Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.93 MB, 91 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">
<b>Hà Nội – Năm 2023 </b>
</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">Lời đầu tiên, tôi xin chân thành cảm ơn TS. Nguyễn Thị Bùi Thành đã rất tận tâm hướng dẫn, hỗ trợ tôi trong suốt thời gian hồn thành khóa luận tốt nghiệp. Bên cạnh đó, tôi cũng xin được gửi lời cảm ơn đến các thầy cô Bộ môn Công tác xã hội trường Đại học Thăng Long đã nhiệt tình giảng dạy, tạo điều kiện trong q trình học tập và hỗ trợ tơi rất nhiều để tôi đạt kết quả tốt trong khi tôi học tập.
Đồng thời, tôi cũng xin được gửi lời cảm ơn đến các các cán bộ nhân viên trong phịng Cơng tác xã hội – Trung tâm giáo dục Đậu Nhí đã giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi cho tơi trong q trình thu thập dữ liệu tại trung tâm, tận tình trao đổi và cung cấp những thơng tin, giải đáp nhiều vấn đề có liên quan đến chun mơn.
Thời gian làm khóa luận tốt nghiệp, tơi đã tìm hiểu về lĩnh vực Cơng tác xã hội trong trung tâm, các kiến thức của tơi cịn nhiều hạn chế. Do vậy, khóa luận khơng tránh khỏi những thiếu sót, tơi rất mong nhận được những ý kiến đóng góp q báu của thầy cơ để khóa luận của tơi được hồn thiện hơn.
Tơi xin chân thành cảm ơn!
<b>Hà Nội, ngày tháng năm 2022 Người thực hiện </b>
<b>Đặng Hoài Thư </b>
</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4"><i><b>Tơi xin cam đoan khố luận tốt nghiệp với đề tài: “Công tác xã hội cá nhân hỗ </b></i>
<i><b>trợ trẻ chậm phát triển ngôn ngữ 3-4 tuổi tại trung tâm giáo dục Đậu Nhí” là cơng </b></i>
trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng dẫn của TS. Nguyễn Thị Bùi Thành. Những nội dung, thông tin, các kết quả được tơi sử dụng trong khố luận đều trung thực, chính xác và đảm bảo tính khách quan.
Tơi xin hồn tồn chịu trách nhiệm về nghiên cứu của mình trước hội đồng bảo vệ cũng như chịu mọi kỷ luật mà bộ môn và nhà trường đề ra.
<b>Xác nhận của giáo viên hướng dẫn </b>
</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5"><b>1.1. Các khái niệm công cụ ... 13 </b>
<i><b>1.1.1. Khái niệm công tác xã hội ... 13 </b></i>
<i><b>1.1.2. Khái niệm công tác xã hội cá nhân ... 13 </b></i>
<i><b>1.1.3. Khái niệm trẻ em ... 14 </b></i>
<i><b>1.1.4. Khái niệm trẻ chậm phát triển ngôn ngữ ... 15 </b></i>
<i><b>1.1.5. Công tác xã hội cá nhân với trẻ chậm phát triển ngôn ngữ ... 19 </b></i>
<b>1.2. Lý thuyết ứng dụng trong nghiên cứu ... 20 </b>
<i><b>1.2.1. Thuyết hệ thống của Bertalanffy ... 20 </b></i>
<i><b>1.2.2. Thuyết hệ thống nhu cầu của Maslow ... 21 </b></i>
<b>CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VIỆC HỖ TRỢ TRẺ CHẬM PHÁT TRIỂN NGÔN NGỮ TỪ 3-4 TUỔI TẠI TRUNG TÂM GIÁO DỤC ĐẬU NHÍ ... 25 </b>
<b>2.1. Giới thiệu địa bàn nghiên cứu ... 25 </b>
<i><b>2.1.1. Sơ lược hình thành ... 25 </b></i>
<i><b>2.1.2. Mơ hình tổ chức ... 25 </b></i>
<b>2.2. Thực trạng của vấn đề nghiên cứu ... 26 </b>
<i><b>2.2.1. Thực trạng nhận thức của CM và GV về vấn đề hỗ trợ trẻ chậm phát triển ngôn ngữ ... 26 </b></i>
<i><b>2.2.2. Thực trạng Công tác xã hội cá nhân về hỗ trợ trẻ chậm phát triển ngôn ngữ tại trung tâm giáo dục Đậu Nhí ... 30 </b></i>
<b>2.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến công tác xã hội cá nhân với trẻ chậm phát triển ngôn ngữ tại trung tâm giáo dục Đậu Nhí ... 33 </b>
</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6"><b>2.4. Thuận lợi và khó khăn trong cơng tác hỗ trợ cho trẻ ... 34 </b>
<i><b>2.4.1. Thuận lợi ... 34 </b></i>
<i><b>2.4.2. Khó khăn ... 34 </b></i>
<b>CHƯƠNG 3: ĐỀ XUẤT CÁC BIỆN PHÁP CAN THIỆP CÔNG TÁC XÃ HỘI CÁ NHÂN CHO TRẺ CHẬM PHÁT TRIỂN NGÔN NGỮ TỪ 3 ĐẾN 4 TUỔI ... 36 </b>
<b>3.1. Cơ sở đề xuất biện pháp can thiệp công tác xã hội với vấn đề nghiên cứu ... 36 </b>
<b>3.2. Thực hiện biện pháp can thiệp công tác xã hội ... 37 </b>
</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7"><b>DANH MỤC BẢNG, BIỂU, ĐỒ THỊ, SƠ ĐỒ </b>
Hình 1.1: Thuyết hệ thống nhu cầu của Maslow ... 21
Hình 2.1: Hệ thống tổ chức trung tâm Đậu Nhí. ... 25
Hình 2.2: Nhận thức của giáo viên trung tâm Đậu Nhí về vấn đề phát triển khả năng giao tiếp cho trẻ CPTNN. (Nguồn: Tác giả khảo sát) ... 26
Hình 2.3: Các cách hiểu của giáo viên trung tâm Đậu nhí về khái niệm trẻ chậm phát triển ngôn ngữ. (Nguồn: Khảo sát của tác giả) ... 28
Hình 2.4: Giải pháp lựa chọn của phụ huynh khi có con chậm ngơn ngữ. (Nguồn: Tác giả khảo sát) ... 29
Sơ đồ 3.1: Sơ đồ phả hệ của TC. ... 39
Sơ đồ 3.2: Sơ đồ hệ sinh thái. ... 39
Sơ đồ 3.3: Cây vấn đề ... 40
Bảng 3.1: Bảng phân tích điểm mạnh, điểm yếu trong mối quan hệ của thân chủ. ... 43
Bảng 3.2: Kế hoạch can thiệp cá nhân cho thân chủ ... 44
Bảng 3.3: Bảng triển khai mục tiêu can thiệp ... 47
</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">Công tác xã hội với trẻ em là một phần trong các lĩnh vực chuyên biệt của ngành CTXH với mục tiêu đem lại sự hỗ trợ cho trẻ em, giúp bảo vệ trẻ em, góp phần vào nền
<i>an sinh cho trẻ em (Bùi Thị Xuân Mai, 2010)[1]. Nhân viên CTXH có trách nhiệm xác </i>
định những rối loạn của trẻ, đánh giá khả năng và hạn chế của trẻ, sau đó, bằng quan sát cá nhân, trực giác, kinh nghiệm và đạo đức nghề nghiệp để đưa ra tiến trình hỗ trợ trẻ
<i>(Brandon, 2001)[2]. CTXH với trẻ em gồm có các chức năng của CTXH với các nhu </i>
cầu đặc biệt của trẻ em như: can thiệp, hỗ trợ, phục hồi, bảo vệ liên quan đến trẻ em có nhu cầu đặc biệt; Các lĩnh vực thực hiện CTXH với trẻ em như: cộng đồng, trường học, bệnh viện, các cơ sở xã hội.
Hiến pháp năm 1992, Điều 65 đã khẳng định: “Trẻ em được gia đình, nhà nước và xã hội bảo vệ, chăm sóc và giáo dục”. Từ những điều trên, có thể thấy xã hội và nhà nước rất quan tâm đến sự phát triển của trẻ em, đặc biệt là vai trò của CTXH trong cơng cuộc hỗ trợ phát triển đó.
Tuy nhiên, chúng ta cần thừa nhận rằng, thực trạng vẫn rất nhiều trẻ em khác biệt so với đồng trang lứa theo hướng khơng mấy tích cực. Nhiều trẻ em khó khăn trong việc hịa nhập với cộng đồng, bởi các vấn đề như: bệnh tâm lý, chứng khó đọc, nhận thức hạn chế,… Trong đó vấn đề chậm phát triển ngôn ngữ (viết tắt CPTNN) luôn là một trong số vấn đề được nhiều quan tâm. Ngôn ngữ phản ảnh nhận thức của trẻ, ngôn ngữ là tiền đề để nhìn nhận khả năng nhận thức của trẻ. Trẻ chậm phát triển về ngơn ngữ, có thể cùng lúc chậm phát triển về nhận thức.
</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10"><small>2 </small>
Hiện nay số lượng trẻ CPTNN ngày một tăng nhanh (trong đó có cả nhóm trẻ chậm phát triển ngôn ngữ tự kỷ và một tỷ lệ rất nhỏ trẻ chậm phát triển ngôn ngữ thông thường), đặc biệt là ở các thành phố lớn như Hà Nội, Hồ Chí Minh... Những thống kê sợ bộ trên thế giới cho thấy trẻ CPTNN do các yếu tố về hội chứng tự kỷ cho thấy có khoảng 70 triệu người tự kỷ có các biểu hiện chậm nói cần được hỗ trợ về âm ngữ trị liệu, gần bằng 1% dân số thế giới và tương đương với dân số Việt Nam năm 1995. Ở Việt Nam, những thống kê do Bệnh viện Nhi Trung Ương cung cấp, cho thấy số lượng trẻ chậm nói có dấu hiệu tự kỷ đến khám tăng dần. Năm 2008 có 450 trẻ, năm 2009 có 950 trẻ, năm 2010 có 1792 trẻ. Tháng 10/2011 có khoảng 2000 trẻ, trung bình một ngày có khoảng 10-20 trẻ. Những trẻ này đến từ các tỉnh chiếm 2/3 tổng số, còn lại 1/3 là từ Hà Nội. Tuy nhiên tình trạng này ở Việt Nam chưa được đánh giá đánh giá đúng mức tầm quan trọng cũng như những nghiên cứu về các phương pháp hỗ trợ cho trẻ chậm nói (Theo số liệu của Trung tâm kiểm sốt và phịng bệnh của Mỹ).
