Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.32 MB, 88 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">
<b>TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC </b>
</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2"><b>TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC </b>
<b>TRẦN MINH TIẾN </b>
<b>THỰC TRẠNG NUÔI CON BẰNG SỮA MẸ HOÀN TOÀN CỦA BÀ MẸ CÓ CON DƯỚI 2 TUỔI ĐẾN KHÁM VÀ ĐIỀU TRỊ </b>
<b>TẠI BỆNH VIỆN TRUNG ƯƠNG THÁI NGUYÊN </b>
<b>Chuyên ngành: Nhi khoa Mã số: 8.72.01.06 </b>
<b>LUẬN VĂN THẠC SĨ Y HỌC </b>
<b>NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. Nguyễn Thị Xuân Hương </b>
<b>Thái Nguyên – 2022 </b>
</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">Tôi là Trần Minh Tiến học viên lớp Cao học khóa 24, chuyên ngành Nhi khoa, trường Đại học Y Dược Thái Nguyên xin cam đoan:
1. Bản luận văn này do cá nhân em trực tiếp thực hiện dưới sự hướng dẫn của TS Nguyễn Thị Xuân Hương.
2. Cơng trình này khơng trùng lặp với bất kỳ nghiên cứu nào khác đã được công bố tại Việt Nam.
2. Các số liệu và kết quả trình bày trong nghiên cứu này là hồn tồn chính xác, trung thực và khách quan, đã được xác nhận và chấp nhận của cơ sở nơi nghiên cứu.
Tơi xin hồn tồn chịu trách nhiệm về những cam kết này.
<i>Thái Nguyên, tháng 10 năm 2022 </i>
<b>Người viết cam đoan </b>
<b>Trần Minh Tiến </b>
</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">Trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu để hoàn thành luận văn, tôi đã nhận được sự dạy bảo tận tình của các thầy cô, sự giúp đỡ của các bạn đồng nghiệp, sự động viên to lớn của gia đình và người thân.
Trước tiên, tôi xin trân trọng cảm ơn Ban Giám hiệu, Phịng Đào tạo, Bộ mơn Nhi khoa, Trường Đại học Y Dược Thái Nguyên đã tận tình giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi cho tơi trong q trình học tập và nghiên cứu.
Tơi xin bày tỏ lịng biết ơn sâu sắc tới TS Nguyễn Thị Xuân Hương đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ trong suốt thời gian nghiên cứu và hồn thành luận văn.
Tơi xin cảm ơn các Thầy Cô giáo bộ môn Nhi, cùng toàn thể giảng viên trường Đại học Y Dược Thái Nguyên đã tận tình truyền đạt cho tôi những kiến thức quý báu và giúp đỡ tơi hồn thành nhiệm vụ học tập của mình.
Tơi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến Ban Giám đốc Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên, tập thể Trung tâm Nhi khoa Bệnh viện trung ương Thái Nguyên đã luôn tạo điều kiện thuận lợi để tôi học tập và nghiên cứu.
Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn tới gia đình, đồng nghiệp, bạn bè là những người ln bên cạnh đã khuyến khích, động viên, chia sẻ và giúp đỡ tôi trong suốt q trình học tập, nghiên cứu cũng như trong cơng việc và cuộc sống.
<b>Tác giả </b>
<b>Trần Minh Tiến </b>
</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5"><b> Từ viết tắt Từ nghĩa Tiếng Anh Từ nghĩa Tiếng Việt </b>
CSSK Chăm sóc sức khỏe NCBSM Nuôi con bằng sữa mẹ
NCBSMHT Ni con bằng sữa mẹ hồn tồn
</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6"><b>ĐẶT VẤN ĐỀ</b><small> ... </small>1
<b>Chương 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU</b><small> ... </small>3
1.1. Tầm quan trọng của việc ni con bằng sữa mẹ hồn tồn<small> ... </small>3
1.2. Tỷ lệ bú sữa mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu<small> ... </small>10
1.3. Những yếu tố liên quan đến ni con bằng sữa mẹ hồn tồn trong 6 tháng đầu<small> .. </small>12
<b>Chương 2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU</b><small> ... </small>20
2.1. Đối tượng nghiên cứu<small> ... </small>20
2.2. Thời gian nghiên cứu<small> ... </small>20
2.3. Địa điểm nghiên cứu<small> ... </small>20
2.4. Phương pháp nghiên cứu ... 20
2.5. Xử lý và phân tích số liệu<small> ... </small>28
2.6. Sai số và cách khống chế sai số trong nghiên cứu<small> ... </small>29
2.7. Đạo đức trong nghiên cứu<small> ... </small>29
<b>Chương 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU</b><small> ... </small>30
3.1. Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu<small> ... </small>30
3.2. Tỷ lệ NCBSM hoàn toàn của các bà mẹ có con dưới 2 tuổi<small> ...</small>32
3.3. Mối liên quan giữa thực hành NCBSM hoàn toàn với các đặc tính của bà mẹ, đứa trẻ, kiến thức của mẹ và nguồn thông tin<small> ... </small>43
<b>Chương 4. BÀN LUẬN</b><small> ... </small>48
4.1. Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu ... 48
4.2. Tỷ lệ ni con bằng sữa mẹ hồn toàn<small> ... </small>49
4.3. Một số yếu tố liên quan đến NCBSM hồn tồn của các bà mẹ có con dưới 24 tháng đến khám và điều trị tại Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên<small> ... </small>57
4.4. Hạn chế của nghiên cứu<small> ... </small>62
<b>KẾT LUẬN</b><small> ... 63 </small>
<b>KHUYẾN NGHỊ</b><small> ... </small>64
<b>TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC </b>
</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">Bảng 3.1. Đặc điểm chung của bà mẹ tham gia nghiên cứu... 30
Bảng 3.2. Thông tin tiền sử cuộc đẻ<small> ... </small>31
Bảng 3.3. Đặc điểm chung của trẻ tham gia nghiên cứu ... 31
Bảng 3.4. Tỷ lệ ni con bằng sữa mẹ hồn tồn theo tháng tuổi của trẻ<small> ... </small>32
Bảng 3.5. Tỷ lệ nuôi con bằng sữa mẹ hồn tồn theo giới tính trẻ<small> ... </small>32
Bảng 3.6. Tỷ lệ ni con bằng sữa mẹ hồn tồn theo dân tộc mẹ<small> ... </small>33
Bảng 3.7. Tỷ lệ NCBSM theo cân nặng khi sinh của trẻ ... 33
Bảng 3.8. Tỷ lệ NCBSM hoàn toàn theo nghề nghiệp của bà mẹ<small> ... </small>34
Bảng 3.9. Tỷ lệ NCBSM hoàn toàn theo nhóm tuổi của bà mẹ<small> ... </small>34
Bảng 3.10. Tỷ lệ NCBSM hồn tồn theo trình độ học vấn của bà mẹ<small> ... </small>35
Bảng 3.11. Tỷ lệ NCBSM hoàn toàn theo kinh tế hộ gia đình<small> ... </small>35
Bảng 3.12. Kiến thức về NCBSM hoàn toàn trong 6 tháng đầu của bà mẹ ... 36
Bảng 3.13. Tỷ lệ thực hành đúng NCBSM hoàn toàn trong 6 tháng đầu của bà mẹ<small> ... </small>38
Bảng 3.14. Nguồn thơng tin về NCBSM hồn tồn trong 6 tháng đầu<small> ... </small>39
Bảng 3.15. Nguồn thông tin về sữa bột<small> ... </small>40
Bảng 3.16. Lý do khơng NCBSM hồn toàn trong 6 tháng đầu của bà mẹ ... 40
Bảng 3.17. Những khó khăn trong việc NCBSM của bà mẹ<small> ... </small>41
Bảng 3.18. Người khuyến khích và người có ảnh hưởng đến NCBSM của bà mẹ<small> ... </small>42
Bảng 3.19. Mối liên quan giữa NCBSM hoàn toàn và đặc điểm của bà mẹ<small> ... </small>43
Bảng 3.20. Mối liên quan giữa NCBSM hoàn toàn với đặc điểm của trẻ<small> ... </small>45
Bảng 3.21. Mối liên quan giữa NCBSM hoàn toàn với kiến thức chung đúng<small>.... </small>46
Bảng 3.22. Mối liên quan giữa NCBSM hoàn toàn với người khuyến khích, người ảnh hưởng, tư vấn sau sinh của nhân viên y tế<small> ... </small>46
Bảng 3.23. Mối liên quan giữa NCBSM hoàn toàn với tiếp cận nguồn thông tin<small> ... </small>47
Bảng 3.24. Mối liên quan giữa NCBSM hồn tồn với những khó khăn của bà mẹ khi NCBSM hoàn toàn<small> ... </small>47
</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">Biểu đồ 3.1. Tổng điểm kiến thức chung về NCBSM<small> ... </small>37Biểu đồ 3.2. Tổng điểm thực hành NCBSM HT trong 6 tháng đầu của các bà mẹ<small>... </small>39
</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9"><b>ĐẶT VẤN ĐỀ </b>
Nuôi con bằng sữa mẹ (NCBSM) là phương pháp nuôi dưỡng tự nhiên mang lại lợi ích tối ưu nhất cho sự sống còn, lớn lên và phát triển của trẻ. Bú mẹ là cách tốt nhất và an tồn nhất để ni dưỡng trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ. Sữa mẹ là thực phẩm hoàn chỉnh cho trẻ nhỏ đặc biệt trong 6 tháng đầu, bảo vệ hệ miễn dịch cho trẻ, cung cấp cho trẻ nhỏ một sự khởi đầu toàn diện trong cuộc sống [2], [4], [31].
Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) và Quỹ Nhi đồng Liên hợp Quốc (UNICEF) khuyến cáo cho trẻ bú mẹ sớm trong vòng 1 giờ đầu sau sinh, bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu, tiếp tục cho ăn bổ sung hợp lý và duy trì bú sữa mẹ đến 24 tháng tuổi bảo đảm sự tăng trưởng và phát triển thể chất, tinh thần và trí tuệ của trẻ. Đặc biệt, trẻ được bú sữa mẹ ít bị tiêu chảy, nhiễm khuẩn hơ hấp và có khả năng sống sót cao gấp 14 lần so với trẻ không được bú sữa mẹ [1], [31], [35]. Mặc dù lợi ích của NCBSM, đặc biệt là cho con bú sớm và bú mẹ hoàn toàn đã được rất nhiều nghiên cứu khẳng định nhưng tỷ lệ NCBSM hoàn toàn trong 6 tháng đầu hiện nay khá thấp ở nhiều quốc gia trong đó có Việt Nam [41], [60]. Một thống kê năm 2018 cho thấy có khoảng 48% trẻ sơ sinh được bú mẹ trong giờ đầu tiên [41]. Chỉ 41% trẻ sơ sinh được bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu đời theo khuyến nghị, tỉ lệ này cao ở các nước kém phát triển như Rwanda (86,9%), Burundi (82,3%), Sri Lanka (82%), Quần đảo Solomon (76,2%). Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng tỉ lệ được bú mẹ hoàn toàn ở trẻ em nông thôn cao hơn ở thành thị [60]. Ở các nước có thu nhập trên trung bình tỷ lệ cho trẻ bú hồn tồn bằng sữa mẹ trong 6 tháng đầu cịn thấp (năm 2012: 28,7%, năm 2018: 23,9%) [60].
Ở Việt Nam, theo báo cáo của Viện Dinh Dưỡng năm 2014, tỷ lệ trẻ được bú mẹ trong vòng 1 giờ sau sinh là 57,8%, bú đến 24 tháng là 15,2 %, trong khi tỉ lệ trẻ dưới 6 tháng bú bình cịn cao [25]. Chiến lược Quốc gia về dinh dưỡng giai đoạn 2011 -2020 và tầm nhìn đến năm 2030 đã đề ra chỉ tiêu
</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">gia tăng tỷ lệ bú sữa mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu đạt 35% vào năm 2030 [3]. Để đạt được chỉ tiêu này, các chương trình can thiệp muốn hiệu quả cần tập trung giải quyết các rào cản ảnh hưởng đến việc NCBSM hoàn tồn. Có nhiều ngun nhân dẫn đến tình trạng NCBSM hồn tồn trong 6 tháng đầu khơng được cải thiện. Các yếu tố về chủng tộc, khu vực sống, văn hóa, tơn giáo, trình đơ ̣học vấn, điều kiện kinh tế và áp lực của gia đình có ảnh hưởng tới việc NCBSM [6], [13].
Thái Nguyên là một tỉnh miền núi phía Bắc, có mức thu nhập bình qn trên đầu người còn thấp so với các tỉnh lân cận; trên tồn tỉnh có 9 dân tộc anh em chung sống với nhiều nét phong tục tập quán khác nhau. Hằng năm Trung tâm Nhi Khoa – Bệnh viện Trung Ương Thái Nguyên đón tiếp một số lượng lớn trẻ trong và ngồi tỉnh đến khám và điều trị, có nhiều bà mẹ cho trẻ ăn bổ sung sớm. Câu hỏi đặt ra rằng : tỷ lệ NCBSM hoàn toàn trong 6 tháng đầu ở đây ra sao? Những yếu tố nào ảnh hưởng đến việc NCBSM hoàn toàn trong 6 tháng đầu? Để trả lời cho những câu hỏi này chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài :
<b>“Thực trạng ni con bằng sữa mẹ hồn tồn của bà mẹ có con dưới 2 tuổi đến khám và điều trị tại Bệnh viện Trung Ương Thái Nguyên’’, với 2 mục </b>
tiêu sau:
<i><b>1. Xác định tỷ lệ ni con bằng sữa mẹ hồn tồn của các bà mẹ có con dưới 24 tháng đến khám và điều trị tại Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên năm 2021- 2022. </b></i>
<i><b>2. Phân tích một số yếu tố liên quan đến việc ni con bằng sữa mẹ hồn tồn của các bà mẹ nêu trên. </b></i>
</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11"><b>Chương 1. </b>
<b>TỔNG QUAN TÀI LIỆU </b>
<i><b>1.1. Tầm quan trọng của việc ni con bằng sữa mẹ hồn tồn 1.1.1. Một số khái niệm về nuôi con bằng sữa mẹ </b></i>
- NCBSM: là đứa trẻ được nuôi dưỡng trực tiếp bằng bú mẹ hoặc gián tiếp do sữa mẹ vắt ra [2], [4], [27], [31].
- Sữa non: Vài ngày đầu tiên sau đẻ, vú mẹ tiết ra sữa non. Sữa non có màu vàng và sánh hơn sữa về sau. Trong sữa non có rất nhiều chất đạm, Vitamin A và nhiều kháng thể hơn giúp cho trẻ chống lại hầu hết các vi khuẩn và siêu vi khuẩn. Sữa non chỉ tiết ra một lượng nhỏ [1], [2], [3], [4], [27], [31].
- Bú sớm: là trẻ sau khi được sinh ra và được bú mẹ ngay trong vòng một giờ đầu sau khi sinh [1], [2], [4], [27], [31].
- Bú mẹ hoàn toàn (BMHT): là trẻ chỉ bú sữa từ vú mẹ hoặc vú nuôi hoặc từ vú mẹ vắt ra. Ngồi ra khơng ăn bất kỳ một loại thức ăn dạng lỏng hay rắn khác trừ các dạng giọt, siro có chứa các vitamin, chất khống bổ sung, hoặc thuốc [1], [27], [31], [41].
- Bú mẹ là chủ yếu: là cách ni dưỡng trong đó nguồn dinh dưỡng chính là sữa mẹ. Tuy nhiên, trẻ có thể nhận được thêm nước uống đơn thuần hoặc một số thức ăn, đồ uống dạng lỏng như nước hoa quả, ORS, nước đường hoặc các loại thức ăn lỏng cổ truyền với số lượng ít [27], [31], [41].
- Ăn bổ sung: đứa trẻ vừa được bú sữa mẹ vừa được ăn thức ăn ở dạng đặc hoặc nửa đặc [27].
- Cai sữa: là ngừng không cho trẻ bú sữa mẹ, đây chính là sự chuyển giao vai trò cung cấp năng lượng và chất dinh dưỡng từ sữa mẹ (ở giai đoạn đầu) tới vai trò của các thực phẩm trong bữa ăn gia đình để kết thúc thời kỳ bú mẹ [27], [41].
</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12"><i><b>1.1.2. Thành phần cơ bản của sữa mẹ </b></i>
Trong những năm gần đây Việt Nam là một trong những nước được đánh giá có mức tăng trưởng kinh tế nhanh. Cùng với những thành tựu đó, tình trạng sức khỏe và dinh dưỡng của trẻ em cũng đã được cải thiện đáng kể [17]. Sữa mẹ
<i>là thức ăn hoàn chỉnh nhất, thích hợp nhất với trẻ vì có đủ năng lượng, đủ chất dinh dưỡng cần thiết (đạm, đường, mỡ, vitamin, muối khống) với tỷ lệ thích hợp cho sự hấp thu và phát triển của trẻ, tránh suy dinh dưỡng hoặc tăng cân </i>
quá mức [11].
<i>- Lipid: Sữa mẹ có các acid béo cần thiết như acid linoleic, là một acid cần thiết cho sự phát triển hệ thần kinh của trẻ nhỏ, mắt và sự bền vững của </i>
mạch máu của trẻ. Lipid của sữa mẹ dễ tiêu hóa hơn vì có men lipase [11].
<i>- Lactose: Trong sữa mẹ có nhiều hơn trong sữa công thức, cung cấp thêm nguồn năng lượng. Một số lactose trong sữa mẹ vào ruột chuyển thành </i>
acid lactic giúp cho sự hấp thu calci và muối khoáng [17].
<i>- Vitamin: Sữa mẹ có nhiều Vitamin A hơn sữa cơng thức, vì vậy trẻ bú sữa mẹ sẽ đề phòng được bệnh khô mắt do thiếu Vitamin A. Các Vitamin khác trong sữa mẹ cũng đủ cung cấp cho trẻ trong 6 tháng đầu nếu bà mẹ </i>
được ăn uống và nghỉ ngơi đầy đủ [11].
<i>- Muối khống: nguồn calci và sắt trong sữa mẹ tuy ít hơn sữa công thức nhưng tỷ lệ hấp thu cao, do đó thỏa mãn nhu cầu hấp thu của trẻ nên trẻ được </i>
bú mẹ ít bị cịi xương và thiếu máu do thiếu sắt [17].
