chân vào cổng chùa, ngôn ngữ của họ xuất hiện trên bảng tên chùa và các câu đối trước cửa. Trên bàn thờ của các vị thần trong chùa Ông Bổn, bao gồm bàn thờ chính của Phước Đức Chánh Thần (福德正神) và bàn thờ của các vị thần phối tự, tên các vị thần đều được thể hiện bằng chính ngơn ngữ mẹ đẻ của họ. Có nhiều
</div>