Chậm phát triển về ngôn ngữ - nhận thức là một khía cạnh trong khiếm khuyết của phát triển trí tuệ ở trẻ. Trẻ CPTNN gặp rất nhiều khó khăn trong việc học tập và tiếp nhận tri thức xã hội, theo đó cần có một chương trình giáo dục đặc biệt để tạo cơ hội và điều kiện hòa nhập vào cuộc sống. Trẻ CPTNN khơng chỉ thiệt thịi về thể chất mà cả tinh thần, vui chơi giải trí.
Đặc biệt, khía cạnh hỗ trợ chăm sóc đặc biệt với trẻ CPTNN, có nhiều trường hợp người nhà chưa nhận thức rõ về chứng CPTNN ở trẻ và tầm quan trọng của việc chăm sóc trẻ CPTNN tại nhà dẫn đến một thực tế là trẻ không được chăm sóc cẩn thận, bỏ qua giai đoạn tốt nhất để khắc phục, hòa nhập với cộng đồng.
Việc nghiên cứu và nhận thức của người chăm sóc CPTNN sẽ chỉ ra được những mặt kiến thức của người chăm sóc, trên cơ sở đó đưa ra những biện pháp để nâng cao nhận thức của người chăm sóc về chứng CPTNN ở trẻ em, cũng như chăm sóc trẻ CPTNN tại nhà.
Chính từ việc yêu cầu của xã hội ngày một gia tăng và những tồn tại trên. Chúng
<i><b>tôi lựa chọn đề tài “Công tác xã hội cá nhân trong việc hỗ trợ trẻ chậm phát triển </b></i>
<i><b>ngơn ngữ tại trung tâm giáo dục Đậu Nhí” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp, với mong </b></i>
<i><b>2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu </b></i>
Để thực hiện được mục tiêu, đề tài có những nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu về chứng chậm phát triển ngôn ngữ ở trẻ nhằm xây dựng cơ sở lý luận cho đề tài.
- Tìm hiểu, khai thác các tài liệu liên quan đến đề tài, từ đó áp dụng kỹ năng CTXH trong việc hỗ trợ trẻ chậm phát triển ngôn ngữ.
- Áp dụng phương pháp thực hành CTXH cá nhân trong việc hỗ trợ trẻ chậm phát triển ngôn ngữ đang được giáo dục tại trung tâm Đậu Nhí và đề xuất một số khuyến nghị góp phần cải thiện và nâng cao hiệu quả hoạt động CTXH đối với trẻ mắc chứng chậm phát triển ngôn ngữ.
<b>3. Tổng quan nghiên cứu </b>
<i><b>3.1. Các nghiên cứu trong nước </b></i>
Cho đến hiện tại, vấn đề nghiên cứu trẻ CPTNN ở Việt Nam đã trải qua nhiều giai đoạn, với những khía cạnh và phương thức nghiên cứu khác nhau.
Trước hết, vấn đề CPTNN liên hệ trực tiếp đến những vấn đề lớn là trẻ khiếm khuyết trí tuệ hay khía cạnh cụ thể hơn là chậm về ngôn ngữ hay chậm về nhận thức.
Đề tài “Vấn đề chậm nói ở trẻ em hiện nay: thực trạng, nguyên nhân, giải pháp” của Trần Thu Hương (2016) là một công trình cơng phu, kỹ lưỡng về khía cạnh chậm phát triển ngơn ngữ ở trẻ. Theo đó tác giả đề cập đến nhiều mơ hình nghiên cứu cùng vấn đề ở các tác giả nước ngoài, như Marcelli và Cohen; Rescorla, Mirak và Singh,… là những cái tên tiêu biểu, từ đó phân tích các yếu tố tác động đến sự chậm nói ở trẻ,
</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12"><small>4 </small>
đánh giá cũng như các mơ hình thường gặp để điều trị chứng chậm nói. Mặt khác tác giả đề tài chủ trương so sánh thực trạng trẻ chậm nói với nhóm trẻ tự kỷ và nhóm trẻ có vấn đề về thần kinh. Nhờ tính quy mơ, đề tài này chính là một trong những tư liệu chính để chúng tôi tiếp tục kế thừa, phát triển, mở rộng khơng chỉ về khía cạnh chậm phát triển ngơn ngữ mà còn cả chậm phát triển về nhận thức.
<b>Rộng hơn, vấn đề trẻ chậm phát triển trí tuệ được rất nhiều tác giả chọn làm đối </b>
tượng nghiên cứu, cho ra nhiều cơng trình hồn chỉnh về lý luận lẫn thực tiễn.
Giáo trình “Đại cương giáo dục đặc biệt cho trẻ chậm phát triển trí tuệ” của Trần Lệ Thu (2003) được cho là một trong những cơng trình sớm nhất, cơng phu nhất, đem đến cơ sở lý luận của trẻ chậm phát triển trí tuệ. Giáo trình này tập trung vào việc xây dựng một hệ thống giáo dục phù hợp với nhu cầu và khả năng của trẻ chậm phát triển trí tuệ. Nó cung cấp các phương pháp giảng dạy đặc biệt và các hoạt động hỗ trợ để phát triển các kỹ năng cơ bản như ngôn ngữ, tư duy, giao tiếp và kỹ năng sống. Khơng chỉ vậy, giáo trình cịn chú trọng đến việc xây dựng mơi trường học tập và trải nghiệm tích cực cho trẻ, tạo điều kiện để phát triển toàn diện và khám phá tiềm năng của mình. Từ đó đến nay nhiều những đề tài NCKH, khóa luận, luận văn, luận án, … đã kế thừa, phát triển từ cuốn đại cương này.
Nhiều cơng trình kế thừa có thể kể đến NCKH “Tìm hiểu tác động của các hoạt động ngoại khóa đối với cơng tác giáo dục hịa nhập cho trẻ chậm phát triển trí tuệ tại
<i>điển cứu Thị Nghè, Hồ Chí Minh” của Nguyễn Thị Yến Nhi (2018)[3] phát triển theo </i>
hướng hỗ trợ về hoạt động ngoại khóa. Hay về khía cạnh hỗ trợ, giáo dục cũng có đề tài Thực trạng quản lý công tác bồi dưỡng phương pháp dạy trẻ chậm phát triển trí tuệ cho
<i>giáo viên tại một số trường chuyên biệt, tỉnh Bình Dương” của Hồ Sỹ Toàn (2013)[4] </i>
chủ trương phối hợp nhiều phương cách giáo dục, đặc biệt là giáo dục trong các trung tâm đặc biệt. Ngồi ra, cịn có thể kể đến Luận án “Giáo dục kỹ năng giao tiếp cho trẻ rối loạn phổ tự kỷ qua hoạt động chơi trong lớp mẫu giáo hoà nhập 5-6 tuổi” của Nguyễn
<i>Thị Bùi Thành (2021)[5]. Tác giả Nguyễn Thị Bùi Thành tập trung nghiên cứu về giáo </i>
dục kỹ năng giao tiếp cho trẻ rối loạn phổ tự kỷ qua hoạt động vui chơi trong lớp mẫu giáo hòa nhập 5-6 tuổi. Tác giả đã đề xuất các biện pháp nhằm giáo dục kỹ năng giao
Có thể thấy, việc khai thác vấn đề chậm phát triển ngôn ngữ, chậm phát triển trí tuệ ở trẻ khơng phải một sớm một chiều, ngày một ngày hai, mà là những đợt nối tiếp, kế thừa và ngày một mở rộng, từ tổng quan đi vào cụ thể, chi tiết hơn. Chúng tôi chủ trương tổng hợp, kế thừa từ những cơng trình đi trước và ngày càng mở rộng, đáp ứng được sự biến đổi của xã hội hiện nay.
<i><b>3.2. Các nghiên cứu nước ngoài </b></i>
Chứng CPTNN ở trẻ cũng như các vấn đề liên quan khác đã được nghiên cứu từ rất sớm, thể hiện trong nhiều cơng trình nghiên cứu quốc tế.
Cụ thể, đã có nhiều tác giả nghiên cứu về CPTNN ở trẻ trên khắp thế giới như Beitchman, Nair, Clegg, Patel (1986); St. Louis, Ruscello và Lundeen (1992); Silva, Justin, McGee và Williams (1984), Những phê phán về phương pháp luận bao gồm các vấn đề liên quan tới mẫu khách thể nghiên cứu, phương pháp đánh giá hoạt động lời nói, cũng như hệ thống và các tiêu chí phân loại trẻ có rối loạn lời nói có ý nghĩa về mặt lâm sàng. Theo Beitchman và cs. (1986), “sự thiếu một hệ thống phân loại phổ quát về các rối loạn lời nối và ngôn ngữ ... là một rào cản lớn đối với việc phát triển các đánh giá thường gặp hữu ích và chính xác”. Các nghiên cứu ở Mỹ, Canada, New Zealand và Anh được thực hiện trên trẻ từ 5 đến 8 tuổi. Kết quả của các nghiên cứu này cho thấy rằng CPTNN thường đi kèm với các thiếu hụt đặc hiệu về ngôn ngữ. Tỷ lệ trẻ CPTNN giảm dần theo độ tuổi: 11% ở trẻ 5 tuổi, 9,7% ở trẻ 6 tuổi, 6,5% ở trẻ 7 tuổi và chỉ còn 2-3% ở trẻ 8 tuổi, trong đó, tỷ lệ những trẻ sống ở thành thị bị CPTNN cao hơn những trẻ sống
<i>ở nông thôn. Một nghiên cứu của Ishikawa, Kajii, Sakuma[25] </i>
Mặt khác, để lý giải các yếu tố tác động đến sự chậm phát triển trí tuệ ở trẻ, cụ thể là khía cạnh ngơn ngữ, có rất nhiều quan điểm được đặt ra như sau. Trước hết, đến
</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14"><small>6 </small>
từ các loại bệnh, các yếu tố sinh học ở thời thơ ấu, các rối loại tâm vận động, rối loạn phổ tự kỳ hoặc bệnh động kinh, đều có thể dẫn đến việc rối loạn ngôn ngữ (Dellatolas&Peralta, 2007). Nhưng quan điểm này vấp phải nhiều phản đối bởi yếu tố sinh học khơng mang tính phổ biến và trực hệ. Theo đó, theo Molye, Stokes&Klee (2011), chứng bệnh trên phụ thuộc rất lớn vào yếu tố di truyền của gia đình. Bên cạnh đó, Vallee&Dellatolas (2005) từ rất sớm đã chỉ ra tầm quan trọng của trình độ xã hội trong gia đình có thể ảnh hưởng, định hình rất nhiều lên trí tuệ trẻ. Những cơng trình trên đều là những lý thuyết thuộc các quan điểm khác nhau. Trong dự án này, chúng tôi không đánh giá tiêu cực bất kỳ lý thuyết nào và chúng tôi áp dụng một loạt các quan
<b>điểm khác nhau nhằm phục vụ cho mục tiêu nghiên cứu của chúng tôi. </b>
Hay Withhouse và cộng sự (2011) còn tiếp nối rằng, việc trẻ chậm phát triển ngôn ngữ dẫn tới những hành vi ở giai đoạn đầu đời có thể đến từ việc chúng cảm thấy thất vọng vì khơng thể giao tiếp hiệu quả, chứ không phải vấn đề về sức khỏe.