<i><b>1.1.3. Thành phần dinh dưỡng trong sữa non </b></i>
Sữa non của mẹ trong những ngày đầu chính là dưỡng chất quý giá mà bà mẹ nên dành cho con. Trong sữa non chứa nhiều thành phần dinh dưỡng quan trọng, đồng thời nhiều chất kháng khuẩn tăng cường miễn dịch cho trẻ. Bên cạnh đó, sữa non cịn có tác dụng sổ nhẹ giúp cho việc tống phân xu nhanh ngăn chặn vàng da ở giai đoạn trẻ sơ sinh [13].
</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">Trong thành phần sữa non đặc biệt chứa nhiều dinh dưỡng nên khơng loại sữa nào có thể thay thế được.
Sữa non của mẹ rất giàu chất đạm, kháng thể, vitamin A và bạch cầu. Đặc biệt, sữa non cung cấp một lượng lớn thành phần kháng thể tự nhiên, trong đó có IgG, IgA, IgE,... làm tăng hệ miễn dịch của trẻ cũng như bảo vệ đường tiêu hóa và phá hủy các tác nhân gây bệnh. Giúp trẻ tăng cường thể lực, phát triển khỏe mạnh.
Sữa non chứa ít lactose, chất béo (chỉ có 2g/100ml) và các vitamin tan trong nước hơn sữa bình thường. Ngược lại, nó chứa nhiều protein và các vitamin tan trong chất béo hơn, bao gồm vitamin A (cao gấp 2 lần sữa trưởng thành), vitamin E và vitamin K.
Ngồi ra, một số chất khống như sắt, kẽm và các dưỡng chất vi lượng cần thiết cho trẻ sơ sinh đều có nồng độ cao trong sữa non [2].
<i><b>1.1.4. Nhu cầu dinh dưỡng của trẻ dưới 6 tháng tuổi </b></i>
Nhu cầu n ă ng l ư ợ n g của trẻ đủ tháng, cân nặng lúc sinh bình thường nhìn chung được đáp ứng hoàn toàn bởi sữa mẹ trong 6 tháng đầu nếu bà mẹ có được tình trạng dinh dưỡng tốt.
Việc sản xuất sữa của người mẹ được điều chỉnh phù hợp theo nhu cầu của trẻ, bà mẹ sinh đôi sinh ba vẫn đủ sữa, khi nhu cầu của trẻ tăng thì việc sản xuất sữa cũng tăng theo trong vòng vài ngày, thậm chí trong vòng vài giờ. Mức tiêu thụ sữa mẹ của trẻ bú mẹ hoàn toàn tăng vào khoảng giữa tháng 3 đến tháng thứ 6, nếu trẻ ăn bổ sung sớm thì lượng này lại giảm đi. Việc tiết sữa là linh hoạt vì vậy bà mẹ tăng sản xuất sữa thông qua việc vắt sữa thường xuyên, và có khả năng cho bú lại sau khi đã dừng [26]. Theo một nghiên cứu của Black, R.E thì trên chỉ có 50% trẻ dưới 1 tháng tuổi và 30% trẻ từ 1 đến 5 tháng tuổi được bú mẹ hoàn toàn [35]. Tỉ lệ trẻ được bú mẹ sớm trong vòng một giờ đầu sau sinh cao nhất là khu vực Mỹ Latinh với tỷ lệ là 58%. Ở khu vực châu Phi và Châu Á có tỷ lệ là 50%, thấp nhất là khu vực
</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">Đông Âu với tỷ lệ trẻ được bú sớm là 36% [35]. Còn ở Việt Nam, theo tổng cục thống kê năm 2014 thì tỷ lệ ni con bằng sữa mẹ hoàn toàn tăng từ 17,4% lên 24,3% và 65,6% trẻ vẫn tiếp tục bú sữa mẹ khi được 12-15 tháng tuổi [20].
<i><b>1.1.5. Tầm quan trọng của nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu </b></i>
Những năm gần đây, tình trạng sức khỏe và dinh dưỡng của trẻ em trên toàn thế giới đã được quan tâm và cải thiện đáng kể. Vấn đề dinh dưỡng được quan tâm hàng đầu đó chính là chương trình nuôi con bằng sữa mẹ. Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc đã coi việc NCBSM là một trong bốn biện pháp quan trọng nhất để bảo vệ sức khỏe trẻ em, nó đáp ứng đủ nhu cầu dinh dưỡng của trẻ trong 6 tháng đầu đời [ 2 ] . Tổ chức Y tế Thế giới cũng khẳng định: Nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu có thể cải thiện sự tăng trưởng và phát triển, kết quả học tập và thậm chí cả khả năng thu nhập của trẻ trong tương lai. Đồng thời WHO cũng chỉ ra rằng việc NCBSM hoàn toàn trong 6 tháng đầu đời là cách tốt nhất phòng tránh tử vong cho trẻ em, ước tính có thể giảm hơn một triệu ca tử vong ở trẻ trên toàn Thế giới mỗi năm [ 1 ] , [ 2 7 ] , [ 3 1 ] . WHO khuyến cáo rằng các bà mẹ hãy cho con bú nhiều lần, bất kể khi nào trẻ đói, kể cả ban đêm, trẻ càng bú nhiều mẹ càng tiết nhiều sữa. Đặc biệt trong 6 tháng đầu trẻ chỉ cần bú sữa mẹ hoàn tồn mà khơng cần ăn thêm bất cứ loại thức ăn nào khác kể cả nước [1], [2], [27], [31]. Một trong những chỉ số đánh giá chất lượng nuôi dưỡng trẻ nhỏ bằng sữa mẹ là thực hành cho trẻ bú sữa mẹ sớm ngay trong vòng 1 giờ đầu sau khi sinh
<i><b> Lợi ích của bú sớm sau sinh </b></i>
Tất cả các tổ chức y tế lớn trên Thế giới đều khuyến cáo nuôi con bằng sữa mẹ là nguồn dinh dưỡng tối ưu cho trẻ sơ sinh, với khuyến nghị cho trẻ bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu đời. Sau 6 tháng thức ăn bổ sung có thể được
</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">giới thiệu. Hầu hết các tổ chức khuyến nghị cho con bú ít nhất một năm và Tổ chức Y tế Thế giới khuyến nghị tối thiểu là 2 năm và bắt đầu cho trẻ bú trong vòng 1 giờ đầu sau đẻ [1], [27], [31], [61].
+ Thời gian bắt đầu cho trẻ bú
Mẹ nên bắt đầu cho con bú trong vòng một giờ đầu sau đẻ, bú càng sớm càng tốt và không cần cho trẻ mới đẻ ăn bất kỳ thức ăn gì trước khi bú mẹ lần đầu. Một đứa trẻ đói thường bú nhiều hơn là những đứa trẻ đã no, nếu cho trẻ ăn những thức ăn khác trước khi bú, nó có thể làm cản trở sự tiết sữa và không đủ sữa nuôi con. Bú sớm giúp trẻ tận dụng được sữa non, là loại sữa tốt, hoàn hảo về dinh dưỡng và các chất sinh học thích ứng với cơ thể non yếu vừa ra đời của trẻ. Đồng thời, qua động tác bú của trẻ sẽ kích thích sữa mẹ tiết sớm hơn và nhiều hơn qua cung phản xạ Prolactin, giúp co hồi tử cung tốt ngay sau đẻ, hạn chế mất máu [11]. Theo báo cáo của WHO (2016): tỷ lệ trẻ được bú mẹ ngay trong 1 giờ đầu là 17,7% ở Peru, 60,9 % ở Nhật. Tỷ lệ các bà mẹ cho trẻ bú mẹ sớm trong 1 giờ đầu ở các nước Nepal, SriLanka và Cuba dao động quanh 90% [56]. Còn ở Việt Nam thì theo kết quả nghiên cứu tại Bệnh viện Đa khoa trung tâm Lạng Sơn năm 2017 trẻ được bú sớm trong vòng 1 giờ sau sinh là 64,1% [13].
+ Số lần cho bú
Trẻ càng bú nhiều thì sữa mẹ càng được bài tiết nhiều, số lần cho bú tùy theo nhu cầu của trẻ, hãy cho trẻ bú bất kỳ lúc nào trẻ muốn, ban đêm vẫn có thể cho trẻ bú nếu trẻ khóc địi ăn [2].
+ Thời gian cai sữa
Trẻ được bú mẹ càng lâu càng tốt. Cho trẻ bú mẹ hồn tồn trong 6 tháng đầu. Khơng nên cai sữa trước 12 tháng, mà nên cho trẻ bú kéo dài từ 18 đến 24 tháng. Khi trẻ bị bệnh, nhất là khi trẻ bị tiêu chảy cần cho trẻ bú nhiều hơn bình thường, khơng nên cai sữa vì trẻ dễ bị SDD [1], [6], [12].
</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16"><i><b>Nuôi con bằng sữa mẹ giúp trẻ phát triển tốt hơn </b></i>
Bú sữa mẹ, trẻ sẽ lớn nhanh, phòng được suy dinh dưỡng, giúp trẻ thông minh, không bị thiếu Vitamin, thiếu máu do thiếu sắt, không bị thiếu calci, phosphor [11]. Do thành phần và tính chất ưu việt như vậy nên NCBSM là biện pháp dinh dưỡng tối ưu cho trẻ.