Phần lớn các thuật ngữ được dùng để mô tả những trẻ có rối loạn lời nói là: loạn khớp nối chức năng và loạn phát triển âm vị, rối loạn đa âm vị, CPTNN... Theo một số tác giả, có hai dạng căn bản trong rối loạn lời nói ở trẻ mà cho đến giờ vẫn chưa tìm được nguyên nhân: đó là CPTNN và những lỗi dôi dư khơng chắc chắn, trong đó CPTNN có tính di truyền, cịn lỗi dơi dư khơng chắc chắn gia tăng do tác động của các biến môi trường. Những phê phán về phương pháp luận bao gồm các vấn đề liên quan tới mẫu khách thể nghiên cứu, phương pháp đánh giá hoạt động lời nói, cũng như hệ thống và các tiêu chí phân loại trẻ có rối loạn lời nói có ý nghĩa về mặt lâm sàng. Theo
<i>Beitchman và cs. (1986)[26], “sự thiếu một hệ thống phân loại phổ quát về các rối loạn </i>
lời nối và ngôn ngữ ... là một rào cản lớn đối với việc phát triển các đánh giá thường gặp hữu ích và chính xác”. Các nghiên cứu ở Mỹ, Canada, New Zealand và Anh được thực hiện trên trẻ từ 5 đến 8 tuổi. Kết quả của các nghiên cứu này cho thấy rằng CPTNN thường đi kèm với các thiếu hụt đặc hiệu về ngôn ngữ. Tỷ lệ trẻ CPTNN giảm dần theo độ tuổi: 11% ở trẻ 5 tuổi, 9,7% ở trẻ 6 tuổi, 6,5% ở trẻ 7 tuổi và chỉ cịn 2-3% ở trẻ 8 tuổi, trong đó, tỷ lệ những trẻ sống ở thành thị bị CPTNN cao hơn những trẻ sống ở nông thôn.
<small>7 </small>
Phần lớn các phương pháp, mơ hình can thiệp cho trẻ chậm nói đều tập trung vào mối quan hệ tay ba: Trẻ chậm nói – Người can thiệp – Cha mẹ/người chăm sóc trẻ. Theo khảo sát, tùy thuộc vào mức độ chậm nói và độ tuổi của trẻ, mà thường xoay quanh 3 hình thức can thiệp chủ yếu sau cho trẻ chậm nói: Can thiệp tại gia đình; Can thiệp tại bệnh viện, trung tâm và Can thiệp hòa nhập.
<b>Can thiệp tại gia đình </b>
Kế hoạch can thiệp tại gia đình thường do các bác sĩ nhi khoa, nhà trị liệu ngôn ngữ, chuyên gia chỉnh âm xây dựng và trực tiếp hướng dẫn cho cha mẹ để họ có thể can thiệp cho con tại nhà. Mơ hình can thiệp này chủ yếu tập trung vào các hoạt động cải thiện việc phát âm và ngôn ngữ của trẻ, chẳng hạn như mơ hình Summer Sound Camp (SSC) tại Florida, Mỹ được xây dựng dựa trên nghiên cứu của Adams và cộng sự (1997) và O’Connor và cộng sự (1998). Cha mẹ sẽ được hướng dẫn 6 hoạt động cần tương tác với trẻ trong quá trình can thiệp. Việc hướng dẫn được thực hiện theo ba bước: chuyên gia làm mẫu => cha mẹ thực hành dưới sự hướng dẫn của chuyên gia => cha mẹ tự thực hành hoàn toàn. 6 hoạt động được xây dựng đều tập trung vào nhận thức âm và phản ứng với âm tiết: trẻ nhận biết màu sắc, con vật, đồ vật ... thông qua thẻ tranh, phát hiện âm vần, phân loại âm vần, đánh vần các âm tiết và đoán từ, phản ứng với các âm tiết khác nhau, đọc và ghép-tách từ, hát bài hát bằng một âm. Chuyên gia sẽ đánh giá mức độ hiệu quả của mơ hình dựa trên số lượng từ mà trẻ có thể phát âm trong vịng một phút và so sánh sự thay đổi trong vòng 4 tuần (4 buổi/tuần, 45 phút/buổi). Cha mẹ cũng được yêu cầu đánh giá hiệu quả của 6 hoạt động theo thang đo từ 1 đến 5, tương ứng với “hồn tồn vơ ích” đến “vơ cùng hữu ích”.
<b>Can thiệp tại bệnh viện, trung tâm </b>
Dường như phương thức can thiệp này là phổ biến. Sau khi được đánh giá tại bệnh viện hoặc ở các trung tâm, các chuyên gia sẽ xây dựng một chương trình can thiệp cho trẻ, bao gồm các hoạt động can thiệp tại nhà với sự tham gia của cha mẹ kết hợp với các buổi trị liệu tại bệnh viện hoặc trung tâm. Kế hoạch trị liệu có thể thay đổi tùy thuộc vào kết quả chẩn đốn và khó khăn mà trẻ gặp phải. Tùy thuộc vào dạng chậm nói và độ tuổi, các chuyên gia sẽ đề xuất những phương pháp và kế hoạch trị liệu khác nhau cho từng trẻ.
</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16"><small>8 </small>
<b>Can thiệp hịa nhập </b>
Hình thức can thiệp này được thực hiện tại các trường học bình thường hoặc tại các trường chuyên biệt dành cho trẻ chậm nói và trẻ có những rối loạn liên quan đến ngơn ngữ. Việc đầu tiên trong quá trình can thiệp là đánh giá mọi khả năng của trẻ (đặc biệt là khả năng ngôn ngữ) để lập một kế hoạch giáo dục cá nhân phù hợp cho từng trẻ. Tiến trình can thiệp là một chu kỳ. Hết một chu kỳ khoảng ba tháng, kế hoạch mới được lập ra, một chu trình mới lại bắt đầu. Việc đánh giá của nhà trường có sự phối hợp của một nhóm đa chức năng bao gồm bác sĩ, nhà tâm lý, giáo viên giáo dục đặc biệt, chuyên viên âm ngữ trị liệu.
Sau khi đánh giá mức độ phát triển của trẻ, kế hoạch giáo dục cá nhân được lập ra. Nội dung kế hoạch dựa trên các mặt mạnh, yếu của trẻ về nhận thức, ngôn ngữ, vận động, kỹ năng xã hội, kỹ năng giao tiếp... Kết thúc giai đoạn thực hiện kế hoạch là việc đánh giá lại mức độ phát triển của trẻ sau khi được hướng dẫn; đồng thời đúc kết lại những nhận xét trong quá trình trị liệu cho trẻ về nội dung hướng dẫn, cách hướng dẫn ... để đưa ra kế hoạch lần sau đạt hiệu quả hơn.
Như vậy có thể thấy, các cơng trình nghiên cứu về trẻ chậm nói chủ yếu được thực hiện bởi các nhà khoa học ngoài nước. Những nghiên cứu này phần lớn quan tâm đến các khó khăn mà một trẻ chậm nói gặp phải trong quá trình phát triển cá nhân và mối quan hệ liên cá nhân, các yếu tố tác động đến tình trạng chậm nói của trẻ, các phương thức đánh giá và chương trình can thiệp cho trẻ chậm nói. Mặc dù tiếp cận hiện tượng chậm nói của trẻ theo những phương thức khác nhau, với các quan điểm đánh giá, sàng lọc, can thiệp khác nhau, nhưng các nghiên cứu đều xác định trẻ chậm nói là trẻ có sự phát triển ngơn ngữ bình thường nhưng ở độ tuổi nhỏ hơn, các lĩnh vực phát triển tâm vận động khác của trẻ vẫn tương ứng với độ tuổi thực.
Các cơng bố mang tính khoa học ở trong nước về vấn đề này rất ít, thường tập trung vào các dạng rối loạn ngôn ngữ và các biểu hiện rối loạn ngôn ngữ đi kèm các rối loạn khác, đặc biệt là rối loạn phổ tự kỷ, rối loạn học tập ở trẻ em. Các chuyên gia trong nước hướng tới việc ứng dụng vào thực tiễn các phương pháp đánh giá sàng lọc, can thiệp trị liệu nhiều hơn là nghiên cứu tìm kiếm nguyên nhân, thực trạng của chứng chậm nói ở trẻ và hiệu quả của các phương pháp đánh giá, sàng lọc và can thiệp trị liệu.
<small>9 </small>
Như vậy, việc nghiên cứu trẻ chậm phát triển ngơn ngữ nói riêng và chậm phát triển trí tuệ nói chung, đều dựa trên thuyết về yếu tố di truyền, sinh học thần kinh và/hoặc các cơ chế nhận thức cụ thể trong quá trình học tập. Sau này có nhiều nguyên nhân được lý giải dựa trên ứng dụng các lĩnh vực khác như Tâm lý học, Xã hội học,… nhưng các nghiên cứu này chưa được phổ biến rộng rãi, cần khảo cứu thêm.
<b>4. Đối tượng và khách thể nghiên cứu </b>
<i><b>4.1. Đối tượng nghiên cứu </b></i>
<i>Đối tượng nghiên cứu của đề tài là “Công tác xã hội cá nhân trong việc hỗ trợ </i>
<i>trẻ em chậm phát triển ngôn ngữ tại trung tâm giáo dục Đậu Nhí”. </i>
<i><b>4.2. Khách thể nghiên cứu </b></i>
Khách thể nghiên cứu của đề tài bao gồm: 27 người - Trẻ chậm phát triển ngôn ngữ: 1 người.
- Người nhà trẻ chậm phát triển ngôn ngữ - nhận thức: 3 người.