<i><b>Nuôi con bằng sữa mẹ làm giảm tỷ lệ bệnh tật cho trẻ </b></i>
Năm 2018, chưa đến một nửa số trẻ sơ sinh trên toàn Thế giới (43%) được bú mẹ trong giờ đầu tiên sau sinh. Tiếp xúc da kề da ngay lập tức và bắt đầu cho bú sớm sẽ giữ ấm cho trẻ, xây dụng hệ thống miễn dịch của trẻ, thúc đẩy liên kết, tăng cường nguồn sữa mẹ và tăng khả năng trẻ có thể tiếp tục bú mẹ hồn tồn. Sữa mẹ khơng chỉ là thức ăn cho trẻ mà còn là liều thuốc mạnh để phòng chống bệnh tật phù hợp với nhu cầu của từng trẻ. Sữa non rất giàu kháng thể để bảo vệ trẻ sơ sinh khỏi bệnh tật và tử vong [41].
NCBSM là biện pháp nuôi dưỡng tự nhiên, tuyệt đối an toàn và hiệu quả. Trẻ sơ sinh được bú sữa mẹ sẽ giảm nguy cơ mắc bệnh viêm da dị ứng và viêm dạ dày ruột, đồng thời có chỉ số IQ cao hơn sau này [61].
Theo UNICEF năm 2006 trong số 10 triệu ca tử vong ở trẻ em dưới 5 tuổi được ghi nhận trong năm đó, có 4 triệu ca tử vong trong tháng đầu tiên sau sinh, một nửa số này trong vịng 24 giờ đầu. Vì suy dinh dưỡng làm tăng nguy cơ tử vong của trẻ do nhiều bệnh : nổi bật lên là bệnh sởi, viêm phổi và tiêu chảy là nguyên nhân cao nhất (70%) tử vong ở trẻ sơ sinh [51].
Bên cạnh những lợi ích của sữa mẹ đối với trẻ thì việc cho con bú cũng mang lại rất nhiều lợi ích và thuận tiện cho người mẹ. Những lợi ích cho bà mẹ khi cho con bú bao gồm giảm nguy cơ ung thư vú, ung thư buồng trứng, trầm cảm sau sinh, tăng huyết áp, bệnh tim mạch và đái tháo đường type 2 [61]. NCBSM gíúp cho bà mẹ chóng co hồi tử cung, tránh băng huyết sau đẻ. Khi trẻ bú sẽ kích thích hypothalamus sản xuất ra một hormone khác đó là oxytocin có tác dụng co các tế bào cơ ở xung quanh tuyến sữa gây nên phản
</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">xạ tiết sữa. Oxytocin cũng có tác dụng trên cơ tử cung, do đó nếu trẻ bú mẹ ngay lập tức sau đẻ, oxytocin sẽ được sản xuất và tác dụng lên tế bào cơ tử cung giúp cho việc cầm máu nhanh sau đẻ [36]. Một số nghiên cứu đã đánh giá tác dụng của prolactin đối với tim mạch, oxytocin không chỉ được xác định là chất quan trọng để tiết ra sữa mẹ mà gần đây cịn được chứng minh là có một số tác dụng có lợi trên hệ tim mạch như tác dụng hạ huyết áp, giãn mạch, tác dụng chống đái tháo đường, chống o xy hoá, ức chế viêm và giảm khối lượng chất béo. Nghiên cứu này còn cho thấy những phụ nữ đã có chồng từng cho con bú giảm nguy cơ phát triển bệnh tim mạch (11%), bệnh mạch vành (14%), đột quỵ (12%) và tử vong (17%) so với những phụ nữ có chồng khơng bao giờ cho con bú [57].
Cho con bú đòi hỏi một sự tiêu hao năng lượng từ 200 đến 500Kcal/ngày, tương đương với đạp xe đạp trong vòng 1 giờ. Điều này giúp bà mẹ giảm cân nhanh hơn sau sinh [4].
NCBSM làm chậm có thai và có kinh trở lại sau sinh. Lượng sắt mà bà mẹ dùng để tạo sữa ít hơn so với lượng sắt mất đi do hành kinh. Điều này cũng giúp hạn chế thiếu máu do thiếu sắt [4].
NCBSM có thể làm giảm nguy cơ ung thư buồng trứng và ung thư vú ở phụ nữ tiền mãn kinh [4].
Ngoài ra NCBSM giúp mẹ tiết kiệm hơn nhiều so với việc cho bé ăn bằng sữa cơng thức, vì chi phí thức ăn bổ sung cần thiết cho người mẹ không đáng kể so với chi phí khi mua sữa cơng thức cho bé. Điều này giúp mẹ tiết kiệm một khoản tiền để phục vụ cho nhu cầu cuộc sống hằng ngày của gia
<b>đình tốt hơn. </b>
Sữa mẹ ln có sẵn và ở nhiệt độ thích hợp, cho trẻ ăn ngay dù mùa đông hay mùa hè. Cho con bú sữa mẹ sẽ thuận lợi vì khơng phụ thuộc vào giờ giấc, không cần phải đun nấu, dụng cụ pha chế. Khi người mẹ ǎn uống đầy đủ, tinh thần thoải mái thì sẽ đủ sữa cho con bú [2], [11].
</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">Như vậy, NCBSM gắn liền với sự ra đời và trường tồn của nhân loại. Tạo hóa sinh ra con người và ban tặng nguồn sữa mẹ quý giá cho trẻ nhỏ. Sữa mẹ là nguồn dinh dưỡng tốt nhất đảm bảo sự sống còn và phát triển tối ưu cho trẻ nhỏ mà khơng có một loại thức ăn gì có thể thay thế được.
<b>1.2. Tỷ lệ bú sữa mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu </b>
<i><b>1.2.1. Trên Thế giới </b></i>
Từ lâu NCBSM đã được sự quan tâm ở nhiều nước trên Thế giới. Mặc dù NCBSM rất quan trọng để thúc đẩy sự tăng trưởng, phát triển và sức khỏe của trẻ sơ sinh, tuy nhiên, trên tồn cầu chỉ có 50% trẻ dưới 1 tháng tuổi và 30% trẻ từ 1 đến 5 tháng tuổi được bú mẹ hoàn toàn [35].
Theo báo cáo của WHO về bắt đầu sớm và cho con bú hồn tồn (2011), tỷ lệ NCBSM nói chung là 36% trên toàn cầu, trong khi tỷ lệ NCBSM thấp nhất được báo cáo ở Tây/ Trung Phi (20%) và tỷ lệ NCBSM cao nhất được tìm thấy ở Đơng Á/ Thái Bình Dương (43%) [62].
Ở các nước đang phát triển, tỷ lệ trẻ được bú mẹ hoàn toàn là 39% và tỷ lệ không được bú mẹ là 5,6%. Tỷ lệ trẻ được tiếp tục cho bú sữa mẹ ở trẻ 6 – 11 tháng và 12 – 23 tháng là 86% và 68% ở các nước đang phát triển [46].
Thực hành nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn trong sáu tháng đầu đời của trẻ sơ sinh là biện pháp can thiệp hiệu quả nhất để cung cấp dinh dưỡng cân bằng và ngăn ngừa tử vong và bệnh tật ở trẻ em. Theo một kết quả nghiên cứu ở Bangladesh thì tỉ lệ ni con bằng sữa mẹ trong 6 tháng đầu ở nước này là 35,9% [48]. Kết quả nghiên cứu này cao hơn so với tỷ lệ được báo cáo ở một số quốc gia khác như Ai Cập (9,7%) [29], Ấn Độ (Tamil Nadu, 34%) [54], Ả Rập Saudi (Al-Hassa, 24,4 %) [39] và Hoa Kỳ (16,8%) [43].
Theo báo cáo của WHO (1993): tỷ lệ trẻ được bú mẹ hoàn toàn trong 4 tháng đầu là 13% ở Srilanca, bú mẹ hoàn toàn ở thành thị thấp hơn ở nông thôn (7% và 14%). Ở Châu Âu đã có xu hướng tăng cường NCBSM. Tỷ lệ các bà mẹ NCBSM ở các nước Bungari, Đức, Hungari và Thụy Sỹ dao động
</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">quanh 90%. NCBSM ở các nước Tây Âu thấp hơn, ví dụ: 67% ở Anh, 50% ở Pháp, 35% ở Ireland còn ở Singapore là 21,1%[40].
Trong một nghiên cứu tại Anh cũng chỉ rõ NCBSM giảm dần trong 3 tháng đầu, sang tháng thứ 4 và 5 thì giảm đột ngột: 1 tháng (54,8%), 2 tháng (43,7%), 3 tháng (31%), 4 tháng (9,6%), 5 tháng (1,6%) [52].
Tỷ lệ trẻ dưới 6 tháng tuổi được bú mẹ hoàn toàn ở các nước đang phát triển tăng từ 33% năm 1995 lên 39% năm 2010. Tỷ lệ này gia tăng ở hầu hết các nước đang phát triển trên Thế giới, với sự cải thiện lớn nhất được thấy ở Tây và Trung Phi, nơi tỷ lệ NCBSM hoàn toàn tăng hơn gấp đôi từ 12 % năm 1995 lên 28% năm 2010. Đông và Nam Phi cũng thấy sự cải thiện tăng từ 35% năm 1995 lên 47% năm 2010. Những cải thiện khiêm tốn hơn đã được thấy ở Nam Á (40% năm 1995; 45% năm 2010) [37]. Ở khu vực Châu Á, tỉ lệ NCBSM hồn tồn có sự chênh lệch giữa các quốc gia. Các nước Triều Tiên, Mơng Cổ cũng có tỉ lệ khá cao lần lượt là 69% (2012) và 55% (2012). Trong khi đó, một số nước tỉ lệ ni con bằng sữa mẹ còn thấp hơn Thái Lan 12,3% (2012), Myanmar 23,6% (2009-2010) [63].
<i><b>1.2.2. Tại Việt Nam </b></i>
Tỷ lệ nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu đã có những chuyển biến tích cực, tăng từ 17,4% lên 24,3% và 65,6% trẻ vẫn tiếp tục bú sữa mẹ khi được 12-15 tháng tuổi [20]. Tuy vậy, nhưng tỷ lệ nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu vẫn còn rất thấp so với tỷ lệ chung của Thế giới và các nước trong khu vực. Nguyên nhân của thực trạng này có thể là do hoạt động truyền thông khuyến cáo nuôi con bằng sữa mẹ chưa thực hiện tốt, cùng với sự quảng cáo rầm rộ của sữa công thức, dẫn đến nhận thức sai lầm của bà mẹ trong việc nuôi dưỡng trẻ.
Cũng theo kết quả nghiên cứu của Vũ Hương Dịu về thực trạng NCBSM trong 6 tháng đầu của các bà mẹ tại 20 xã thuộc tỉnh Thái Nguyên cho thấy tỷ lệ số trẻ được bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu chiếm tỷ lệ khá cao 60,27% [6].
</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">Trẻ bú sữa mẹ sớm trong vòng 1 giờ đầu chiếm tỷ lệ 51,99%, số trẻ được ăn uống các thức ăn khác ngoài sữa mẹ là 45,58% [6].
Thời gian cho con bú trung bình là 14 tháng. Tỷ lệ trẻ 12 tháng tiếp tục được bú mẹ là 60%. Những nghiên cứu tương tự như trên còn được triển khai ở nhiều vùng sâu, vùng xa và vùng dân tộc thiểu số như: nghiên cứu của Phạm Văn Phú, Nguyễn Xuân Ninh và cộng sự ở 2 huyện Núi Thành và Thăng Bình tỉnh Quảng Nam cho thấy chỉ có 2/816 trẻ được nuôi bằng sữa mẹ hoàn toàn trong 4-6 tháng đầu. Tỷ lệ bà mẹ cho ăn, uống trước khi bú lần đầu cao (42,8%) [16]. Mai Thị Tâm có kết quả nghiên cứu về vấn đề thực hành nuôi con bằng sữa mẹ cho thấy tỷ lệ trẻ được bú mẹ sớm trong vòng 30 phút đầu sau sinh là 87,2, tỷ lệ trẻ bú trong vòng 6 giờ là 72,6%. Tỷ lệ trẻ được bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu là 21,6% [17]. Kết quả nghiên cứu của Mai Thị Nguyệt tại Bệnh viện Đa khoa trung tâm Lạng Sơn năm 2017 trẻ được bú sớm trong vòng 1 giờ sau sinh là 64,1% [13].
Thời gian cho con bú trung bình là 14 tháng. Tỷ lệ trẻ 12 tháng tiếp tục được bú mẹ là 60%. Nghiên cứu của Nguyễn Lân và Trịnh Bảo Ngọc đánh giá trên 322 trẻ tại huyện Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên lại cho biết chỉ có 44,4% trẻ được bú ngay trong vòng 1 giờ đầu sau sinh, 15,2% bà mẹ cho con bú sau 24 giờ và hơn 50% con trẻ ăn/ uống những thức ăn khác trước khi cho trẻ bú lần đầu [12].
<b>1.3. Những yếu tố liên quan đến nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu </b>
Nhiều nghiên cứu cho thấy việc NCBSM thành công hay không phụ thuộc vào nhiều yếu tố liên quan tới người mẹ, đứa trẻ và mơi trường xung quanh có thuận lợi hay khơng. Q trình NCBSM liên quan chặt chẽ với nghề nghiệp, dân tộc, trình độ học vấn của bà mẹ…Sự khác biệt của hệ thống chăm sóc sau đẻ như tăng cường gần gũi trẻ trong 24 giờ và cho trẻ bú sớm. Những yếu tố ảnh hưởng tiêu cực đến NCBSM gồm: việc tiếp cận với các
</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">sản phẩm sữa bột, việc người mẹ quay trở lại làm việc sớm...[6], [9], [11].
<i><b>1.3.1. Yếu tố về dân tộc, nghề nghiệp, trình độ học vấn của bà mẹ </b></i>
Nhiều nghiên cứu được tiến hành về các yếu tố ảnh hưởng đến tỉ lệ NCBSM. Trình độ học vấn và nghề nghiệp của các bà mẹ tỷ lệ nghịch với thực hành NCBSM trong nhiều nghiên cứu. Các bà mẹ mù chữ có tỷ lệ NCBSM cho trẻ cao hơn và tỷ lệ thực hành NCBSM đã giảm đáng kể khi trình độ học vấn của các bà mẹ tăng lên. Những phát hiện này phù hợp với những phát hiện của Al-Hassa, Ả Rập Saudi [39].
Một nghiên cứu ở Somalia cho thấy những bà mẹ không đi học và những bà mẹ đã học tiểu học ít có khả năng cho con bú sữa mẹ hoàn toàn cao hơn những bà mẹ học từ cấp 2 trở lên [42]. Những người sinh ra ở Hồng Kơng có trình độ học vấn thấp nhất có khả năng bắt đầu cho con bú thấp hơn 70% so với những người tham gia ở nhóm có trình độ học vấn cao nhất [47]. Còn ở Kenya những bà mẹ có trình độ trung học cơ sở hoặc đại học có nguy cơ ngừng cho con bú thấp hơn 40% so với những bà mẹ có trình độ trung học cơ sở; và những trẻ được cho là lớn hơn bình thường có nguy cơ bỏ bú trước 12 tháng tuổi thấp hơn 40% [49].
Ezzatk và cộng sự đã nghiên cứu trên 2994 trẻ em dưới 3 tuổi ở Kuwait thấy rằng tỷ lệ trẻ được nuôi bằng sữa mẹ ở những bà mẹ mù chữ (72,4%) hơn những bà mẹ có trình độ văn hóa cao (56,9%). Ở Newdelli tỷ lệ NCBSM cao hơn ở các bà mẹ có trình độ học vấn và điều kiện kinh tế thấp, trẻ ở những gia đình nghèo nhất thì được bú mẹ sớm sau khi đẻ hơn trẻ của những gia đình giàu nhất [45].
Khu vực sống, trình độ học vấn của mẹ cũng là một trong những yếu tố liên quan đến việc thực hành bú sớm sau sinh và NCBSM. Theo kết quả nghiên cứu của Vũ Hương Dịu tiến hành trên 20 xã thuộc tỉnh Thái Nguyên năm 2017 cho thấy các bà mẹ dân tộc Kinh có xu hướng cho trẻ bú mẹ hồn tồn trong 6 tháng đầu ít hơn các bà mẹ thuộc các dân tộc khác. Những bà mẹ
</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">nơng dân có tỷ lệ cho con bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu cao hơn các bà mẹ làm những nghề khác. Những bà mẹ có 2 con có tỷ lệ cho con bú mẹ hoàn toàn cũng cao hơn những bà mẹ đẻ con lần đầu [6].
Theo nghiên cứu của Mai Thị Nguyệt, các bà mẹ trình độ học vấn từ trung học phổ thông trở lên, bà mẹ là người dân tộc Kinh có thực hành cho con bú sớm sau sinh tốt hơn so với bà mẹ có trình độ học vấn thấp hơn và bà mẹ người dân tộc khác [13].
<i><b>1.3.2. Tình trạng kinh tế, văn hóa, xã hội </b></i>
Điều kiện kinh tế, văn hóa xã hội có ảnh hưởng rất lớn tới việc NCBSM và cho trẻ bú sớm trong một giờ đầu sau sinh. Một nghiên cứu được tiến hành để xác định yếu tố ảnh hưởng đến tỷ lệ NCBSM ở Mỹ cho thấy tỷ lệ NCBSM cao hơn ở các bà mẹ mù chữ và các bà mẹ có mức kinh tế xã hội thấp. Trẻ em ở các gia đình nghèo nhất được bắt đầu bú mẹ sau đẻ sớm hơn trẻ em ở các gia đình giàu nhất (89% và 7%), ngồi ra cịn cho thấy tỷ lệ NCBSM đến 3 – 6 tháng ở các gia đình nghèo thấp hơn nhưng tỷ lệ trẻ được bú mẹ 12 tháng lại cao nhất ở trẻ em gia đình nghèo. Các bà mẹ có địa vị, kinh tế xã hội cao hơn và với trình độ học vấn tốt hơn cho rằng trẻ cần được ăn sam sớm trước 4 tháng và cảm thấy việc NCBSM là cần thiết cho trẻ dưới 2 tuổi [38].
Thu nhập trung bình hàng tháng của gia đình là một yếu tố khác được tìm thấy theo thống kê liên quan đến việc nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn. Những bà mẹ có thu nhập hàng tháng từ 100 đô la -200 đơ la có khả năng cho con bú sữa mẹ hoàn toàn thấp hơn 65% so với những bà mẹ có thu nhập hàng tháng từ 400 đô la trở lên [42].