- Cán bộ, công nhân viên làm việc tại Trung tâm giáo dục Đậu Nhí: 13 người.
</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18"><b>7. Câu hỏi và giả thuyết nghiên cứu </b>
<i><b>7.1. Câu hỏi nghiên cứu </b></i>
<i><b>Câu hỏi 1: Thực trạng hỗ trợ cho trẻ CPTNN tại cơ sở nghiên cứu diễn ra như </b></i>
thế nào?
<i><b>Câu hỏi 2: Việc thực hiện hỗ trợ CTXH cá nhân với đối tượng thân chủ là trẻ </b></i>
mắc chứng CPTNN có ý nghĩa như thế nào?
<i><b>7.2. Giả thuyết nghiên cứu </b></i>
<i><b>Giả thuyết 1: Trường hợp trẻ CPTNN chưa được nhận hỗ trợ phù hợp, gây ảnh </b></i>
hưởng đến khả năng cho việc tái hòa nhập cộng đồng của trẻ.
<i><b>Giả thuyết 2: Kết nối vận dụng CTXH cá nhân đem đến hiệu quả tới trẻ mắc </b></i>
chứng CPTNN theo hướng tích cực như: Chia sẻ với trẻ, giải tỏa áp lực về cảm xúc, hòa nhập với cộng đồng, định hướng và khả năng của trẻ.
<b>8. Phương pháp nghiên cứu </b>
<i><b>8.1. Phương pháp phân tích tài liệu </b></i>
Phương pháp nghiên cứu tài liệu là một phương pháp được sử dụng phổ biến trong các nghiên cứu khoa học nhằm mục đích để thu thập, tìm kiếm, phân tích thơng tin để từ đó chắt lọc được cơ sở lý thuyết liên quan đến chủ đề nghiên cứu, thành tựu lý thuyết đã đạt được liên quan đến chủ đề nghiên cứu, kết quả nghiên cứu của đồng nghiệp đã công bố trên các ấn phẩm, chủ trương và chính sách liên quan đến nội dung nghiên cứu và số liệu thống kê.
<small>11 </small>
Qua việc nghiên cứu tài liệu trong và ngồi nước tác giả có được cái nhìn tổng quát về thực trạng, hoạt động khám chữa bệnh cũng như các hoạt động CTXH hiên nay đang được áp dụng để hỗ trợ cho các trẻ mắc chứng CPTNN tại Trung tâm giáo dục Đậu Nhí.
<i><b>8.2. Phương pháp quan sát </b></i>
Đây là phương pháp được sử dụng phổ biến trong các ngành Khoa học xã hội như Tâm lý học, Xã hội học đặc biệt là ngành Công tác xã hội. Quan sát là phương pháp tri giác có mục đích, có kế hoạch một sự kiện, hiện tượng, quá trình (hay hành vi cử chỉ của con người) trong những hoàn cảnh tự nhiên khác nhau nhằm thu thập những số liệu, sự kiện cụ thể đặc trưng cho quá trình diễn biến của sự kiện, hiện tượng đó. Quan sát sử dụng một trong hai trường hợp: phát hiện vấn đề nghiên cứu: đặt giả thuyết kiểm chứng giả thuyết. Quan sát đem lại cho người nghiên cứu những tài liệu cụ thể, cảm tính trực quan, song có ý nghĩa khoa học rất lớn, đem lại cho khoa học những giá trị thực sự.
Bằng việc áp dụng phương pháp quan sát, đối với từng khách thể nhân viên Công tác xã hội sẽ phát hiện, đánh giá ban đầu về thực trạng hoạt động của các hoạt động hỗ trợ cho bệnh nhi mắc bệnh liên quan đến chuyển hóa hiện nay. Bên cạnh đó phương pháp này cho phép sinh viên phát hiện những kiểm mẫu hành vi, thái độ và sự thay đổi của thân chủ trong quá trình làm việc ….
<i><b>8.3. Phương pháp điều tra/khảo sát bằng bảng hỏi </b></i>
Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi là phương pháp dung hàng loạt những câu hỏi đã được sắp xếp và chọn lọc để thu được những thông tin cần thiết, khách quan phục vụ cho quá trình khảo sát, nghiên cứu. Đây là phương pháp quan trọng để đánh giá hiện trạng giáo dục, về mặt kỹ thuật phương pháp điều tra viết có 3 cơng việc cần quan tâm: Chọn mẫu, thiết kế bảng hỏi và xử lý kết quả.
<i><b>8.4. Phương pháp phỏng vấn </b></i>
Phỏng vấn sâu cho phép người làm nghiên cứu có thể thảo luận những vấn đề cá nhân hay những vấn đề nhạy cảm, có thể tiếp xúc với nhiều kiểu thân chủ khác nhau. Ngoài thân chủ, phương pháp này cũng áp dụng đối với những mối quan hệ xung quanh thân chủ như người nhà thân chủ, các nhân viên y tế trực tiếp chăm sóc thân chủ. Qua
</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20"><small>12 </small>
đó tìm hiểu rõ hơn tình trạng của thân chủ để xác nhận vấn đề ưu tiên và hướng giải quyết vấn đề.
<i><b>8.5. Phương pháp công tác xã hội cá nhân </b></i>
Phương pháp CTXH cá nhân là một trong ba phương pháp chính của ngành CTXH. Phương pháp CTXH cá nhân cho phép tác giả tiếp cận và tập trung vào các hệ thống, những khả năng, tiềm lực... của cá nhân (hay chính là thân chủ). Cùng với đó tác giả kết hợp với tiến trình CTXH cá nhân để có thể can thiệp với các vấn đề của thân chủ. Vận dụng 7 bước trong tiến trình CTXH cá nhân nhằm đề ra kế hoạch trợ giúp cho thân chủ, cụ thể là trong vấn đề điều trị bệnh đái tháo đường và hoạch định những kế hoạch trong tương lai.
Bước 1: Tiếp cận địa bàn, tìm kiếm TC;
Bước 2: Thu thập thông tin, bước đầu xác định vấn đề của TC; Bước 3: Phân tích nguyên nhân, xác định vấn đề;
Bước 4: Lập kế hoạch giải quyết vấn đề; Bước 5: Triển khai kế hoạch trợ giúp; Bước 6: Lượng giá;
Bước 7: Kết thúc.
<small>13 </small>
<b>1.1. Các khái niệm công cụ </b>
<i><b>1.1.1. Khái niệm công tác xã hội </b></i>
Hiện nay, CTXH có nhiều khái niệm, định nghĩa khác nhau. Theo Hiệp hội CTXH quốc tế và các trường đào tạo CTXH quốc tế (2011): CTXH là nghề nghiệp tham gia vào giải quyết vấn đề liên quan tới mối quan hệ của con người và thúc đẩy sự thay đổi xã hội, tăng cường sự trao quyền và giải phóng quyền lực nhằm nâng cao chất lượng sống của con người. CTXH sử dụng các học thuyết về hành vi con người và lý luận về hệ thống xã hội vào can thiệp sự tương tác của con người với môi trường sống (dẫn theo Bùi Thị Xuân Mai (2010)). [2]
Theo đề án 32 của Thủ tướng Chính phủ Việt Nam năm 2010, CTXH góp phần giải quyết hài hịa mối quan hệ giữa con người và con người, hạn chế phát sinh các vấn đề xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống của thân chủ xã hội, hướng tới một xã hội lành mạnh, công bằng, hạnh phúc cho người dân và xây dựng hệ thống an sinh xã hội tiên tiến (Quyết định của Thủ tướng chính phủ, 2010).
<i>Trong khn khổ khóa luận này, tác giả khái niệm: CTXH là một nghề nghiệp </i>
<i>giải quyết mối quan hệ giữa con người và con người, thúc đẩy thay đổi xã hội, hạn chế phát sinh các vấn đề xã hội nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống của con người. </i>
<i><b>1.1.2. Khái niệm công tác xã hội cá nhân </b></i>
Công tác xã hội cá nhân (CTXHCN) là hoạt động dịch vụ xã hội trực tiếp hướng đến các thân chủ do các nhân viên cộng đồng thực hiện. Các nhân viên này phải có các kỹ năng trong việc giải quyết các vấn đề về nguồn lực, các vấn đề về xã hội và xúc cảm. Đây là một hoạt động mang tính chun ngành để qua đó các nhu cầu của thân chủ được đánh giá trong các bối cảnh xã hội và quan hệ xã hội của cá nhân đó. Nhân viên cơng tác xã hội (NVCTXH) cá nhân hướng đến nâng cao sức mạnh của các TC nhằm giải quyết các vấn đề và đối mặt các vấn đề một cách hiệu quả trong môi trường sống của
</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22"><small>14 </small>
họ. Các dịch vụ thông qua NVXH bao gồm nhiều vấn đề từ việc trợ giúp về vật chất đến các vấn đề tham vấn phức hợp (Specht & Vickery, 1977) [29].
<i>Tác giả Nguyễn Thị Oanh (1998) thì đưa ra khái niệm CTXHCN là “một phương </i>
<i>pháp can thiệp (của CTXH) quan tâm đến những vấn đề về nhân cách mà một thân chủ cảm nghiệm. Mục đích của CTXHCN là phục hồi, củng cố và phát triển sự thực hành bình thường các chức năng xã hội của cá nhân và gia đình” [8]. Ở đây, chức năng xã </i>
hội được hiểu là hoạt động đối phó của con người và tương tác từ mơi trường. Vì vậy, khi NVCTXH làm việc với TC luôn đặt TC trong mối quan hệ con người - môi trường, con người - hồn cảnh để tìm hiểu, can thiệp và hỗ trợ.
<i>Như vậy, CTXHCN là một phương pháp can thiệp trong CTXH do NVCTXH thực </i>
<i>hiện nhằm điều trị, phục hồi, củng cố và phát triển khả năng đối phó và giải quyết các vấn đề một cách hiệu quả trong môi trường sống của họ. </i>
Trong phạm vi nghiên cứu của khóa luận, tác giả nghiên cứu tập trung cho nhóm đối tượng trẻ em khuyết tật, cần thiết phối hợp với trung tâm giáo dục, độ tuổi từ 6 đến 16 tuổi, đặc biệt tìm hiểu thực trạng CTXHCN với các trẻ CPTNN và các biện pháp can thiệp CTXHCN đối với nhóm trẻ này.
<small>15 </small>
<i><b>1.1.4. Khái niệm trẻ chậm phát triển ngôn ngữ </b></i>
1. Đặc điểm của trẻ chậm phát triển ngôn ngữ
Chậm ngôn ngữ là một hiện tượng rối loạn ngôn ngữ ở trẻ nhỏ. Về vấn đề chậm ngơn ngữ ở trẻ có các định nghĩa khác nhau.