Tiếp cận phương tiện thông tin đại chúng cũng được chỉ ra là một yếu tố quan trọng liên quan đến thực hành NCBSM trong nghiên cứu này. Từ phân tích đơn giản, nghiên cứu cho thấy rằng những bà mẹ thường xuyên tiếp cận với các phương tiện thông tin đại chúng có mức độ tuân thủ thực hành NCBSM trong 6 tháng đầu đời của trẻ cao hơn những bà mẹ không tiếp
</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">cận. Trong một nghiên cứu gần đây, phương tiện thông tin đại chúng (đài hoặc truyền hình) được cho là nguồn thơng tin tốt thứ hai cho các bà mẹ về NCBSM (30,4%), chỉ sau các chuyên gia y tế (90,5%) [32].
Việt Nam vốn là đất nước có truyền thống NCBSM, với những phong tục tập quán hình thành từ ngàn đời ăn sâu vào tiềm thức, chi phối lối sống, cách thức chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ sơ sinh. Ngày nay khi đất nước đang trong thời kỳ đổi mới, nhiều tác giả đã đề cập đến q trình đơ thị hóa đến cùng những thay đổi trong lối sống, định hướng giá trị và mơ hình ứng xử của con người đơ thị, những hiểu biết về dinh dưỡng, chăm sóc bà mẹ trẻ em được áp dụng tốt hơn. Nhưng cùng với đó là gánh nặng cơng việc khi phụ nữ tham gia sản xuất kinh tế ảnh hưởng không nhỏ đến chăm sóc trẻ sau sinh. Một mặt khác của cơ chế thị trường là hàng hóa cơng nghiệp gia tăng nhanh hơn so với sản phẩm nhà nơng, mà 1 ví dụ điển hình là sữa cơng nghiệp. Một quan sát của các chuyên gia y tế Thụy Điển tại Hà Nội (tháng 12 năm 1994) cho thấy có ít nhất 25 mặt hàng sữa khác nhau được bày bán tại các cửa hàng bán lẻ với chủ yếu là sữa ngoại so với năm 1992 chỉ có 15 loại và tính đến đầu năm 2009, Hội tiêu chuẩn và bảo vệ người tiêu dùng cho biết ước tính hiện nay có khoảng 120 nhãn sữa với mẫu mã, giá thành, chất lượng khác nhau được cung cấp bởi nhiều nguồn khác nhau như: công ty tư nhân, nhà nước, liên doanh, trong nước, nhập khẩu [24]. Với hàng loạt quảng cáo hấp dẫn, các chiến lược tiếp thị, hậu đãi chu đáo, các hãng sữa công nghiệp đã ảnh hưởng không nhỏ đến tâm lý của các bà mẹ khi chọn sữa nuôi con.
<i><b>1.3.3. Độ tuổi của mẹ </b></i>
Tuổi của các bà mẹ được coi là một yếu tố quyết định chính có liên quan đáng kể đến NCBSM. Các bà mẹ trẻ tuổi ít tuân thủ thực hành NCBSM hơn và tỷ lệ NCBSM ở các bà mẹ tăng lên khi độ tuổi tăng lên. Theo một nghiên cứu được thực hiện ở quận Debre Berhan và Bang vùng Hareri của Ethiopia các bà mẹ từ 15 đến 19 tuổi có xu hướng cho con bú sữa mẹ hồn tồn thấp
</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">hơn gần 0,34 lần so với các bà mẹ cùng lứa từ 35 tuổi trở lên. Tỷ lệ bà mẹ từ 25 đến 35 tuổi thực hiện NCBSM cao hơn tới 8,9 lần so với bà mẹ dưới 25 tuổi. [32]. Điều này có thể là do các bà mẹ trẻ có thể thiếu nhận thức và kiến thức về nuôi con bằng sữa mẹ. Một nghiên cứu khác ở Chile cũng chỉ ra rằng các bà mẹ khơng cho con bú hồn tồn chủ yếu là các bà mẹ còn thanh thiếu niên [33].
<i><b>1.3.4. Phương pháp đẻ và các chính sách về thai sản </b></i>
Phương pháp đẻ (đẻ thường, đẻ mổ), nơi đẻ và các yếu tố sức khỏe cũng có ảnh hưởng nhất định đến thực hành NCBSM của các bà mẹ. Số liệu nghiên cứu của một số tác giả cho thấy rằng cắt tầng sinh môn và sinh mổ đều ảnh hưởng tới việc cho trẻ bú sớm sau sinh, có 67,6% sản phụ sinh thường cho trẻ bú sớm trong vòng 1 giờ sau khi sinh, tỷ lệ này ở sản phụ bị cắt tầng sinh môn và sinh mổ tương ứng là 54% và 11,3%. Các bà mẹ sinh mổ có ít khả năng tránh cho trẻ ăn thức ăn lỏng như sữa hơn và có nhiều khả năng nhất cho trẻ ăn sữa bột cho trẻ sơ sinh trong 3 ngày đầu tiên [1]. Cũng theo nghiên cứu của A&T, các bà mẹ sinh con tại bệnh viện ít có khả năng cho con bú mẹ sớm ngay sau khi sinh. Chỉ 45,3% những người sinh con ở bệnh viện bắt đầu cho con bú trong 1 giờ đầu tiên, so với tỷ lệ 72% ở các bà mẹ sinh con tại trạm y tế xã và nhà hộ sinh [1]. Bên cạnh đó, NCBSM cịn bị ảnh hưởng bởi các yếu tố văn hóa xã hội như sự quan tâm, tham gia của người cha, bà nội, bà ngoại của trẻ, thói quen cho trẻ ăn bổ sung sớm ảnh hưởng đến hành vi NCBSM hoàn toàn trong 6 tháng đầu [6].
Một yếu tố liên quan khác có tác động khá nhiều đến thực hành NCBSM hồn tồn đó là điều kiện làm việc cũng như chế độ nghỉ thai sản cua bà mẹ. Việc bà mẹ phải đi làm sớm được cho là một rào cản lớn đối với NCBSM hoàn toàn, hầu hết các bà mẹ đều phải tham gia cơng việc bên ngồi nhà trước tháng thứ 4. Theo kết quả của một nghiên cứu định tính được tiến hành trên toàn quốc về đánh giá tác động của các chính sách đến việc nuôi
</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">con bằng sữa mẹ, nhiều ý kiến của các nhà lãnh đạo và hoạch định chính sách cho rằng NCBSM hồn tồn trong 6 tháng đầu là rất khó [6].
Một số nghiên cứu cho thấy mối liên quan giữa việc kéo dài thời gian nghỉ thai sản với sự gia tăng tỷ lệ NCBSM, kết quả nghiên cứu đã phân tích một cách chi tiết ảnh hưởng của 3 yếu tố: thời gian nghỉ thai sản, độ dài nghỉ thai sản có lương và thời điểm đi làm trở lại đến việc cho con bú sớm và thời gian cho con bú [1], [6].
<i><b>1.3.5. Kiến thức và thái độ của bà mẹ </b></i>
<i>Một nghiên cứu đã được tiến hành ở Bangladesh về tập quán cho bú sữa non cho thấy: các bà mẹ coi sữa ổn định là sữa thực sự, nó mang đến cho đứa trẻ sức khỏe, cịn sữa non khơng được thừa nhận là sữa thực sự và nói chung các bà mẹ cho là sữa non không bổ, chỉ có 2/43 bà mẹ cho là sữa non bổ, không một bà mẹ nào biết về tác dụng chống nhiễm khuẩn của nó, chỉ có một bà mẹ nói rằng sữa non có thể bảo vệ cho trẻ khỏi ốm. Bởi vì màu vàng đặc sánh cho nên sữa non luôn được coi là sữa khơng tốt, bẩn và có thể làm cho trẻ bị tiêu chảy, nên họ chỉ cho trẻ bú bắt đầu vào ngày thứ 2, 3 sau đẻ [48]. </i>
Ở một số nước thì sữa non bị coi là sữa bẩn phải vắt bỏ đi, như ở nông
<i>thôn Ấn Độ 58,4% trong số 274 bà mẹ vắt bỏ sữa non, nhưng họ lại biết được tính ưu việt của sữa mẹ [54]. </i>
<i>Ở Việt Nam, một số nghiên cứu cho kết quả: lý do không cho trẻ bú ngay chủ yếu là “chờ sữa về” hoặc cho rằng “sữa đầu không tốt” hoặc “chờ </i>
căng sữa”. Theo kết quả nghiên cứu của Mai Thị Nguyệt tại Bệnh viện Đa khoa trung tâm Lạng Sơn năm 2017 về kiến thức của bà mẹ về nuôi con bằng sữa mẹ là 33,2% bà mẹ có kiến thức đúng ni con hồn tồn bằng sữa mẹ, và cho bú hoàn toàn trong 6 tháng đầu chiếm 31,8% [13].
<i><b>1.3.6. Ảnh hưởng của các cán bộ y tế, bạn bè và các thành viên của gia đình </b></i>
Nhiều nghiên cứu cho thấy việc giáo dục của cán bộ y tế, cho con nằm chung với mẹ sau khi sinh, cho trẻ bú theo u cầu ở các phịng đẻ có
</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">ảnh hưởng tích cực đến tỉ lệ và thời gian cho con bú
Vai trò của các cán bộ y tế và những người phục vụ về sức khỏe có ảnh hưởng rất lớn đến việc nuôi con của các bà mẹ. Trong những nhà hộ sinh cũng như những phòng khám phụ nữ hoặc ở nơi chăm sóc sau đẻ, nó lại càng đặc biệt quan trọng, bởi vì họ đến đây trong tình trạng cần được chăm sóc sức khỏe hoặc vì những bệnh tật của họ.