Theo cuốn sách “Tâm bệnh học trẻ em”, Tủ sách tâm lí, đưa ra định nghĩa: Chậm ngơn ngữ đơi khi cịn được gọi là chậm ngôn ngữ đơn thuần, nghĩa là cái mà chúng ta giả định: sự chậm này là riêng biệt, khơng có chậm khơn.
Rất nhiều mơ tả chậm ngơn ngữ muốn chi tiết hóa các ngơn ngữ của những trẻ bị, đã nhấn mạnh các đơn giản hóa phát âm của chúng, đã nhắc lại cái hay ho của ngữ pháp kém và cấu trúc lời nói kém.
Theo đó, chậm ngơn ngữ ở trẻ kết hợp theo các cách khác nhau: - Chậm cấu âm hoặc chậm phát âm, nhưng có thể rất ít hoặc khơng có. - Chậm ngữ pháp và ngơn ngữ, khá quan trọng.
- Những khó khăn có thể có về sau, đơi khi kết hợp với vấn đề kém các âm vị khi thử nghiệm nhắc lại các từ dài.
- Hiếm gặp các rối loạn hiểu.
Theo Tiến sĩ Trần Thị Thu Hà, Phó trưởng khoa phục hồi chức năng (Bệnh Viện Nhi Trung Ương): Chậm ngơn ngữ là một tình trạng rối loạn phát triển ngôn ngữ, không được gọi là một bệnh.
Theo một số nghiên cứu cho rằng: Trẻ chậm ngơn ngữ là những trẻ chưa có khả năng trao đổi những điều thông thường khi đã 3 tuổi.
Chậm ngơn ngữ (nói lắp, nói từng từ một...) là biểu hiện một khiếm khuyết của giác quan trong trường hợp trẻ bị điếc hay trong hội chứng tự kỉ, chậm khôn. Chậm ngôn ngữ là một rối loạn trong việc diễn tả ngôn ngữ chỉ xuất hiện khi nói với người khác, là một rối loạn chức năng giao tiếp bằng lời, chậm ngôn ngữ là tình trạng phát âm khơng chuẩn một hay một nhóm âm vị.
Theo Thạc sĩ Ngôn ngữ trị liệu Nguyễn Tường Anh, chậm phát triển ngôn ngữ được mô tả như sau:
+ Không diễn tả tư tưởng mạch lạc.
</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24"><small>16 </small>
+ Không ghi nhớ được chi tiết mà người khác nói. + Khơng nhớ để lặp lại một câu nói.
+ Khơng biết đặt câu hỏi.
+ Không biết trả lời các câu hỏi, không biết nhiều từ vựng. + Yếu khả năng hiểu nghĩa bóng, thành ngữ.
+ Khơng có khả năng kể một câu chuyện quen thuộc.
Chậm ngôn ngữ đơn thuần khác với chậm ngôn ngữ của hội chứng tự kỷ, trẻ có thể hiểu được lời nói và một số mệnh lệnh đơn giản của người khác.
Trẻ chậm ngơn ngữ có nhiều biểu hiện khác nhau, có trẻ chỉ phát ra những tiếng vơ nghĩa, lặp đi lặp lại khơng dứt, có trẻ phát âm rõ ràng nhưng chỉ nói từ đơn, khơng có khả năng ghép hai từ hay nhiều hơn hai từ thành một câu.
Một số ý kiến cho rằng chậm ngôn ngữ là sau 6 tháng trẻ chưa nói được từ đơn, sau 24 tháng trẻ chưa nói được câu 2 – 3 từ. Trẻ có thể bắt đầu nói muộn hơn khi bắt đầu nói từng từ đơn lúc 4 – 5 tuổi. Những từ đầu tiên của trẻ nhiều khi không rõ, ngọng ngu.
Như vậy có rất nhiều cách hiểu khác nhau về trẻ chậm ngơn ngữ, theo quan điểm chúng tơi thì trẻ chậm ngơn ngữ là những trẻ vẫn có khả năng giao tiếp nhưng khó khăn, chậm hơn so với những trẻ bình thường cùng trang lứa, trẻ khơng đạt được các ngưỡng phát triển ngôn ngữ thông thường và thường chậm hơn so với những trẻ bình thường cùng lứa tuổi ít nhất một năm. Trong khn khổ bài nghiên cứu này, chúng tơi tập trung vào nhóm trẻ chậm phát triển ngơn ngữ đơn thuần.
2. Khó khăn của trẻ chậm phát triển ngôn ngữ
Chậm ngôn ngữ ở trẻ là một trong những hiện tượng rối loạn về ngôn ngữ. Nếu không được phát hiện sớm và can thiệp sớm có thể để lại những hậu quả vô cùng nghiêm trọng sau này đối với bản thân trẻ, với gia đình có trẻ chậm ngơn ngữ và cả cộng đồng xã hội.
Nó là một hiện tượng ảnh hưởng trực tiếp lên tất cả các mặt sinh hoạt, tác động lên cá nhân trẻ, mất hứng thú học tập, dòng tư duy chậm chạp, kém hiệu quả, hành vi,
<small>17 </small>
thái độ không phù hợp với cả bản thân trẻ và các chuẩn mực đạo đức mà xã hội đặt ra. Nó khơng chỉ ảnh hưởng đến bản thân trẻ mà còn ảnh hưởng tới những người xung quanh, người thân của trẻ vì những cảm giác, tâm trạng buồn chán.
“Bản chất của con người là tổng hoà các mối quan hệ của xã hội” (C.Mac). Giao tiếp là một hoạt động xã hội, giúp con người trở thành một thành viên tích cực của xã hội. Mà ngơn ngữ là cơng cụ của giao tiếp. Chính vì thế, trẻ bị chậm ngôn ngữ kéo theo nguy cơ không hồ nhập được trong hồn cảnh xã hội và khơng tạo lập được cho mình một mối quan hệ tích cực trong mơi trường xung quanh. Khi khơng hồ nhập được trong xã hội thì khả năng giao tiếp của trẻ với mọi người xung quanh bị hạn chế. Kéo theo sự chậm chạp trong nhận thức cũng như sự phát triển trí tuệ, ảnh hưởng tới q trình học tập của trẻ sau này.
Dù do nguyên nhân nào gây ra thì chậm ngơn ngữ cũng sẽ để lại hậu quả nghiêm trọng. Chính vì thế, nó cần có các biện pháp tác động và được chữa trị kịp thời, vì càng để lâu càng khó chữa trị hơn. Nếu để trẻ phát triển tự nhiên trong khi ngơn ngữ của trẻ có những khó khăn thì trẻ sẽ có khó khăn về mặt phát triển tâm lí: chậm nhận thức so với bạn bè cùng lứa tuổi, khó khăn trong diễn đạt ngơn ngữ, dẫn đến có tâm lí mặc cảm, tự ti, khơng phát triển được các mối quan hệ trong giao tiếp, bị bạn bè trêu chọc, đánh mắng, bị cô lập, ám sợ đám đơng, trường học. Vì thế, có thể biểu hiện ra ngồi như: ít giao tiếp, nhút nhát, tự ti, chơi một mình hay có trẻ lại mất tập trung, chạy nhảy quá mức, không chịu phản ứng hồi đáp bằng ngôn ngữ với người khác, nghịch ngợm hay cáu gắt, nói ra một tràng âm khơng có nghĩa, nhắc lại lời của người khác một cách nguyên vẹn. Nếu không chữa trị và can thiệp sớm sẽ rất khó để khắc phục. Nó khơng chỉ ảnh hưởng tới bản thân trẻ mà cịn ảnh hưởng đến xã hội. Vì vậy, trách nhiệm của mỗi người là hiểu biết về nó và có sự can thiệp sớm, đúng hướng để trẻ 3 – 4 tuổi chậm ngôn ngữ phát triển khả năng giao tiếp như những trẻ bình thường và sớm hồ nhập cùng bạn bè trang lứa.
3. Nội dung hỗ trợ cho trẻ chậm phát triển ngôn ngữ
Phát triển khả năng giao tiếp cho trẻ 3 – 4 tuổi chậm ngôn ngữ là một việc làm rất quan trọng và có ý nghĩa to lớn đối với sự phát triển và thành công của trẻ trong tương lai sau này. Tuy nhiên, để phát triển khả năng giao tiếp cho trẻ chúng ta phải làm
</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26"><small>18 </small>
như thế nào, bằng phương pháp nào và phát triển những nội dung gì cịn là một câu hỏi khó đối với các giáo viên mầm non cũng như phụ huynh có con chậm ngơn ngữ. Dưới đây chúng tôi xin đưa ra một số nội dung phát triển ngôn ngữ cho trẻ 3 – 4 tuổi: *Phát triển khả năng nghe, hiểu lời nói của trẻ
Một số trẻ em chậm ngơn ngữ do không nghe được, không hiểu được ý nghĩa, nội dung câu chuyện hay không hiểu, không tiếp thu được những lời người khác nói. Một số trẻ khơng hiểu những gì người khác hỏi, khi được hỏi hay nhắc lại câu hỏi của người khác hoặc không biết cách trả lời, hoặc khi được hỏi thì nói ra một tràng mà người nghe khơng hiểu gì cả. Một số trẻ hiểu nội dung câu hỏi và làm một cách rất tốt nhưng lại khơng tự nói được, khi được mớm lời trẻ vẫn có thể nói được.
Để giúp trẻ có thể nghe và hiểu được lời nói của người khác chúng ta xây dựng các bài tập lắng nghe, tiếp thu và hiểu biết ý nghĩa của một số tình huống trong cuộc sống hàng ngày. Vì vậy, phát triển khả năng nghe, hiểu lời nói trong giao tiếp là một trong những nội dung vô cùng quan trọng của việc phát triển khả năng giao tiếp cho trẻ 3 – 4 tuổi chậm ngôn ngữ.
Một số trẻ khơng hiểu những gì người khác hỏi, khi được hỏi hay nhắc lại câu hỏi của người khác hoặc không biết cách trả lời, hoặc khi được hỏi thì nói ra một tràng mà người nghe khơng hiểu gì cả. Một số trẻ hiểu nội dung câu hỏi và làm một cách rất tốt nhưng lại khơng tự nói được, khi được mớm lời trẻ vẫn có thể nói được.