Hầu hết các bà mẹ đều mong muốn NCBSM, 93% những người chồng, 83% những người mẹ chồng và 81% những người bạn tốt của bà mẹ có ảnh
<b>hưởng tích cực đối với việc cho con bú [34]. Các nghiên cứu cho thấy các cán bộ </b>
y tế, bạn bè và các thành viên của gia đình cũng ảnh hưởng rất lớn đến vấn đề ni con, bởi vì chính họ là nguồn gốc của mọi thông tin về cách nuôi con. Họ cung cấp cho các bà mẹ những thông tin về khoa học và thực hành về cách nuôi con và trên cơ sở đó tạo điều kiện cho sự quyết định về cách nuôi con như thế nào, và đây cũng là nơi luôn động viên họ về mặt tinh thần mà mỗi người phụ nữ đều rất cần thiết
Tác động của các thành viên trong gia đình, về các thực hành truyền thống cũng ảnh hưởng nhiều đến việc cho bú sớm và BMHT. Các cặp vợ chồng ở cùng bố mẹ thường phải theo hướng dẫn theo kinh nghiệm của mẹ chồng hoặc mẹ đẻ cho trẻ ăn sam sớm với nhận thức là để trẻ cứng cáp hơn. Mặt khác, sự thiếu quan tâm từ phía gia đình như trong giai đoạn cho con bú, hay các quan niệm cho rằng sữa me ̣không cung cấp đủ nhu cầu năng lượng trong 6 tháng ̣ đầu, sữa me ̣không tốt cũng là các rào cản đối với BMHT.
</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27"><b>tháng đầu Đặc điểm dân số nền </b>
- Nhóm tuổi
- Trình độ học vấn - Nghề nghiệp
- Tình trạng hơn nhân - Phương pháp sinh - Nơi sinh
<b>trong 6 tháng đầu </b>
<b>Yếu tố gia đình và xã hội </b>
- Người khuyến khích NCBSM
- Tác động của gia đình trong các quyết định NCBSM
- Tư vấn sau sinh của NVYT
</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">+ Đồng ý tham gia nghiên cứu.
<i>* Tiêu chuẩn loại trừ: </i>
+ Các bà mẹ mắc bệnh tâm thần, rối loạn trí nhớ, hạn chế trong giao tiếp. + Các bà mẹ khơng có chỉ định nuôi con bằng sữa mẹ.
+ Trẻ mắc các bệnh bẩm sinh liên quan đến hình thể và đường tiêu hóa. + Những bệnh nhân vào viện nặng tử vong.
<b>2.2. Thời gian nghiên cứu </b>
Từ tháng 8 năm 2021 đến hết tháng 04 năm 2022
<b>2.3. Địa điểm nghiên cứu </b>
Trung tâm Nhi khoa - Bệnh viện Trung Ương Thái Nguyên (BVTWTN)
<b>2.4. Phương pháp nghiên cứu </b>
<i><b>2.4.1. Thiết kế nghiên cứu </b></i>
<b>Nghiên cứu mô tả cắt ngang. </b>
<i><b>2.4.2. Cỡ mẫu và cách chọn mẫu nghiên cứu </b></i>
<i>* Cỡ mẫu: nghiên cứu định lượng được tính theo cơng thức cỡ mẫu cho một tỉ </i>
lệ nghiên cứu mô tả cắt ngang:
Áp dụng công thức sau:
n=Z<small>2</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">Trong đó
- n là cỡ mẫu nghiên cứu.
- p = 17,4% Tỷ lệ nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu theo Tổng cục thống kê năm 2014 [20] .
- Z là hệ số tin cậy tính theo α: lấy α=0.05 thì Z<small>(1-α/2)</small> = 1,96. - d là sai số chấp nhận được, trong nghiên cứu chọn d=0,05 Thay vào cơng thức ta có cỡ mẫu tối thiểu là: n = 220
Vậy cỡ mẫu nghiên cứu là 220 bà mẹ.
<i>* Cách chọn mẫu: Chọn tất cả các bà mẹ có con từ 7 tháng đến 24 tháng tuổi </i>
vào trung tâm Nhi khoa - BVTWTN khám chữa bệnh trong thời gian nghiên cứu đến khi đủ 220 đối tượng và thỏa mãn các tiêu chuẩn chọn đối tượng
<i><b>nghiên cứu. </b></i>
<i><b>2.4.3. Chỉ số và biến số nghiên cứu 2.4.3.1. Các chỉ số nghiên cứu </b></i>
<i>* Đặc điểm chung của đối tượng tham gia nghiên cứu </i>
- Đặc điểm chung của bà mẹ tham gia nghiên cứu - Đặc điểm chung của trẻ tham gia nghiên cứu
<i>* Các chỉ số nghiên cứu cho mục tiêu 1: Xác định tỷ lệ ni con bằng sữa mẹ hồn tồn của các bà mẹ có con dưới 2 tuổi đến khám và điều trị tại BVTW Thái Nguyên. </i>
- Tỷ lệ nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn theo tháng tuổi của trẻ - Tỷ lệ ni con bằng sữa mẹ hồn tồn theo giới tính của trẻ - Tỷ lệ ni con bằng sữa mẹ hoàn toàn theo dân tộc của mẹ
- Tỷ lệ ni con bằng sữa mẹ hồn tồn theo cân nặng khi sinh của trẻ - Tỷ lệ ni con bằng sữa mẹ hồn tồn theo nghề nghiệp của bà mẹ - Tỷ lệ nuôi con bằng sữa mẹ hồn tồn theo nhóm tuổi của bà mẹ
- Tỷ lệ ni con bằng sữa mẹ hồn tồn theo trình độ học vấn của bà mẹ - Tỷ lệ ni con bằng sữa mẹ hồn tồn theo kinh tế hộ gia đình
</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">- Tỷ lệ bà mẹ có kiến thức đúng về NCBSM hồn tồn trong 6 tháng đầu - Tỷ lệ bà mẹ thực hành đúng NCBSM hoàn toàn trong 6 tháng đầu - Tỷ lệ bà mẹ nhận được nguồn thông tin về NCBSM hoàn toàn trong 6 tháng đầu
- Tỷ lệ bà mẹ nhận được nguồn thông tin về sữa bột
- Tỷ lệ bà mẹ có lý do khơng NCBSM hoàn toàn trong 6 tháng đầu - Tỷ lệ bà mẹ gặp những khó khăn trong việc ni con bằng sữa mẹ
<i>* Các chỉ số nghiên cứu cho mục tiêu 2: Phân tích một số yếu tố liên quan đến việc NCBSM trong 6 tháng đầu đời của các bà mẹ có con dưới 24 tháng tuổi. </i>
- Mối liên quan giữa NCBSM hoàn toàn với đặc điểm chung của bà mẹ - Mối liên quan giữa NCBSM hoàn toàn với đặc điểm của trẻ
- Mối liên quan giữa NCBSM hoàn toàn với kiến thức chung đúng
- Mối liên quan giữa NCBSM hoàn toàn với người khuyến khích, người ảnh hưởng tư vấn sau sinh của nhân viên y tế
- Mối liên quan giữa NCBSM hồn tồn với tiếp cận nguồn thơng tin - Mối liên quan giữa NCBSM hồn tồn với những khó khăn khi NCBSM hoàn toàn.
<i><b>2.4.3.2. Các biến số và các chỉ tiêu đánh giá </b></i>
<i><b>* Biến số phụ thuộc: NCBSM hoàn toàn trong 6 tháng đầu: Theo định nghĩa </b></i>
của WHO, là chỉ cho trẻ bú sữa mẹ và không dùng bất kỳ thức ăn hay nước uống nào khác kể cả nước trắng, trừ các trường hợp phải uống bổ sung các vitamin, khoáng chất hoặc thuốc [2].
Đây là biến nhị phân, có 2 giá trị: - Có
</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">- < 21 tuổi - 21-35 tuổi - > 35 tuổi
<i>Dân tộc là biến định danh gồm 2 giá trị: </i>
- Kinh - Thiểu số
<i>Số con là biến thứ tự gồm 3 giá trị: </i>
- 1 con - 2 con
<i>Trình độ học vấn được tính là lớp học cao nhất mà bà mẹ đã hoàn thành, </i>
đây là biến thức tự gồm 3 giá trị:
- Tiểu học: đã hoàn thành hết lớp 5
- Trung học cơ sở: đã hoàn thành hết lớp 9
- Trung học phổ thơng trở lên: đã hồn thành hết lớp 12 hoặc trung cấp, cao đẳng, đại học, sau đại học
<i>Người sống chung là người đang sống chung nhà với bà mẹ, đây là biến </i>
định danh gồm 5 giá trị: - Chồng
- Cha mẹ ruột/ cha mẹ chồng
- Anh chị em ruột/ anh chị em chồng - Họ hàng
- Người khác
</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32"><i>Kinh tế gia đình là biến thứ tự gồm các giá trị </i>
<i>Tháng tuổi NCBSM là biến thứ tự bao gồm 6 giá trị [62]: </i>
- 1 tháng: được tính từ lúc trẻ được 30 ngày đến 59 ngày - 2 tháng: được tính từ lúc trẻ được 60 ngày đến 89 ngày - 3 tháng: được tính từ lúc trẻ được 90 ngày đến 119 ngày - 4 tháng: được tính từ lúc trẻ được 120 ngày đến 149 ngày - 5 tháng: được tính từ lúc trẻ được 150 ngày đến 179 ngày - 6 tháng: được tính từ lúc trẻ được 180 ngày đến 209 ngày
<i>Nơi sinh: nơi mà trẻ được sinh ra, là biến định danh gồm 4 giá trị: </i>
- Tại nhà - Trạm y tế
- Bệnh viện huyện
</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">- Bệnh viện tỉnh hoặc trung ương
<i>Phương pháp sinh là biến nhị phân gồm 2 giá trị: </i>
- Đẻ thường - Đẻ mổ
Cân nặng khi sinh là cân nặng mà trẻ được cân ngay sau khi sinh ra, là biến thứ tự gồm 3 giá trị:
- < 2500g
- 2500g - 3500g - > 3500g
Tuổi thai là biến nhị phân gồm 2 giá trị: - < 37 tuần
- ≥ 37 tuần
<b>* Các biến về kiến thức </b>
<i>Kiến thức về thời gian cho con bú sau sinh (1) là biến nhị phân gồm 2 </i>
giá trị:
- Đúng: khi câu trả lời là trong vòng 1 giờ sau sinh
<b>- Sai: khi câu trả lời khác </b>
<i>Kiến thức về khái niệm NCBSM hoàn toàn trong 6 tháng đầu (2) là biến </i>
</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34">Kiến thức về lợi ích của sữa mẹ đối với trẻ (4) là biến nhị phân gồm 2 giá trị:
- Đúng: khi trả lời được ít nhất một lợi ích: Trẻ thơng minh hơn, Đầy đủ năng lượng và chất dinh dưỡng, Giúp phòng ngừa bệnh, tốt cho hệ tiêu hố.