Để giúp trẻ có thể nghe và hiểu được lời nói của người khác chúng ta xây dựng các bài tập lắng nghe, tiếp thu và hiểu biết ý nghĩa của một số tình huống trong cuộc sống hàng ngày. Vì vậy, phát triển khả năng nghe, hiểu lời nói trong giao tiếp là một trong những nội dung vô cùng quan trọng của việc phát triển khả năng giao tiếp cho trẻ 3 – 4 tuổi chậm ngôn ngữ.
* Phát triển khả năng diễn đạt trong lời nói của trẻ
Khả năng diễn đạt ý kiến rõ ràng bằng lời là khả năng sử dụng ngôn ngữ bằng lời một cách lưu lốt, trơi chảy, khơng vướng mắc, nói ngọng, nói lắp.
Tuy nhiên, đối với những trẻ chậm ngôn ngữ ở độ tuổi 3 – 4 tuổi thì khả năng nói hay diễn đạt ý kiến của mình bị hạn chế. Như chúng ta đã biết, chậm ngôn ngữ ở trẻ là
<small>19 </small>
hiện tượng ngôn ngữ không phát triển bình thường như những trẻ khác cùng lứa tuổi. Trẻ khơng biết nói bị bộ, líu lo, khơng có khả năng bắt chước tiếng kêu của người lớn. Đôi khi trẻ nói một cách kì lạ, khơng đúng tình huống, trả lời không đúng câu hỏi, ngữ pháp lộn xộn, cụt lủn.
Khơng tìm từ đúng ngữ cảnh, sử dụng từ không đúng ngữ cảnh, đôi khi dùng từ chung chung khơng cụ thể, trẻ khơng nhìn ra được các lỗi trong ngơn ngữ, kém trí nhớ. Có trẻ thì ln tỏ thái độ hay trả lời là không biết nhưng thật ra là trẻ không hiểu câu hỏi, có khiếm khuyết xử lí thơng tin từ câu hỏi. Có trẻ thì ln lặp lại câu hỏi của người khác.
Khi trẻ tập nói, trẻ thường nói theo cách rất cụ thể, chẳng hạn dùng câu nói để diễn tả nhu cầu của bản thân. Chúng thường lặp lại những từ, câu và dùng các từ hay câu này, hoặc chỉ đơn giản là lặp lại những gì chúng nghe được. Trẻ chỉ hiểu nghĩa đen của câu nói. Khơng hiểu những kiểu nói đùa, suy luận hay tu từ, khi có ai đó nói đùa đơi khi trẻ hay nhầm lẫn, và cịn có thể phát cáu, bực bội. Trẻ gặp khó khăn khi cố gắng tìm hiểu ngơn ngữ cơ thể, điệu bộ cơ thể, những cách phản ứng hay cảm xúc của người khác. Chính vì vậy cần thiết phải phát triển khả năng diễn đạt trong lời nói cho trẻ.
Như vậy, khi tổ chức bất kì hoạt động nào cho trẻ 3 – 4 tuổi chậm ngôn ngữ cần phải chú ý đến 2 nội dung trên và cần thực hiện chúng một cách thống nhất, logic.
<i><b>1.1.5. Công tác xã hội cá nhân với trẻ chậm phát triển ngôn ngữ </b></i>
Vai trị của một nhân viên cơng tác xã hội trong công tác xã hội cá nhân với trẻ chậm phát triển ngôn ngữ là rất quan trọng và đa dạng. Nhân viên cơng tác xã hội có nhiệm vụ hỗ trợ và đồng hành cùng trẻ chậm phát triển ngơn ngữ và gia đình của họ trong quá trình phát triển và tìm kiếm các giải pháp phù hợp.
Đầu tiền là đánh giá và phát hiện sớm, với vai trị là nhân viên cơng tác xã hội có thể tham gia vào q trình đánh giá sớm để xác định sự chậm trễ trong phát triển ngôn ngữ và nhận thức của trẻ. Nhân viên cơng tác xã hội có thể tham gia vào q trình phát hiện sớm, ghi nhận các dấu hiệu và tìm kiếm thơng tin về các phương pháp và tài nguyên hỗ trợ.
</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28"><small>20 </small>
Tiếp theo đó là tư vấn và hướng dẫn gia đình. Nhân viên cơng tác xã hội có thể cung cấp tư vấn và hướng dẫn cho gia đình về các tài ngun, dịch vụ và chương trình hỗ trợ có sẵn để giúp trẻ chậm phát triển ngơn ngữ. Ngồi ra cịn có thể là nguồn thơng tin và liên kết gia đình với các chuyên gia, bác sĩ, giáo viên và các tổ chức hỗ trợ.
Lập kế hoạch và hỗ trợ cá nhân, nhân viên công tác xã hội có thể làm việc với gia đình và trẻ để xác định các mục tiêu và phương pháp phù hợp cho trẻ chậm phát triển ngơn ngữ. Có thể thực hiện việc lập kế hoạch, theo dõi tiến trình và cung cấp hỗ trợ cá nhân hoặc nhóm thơng qua việc tạo ra các kế hoạch hành động, giúp trẻ phát triển kỹ năng cần thiết và tăng cường nhận thức.
Xây dựng mạng lưới cộng đồng, nhân viên công tác xã hội có thể làm việc với các tổ chức, cộng đồng và cá nhân khác để xây dựng mạng lưới hỗ trợ cho trẻ chậm phát triển ngôn ngữ. Có thể giúp tạo ra các cơ hội kết nối và chia sẻ thông tin, tài nguyên, và các chương trình hỗ trợ có sẵn để tăng cường khả năng phát triển của trẻ.
Cuối cùng là tư vấn và hỗ trợ tâm lý. Nhân viên công tác xã hội cũng có thể cung cấp tư vấn và hỗ trợ tâm lý cho trẻ và gia đình trong việc đối mặt với thách thức của sự chậm phát triển ngơn ngữ. Và có thể cung cấp hỗ trợ để giảm căng thẳng, tăng cường khả năng thích ứng và xử lý tình huống khó khăn.
<i><b>1.1.6. Trung tâm chuyên biệt </b></i>
Em viết và phân tích thêm ý này để cho người đọc thấy được môi trường học tập của trẻ, mơi trường hỗ trợ tích cực cá nhân cho trẻ tuy nhiên sự va chạm với các bạn trong lớp để có nhiều cơ hội giao tiếp cịn hạn chế….em phân tích thêm dựa theo quan sát và hiểu biết của mình
<b>1.2. Lý thuyết ứng dụng trong nghiên cứu </b>
<i><b>1.2.1. Thuyết hệ thống của Bertalanffy </b></i>
Thuyết hệ thống được phát triển vào những năm 30 và 40 của thế kỷ XX do nhà sinh học Ludvig Von Bertalanffy khởi xướng. Thuyết hệ thống bao quát mọi lĩnh vực (tin học, sinh học, kinh tế học, xã hội học). Một hệ thống được định nghĩa là tổng thể phức hợp gồm nhiều yếu tố liên quan với nhau và mỗi biến động trong một yếu tố nào
Hệ thống bao gồm hệ thống vi mô, trung mô và vĩ mơ. Mỗi hệ thống đều có vai trị riêng và tác động qua lại lẫn nhau. Xoay quanh trẻ thiểu năng trí tuệ cũng có các hệ thống khác ngồi hệ thống vi mơ như: gia đình, bạn bè, các tổ chức, trường học, bệnh viện, các hoạt động vui chơi, giải trí... Chúng ta có thể dựa vào mức độ ảnh hưởng mà tác động lên đối tượng nhằm thay đổi và cải thiện những yếu tố xung quanh đối tượng một cách phù hợp và hiệu quả.
Áp dụng thuyết hệ thống này trong quá trình nghiên cứu có thể giúp cho người nghiên cứu có được cái nhìn tổng quát hơn qua sơ đồ hệ thống. Từ đó nhận diện rõ vấn đề và có tác động thích hợp lên các hệ thống để tạo ra thay đổi tích cực.
<i><b>1.2.2. Thuyết hệ thống nhu cầu của Maslow </b></i>
<b>Hình 1.1: Thuyết hệ thống nhu cầu của Maslow </b>
</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30"><small>22 </small>
Maslow đã xây dựng học thuyết nhu cầu vào những năm 50 của thế kỷ XX. Lý thuyết nhu cầu của Maslow giải thích những nhu cầu nhất định của con người cần được đáp ứng như thế nào để một cá nhân hướng đến cuộc sống lành mạnh và có ích cả về thể chất lẫn tinh thần.
Lý thuyết của ông giúp cho ta về hiểu thêm những nhu cầu của con người bằng cách nhận diện một hệ thống thứ bậc các nhu cầu. Ông đã đem các loại nhu cầu khác nhau của con người, căn cứ theo tính địi hỏi của nó và thứ tự phát sinh trước sau của chúng để quy về 5 loại sắp xếp thành thang bậc về nhu cầu của con người từ thấp đến cao. Từ nhu cầu sinh lý, vật chất đến nhu cầu an sinh; nhu cầu được thừa nhận, yêu thương; nhu cầu tự trọng, được tôn trọng và cuối cùng là nhu cầu phát triển. Nếu một trong những nhu cầu cấp thấp khơng được đáp ứng thì sự phát triển sẽ có sự lệch lạc. Đặc điểm của các bậc nhu cầu như sau:
- Nhu cầu sinh lý, vật chất: Đây là nhu cầu cơ bản nhất trong hệ thống các thứ bậc nhu cầu, nó liên quan trực tiếp đến sự sinh tồn của mỗi con người. Nhu cầu này bao gồm nhu cầu ăn, mặc, ở, đi lại... Những nhu cầu này đối với mỗi người đến không thể thiếu. Đối với các trẻ bị thiểu năng trí tuệ thì càng khơng thể thiếu vì cơ bản trẻ đã khơng thể tự chăm sóc bản thân, các trẻ phải phụ thuộc rất nhiều vào gia đình, các trung tâm.
- Nhu cầu an sinh, an toàn: Nhu cầu này đảm bảo cho con người có một mơi trường khơng nguy hiểm, có lợi cho sự phát triển liên tục và lành mạnh ở trẻ. Các mặt an toàn bao gồm: an tồn lao động, an tồn mơi trường, an tồn tâm lý, an toàn ở và đi lại, an toàn sức khỏe... Nhu cầu này nếu khơng được đảm bảo thì con người sẽ không thể thực hiện các nhu cầu khác. Hơn hết, các trẻ bị thiểu năng trí tuệ thì càng cần phải đáp ứng nhu cầu này vì các trẻ không thể tự bảo vệ bản thân. - Nhu cầu được thừa nhận, yêu thương: Ở mức nhu cầu này hoạt động giao tiếp
được coi trọng. Sự tổn thương về mặt tâm lý trong mơi trường gia đình, nhà trường và xã hội sẽ làm cho trẻ không thể phát triển lên bậc cao hơn. Nhu cầu này rất phong phú và phức tạp bao gồm: sự yêu thương, gần gũi, thân cận, khích lệ... .
- Nhu cầu được tôn trọng và tự trọng: Nhu cầu này bao gồm lịng tự trọng và được ngừi khác tơn trọng. Cá nhân cảm nhận, tự đánh giá về bản thân thông qua những
Việc vận dụng thuyết nhu cầu của Maslow trong nghiên cứu là việc rất cần thiết và phù hợp đối với nhu cầu của trẻ CPTNN. Trẻ khuyết tật nói chung và trẻ CPTNN nói riêng là những đối tượng cần được đáp ứng những nhu cầu này nhất để các trẻ có thể phát triển tốt hơn và dễ dàng hòa nhập với xã hội hơn với đầy đủ các cơ hội. Đồng thời thuyết còn giúp ta đánh giá được mức độ cần thiết của các loại nhu cầu để ta có thể đáp ứng nhu cầu cần thiết nhất cho đối tượng.
</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32"><small>24 </small>
Trong chương 1, chúng tôi đã nghiên cứu và đề xuất một phương pháp luận về công tác xã hội cá nhân nhằm hỗ trợ trẻ em chậm phát triển ngôn ngữ. Với các khái niệm cơ bản đặc trưng của nghề CTXH được đưa ra, với CTXH cá nhân, CTXH đối với trẻ chậm phát triển ngơn ngữ. Cùng với đó là vai trị của NVCTXH đối với trẻ chậm phát triển ngôn ngữ.
Với các phương pháp luận được đưa ra về chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử, hướng tiếp cận nghiên cứu. Cùng với các lý thuyết được áp dụng trong khóa luận như thuyết nhu cầu của Maslow, thuyết hệ thống của Ludvig Von Bertalanffy sẽ giúp cho tác giả hiểu rõ hơn sự phát triển tâm sinh lý, hành vi, nhận thức cũng như các yếu tố tác động tới sự phát triển của trẻ, đặc biệt là những trẻ tuổi 3-4 tuổi nói chung và nhóm trẻ chậm phát triển ngơn ngữ nói riêng.
Bắt đầu từ tháng 4/2020, để thích ứng với số lượng lớn phụ huynh tin tưởng và gửi gắm con trẻ của mình cho trung tâm, Đậu Nhí đã mở rộng cơ sở vật chất bằng việc thuê nguyên căn nhà gồm năm tầng, tiến hành sửa chữa, nâng cấp để phục vụ mục đích giáo dục.
Đến 11/2022 nhu cầu ngày càng tăng cao, Đậu Nhí đã mở rộng thêm cơ sở để đáp ứng được tối đa nhu cầu của phụ huynh học sinh.
<i><b>2.1.2. Mơ hình tổ chức </b></i>
<b>Hình 2.1: Hệ thống tổ chức trung tâm Đậu Nhí. </b>
Quy mơ của trung tâm gồm một Giám đốc chuyên môn: Nguyễn Thị Đỗ Quyên, một quản lý: Đỗ Thị Hường, một thư ký/kế tốn: Nguyễn Thị Thúy và cịn lại là các cô giáo.
</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34"><small>26 </small>
<b>2.2. Thực trạng của vấn đề nghiên cứu </b>
<i><b>2.2.1. Thực trạng nhận thức của cha mẹ và giáo viên về vấn đề hỗ trợ trẻ chậm phát triển ngôn ngữ </b></i>
*Vấn đề phát triển khả năng giao tiếp cho trẻ 3 – 4 tuổi CPTNN là một vấn đề khá mới mẻ và trở thành đề tài nghiên cứu của một số nhà khoa học trong những năm gần đây. Theo khảo sát, hầu hết các giáo viên tại trung tâm Đậu Nhí đều nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này.
<b>Hình 3: Nhận thức của giáo viên trung tâm Đậu Nhí về vấn đề phát triển khả năng giao tiếp cho trẻ CPTNN. (Nguồn: Tác giả khảo sát) </b>
Theo điều tra tại địa bàn trung tâm Đậu Nhí chúng tơi nhận thấy có tới 82,4 % giáo viên cho rằng vấn đề phát triển khả năng giao tiếp cho trẻ 3 – 4 tuổi chậm ngôn ngữ là vấn đề rất quan trọng, có vai trị rất lớn đối với sự phát triển của trẻ sau này. Tuy nhiên, nhận thức không thôi cũng chưa đủ mà quan trọng hơn cả là việc làm. Trên thực tế quan sát, chúng tơi thấy trẻ chưa thực sự có được một môi trường giao tiếp tốt. Câu hỏi đặt ra là tại sao giữa nhận thức và thực hành lại có sự mâu thuẫn nhau như vậy. Điều này lí giải rằng, giáo viên chưa thực sự nhận thức sâu sắc về vấn đề chậm ngôn ngữ ở trẻ nhỏ, mặt khác công tác chuyên môn của họ cũng đang cịn hạn chế về nhiều mặt. Chính vì thế dẫn đến việc hạn chế trong quá trình tổ chức các hoạt động giáo dục trẻ chậm ngôn ngữ phát triển khả năng giao tiếp.
<small>82.40%, 82%</small>
<small>Rất quan trọngQuan trọngBình thườngKhơng quan trọng</small>
<small>27 </small>
Để tìm hiểu rõ hơn nhận thức của GV trung tâm Đậu Nhí đối với vấn đề chậm phát triển ngôn ngữ của trẻ, chúng tôi đưa ra các khái niệm khác nhau để giáo viên lựa chọn. Kết quả cho thấy:
<i>Có 55,6% giáo viên cho rằng: “Trẻ chậm ngơn ngữ là những trẻ vẫn có khả năng </i>
<i>giao tiếp bằng ngơn ngữ nhưng khó khăn hơn, chậm hơn so với những trẻ bình thường cùng lửa tuổi, trẻ không đạt được các ngưỡng phát triển ngôn ngữ thông thường và thường chậm hơn những trẻ bình thường cùng lứa tuổi ít nhất 1 năm”. Như vậy chúng </i>
ta thấy, hầu hết các giáo viên đều nhận thức đúng về trẻ chậm ngôn ngữ. Một số giáo viên cho rằng chậm ngôn ngữ ở đây ý nói rằng trẻ bị “chậm” hơn so với các bạn khác chứ không “mất”, tức là khả năng bằng ngơn ngữ của trẻ vẫn có nhưng chậm chứ khơng mất hồn tồn, khơng phải khơng nói được, trẻ vẫn có thể nói được tùy từng mức độ chậm của trẻ.
Tuy nhiên vẫn còn một số giáo viên hiểu chưa đúng, chưa đầy đủ, thậm chí có giáo viên cịn hiểu sai về trẻ chậm ngơn ngữ. Nhưng số giáo viên hiểu sai chỉ chiếm một
<i>số ít. Qua điều tra có tới 27, 7% giáo viên cho rằng “Trẻ chậm ngôn ngữ là những trẻ </i>
<i>vẫn có khả năng giao tiếp bằng ngơn ngữ nhưng phát âm khó khăn hơn so với những trẻ bình thường cùng lứa tuổi, tuy nhiên tư duy vẫn phát triển bình thường”. Đây là cách </i>
hiểu chưa thật sự đầy đủ. Bởi lẽ chúng ta thấy rằng, ngôn ngữ giúp con người có thể giao tiếp được, ngơn ngữ cịn là cơng cụ của tư duy. Điều đó có nghĩa là nếu ngôn ngữ phát triển sẽ kéo theo sự phát triển của tư duy. Ngược lại, nếu ngôn ngữ chậm phát triển thì tư duy cũng sẽ chậm phát triển. Như vậy, khi trẻ chậm ngơn ngữ thì tư duy của trẻ sẽ kém phát triển.
<i>Bên cạnh đó, có tới 11,1 % giáo viên cho rằng “Trẻ chậm ngơn ngữ là những trẻ </i>
<i>khơng có khả năng giao tiếp bằng ngôn ngữ, không diễn đạt được điều mình muốn và thể hiện. Trẻ khơng đạt được các ngưỡng phát triển ngôn ngữ thông thường và thường chậm hơn những trẻ bình thường cùng lứa tuổi ít nhất 1 năm” và 5,6% giáo viên nghĩ </i>
<i>rằng “Trẻ chậm ngơn ngữ là những trẻ khơng có khả năng giao tiếp bằng ngôn ngữ, đặc </i>
<i>biệt là ngôn ngữ nói, tư duy ngơn ngữ chậm và kém phát triển”. Số ít giáo viên cho rằng </i>
“chậm” có nghĩa là “mất”, là “không”, trẻ không thể sử dụng được ngôn ngữ để giao tiếp, để diễn đạt điều mình mong muốn và thể hiện. Điều này là hoàn toàn sai. Với trẻ
</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36"><small>28 </small>
chậm ngôn ngữ, tùy từng mức độ, từng nguyên nhân trẻ vẫn có thể diễn đạt được điều mình mong muốn nhưng có thể người nghe thấy khó hiểu hơn, trẻ khó nói hơn, chứ khơng có nghĩa là trẻ hồn tồn khơng nói được gì.
Như vậy, chúng ta thấy khơng phải ai cũng có thể hiểu được một cách đầy đủ, chính xác về vấn đề chậm ngơn ngữ ở trẻ nhỏ. Vì vậy, để nâng cao trình độ chun mơn cho các GV trong quá trình tổ chức các hoạt động cho trẻ chậm ngơn ngữ cần có những khóa học đào tạo về vấn đề trẻ khuyết tật nói chung, trẻ chậm ngơn ngữ nói riêng.
<b>Hình 4: Các cách hiểu của giáo viên trung tâm Đậu nhí về khái niệm trẻ chậm phát triển ngôn ngữ. (Nguồn: Khảo sát của tác giả) </b>
*Để hiểu rõ hơn về vấn đề chậm ngôn ngữ ở trẻ, ngoài việc điều tra nhận thức của giáo viên chúng tôi cũng tiến hành điều tra trên phụ huynh xem phụ huynh nhận thức như thế nào về trẻ chậm ngôn ngữ và sẽ lựa chọn giải pháp gì cho con khi con bị chậm ngơn ngữ.