- Sai: Khi khơng biết
Kiến thức chung về NCBSM hoàn toàn trong 6 tháng đầu là biến nhị phân gồm 2 giá trị:
- Đúng: khi các bà mẹ trả lời đúng cả 4 câu (1),(2),(3),(4).
<b>- Sai: khi câu trả lời sai một trong 4 câu (1),(2),(3),(4). * Các biến số về thực hành </b>
<i>Trẻ từng được bú mẹ là biến nhị phân gồm 2 giá trị: </i>
- Đúng: khi câu trả lời là có - Sai: khi câu trả lời là không
<i>Trẻ bú sớm sau sinh là biến định danh gồm 2 giá trị: </i>
- Đúng: khi câu trả lời là trong vòng 1 giờ đầu sau sinh - Sai: câu trả lời khác
<i>Loại thức uống bé uống đầu tiên sau sinh là biến nhị phân gồm 2 giá trị: </i>
- Đúng: khi câu trả lời là sữa mẹ - Sai: câu trả lời khác
- Loại thức ăn, nước uống trẻ sử dụng ngoài sữa mẹ trong 6 tháng đầu là biến nhị phân gồm 2 giá trị:
- Đúng: khi câu trả lời là không cho ăn hay uống thức ăn, nước uống nào khác ngoài sữa mẹ
-Sai: câu trả lời khác
<i>NCBSM hoàn toàn trong 6 tháng đầu là biến nhị phân gồm 2 giá trị: </i>
- Có: trả lời đúng 4 câu hỏi
- Không: khi trả lời sai 1 trong 4 câu hỏi 1. Trẻ từng được bú mẹ ?
</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35">2. Trẻ bú sớm sau sinh ?
3. Loại thức uống bé uống đầu tiên sau sinh của bé ?
4. Loại thức ăn nước uống trẻ sử dụng ngoài sữa mẹ trong 6 tháng đầu ?
<i>Lý do khơng NCBSM hồn toàn là biến định danh gồm 7 giá trị: </i>
- Sữa mẹ không đủ chất dinh dưỡng - Mẹ thiếu sữa/ khơng có sữa
- Mẹ thiếu sữa/ khơng có sữa - Mẹ bệnh
- Thiếu thơng tin, kiến thức về NCBSM - Khơng có khó khăn
<b>- Khác </b>
<b>*Các biến số khác: </b>
<i>Nghe thông tin về NCBSM là biến nhị phân gồm 2 giá trị: </i>
- Có - Không
<i>Nguồn thông tin về NCBSM là biến định danh gồm 7 giá trị: </i>
- Nhân viên y tế - Ti vi
- Internet - Sách báo
</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36">- Người thân trong gia đình - Bạn bè/ đồng nghiệp/ hàng xóm - Khác
<i>Người khuyến khích NCBSM là biến định danh gồm 6 giá trị: </i>
- Nhân viên y tế - Chồng
- Cha mẹ chồng/ cha mẹ ruột - Người thân khác
- Bạn bè/ đồng nghiệp/ hàng xóm - Hội/ nhóm/ đồn thể
<i>Người ảnh hưởng đến quyết định NCBSM là biến định danh gồm 6 giá trị: </i>
- Bản thân người phụ nữ - Chồng
- Cha mẹ ruột/ cha mẹ chồng - Người thân khác
- Bạn bè/ hàng xóm/ đồng nghiệp - Nhân viên y tế
<i><b>2.4.4. Công cụ và phương pháp thu thập số liệu </b></i>
- Lựa chọn các bà mẹ có con vào khám và điều trị tại Trung tâm Nhi khoa đủ tiêu chuẩn chọn vào nghiên cứu.
- Phỏng vấn các bà mẹ: S ử d ụng b ộ câu hỏi được thiết kế sẵn dựa vào mục tiêu nghiên cứu về thực trạng NCBSM hoàn toàn trong 6 tháng đầu và các yếu tố liên quan.
<b>2.5. Xử lý và phân tích số liệu </b>
- Số liệu đã được làm sạch trước khi phân tích, mã hóa và nhập vào máy tính. Phân tích và xử lý số liệu được thực hiện trên phần mềm SPSS 22.00
- Sử dụng các test thống kê thích hợp để phân tích kết quả.
+ Sử dụng tần suất và tỷ lệ phần trăm để mơ tả các biến số: nhóm tuổi, số
</div><span class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37">con, nghề nghiệp, trình độ học vấn, nơi sinh, giới tính, cân nặng khi sinh, tỷ lệ NCBSM hoàn toàn trong 6 tháng đầu, tỷ lệ trẻ bú sớm trong 1 giờ đầu sau sinh.
+ Dùng phép kiểm định chi bình phương để xác định mối liên quan giữa NCBSM hoàn toàn trong 6 tháng đầu với các yếu tố liên quan.
<b>2.6. Sai số và cách khống chế sai số trong nghiên cứu </b>
<i><b>2.6.1. Sai số </b></i>
<i>- Sai số ngẫu nhiên: Do số lượng mẫu không đủ. </i>
<i>- Sai số hệ thống: Sai số khi phỏng vấn do hiểu sai câu hỏi, người trả lời </i>
chiếu lệ do bà mẹ vừa đẻ còn mệt, sai số do nhập số liệu.
<b>2.7. Đạo đức trong nghiên cứu </b>
- Đề tài nghiên cứu chỉ tiến hành sau khi được thông qua hội đồng đạo đức trong nghiên cứu Y sinh học – Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên, được sự chấp thuận của lãnh đạo Trung tâm Nhi khoa – Bệnh viện Trung ương
</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38"><i>Nghề nghiệp mẹ </i>
<i>Người sống chung </i>
Anh chị em ruột/anh chị em chồng
<i>Số con trong gia đình </i>
<i>Bệnh tật của mẹ </i>
<i>Kinh tế gia đình </i>
</div><span class="text_page_counter">Trang 39</span><div class="page_container" data-page="39"><i><b>Bảng 3.2. Thông tin tiền sử cuộc đẻ </b></i>
<i>Nhận xét: 68,6% trẻ được sinh ra tại bệnh viện tuyến tỉnh hoặc tuyến </i>
trung ương; Tỷ lệ trẻ sinh bằng phương pháp mổ đẻ là 62,3%.
<i><b>Bảng 3.3. Đặc điểm chung của trẻ tham gia nghiên cứu </b></i>
<i>Nhận xét: Tỷ lệ giới tính ở trẻ trai cao hơn trẻ gái (54,1% so với 45,9%); </i>
78,2% trẻ sinh ra có cân nặng từ 2500g- 3500g, tỷ lệ trẻ sinh ra có cân nặng <2500g là 5,0%; có 82,3% trẻ sinh đủ tháng.
</div><span class="text_page_counter">Trang 40</span><div class="page_container" data-page="40"><b>3.2. Tỷ lệ NCBSM hoàn toàn của các bà mẹ có con dưới 2 tuổi </b>
<i><b>Bảng 3.4. Tỷ lệ ni con bằng sữa mẹ hồn tồn theo tháng tuổi của trẻ </b></i>
<b> NCBSMHT Tháng tuổi </b>
<i> Nhận xét: Tỷ lệ ni con hồn tồn bằng sữa mẹ giảm dần theo tháng tuổi </i>
của trẻ, tỷ lệ ni con bằng sữa mẹ hồn tồn trong 6 tháng đầu chỉ chiếm 13,2%
<i><b>Bảng 3.5.Tỷ lệ nuôi con bằng sữa mẹ hồn tồn theo giới tính trẻ </b></i>
<b>Giới tính trẻ Tháng </b>
<i> Nhận xét: Tỷ lệ NCBSM hồn tồn theo giới tính trong nghiên cứu khơng có </i>
nhiều sự khác biệt. Tuy nhiên sự khác biệt khơng có ý nghĩa thống kê với p > 0,05
</div>