Bên cạnh đó, 6,3% người có con hoặc đang gặp các vấn đề khác nói sẽ thuê người về nhà dạy con nếu con mình bị chậm ngơn ngữ. Để hiểu rõ lí do vì sao họ lại chọn giải pháp thuê người về nhà dạy con chúng tôi trực tiếp trao đổi với một số phụ huynh và họ nói rằng: “Chúng tơi cũng rất lo lắng nếu con có biểu hiện gì bất thường nhưng chúng tơi chọn giải pháp này mà khơng phải là cho con đi học hịa nhập cùng các bạn tại trường Mầm Non bình thường như đa số các phụ huynh khác, dẫu biết rằng đó là giải pháp rất tốt cho con của mình”. Một trong số các lí do mà phụ huynh đưa ra là sợ bị xấu hổ trước
<small>93.70</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38"><small>30 </small>
mọi người vì con mình khơng bằng bạn bằng bè nên không dám đưa con đi học. Nhưng để con ở nhà lại không biết phải dạy con như thế nào ngồi việc chăm sóc con nên đã th người về nhà dạy con. Họ nghĩ càng ít người biết con mình bị chậm ngơn ngữ hay có gì đó bất thường càng tốt hơn. Theo họ chỉ cần thuê giáo viên mầm non về nhà dạy con mình, trả tiền lương cao và dặn dò họ quan tâm tới con mình là được mà khơng biết rằng trẻ chậm ngôn ngữ cần một môi trường giao tiếp tập thể như thế nào.
Mặt khác, một số người do mải mê công việc, lo làm ăn... nên cũng không có nhiều thời gian cho con. Một số khác thì không hiểu hết được vấn đề chậm ngôn ngữ ở trẻ nhỏ có ảnh hưởng đến sự phát triển của trẻ sau này như thế nào, hoặc do nhận thức hạn chế nên họ cho rằng “trẻ nhất chậm đi, nhì chậm nói”, có nghĩa là trẻ chậm nói biết đâu sau này sẽ giỏi nên không mấy quan tâm tới vấn đề này.
Như vậy, việc lựa chọn giải pháp cho con khi có con chậm ngơn ngữ không phải là việc dễ dàng. Đòi hỏi phụ huynh phải nhận thức đúng đắn về trẻ chậm ngôn ngữ, nguyên nhân dẫn đến con mình chậm ngơn ngữ và xóa đi cái gọi là mặc cảm, tự ti thì khi đó họ mới có thể lựa chọn cho con mình một con đường đúng đắn nhất, tốt nhất giúp con có thể phục hồi trở lại như những trẻ bình thường khác.
Chị P một nhân viên cơng tác xã hội có chia sẻ: “Việc phát triển ngôn ngữ là một phần quan trọng trong sự phát triển toàn diện của trẻ em. Các nhà giáo dục thường áp dụng một số hoạt động để giúp trẻ phát triển kỹ năng ngôn ngữ của mình. Ví dụ, các hoạt động tập trung vào ngơn ngữ như đọc sách, kể chuyện và trị chơi ngơn ngữ có thể khuyến khích con bạn tham gia và nâng cao kỹ năng ngơn ngữ của mình.”
<i><b>2.2.2. Thực trạng Công tác xã hội cá nhân về hỗ trợ trẻ chậm phát triển ngôn ngữ tại trung tâm giáo dục Đậu Nhí </b></i>
Điều kiện CTXHCN với trẻ CPTNN được xem xét ở bốn lĩnh vực chính, bao gồm điều kiện về nhân lực, cơ sở vật chất và môi trường làm việc, điều kiện về nguồn lực tài chính, và điều kiện về sự hợp tác các bên liên quan.
<b>Điều kiện nhân lực nhìn chung cịn yếu, số lượng NVCTXH khơng đáp ứng </b>
được u cầu cơng việc, năng lực một số giáo viên cịn hạn chế.
<b>Điều kiện về cơ sở vật chất và mơi trường làm việc cịn nhiều khó khăn. Số </b>
phịng học hiện tại ở Đậu Nhí là chín phịng, trong đó có tám phịng can thiệp và một
<small>31 </small>
phòng học nhóm. Tại mỗi phịng học đều có đầy đủ các dụng cụ học tập và đa dạng các đồ chơi can thiệp cũng như đồ dùng rèn luyện vận động cho các con; khơng có phịng làm việc riêng cho nhân viên hay các phòng chức năng để thực hành CTXH. Tuy nhiên, giữa các NVCTXH có sự phối hợp ăn ý, cùng trao đổi, thảo luận nhằm đưa ra giải pháp hỗ trợ tốt nhất có thể.
<b>Điều kiện về sự hợp tác của các bên liên quan (gia đình, chính quyền địa </b>
phương các tổ chức xã hội khác) với trung tâm được đánh giá cao trong quá trình hỗ trợ
<b>trẻ CPTNN. Trong các biên bản phỏng vấn sâu của quản lý/ nhân viên làm việc trực </b>
tiếp tại trung tâm thì cho biết họ thường kết hợp với gia đình trong quá trình hỗ trợ trẻ,
<b>nhưng trong các biên bản phỏng vấn sâu cộng tác viên, đối tác và đồng nghiệp thì việc </b>
phối hợp của gia đình với trung tâm trong việc hỗ trợ trẻ chưa tốt, nguyên nhân phần lớn các bé ở trung tâm có hồn cảnh đặc biệt khó khăn, gia đình ít quan tâm hoặc khơng có điều kiện quan tâm đến các bé.
<b>Về việc hợp tác với chính quyền địa phương của trung tâm trong công tác hỗ </b>
trợ trẻ được đánh giá tốt. Như vậy, chứng tỏ trung tâm có mối quan hệ chặt chẽ với địa phương trong công tác giáo dục, chăm sóc và bảo vệ trẻ, trong đó có trẻ CPTNN.
Nhìn chung, thực trạng về CTXHCN với trẻ CPTNN tại trung tâm Đậu Nhí cịn nhiều hạn chế và bất cập mặc dù tất cả các ý kiến đều cho rằng CTXHCN có tầm quan trọng đáng kể trong việc hỗ trợ trẻ CPTNN. Ở đây, do nhiều nhân tố khách quan và chủ quan, nhân viên tại trung tâm thường làm việc theo kinh nghiệm cá nhân, tạo ra môi trường thân thiện như gia đình, thay vì thực hiện CTXH chuyên nghiệp. Nhân viên khi làm việc với trẻ ít áp dụng các lý thuyết CTXH hay công cụ đánh giá trong CTXH để phân tích vấn đề, nhu cầu và lên kế hoạch can thiệp cho trẻ. Các bước trong tiến trình CTXHCN cũng chưa được thực hiện tốt, các bước đánh giá và chẩn đoán, lập kế hoạch can thiệp, thực hiện can thiệp và theo dõi, lượng giá chưa được thực hiện tốt. Việc theo dõi và lượng giá trong quá trình CTXHCN với trẻ CPTNN cũng bị bỏ qua, mặc dù theo một số ý kiến cho biết tại trung tâm có thực hiện theo dõi và lượng giá, nhưng thường khơng theo kế hoạch hay lơ trình can thiệp mà chủ yếu theo các hoạt động học tập, sinh hoạt hàng ngày của trẻ.
</div><span class="text_page_counter">Trang 40</span><div class="page_container" data-page="40"><small>32 </small>
Thực trạng khó khăn và vấn đề về ngơn ngữ của trẻ chậm phát triển ngôn ngữ trong độ tuổi 3-4 tại trung tâm giáo dục là một vấn đề quan trọng cần được quan tâm và giải quyết. Có nhiều khó khăn phổ biến mà trẻ chậm phát triển ngôn ngữ gặp phải. Trước tiên, trẻ thiếu từ vựng và khả năng sử dụng ngôn ngữ. Họ gặp khó khăn trong việc hiểu các từ ngữ cơ bản và sử dụng chúng trong câu hoặc lời nói của mình. Thứ hai, rối loạn ngữ nghĩa và ngữ pháp là một khó khăn phổ biến khác. Trẻ chậm phát triển ngơn ngữ gặp khó khăn trong việc hiểu và sử dụng quy tắc ngữ nghĩa và ngữ pháp, bao gồm việc sắp xếp câu, sử dụng thì, loại từ và các yếu tố ngữ pháp khác.
Hơn nữa, trẻ chậm phát triển ngơn ngữ thường có khả năng giao tiếp hạn chế. Các em gặp khó khăn trong việc diễn đạt ý kiến, thể hiện cảm xúc và tham gia vào cuộc trò chuyện một cách tự tin và hiệu quả. Bên cạnh đó, trẻ cũng thiếu kỹ năng lắng nghe và hiểu biết ngơn ngữ. Họ có thể gặp khó khăn trong việc lắng nghe và hiểu ý nghĩa của những gì người khác nói.
Những khó khăn về ngôn ngữ này ảnh hưởng tiêu cực đến việc học và phát triển tổng thể của trẻ. Trẻ chậm phát triển ngơn ngữ có thể gặp khó khăn trong việc học hỏi, tham gia vào các hoạt động giáo dục và phát triển các kỹ năng xã hội khác. Vì vậy, cần đặc biệt quan tâm và hỗ trợ trẻ chậm phát triển ngôn ngữ trong độ tuổi quan trọng này tại trung tâm giáo dục để đảm bảo rằng họ có cơ hội phát triển tồn diện và tham gia vào xã hội một cách hiệu quả.
<i>Chị H mẹ của trẻ chậm phát triển ngôn ngữ cho biết: “Con tơi cũng gặp khó khăn </i>
<i>trong việc hiểu và sử dụng ngữ nghĩa và ngữ pháp. Con không biết cách sắp xếp câu, sử dụng các từ loại đúng và không hiểu được một số quy tắc ngữ nghĩa cơ bản. Điều này khiến con cảm thấy tự ti và khó tham gia vào các cuộc trị chuyện với bạn bè.” </i>
*Phát triển khả năng nghe, hiểu lời nói của trẻ -> phân tích thực trạng hỗ trợ ở trung tâm đậu nhí
*Phát triển khả năng diễn đạt trong lời nói của trẻ phân tích thực trạng hỗ trợ ở trung tâm đậu nhí
Phát triển khả năng nghe, hiểu lời nói và phát triển khả năng diễn đạt trong lời nói của trẻ là hai khía cạnh quan trọng trong q trình phát triển ngơn ngữ của trẻ. Mặc dù có liên quan chặt chẽ, nhưng hai khả năng này đề cập đến các yếu tố khác nhau: