Tải bản đầy đủ (.pdf) (221 trang)

hoàn thiện pháp luật về nhiệm vụ quyền hạn của viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hành chính

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (17.45 MB, 221 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

ĐẠI HỌC QUỐC GIAHÀNỘI

<b>TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT <sub>_____</sub><sub>•____</sub><sub>•_____ •</sub></b>

<b>Ngưịi hướng dẫn khoa học: PGS.TS NGUYỀN HỒNG ANH</b>

<b>HÀ NỘI - 2023</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

<b>LỜI CAM ĐOAN</b>

<i>học của riêng tơi.Cáckết quảnghiên cứu trình bày trong </i>

<i>cơng trình nàokhác.Cácthơng tin,tư liệu trích dẫntrong </i>

<i>luận ánđều được chỉ rõnguồn gốc,xuất xứ.Tôi xin chịu</i>

TÁC GĨẢ LUẬN ÁN

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

<b>1.1.Tình hình nghiên cứu </b><i><b>ờ</b></i> <b>trong nước liênquan đến luận án...</b>

1.1.1. Nhóm cơng trình nghiên cứu pháp luật về tổ chức bộ máy nhà nước, thực hiện quyền lực nhà nước và vị trí, vai trị của Viện kiểm sát nhân dân trong tổ chức quyền lực nhà nước...

1.1.2. Nhóm cơng trình nghiên cứu về chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân...

1.1.3. Nhóm cơng trình nghiên cứu về nhiệm vụ, quyền hạn cùa Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hành chính...

<b>1.2.Tìnhhình nghiên cứu trên thế giới liên quanđến luậnán...</b>

<b>1.3.Tómlượccáckếtquả nghiên cứu...</b>

1.3.1. Đánh giá những kết quả nghiên cứu đã đạt được...

1.3.2. Những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu...

<b>1.4.Nhữngvấn đề luận án cầntiếptục hoàn thiện...</b>

<b>2.1. Viện kỉểm sát nhândân và vai trị củaViệnkiểm sátnhân dântrong tố tụnghànhchính...</b> 41

2.1.1. Viện kiểm sát nhân dân trong tổ chức quyền lực Nhà nước Việt Nam... 41

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

2.1.2. Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hành chính... 442.1.3. Cơ sở lý luận và thực tiễn về vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong

tố tụng hành chính ở Việt Nam... 46

2.2.1. Khái niệm pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân

dân trong tố tụng hành chính... 63

2.2.2. Đặc điếm của pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiếm sát nhân dân trong tố tụng hành chính... 68

2.2.3. Nội dung cùa pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiềm sát

nhân dân trong tố tụng hành chính... 72

<b>về nhiệm vụ, quyềnhạn cùa Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụnghành chính...</b>77

2.3.1. Sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn củaViện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hành chính... 77

2.3.2. Tiêu chí đánh giá mức độ hồn thiện của pháp luật về nhiệm vụ,quyền hạn của VKSND trong tố tụng hành chính... 78

<b>2.4.Cácyếutốtác động và điềukiện bảo đảm hoàn thiện của phápluật</b>

<b>về nhiệm vụ,quyềnhạncủa VKSND trong tốtụnghành chính...</b>882.4.1. Các yếu tố tác động đến pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn của

VKSND trong tố tụng hành chính... 88

2.4.2. Các điều kiện bảo đảm hoàn thiện pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn

của Viện kiếm sát nhân dân trong tố tụng hành chính...93

<b>những giá trị tham khảocho Việt Nam...</b> 95

2.5.1. Pháp luật của một số quốc gia về giám sát quyền tư pháp của Viện kiểm sát/ Viện công tố...95

2.5.2. Giá trị tham khảo đối với Việt Nam trong việc hoàn thiện pháp luật về

nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hành chính.. 103

<b>Tiểukết chương 2...</b> 106

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

<b>Chương 3:THỤC TRẠNGQUY ĐỊNH VÀ THỤCHIỆN PHÁP LUẬT</b>

<b>hànhchính... 107</b>

3.1.1. Thực trạng quy định pháp luật về nội dung thực hiện nhiệm vụ, quyền

hạn của Viện kiếm sát nhân dân trong tố tụng hành chính... 107

3.1.2. Thực trạng thực hiện pháp luật về nội dung thực hiện nhiệm vụ, quyền

hạn của Viện kiểm kiểm sát nhân dân trong tố tụng hành chính... 116

<b>hiện nhiệmvụ,quyền hạn của Viện kiếmsát nhân dân trong tố tụng</b>

<b>hànhchính... 126</b>

3.2.1. Thực trạng quy định pháp luật về phương thức thực hiện nhiệm vụ,

quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hành chính... 126

3.2.2. Thực trạng thực hiện pháp luật về phương thức thực hiện pháp luật về

nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hành chính.... 134

3.3.1. Đánh giá thực trạng quy định pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn củaViện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hành chính... 138

3.3.2. Đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn của

Viện kiếm sát nhân dân trong tố tụng hành chính... 142

3.3.3. Nguyên nhân... 158

<b>Tiểukết chương3... 162</b>

<b>NHIỆM VỤ, QUYỀNHẠNCỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂNDÂN</b>

<b>kiểm sát nhân dân trong tốtụnghành chính... 163</b>

4.1.1. Hồn thiện pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiềm sát nhândân góp phần thực hiện mục tiêu xây dựng nhà nước pháp quyền xãhội chủ nghĩa và chiến lược cải cách tư pháp ở Việt Nam... 167

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

4.1.2. Hoàn thiện pháp luật vê nhiệm vụ, quyên hạn của Viện kiêm sát nhân dân trong tố tụng hành chính nhằm tăng cường hiệu quả kiểm sốt

quyền lực nhà nước trong hoạt động tư pháp... 171

4.1.3. Hoàn thiện pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiềm sát nhândân trong tố tụng hành chính góp phần thực hiện hiệu quả cơ chế bảo vệ quyền con người, quyền cơng dân... 172

4.1.4. Hồn thiện pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hành chính nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện chức năng của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hành chính... 176

4.1.5. Hồn thiện pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hành chính phù họp với hệ thống pháp luật có liên quan và phù họp với bối cảnh hội nhập quốc tế... 177

<b>4.2. Giảipháp hoànthiện pháp luậtvề nhiệm vụ, quyền hạncủaVKSND trong tố tụnghành chínhở ViệtNam...</b> 180

4.2.1. Hoàn thiện pháp luật về nội dung thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hành chính... 180

4.2.2. Hồn thiện pháp luật về phương thức thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiếm sát nhân dân trong tố tụng hành chính... 190

<b>4.3. Giải phápnâng cao hiệu quảthực hiện pháp luật về nhiệm vụ,quyềnhạncủaViện kiểm sátnhân dân trong tố tụnghành chính...</b> 194

4.3.1. về công tác quản lý chỉ đạo điều hành...194

4.3.2. về công tác đào tạo, bồi dưỡng... 194

4.3.3. về công tác rút kinh nghiệm... 195

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

THAHC: Thi hành án hành chính

TTHC: Tố tụng hành chínhVKS: Viện kiểm sát

VKSND: Viện kiểm sát nhân dân

WTO: Tổ chức Thương mại thế giớiXHCN: Xã hội chủ nghĩa

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

<b>MỞ ĐẦU</b>

<b>1.Tínhcâp thiêt của đê tài</b>

Kiếm sốt quyền lực nhà nước, trong đó có kiểm sốt quyền tư pháp là mộtnguyên tắc hiến định trong tố chức và hoạt động của Nhà nước. Hiến pháp năm

2013 khẳng định “quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân cơng, phối hợp,

kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành

pháp, tư pháp”. Theo đó, đồi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan thực hiện

hoạt động tư pháp cũng như tăng cường kiểm tra, giám sát việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ cùa các cơ quan này là một vấn đề quan trọng của công cuộc cải cách tư pháp mà Đảng và Nhà nước ta đặt ra. VKSND với chức năng hiến định “kiềm sát hoạt động tư pháp” có vai trị quan trọng bảo đảm sự tuân thủ pháp luậttrong các hành vi, quyết định của các chủ thế thực hiện hoặc tham gia vào hoạt động tư pháp. Vì vậy, việc hồn thiện pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn của

VKSND khi thực hiện chức nãng kiếm sát hoạt động tư pháp nói chung, trong hoạt

động tố tụng hành chính nói riêng có ý nghĩa thiết thực trong hồn thiện cơ chế

kiểm sốt việc thực hiện quyền tư pháp ở Việt Nam.

Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về “một số

nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới” đã nhấn mạnh: VKS các cấp thực hiện tốt chức năng công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp”. Trên tinh thần đó, Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 vềChiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010;

Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 về “Chiến lược cải cách tư pháp đến năm2020”; Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI, XII khẳng định một trong những

phương hướng cải cách tư pháp là cần thiết đổi mới, tăng cường hiệu quả thực hiện chức năng của VKSND, trong đó có chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp. Đặc biệt, tại Đại hội Đảng lần thứ XIII, Đảng ta tiếp tục nhấn mạnh chủ trương cải cách tưpháp với những nội dung mới phù hợp với tình hình thực tiễn; đồng thời, đưa ra các

quan điếm, giải pháp về đây mạnh cải cách tư pháp, đó là: cần đối mới nhận thức lý

luận và thực tiễn về quyền tư pháp trong nhà nước pháp quyền XHCN. Làm sáng tò

nội hàm về vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của cơ quan thực hiện

<small>1</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

hoạt động tư pháp, trong đó bao gơm VKSND; trong cơ chê có sự phân công rành

mạch, phối hợp chặt chẽ và tăng cường kiểm soát quyền lực nhà nước.Thực tiễn thực

hiện chức năng kiếm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hành chính trong thời gian qua cho thấy, VKSND đã đóng góp tích cực trong việc bảo đảm sự tn thủpháp luật trong quá trình giải quyết vụ án hành chính. Các quy định cùa pháp luật tố tụng hành chính mang tính tồn diện hơn, trong đó bao gồm các quy định về vị trí,

nhiệm vụ, quyền hạn cùa VKSND trong tố tụng hành chính, tạo cơ chế thuận lợi để VKSND thực hiện chức năng kiếm sát tư pháp hành chính một cách hiệu quả. Tuy nhiên, thực tiễn thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND trong tố tụng hành chính

cũng bộc lộ những vướng mắc, bất cập nhất định cả về lý luận như: vai trị cùa

VKSND trong hoạt động tố tụng hành chính, nội hàm của nhiệm vụ, quyền hạn của

VKSND trong tố tụng hành chính, giới hạn nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND trong

tố tụng hành chính ... cũng như thực tiễn áp dụng pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND trong tố tụng hành chính như: quy định của pháp còn thiếu vắng cơ chếthực hiện nhiệm vụ, quyền và bảo đảm thực hiện quyền của VKSND trong tố tụng

hành chính, hoặc các quy định pháp luật chưa rõ ràng, cụ thề ... dẫn đến việc nhậnthức và áp dụng không thống nhất giữa các cơ quan tiến hành tố tụng hành chính

cũng như trong nội bộ Ngành kiểm sát nhân dân,ảnh hưởng đến hiệu quả thực hiện chức nãng kiếm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hành chính của VKSND.

Trên cơ sở yêu cầu xây dựng, hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN ở

nước ta trong giai đoạn mới được Đảng ta xác định rõ trong Văn kiện Đại hội Đảnglần thứ XĨI, tiếp đến là Đại hội Đảng lần thứ xin đã khẳng đinh: Cải cách tư pháp cần gắn với các nội dung liên quan đến xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật;

hay nói cách khác, hồn thiện hệ thống pháp luật (về vị trí, vai trị, nhiệm vụ, quyềnhạn ...) của các chủ thể thực hiện hoạt động tư pháp là cơ sở thực hiện hiệu quả

chiến lược cải cách tư pháp của Đảng ta đề ra.

Đe cụ thể hóa đầy đủ quy định của Hiến pháp về chức năng, nhiệm vụ của

VKSND, trong đó có chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hành chính, yêu cầu đặt ra trước hết là phải thống nhất về mặt nhận thức, hoàn thiện

về mặt lý luận về vị trí, vai trị, phạm vi, đối tượng kiếm sát ... của VKSND trong tố

tụng hành chính, từ đó đề xuất các giải pháp hồn thiện quy định của pháp luật và tổ

<small>2</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

chức thi hành pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND trong tố tụng hành

chính; tạo cơ sở pháp lý đầy đủ, đảm bảo thực hiện hiệu quả khi thực hiện chức

năng kiếm sát việc giải quyết vụ án hành chính, góp phần xây dựng nhà nước phápquyền và đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp trong tình hình mới.

Từ nhừng lý do trên, việc lựa chọn nghiên cứu đề tài <i><b>'Hoàn thiệnpháp luật</b></i>

là vấn đề có ý nghĩa và rất cần thiết trong giai đoạn hiện nay.

<b>2. Mục• tiêuvà• nhiệm• ơ vụ nghiên cứu </b>

Trên cơ sở làm rồ nhận thức về chức nàng kiểm sát hoạt động tư pháp nóichung, kiếm sát việc tn theo pháp luật trong tố tụng hành chính nói riêng và thực

trạng pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND khi thực hiện chức năng kiểm

sát việc giải quyết vụ án hành chính. Luận án đưa ra các giải pháp hoàn thiện pháp

luật về nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND trong tố tụng hành chính, từ đó, nâng caochất lượng hoạt động của VKSND, đảm bảo hiệu quả giải quyết vụ án hành chính

trong thời gian tới.

Để đạt được mục tiêu trên, luận án thực hiện các nhiệm vụ trong quá trình

nghiên cứu như sau:

- Đánh giá tổng quan về tinh hình nghiên cứu liên quan đến luận án, trên cơ sở đó đánh giá kết quả nghiên cứu và nêu lên những vấn đề luận án cần nghiên cứu hồn thiện.

- Phân tích khái niệm, đặc điểm, nội dung quy định của pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND trong tố tụng hành chính; đồng thời, phân tích các tiêu chí

đánh giá mức độ hoàn thiện, điều kiện bảo đảm hoàn thiện pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND trong tố tụng hành chính ... từ đó, làm rõ cơ sở lý luận củahoàn thiện pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND trong tố tụng hành chính.

- Đánh giá việc thực hiện pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND trong

tố tụng hành chính trong những năm gần đây, chỉ ra những vướng mắc, bất cập trongviệc áp dụng pháp luật tố tụng hành chính của VKSND và tìm ra nguyên nhân củavướng mắc, bất cập.

<small>3</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

- Đề xuất các quan điểm, yêu cầu hoàn thiện pháp luật về nhiệm vụ, quyềnhạn của VKSND trong tố tụng hành chính để làm cơ sở đề xuất giải pháp cụ thể

hoàn thiện pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND trong tố tụng hành chính.

Đối tượng nghiên cứu của luận án là các vấn đề lý thuyết, pháp luật và thực trạng thực hiện pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn cua VKSND khi thực hiện chức năng kiềm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hành chính.

về nội dung: Luận án nghiên cứu tống quan hệ thống pháp luật về nhiệm vụ,

quyền hạn của VKSND trong tố tụng hành chính, thực trạng thực hiện pháp luật về

nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND trong pháp luật tố tụng hành chính ở Việt Nam.

về thời gian: Luận án nghiên cứu pháp luật và thực trạng pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND trong tố tụng hành chính ở Việt Nam từ năm 1996 (Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính - văn bản pháp luật đầu tiên quy định về hoạt động tố tụng hành chính được ban hành) đến nay; có nhấn mạnh thực

tiễn công tác kiểm sát việc giải quyết vụ án hành chính của ngành KSND từ năm2016 (Luật TTHC năm 2015 có hiệu lực pháp luật) đến nay.

Đe tiến hành nghiên cứu đề tài, tác giả sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của Chù nghĩa Mác - Lê Nin, chủ trương, quan điểm

của Đảng về Nhà nước và pháp luật.

Trên cơ sở phương pháp luận, luận án sừ dụng kết họp các phương pháp nghiên cứu như: phương pháp lịch sử, logic, phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp thống kê, so sánh, phương pháp quan sát...để làm rồ nội dung nghiên

cứu, cụ thể:

Phương pháp lịch sừ được sử dụng chũ yếu tại chương 1 và chương 2 của

luận án, để trinh bày kết quả nghiên cứu của các cơng trình liên quan luận án và qtrình ra đời, phát triển của VKSND.

Phương pháp logic được luận án sử dụng trong tồn bộ q trình nghiên cứunhằm nghiên cứu các luận điểm khoa học; khái quát, phân tích, đánh giá và đề xuất

các giải pháp liên quan đến nội dung của luận án.

<small>4</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

Phương pháp phân tích và tống hợp được sử dụng trong suốt quá trình

nghiên cứu của luận án nhằm làm rõ các vấn đề về lý luận, giải pháp hoàn thiện pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND trong tố tụng hành chính cũng như

thực tiễn thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND.

Phương pháp thống kê, so sánh được sử dụng chủ yếu tại chương 1 và chương 3 của luận án, nhằm làm rồ tình hình nghiên cứu nội dung liên quan đến

luận án và làm rõ pháp luật, thực tiễn thực hiện pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn

của VKSND trong tố tụng hành chính. Từ đó, đối chiếu và đánh giá pháp luật và

thực trạng thực hiện pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND trong tố tụnghành chính giữa các năm, các giai đoạn ....

Phương pháp quan sát được luận án sử dụng chủ yếu tại chương 3 của luận án thông qua việc thu thập số liệu, tư liệu, trực tiếp theo dõi hoạt động kiếm sát việc giải

quyết đối với một số vụ án hành chính cụ thể, nhằm góp phần đánh giá một cách tổngthể về pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND trong tố tụng hành chính.

- Thứ nhât: Luận án nghiên cửu một cách tơng thê cơ sở lý luận của việc

hồn thiện pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND.

- Thứ hai: Luận án khái quát và đánh giá quy định của pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND trong tố tụng hành chính trong các thời kỳ, trong bốicảnh xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN, chiến lược cải cách tư pháp hiện nay.

- Thứ ba: Luận án nghiên cứu, đánh giá quy định pháp luật của các quốc gia trên thế giới về vai trị, vị trí cùa VKS/Viện cơng tố trong tố tụng hành chính góp

phần làm vững chắc cơ sở đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật về nhiệm vụ,

quyền hạn của VKSND trong tố tụng hành chính của luận án.

- Thứ tư: Luận án nghiên cứu thực trạng pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn

cùa VKSND trong tố tụng hành chính, từ đó đánh giá ưu điếm và tồn tại, hạn chếcủa pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND trong tố tụng hành chính.

- Thứ năm: Trên cơ sở làm rõ các quan điểm hoàn thiện pháp luật, luận án đề

ra các giải pháp để hoàn thiện pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND trongtố tụng hành chính.

<small>5</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

<b>6. Ynghĩalý luận và thực tiên của luậnán</b>

- Ý nghĩa lý luận: Với kết quà nghiên cứu, đặc biệt là những đóng góp mớinhư trên, luận án góp phần làm rõ hơn những quan điểm về kiểm sát hoạt động tư

pháp và nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND khi thực hiện chức năng kiểm sát hoạt

động tư pháp trong tố tụng hành chính. Đồng thời, qua nghiên cứu thực trạng quy

định của pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND trong tố tụng hành chính

cũng như thực tiễn thực hiện chức năng kiểm sát việc giải quyết vụ án hành chính,

luận án góp phần làm rõ hơn cơ sở hồn thiện pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạncủa VKSND trong thời kỳ mới.

- Ý nghĩa thực tiễn: Luận án góp phần xây dựng những luận cứ và cung cấp

thông tin tham khảo phục vụ hoạt động xây dựng và hoàn thiện pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND trong tố tụng hành chính, nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả cùa hoạt động của VKSND nói riêng, nâng cao chất lượng giải quyết vụ ánhành chính nói chung.

Luận án cũng có thể làm tài liệu tham khảo tin cậy trong quá trình nghiêncứu, học tập và giảng dạy pháp luật tố tụng hành chính, luật hiến pháp, kỹ năngkiểm sát việc giải quyết các vụ án hành chính và các vấn đề có liên quan như: Luật

khiếu nại, tố cáo, luật hành chính, những vấn đề chung về VKSND .

<b>7.Kết cấu của luậnán</b>

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận án được kết cấu gồm 4 chương, cụ thể:

<i>Chương</i> /: Tổng quan về tình hình nghiên cứu và những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu của luận án.

<i>Chương 2\</i> Cơ sở lý luận hoàn thiện pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiềm sát nhân dân trong tố tụng hành chính.

<i>Chương ỉ\</i> Thực trạng pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát

nhân dân trong tố tụng hành chính.

<i>Chương4\</i> Quan điểm, giải pháp hồn thiện pháp luật về nhiệm vụ, quyền

hạn của Viện kiếm sát nhân dân trong tố tụng hành chính.

<small>6</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">

<b>Chương 1</b>

<b>TƠNG QUAN VÈ TÌNH HÌNH NGHIÊN cứu VÀ </b>

<b>NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN cứu CỦA LUẬN ÁN</b>

<b>1.1.Tìnhhình nghiên</b> <i><b>cứu ờ</b></i><b> trong nước liên quanđên luậnán</b>

VKSND Việt Nam được thành lập từ năm 1960, cho đến nay đã trải qua gần

60 năm tồn tại, trưởng thành và phát triền. Ngay từ khi được thành lập, VKSND các cấp đã tích cực triến khai thực hiện chức năng, nhiệm vụ của minh nhằm phục vụ

thực hiện các mục tiêu: bảo đảm an ninh, chính trị và trật tự an toàn xã hội, bảo đảmcác quyền tự do, dân chủ của nhân dân, bảo vệ thành quả cùa công cuộc cải tạo xã

hội chủ nghĩa và hoàn thiện quan hệ sản xuất mới.

Trong mỗi thời kỳ lịch sử, chức năng của VKSND có những thay đổi nhấtđịnh phù hợp tổ chức hoạt động của bộ máy nhà nước nói chung. Tuy nhiên, kiểm sát hoạt động tư pháp là chức năng xuyên suốt trong quá trình thực hiện nhiệm vụ,

quyền hạn của VKSND.

Nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND trong tố tụng hành chính là vấn đề khơngchỉ được ngành Kiểm sát mà còn được cả xã hội quan tâm. Khi tham gia tố tụnghành chính, VKSND thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Cơ quan Tòa án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử và các cá nhân, cơ quan, tổ chức khác

nhằm đảm bảo việc giải quyết vụ án hành chính nhanh chóng, kịp thời, đúng căn cứ pháp luật. Việc giải quyết vụ án hành chính chất lượng, hiệu quả khơng chỉ bảo vệ

quyền và lợi ích hợp pháp của các chù thể tham gia quan hệ tố tụng hành chính màcịn là cơ sở đảm bảo hiệu quả hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước khi thực

hiện nhiệm vụ, quyền hạn trong quản lý hành chính nhà nước.

Từ những yêu cầu và đòi hòi khách quan nêu trên, trong quá trình tồn tại và

phát triển đà có nhiều cơng trình nghiên cứu liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến

hoạt động của VKS nói chung, hoạt động của Viện kiếm sát trong tố tụng hành

chính nói riêng. Mỗi cơng trình nghiên cứu tiếp cận ở khía cạnh, góc độ khác nhau

để đưa ra nhừng luận điểm, đánh giá về các vấn đề khác nhau xung quanh việc thực

hiện nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND. Những cơng trình nghiên cứu trên đã gópphần làm sáng tỏ hơn vị trí, vai trị của VKSND trong bộ máy nhà nước Việt Nam,

<small>7</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">

đồng thời làm rõ nội hàm của công tác kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hành chính và định huớng hoàn thiện cơ cấu, tồ chức, cơ chế hoạt động của

ngành kiếm sát nhân dân đối trong thời gian tới.

Liên quan đến tổ chức quyền lực nhà nuớc, có các cơng trình nghiên cứ nhu:

Cuốn "Một số vấn đề về tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước" của Nguyễn Minh

Đoan và các cộng sự [19] là cơng trình nghiên cứu tập trung những vấn đề lý luận

về quản lý nhà nước, tố chức thực hiện quyền lực nhà nước (như khái niệm, nguyên

tắc ...); tổ chức quyền lực nhà nước ở Việt Nam (quyền lực nhà nước thống nhất, có

sự phân cơng, phối hợp; về vai trò lãnh đạo của Đảng); về nguy cơ và yêu cầu đối

với tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước (tha hoá, tham nhũng, tham quyền, cố vị). Kết quả nghiên cứu của tác giả là cơ sở lý thuyết để luận giải về vị trí, vai trò và chức năng cùa VKSND trong tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước ở Việt Nam.Cuốn "Giám sát và cơ chế giám sát việc thực hiện quyền lực nhà nước ở nước tahiện nay” của Đào Trí úc, Võ Khánh Vinh [58] gồm 4 phần lớn nghiên cứu nhữngvấn đề chung về giám sát, cơ chế giám sát quyền lực nhà nước; giám sát của bộ máy

nhà nước; giám sát của các tố chức chính trị xã hội; và giới thiệu về giám sát việc thực hiện quyền lực nhà nước ở một số nước trên thế giới (Đức, Trung Quốc) cũng

như ở nước ta thời phong kiến. Trong đó, kết quả nghiên cứu về cơ chế giám sátquyền lực nhà nước nói chung sẽ là cơ sở đế xác định, phân tích, đánh giá vị trí, vai

trị của VKSND trong bộ máy Nhà nước ở Việt Nam. Cũng bàn về tổ chức và kiểm soát quyền lực nhà nước cịn có một số cơng trình của một số tác giả đã được công bô

như: Đề tài khoa học cấp nhà nước: “Phân công, phối hợp quyền lực và kiểm soátquyền lực trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam" [23];Cuốn “Phân cơng, phối hợp và kiểm sốt quyền lực với việc sửa đổi Hiến pháp năm

1992” của Trần Ngọc Đường [22]; cuốn "Cơ chế pháp lý kiểm soát quyền lực nhà nước của các cơ quan nhà nước ở Việt Nam hiện nay" của Nguyễn Minh Đoan [20]

đề cập đến những vấn đề lý luận và thực tiễn về cơ chế pháp lý kiểm soát quyền lựcnhà nước của các cơ quan nhà nước ở Việt Nam hiện nay. Trong nội dung nghiên

<small>8</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">

cứu thực trạng cơ chế pháp lý, thực tiễn pháp luật và thực tiễn kiềm soát quyền lập

pháp, hành pháp, tư pháp của các cơ quan nhà nước ở Việt Nam, tác giả đã đề cập

đến các quy định của pháp luật về VKSND. Đồng thời, đưa ra quan điểm, giải pháp hoàn thiện cơ chế pháp lý kiểm soát quyền lực nhà nước của các cơ quan nhà nước

ở Việt Nam ... và một số bài viết như: “Nguyên tắc quyền lực nhà nước thống nhất, có sự phân cơng, phối hợp và kiểm soát giữa ba quyền theo tinh thần Hiến pháp năm 2013” của Nguyễn Đăng Dung [10]; '’Nội dung Hiến pháp 2013 và Văn kiện

Đại hội Đại biểu toàn quốc của Đảng CSVN lần thứ XII về kiểm soát quyền lực nhànước” của Nguyễn Văn Mạnh [36, tr. 16-22]; ... .

Ngồi ra có một số cơng trình của các tác giả Việt Nam nghiên cứu về chủ đề gần gũi ở nước ngoài. Cuốn ’’Lược giải tổ chức bộ máy nhà nước của các quốc gia”

cùa Nguyễn Đăng Dung, Nguyễn Chu Dương [8] gồm 8 chương cung cấp hiểu biết

chung về tổ chức, đặc điểm của bộ máy nhà nước của các quốc gia trên thế giới; đề tài “Tố chức bộ máy nhà nước trung ương ở một số quốc gia Châu Âu (Pháp, Đức,Thụy Điển)” của Nguyễn Đức Minh [37] đã nghiên cứu lý luận và thực tiễn tổ chức, chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của các cơ quan trong bộ máy nhà nước Trung ương ở Pháp (cộng hồ lưỡng tính), Đức (cộng hoà đại nghị), Thụy Điển (quân chủ

lập hiến); đề xuất, khuyến nghị về tổ chức bộ máy nhà ước trung ương của Việt Nam. Cuốn "Tư tưởng phân chia quyền lực nhà nước với việc tổ chức bộ máy nhà

nước ở một số nước” của Nguyễn Thị Hồi [27] gồm 3 phần: nghiên cứu về mặt lịch

sử của tư tưởng phân chia quyền lực nhà nước trên thế giới; sự thế hiện và áp dụng

tư tưởng phân quyền trong tố chức bộ máy nhà nước ờ một số nước tư bản và sự thểhiện tư tưởng phân quyền trong tổ chức bộ máy nhà nước Việt Nam qua các bản

Hiến pháp; trong có có đề cập đến thiết chế VKSND. Pham Hong Quang (2010)

với cuốn sách “Administrative <i>Division Court in Vietnam:Model, Jurisdictionand </i>

<i>Lesson from foreign experiences”.</i> Cuốn sách đã phân tích, đánh giá ở các phương

diện lí luận, thực tiễn về mơ hình tổ chức và thẩm quyền của Tồ hành chính ởViệt Nam kết hợp với những kinh nghiệm tương ứng của một số nước (điến hình

là Cộng hồ Pháp, Trung Quốc và Nhật Bản) nhằm khẳng định về sự cần thiết vàđưa ra một số kiến nghị hồn thiện về mơ hình tồ chức; mở rộng tối đa thẩmquyền của Tồ hành chính trong điều kiện thành lập cơ quan tài phán hành chính

trực thuộc chính phủ và các Tồ hành chính khu vực ở Việt.

<small>9</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">

Liên quan đến xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN, có các cơng trình

nghiên cứu như: Đề tài cấp Nhà nước “Xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do

dân, vỉ dân dưới sự lãnh đạo của Đảng” của Đào Trí úc [71]. Cơng trình đã làm rõ

nội dung và phương hướng xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước ta, đề ra các yêu cầu bảo đảm trên con đường đó là phải bảo đảm quyền lực nhân dân (dân chủ), bảođảm sự lãnh đạo của Đảng, tôn trọng và tuân thủ nghiêm chỉnh pháp luật, xây dựng cơ chế thực hiện quyền lực nhà nước có sự phân cơng, phối hợp rõ ràng trong việc

thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Cuốn "Tư tưởng Hồ Chí Minh về

pháp luật, pháp chế và sự vận dụng trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chù nghĩa Việt Nam” của Trịnh Đức Thảo [63] tập trung nghiên cứu nhà nước phápquyền dưới góc độ chính trị - pháp lý; từ việc làm rõ tư tưởng Hồ Chí Minh về pháp

luật và pháp chế đã chỉ ra những giá trị, việc vận dụng cùa Đảng trong xây dựngNNPL và một số đề xuất, kiến nghị. Cuốn "Đổi mới, hoàn thiện bộ máy nhà nước pháp quyền Xã hội chú nghĩa của dân, do dân, vì dân ở Việt Nam hiện nay" của Lê Minh Thông [67]; ... và các bài viết đăng trên các tạp chí chuyên ngành như: Lê

Hữu Thề, “về vị trí của Viện kiềm sát nhân dân trong cải cách bộ máy nhà nước ở nước ta hiện nay” [70], bài viết nêu lên các luận điểm khẳng định vị trí, vai trị của

VKSND trong bộ máy nhà nước tại thời điểm có nhiều tranh luận gay gắt về vị trí cũng như chức năng kiếm sát việc tuân theo pháp luật của VKSND. Theo đó, tác giả

đánh giá vị trí, vai trị của VKSND qua quá trình lịch sử tồn tại và phát triển; phân

biệt hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật cùa VKS với hoạt động thanh tra; đưa ra các tiêu chí để phân định ranh giới giữa hoạt động kiếm sát việc tuân theo

pháp luật và hoạt động thanh tra ... trên cơ sở đánh giá toàn diện các vấn đề liên quan đến chế định VKSND, tác giả kết luận: trong điều kiện tình hình cùa đất nướcta tại thời điểm này, tiến trình cải cách căn bản bộ máy nhà nước nói chung, cải

cách tư pháp nói riêng, khơng làm thay đổi vị trí, vai trò, chức năng của VKSND.

Đê nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của VKSND, cần tiếp tục nghiên cứu một

cách cặn kẽ về mọi phương diện, làm rõ mặt được và chưa được, tiến hành đổi mới

một cách thiết thực đối với cơ quan này ... thông qua việc nghiên cứu cơ sở lý luận,thực tiễn cùa việc xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam, các tác giả đã khẳng định, làm rõ bản chất, mục tiêu dân chủ của nhà nước ta và tính đúng đắn

<small>10</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">

của chủ trương xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN và nhu cầu tất yếu cần phải

tiếp tục hồn thiện mơ hình bộ máy nhà nước. Những kết quả nghiên cứu này vừa là cơ sở lý luận, vừa là cơ sở thực tiền đế Luận án phân tích, đánh giá rõ hơn vị trí, vai

trị và tổ chức, hoạt động của VKSND trong quá trình xây dựng nhà nước pháp

quyền. Tuy nhiên, đa số các cơng trình trên tập trung nghiên cứu nhiều về Quốc hội

(lập pháp), Chính phủ (hành pháp), Toà án nhân dân (tư pháp) và về mối quan hệ

giừa chính quyền trung ương và chính quyền địa phương; mức độ, phạm vi nghiên

cứu về VKSND chưa nhiều, chủ yếu phát sinh từ nghiên cứu về nhiệm vụ, quyềnhạn của các thiết chế lập pháp, hành pháp, tư pháp.

Cuốn “Lịch sử Viện kiểm sát nhân dân Việt Nam” [79], đã làm rõ quá trình hình thành, phát triển của ngành Kiểm sát nhân dân nói chung, thực hiện chức nàng

kiểm sát việc tuân theo pháp luật tố tụng hành chính nói riêng từ khi cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công đến năm 2010, nước Việt Nam dân chủ cộng hòara đời, đánh dấu bước ngoặt trọng đại trong lịch sử dân tộc, từ thân phận nô lệ, dân

tộc ta dưới sự lãnh đạo của Đảng đã chóp thời cơ nổi dậy tự giải phóng khỏi ách nơ

dịch của chủ nghĩa nghĩa thực dân, phát xít tiến vào kỉ nguyên độc lập, tự do và chủnghĩa xã hội.

Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi, khó khăn, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hịa vừa mới ra đời phải đối diện với những khó khăn và thách thức lớn là

đương đầu với ba thử thách lớn là “giặc đói”, “giặc dốt” và “giặc ngoại xâm”. Nhữngthách thức đó đe dọa nghiêm trọng nền độc lập, tự do vừa dành lại được, đặt chính

quyền dân chủ nhân dân và vận mệnh non sông trong tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”.

Trước tinh hình đó, Đảng và Nhà nước ta đã xác định mục tiêu “Nhà nước

dân chú nhân dân phải được củng cố và tăng cường về mọi mặt”, đây là nhiệm vụ

hàng đầu, chủ yếu trước mắt, là căn cứ đế xác định những chủ trường, chính sách, biện pháp đối phó với từng kẻ thù. Vì vậy, Đảng và Nhà nước đã đặt ra yêu cầu:

Chính quyền dân chủ nhân dân phải được xây dựng trên một cơ sở pháp lý vững

chắc, do đó phải khấn trương xây dựng cơng cụ pháp luật đế chuyên chính với kẻ thù, chống nguy cơ xâm lược của đế quốc và xây dựng chế độ mới, tiến hành tổ

<small>11</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">

chức nên hành chính nhà nước theo tư tưởng nhà nước cùa nhân dân, do nhân dân

và vì nhân dân trong đó có các cơ quan tư pháp. Ngay khi nước nhà giành độc lập, Đảng và Nhà nước đã đề ra nhiều chủ trương, Chính phủ ban hành nhiều văn bản

định hướng và đặt cơ sở pháp lý cho hoạt động tư pháp, trong đó có vai trị, vị trí cùa cơng tác cơng tố. Có thế thấy, qua một loạt sác lệnh được Chính phủ ban hành,

vị trí vai trị của cán bộ làm nhiệm vụ cơng tố trong các Tòa án ngày càng được

khẳng định và được mở rộng hơn. Cán bộ làm nhiệm vụ công tố viện, biện lý, phó

biện lý khơng chỉ xem xét quyết định việc truy tố, thực hiện việc buộc tội trước Tịa

án mà cịn kiểm sốt tồn bộ hoạt động điều tra của tư pháp cơng an, kiểm sốt hoạt

động của các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành điều tra như: kiểm soát viên kiểm lâm, kiểm sốt viên hỏa xa, kiểm sốt viên cơng chính... [79, tr. 33 - 34].

Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi đã mở ra một giai đoạnmới cho cách mạng nước ta. Đất nước ta tạm thời chia cắt thành hai miền với hainhiệm vụ cách mạng khác nhau. Ở miền Nam, tiếp tục cuộc cách mạng chống đế

quốc Mỹ, tại miền Bắc, nhân dân ta tiến hành hoàn thành cuộc cách mạng dân chủ

thực hiện cải tạo xã hội chủ nghĩa, xây dựng miền Bắc thành hậu phương vững

mạnh, hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ trong cả nước.

Một trong những yêu cầu xây dựng chủ nghĩa xã hội là bảo đảm pháp chế

thống nhất, điều đó địi hởi phải có sự thống nhất chủ trương của Đảng, pháp luật cùa Nhà nước với ý chí, nguyện vọng của nhân dân, thực hiện pháp chế thống nhấtđể phục vụ công cuộc cách mạng của nước ta giành thắng lợi, Đảng và Nhà nước tađã vận dụng đúng đắn quan điểm cùa Lê Nin trong tác phẩm “Bàn về song trùng

trực thuộc và pháp chế” để thành lập cơ quan VKSND - một trong những cơ quan

mới của Nhà nước xã hội chú nghĩa [79, tr. 10].

Trên cơ sờ những nguyên tắc cơ bản về tố chức bộ máy nhà nước là tập trung

dân chủ, tất cả quyền lực thuộc về nhân dân, trong đó Quốc hội là cơ quan quyền

lực nhà nước cao nhất, theo quy định của Hiến pháp 1959, lần đầu tiên trong lịch sử Nhà nước dân chủ nhân dân Việt Nam, VKSND được quy định là một cơ quan nhà nước độc lập, chịu trách nhiệm trước Quốc Hội, tố chức, thực hiện chức năng, nhiệm vụ theo Hiến pháp và Luật Tổ chức VKSND đã được Kỳ họp thứ nhất, Quốc Hội khóa II thơng qua. Theo đó, Điều 105 Hiến pháp năm 1959 quy định: “VKSND

<small>12</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">

tối cao nước Việt Nam dân chủ cộng hòa kiếm sát việc tuân theo pháp luật của các

cơ quan thuộc Hội đồng chính phủ, cơ quan nhà nước địa phương, các nhân viên cơ

quan nhà nước và công dân. Các VKSND địa phương và VKS quân sự có quyền

kiểm sát trong phạm vi do luật định”.

Trải qua quá trình ra đời và phát triển, ngành Kiếm sát nhân dân ngày càng lớn mạnh và hoàn thiện, việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND đà gópphần quan trọng vào thành cơng chung trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, đáp ứng yêu cầu đặt ra trong từng thời kỳ lịch sử của đất nước. Ngày

2/5/1996, ủy ban thường vụ Quốc hội khóa IX thơng qua Pháp lệnh thù tục giải

quyết các vụ án hành chính (có hiệu lực từ ngày 1/7/1996). Theo đó, ngành Kiểmsát nhân dân tiếp tục được giao nhiệm vụ kiểm sát việc tuân theo pháp luật trongq trình giải quyết vụ án hành chính.

Ngồi ra, cuốn sách “Lịch sử Viện kiếm sát nhân dân Việt Nam’ cũng đánh giá kết quả hoạt động của ngành kiểm sát kể từ khi ra đời cho đến năm 2010, từ đó đưa ra nhừng bài học kinh nghiệm trong q trình thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn

của VKSND, góp phần nâng cao chất lượng công tác, khẳng định vai trò quan trọng của Ngành Kiềm sát nhân dân trong bộ máy nhà nước nói chung, trong việc bảo

đảm việc tuân thủ pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan,

tổ chức trong thời gian tới.

Trong cuốn sách “Cdz <i>cách vì một nềntư phápliêm chính” </i>[33], các tác giả

đã tiếp cận ở những khía cạnh khác nhau để làm rồ các vấn đề lớn như: Quyền tư

pháp trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, cải cách tư pháp trongxây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam và liêm chính tư pháp:những vấn đề và giải pháp. Trong đó, với bài viết “Tư pháp hành chính và vấn đề

bảo vệ quyền con người” cùa PGS.TS. Nguyễn Hoàng Anh, tác giả đưa ra quan điểm về cơ chế đảm bảo quyền con người bằng con đường tư pháp hành chính trongđó cần mở rộng phạm vi xét xử vụ án hành chính cho Tịa án. Trong đó, tập trung vào hai nội dung: kiểm soát các văn bản quy phạm của cơ quan hành chính và kiếm

sốt các quyết định, hành vi hành chính cá biệt. Theo PGS.TS Nguyễn Hoàng Anh việc giới hạn phạm vi xét xử của Tòa án đối với các văn bản quy phạm của cơ quan hành chính và các quyết định hành chính, hành vi hành chính cá biệt đặc thù chưa

<small>13</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">

đảm bảo điều kiện để cá nhân, cơ quan, tổ chức bảo vệ quyền của mình khi khơng được khởi kiện đế u cầu Tịa án giải quyết bằng một vụ án hành chính, trong khithực tiễn các quyết định quy phạm của cơ quan hành chính và các quyết định hành chính, hành vi hành chính cá biệt đặc thù vẫn có thế xâm phạm đến quyền, lợi íchhợp pháp của họ. Đồng thời, tác giả cũng đưa ra cơ chế bảo vệ quyền con người khi

có tranh chấp hành chính xảy ra khơng chỉ đặt ra đối với việc Tịa án có thẩm quyềngiải quyết đối với loại khiếu kiện đó hay khơng mà còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác như: cơ chế tiếp cận tư pháp hành chính của người dân, trình tự, thủ tục xét xử

hành chính và bản án, quyết định của Tịa án có được đảm bảo thi hành trên thực tể?

Trong cuốn sách “Bình luận khoa học Hiến pháp nước Cộng hòa xà hội chủ

nghĩa Việt Nam năm 2013” [34], các tác giả đã làm rõ các chế định được ghi nhận

trong Hiến pháp 2013, trong đó có VKSND. Với bài viết “Hiến pháp năm 2013 và

những định hướng cơ bản cho việc sửa đổi Luật tổ chức VKSND” cùa PGS.TS

Nguyễn Hòa Bình, tác giả đà đánh giá: Chế định VKSND trong Hiến pháp 2013 ghinhận nhiều giá trị mới, phản ánh đầy đủ các chủ trương cải cách tư pháp của Đảng

và phù hợp với thực tiễn tồ chức và hoạt động của VKSND ở Việt Nam trong thời kỳ phát triển mới của đất nước [34, tr. 507]. Tác giả đã nêu những tiến bộ của Hiến pháp năm 2013 về chế định Viện kiểm sát nhân dân như: tiếp tục khẳng định và bổ

sung, làm rõ hơn vị trí, chức năng, nhiệm vụ của VKSND trong bộ máy nhà nước

pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, làm rõ hơn nguyên tắc tổ chức và hoạt động của VKSND và các nguyên tắc tiến bộ của tố tụng hình sự, sửa đổi và bổ sung quyđịnh về hệ thống VKSND và chế định ủy ban kiểm sát trong Hiến pháp, điều chỉnh quy định về cơ chế giám sát của các cơ quan quyền lực nhà nước đối với VKSND. Từ đó, tác giả nêu lên những định hướng cơ bản để sửa đổi Luật Tổ chức VKSND

nhằm cụ thể hóa quy định của Hiến pháp.

Ngồi ra, trong cuốn sách này cịn có bài viết “Tịa án nhân dân, Viện kiềm

sát nhân dân trong Hiến pháp 2013” của PGS.TS Trương Thị Hồng Hà, trong đó

ngồi việc làm rõ chế định về Tòa án nhân dân, tác giả cũng làm rõ vị trí, vai trị của VKSND trong bộ máy nhà nước. Theo đó Hiến pháp 2013 khẳng định vị trí pháp lý của VKSND trong hệ thống cơ quan nhà nước là “thực hành quyền công tố, kiểmsát hoạt động tư pháp”. Với hai chức năng cơ bản đó, Hiến pháp 2013 đẫ khẳng

<small>14</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">

định VKSND là hệ thống cơ quan độc lập và thống nhất trong bộ máy nhà nước

quyên công dân, bảo vệ chê độ xã hội chu nghĩa, bảo vệ lợi ích cùa nhà nước,

quyền, lợi ích hợp pháp của tố chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật đượcchấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất”, quy định về mục đích hoạt động củaVKSND trong Hiến pháp thể hiện tinh thần tối thượng của Hiến pháp trong nhà

nước pháp quyền [9, tr. 532].

Cuốn “Tông kết một số vấn đề lý luận, thực tiễn về công tác của Viện kiểm

sát nhân dân qua 55 nãm tổ chức và hoạt động (26/7/1960 - 26/7/2015), năm 2015

của VKSND tối cao tiếp tục phát triền nhũng nội dung đã được nêu tại cuốn “Lịchsử Viện kiểm sát nhân dân”, năm 2010 cùa VKSND tối cao. Cuốn sách đã trình bày

chi tiết về quá trình hình thành, phát triển và chức năng của VKSND qua các thờikỳ lịch sử; vai trò của VKSND trong bộ máy nhà nước trước đây cũng như hiện tại,trong đó khẳng định ý nghĩa quan trọng của chức năng kiềm sát hoạt động tư pháp.

Từ đó, làm luận cứ khoa học và thực tiễn cho việc tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của VKSND, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp theo các Nghị quyết của Đảng, nhất là Nghị quyết số 49 -NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về “Chiến lược

cải cách tư pháp đến năm 2020”; Kết luận số 79 - KL/TW ngày 28/7/2010 của BộChính trị về Đề án đối mới tổ chức hoạt động của TAND, VKSND và cơ quan điều

tra theo Nghị quyết số 49 - NQ/TW của Bộ Chính trị; Kết luận số 92 - KL/TW ngày 12/3/2014 cùa Bộ chính trị về việc “Tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 49NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm

2020”, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, XI của Đảng.

Cuốn “Hội thảo khoa học” [84], các tác giả nghiên cứu nhiều vấn đề liênquan đến chế định VKSND như: quan điểm của V.I. Leenin về VKSND qua các

thời kỳ; sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác của Ngành kiểm sát nhân dân, vai

trị của VKS trong cơ chế kiểm sốt quyền lực nhà nước hiện nay; chức nãng kiểm

sát hoạt động tư pháp của VKSND - yêu cầu, thách thức và giải pháp trong giai

đoạn mới ... ví dụ: Một là, trong bài viết “quan điểm của V.LLênin về Viện kiểm

<small>15</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">

sát nhân dân qua các tác phẩm” [84, tr. 5-24] của PGS.TS. Lâm Quốc Tuấn đã làm

rõ ba vấn đề: Các quan điểm của V.l.Lê nin về VKSND; quan điểm của V.L Lê ninvề vai trị của VKSND trong kiểm sốt quyền lực nhà nước và thực tiễn vận dụng

quan điểm của V.LLê nin về VKSND và những vấn đề đặt ra hiện nay; theo đó, tácgiả nêu lên các quan điểm của Lê nin về sự cần thiết của VKSND trong bộ máy nhà

nước, về chức năng của VKSND và tổ chức, hoạt động của VKSND. Lê nin cũng

kết luận, kiểm soát quyền lực nhà nước là yêu càu tất yếu của mọi nhà nước, viquyền lực nhà nước luôn đi kèm với sự “tha hóa” quyền lực nhà nước nếu thiếu sự

kiểm soát ... để đảm bảo pháp chế XHCN, VKSND cần thực hiện tốt chức năng cơng tố, có quyền kháng nghị các quyết định hành chính, vì thế, theo V.I.Lê nin,

VKSND cịn có một chức nàng “kiểm sát việc tuân theo pháp luật và tính hợp pháp

trong hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương”. Vỉ thế, trongcác thiết chế nhà nước, VKS tồn tại là một tất yếu khách quan, là một trong nhữngthiết chế kiểm soát quyền lực nhà nước, nhằm chống lại sự lạm quyền của các cơ

quan tư pháp, hành pháp. Từ thực tế vận dụng quan điểm của V.LLê nin về VKSNDở Việt Nam, đang đặt ra những vấn đề lý luận và thực tiền tồ chức và hoạt động của

VKSND nước ta hiện nay như: VKS thực hiện tốt chức năng thực hành quyền công tố; xác định rõ cơ quan nào thay VKSND thực hiện chức nãng kiểm sát việc tuântheo pháp luật của các cơ quan hành chính nhà nước; phát huy vai trị của VKSND

trong kiểm sốt quyền lực nhà nước, trong đó tác giả nhấn mạnh, đề phát huy vào trị kiếm sốt quyền lực nhà nước, cần khôi phục chức năng kiếm sát việc tuân theo pháp luật của VKSND. Hai là, tài liệu đã làm rõ các vấn đề về chức năng kiểm sát

hoạt động tư pháp của VKSND, GS.TSKH. Đào Trí úc [84, tr. 121-150] đã nêu lênyêu cầu làm rõ cơ sở lý luận và cơ sở pháp lý cũng như nội dung của chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của VKSND. Theo đó, “cần tiếp tục nghiên cứu nhằm

làm rõ tính chất, đặc điểm và phương thức thực hiện chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKS theo hướng coi kiểm sát các hoạt động là một dạng giám sátquyền lực, đồng thời xác định rõ tính đặc thù trong mối quan hệ giừa chủ thế vàkhách thế trong hoạt động kiểm sát ... nội dung chức nãng kiểm sát hoạt động tư

pháp bao gồm: kiểm sát hoạt động điều tra và các cơ quan điều tra, kiểm sát hoạt

động xét xử của Tòa án, kiểm sát thi hành án dân sự và thi hành án hình sự, kiểm sát

<small>16</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">

việc tuân theo pháp luật trong tô tụng dân sự-thương mại; tác giả cũng nêu lênnhững yêu cầu, thách thức đối với kiếm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn mớinhư: nhiệm vụ bảo vệ công lý, quyền con người, quyền cơng dân của Tịa án vàVKS và đặt ra trong kiểm sát hoạt động tư pháp ....

Một số bài viết liên quan đến nội dung này bao gồm: “Một số ý kiến về sửađổi Hiến pháp 1992 liên quan đến tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhândân” [24, tr. 64-66], tác giả đánh giá vai trò của hoạt động kiểm sát việc tuân theo

pháp luật; làm rõ sự khác biệt giữa công tác kiểm sát với công tác thanh tra và đưa

ra quan điểm cần tiếp tục quy định theo hướng mở rộng và làm rõ chức năng thựchành quyền công tố của VKSND, bởi theo tác giả, khi nghiên cứu 4 điều quy định

về VKSND tại Hiến pháp năm 1992, dường như Hiến pháp khơng nói tới chức năng

thực hành quyền cơng tố của VKSNDTC - công việc mà từ trước đến nay, co quannày vẫn đang làm, vì theo Điều 137 Hiến pháp năm 1992, VKSND tối cao chỉ kiểm

sát việc tuân theo pháp luật của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính

phủ trở xuống.

Bài viết “Một số vấn đề về hoạt động tư pháp và kiểm sát hoạt động tư phápờ nước ta hiện nay” [18, tr. 24 - 31], bài viết bàn về hoạt động thực hiện quyền lựcnhà nước (quyền tư pháp) và hoạt động giám sát quyền lực nhà nước (hoạt động

kiểm sát tư pháp). Theo đỏ, tác giả đưa ra các quan điếm khác nhau về hoạt động tưpháp, trong đó có quan điểm của Đảng về hoạt động tư pháp được thể hiện trong

các văn kiện của Đảng. Trên cơ sở quan điếm cùa Đảng và đặc điếm, tỉnh hình cụ thể của nhà nước ta, tác giả cho rằng: hoạt động tư pháp là hoạt động của các cơ quan, tồ chức, cá nhân tham gia vào việc giải quyết các tranh chấp pháp lý, các vi

phạm pháp luật thuộc thẩm quyền phán quyết của Tòa án và thi hành các phán

quyết đó theo thủ tục tố tụng mà pháp luật quy định. Từ đó, bài viết nêu lên các đặc

trung của hoạt động tư pháp. Đối với kiềm sát hoạt động tư pháp, tác giả nhận định:

kiểm sát hoạt động tư pháp là một trong những lĩnh vực giám sát nhà nước; vì vậy,

kiểm sát hoạt động tư pháp có đầy đủ các yếu tố chung của hoạt động giám sát đó.

Với tư cách là một dạng của thực hiện quyền lực nhà nước, hoạt động tư pháp cũng chịu sự giám sát từ bên ngoài cũng như từ bên trong hoạt động tố tụng; giám sát từ

bên ngoài đối với hoạt động tư pháp thể hiện ở chỗ: giám sát toàn dân, toàn hệ

<small>17</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">

thống chính trị; giám sát cùa Quốc hội, HĐND nghe báo cáo, chất vấn. Giám sát từbên trong thể hiện ở chỗ: cơ chế chế ước, kiếm tra lẫn nhau giữa các cơ quan tiến

hành tố tụng; hoạt động giám sát của một cơ quan được phân cơng đối với tồn bộ

hoạt động tư pháp. Theo pháp luật hiện hành, chức năng này được gọi là kiểm sát tư

pháp và được giao cho VKS. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, tác giả đưa ra một số

vấn đề lý luận và thực tiễn cần tập trung giải quyết liên quan đến chức năng này

như: xác định thẩm quyền, phạm vi, hình thức kiểm sát tư pháp; phân biệt thực hànhquyền công tố và kiếm sát hoạt động tư pháp trong việc thực hiện chức năng của

VKS; quyền hạn của VKS trong kiểm sát tư pháp, từ đó, bài viết cũng đưa ra cáckiến nghị cụ thể liên quan đến kiểm sát tư pháp...

Các công trình nghiên cứu trên có ý nghĩa quan trọng trong việc giúp nghiên

cứu sinh luận giải các cơ sở cũng như đưa ra các quan điểm, đánh giá trong quá

trình nghiên cứu luận án.

Cuốn sách “Kỹ năng nghiên cứu hồ sơ vụ án hành chính và chỉ dẫn áp dụng

pháp luật tố tụng hành chính” của tác giả Nguyễn Ngọc Duy, NXB Văn hóa - thơng tin đã trình bày những hoạt động cụ thể của Thẩm phán, Kiểm sát viên, Luật sư khi

nghiên cứu hồ sơ vụ án hành chính. Theo đó, tác giả làm rõ các vấn đề như: hồ sơ

vụ án hành chính là gì? Thành phần của hồ sơ vụ án hành chính? Cách thức nghiên

cứu hồ sơ vụ án hành chính, chủ thê có thẩm quyền nghiên cứu hồ sơ vụ án hànhchính và phạm vi nghiên cứu hồ sơ vụ án hành chính. Đặc biệt, tác giả phân tích,

làm rõ các nội dung về trình tự nghiên cứu hồ sơ vụ án hành chính và một số

phương pháp nghiên cứu cụ thế như: phương pháp đọc, nghe, nhìn tài liệu; ghi

chép, đánh dấu tài liệu; so sánh, đối chiếu tài liệu và phân tích tài liệu.

Giáo trình Luật tố tụng hành chính Việt Nam, năm 2012 của Khoa Luật - Đại

học Quốc gia Hà Nội, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội cũng đề cập đếnnhững khía cạnh nhất định về VKSND, cụ thể: Thứ nhất, làm rõ nội dung “cơ quantiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng” trong tố tụng hành chính, theo đó, cơ

quan tiến hành tố tụng hành chính gồm TAND và VKSND. Đồng thời, làm rõ địa vị pháp lý, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND và làm rõ nhiệm vụ, quyền

<small>18</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">

hạn của người tiến hành tố tụng trong ngành Kiểm sát nhân dân. Theo đó, VKSND thực hiện kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hành chính, Viện trưởng, Kiểm sát viên là người tiến hành tố tụng hành chính. Thứ hai, cuốn sách cũng đề cập đến vai trò của VKSND đối với việc thi hành bản án, quyết định của Tịa án về

vụ án hành chính. Trong đó khẳng định: Kiểm sát việc thi hành bản án, quyết định của Tịa án về vụ án hành chính là một trong những biện pháp nằm trong cơ chế bảo

đảm thi hành án hành chính [29, tr. 445]. Đồng thời, làm rõ quyền và nghĩa vụ củaVKSND đối với việc thi hành án hành chính, cụ thể: VKS có quyền kiến nghị với cá nhân, cơ quan, tổ chức có nghĩa vụ thi hành án hành chính và cơ quan, tổ chức cấp trên trực tiếp của cơ quan, tô chức phải chấp hành bản án, quyết định của Tòa

án để có biện pháp tổ chức thi hành nghiêm chỉnh bản án, quyết định của Tòa án.Việc đảm bảo thi hành bản án, quyết định của Tòa án về vụ án hành chính là một vấn đề khó khăn, vì vậy “để giúp cho VKSND thuận tiện hơn trong việc kiểm sát việc thi

hành án, ngoài việc nâng cao chất lượng xét xử mà kết thúc bằng một bản án, quyếtđịnh cơng minh, hợp tình, hợp lý ... cần tăng cường công tác kiểm sát thi hành án của VKSND với đối tượng phải thi hành án là cơ quan hành chính nhà nước và các cán

bộ, cơng chức có thẩm quyền. Việc thi hành án này cần phải được thực hiện kịp thời,nhanh chóng, thuận tiện và đúng quy định pháp luật, do đó vai trị của VKSND trong

vấn đề này là đặc biệt quan trọng. Ngoài việc có thề kiến nghị với các cơ quan hành

chính cấp trên đơn đốc, nhắc nhở, xem xét kỷ luật, xử phạt hành chính đối với những

trường hợp vi phạm, theo kinh nghiệm cúa một số nước trên thế giới, VKSND cần

được trao quyền xem xét, khởi tố những hành vi cố tình khơng chấp hành bản án của

Tịa án theo quy định của Bộ luật hình sự” [29, tr. 448].

Giáo trình “Kiểm sát việc giải quyết các vụ án hành chính” [68], là cuốn sách viết về kỹ năng thực hiện hoạt động kiểm sát việc tn theo pháp luật tố tụng hành

chính, trong đó làm rõ nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND, Kiểm sát viên khi thực

hiện chức năng kiểm sát việc giải quyết vụ án hành chính theo từng nội dung, giaiđoạn cả quá trình tố tụng như: Nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND khi kiểm sát việctrả lại đơn khởi kiện vụ án hành chính, kiếm sát việc thụ lý vụ án hành chính, nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND khi kiểm sát việc giải quyết vụ án hành chính trong giai

đoạn chuẩn bị xét xử, xét xử sơ thẩm và kiềm sát việc giải quyết vụ án hành chínhtheo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm.

<small>19</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">

Kỷ yếu “Hội thảo khoa học một số vấn đề lý luận và thực tiễn về tổ chức và

hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân qua 60 năm thành lập Ngành kiểm sát nhân

dân” [84]. Với nhiều bài viết về vị trí, vai trị, chức năng của VKSND trong bộ máy nhà nước nói chung, trong đó có bài viết “Tăng cường quyền lực cho Viện kiểm sát

nhân trong kiềm sát việc giải quyết các vụ án dân sự, hành chính, bảo đảm hoạt động kiểm sát thực chất, hiệu quả”, tác giả đánh giá một số vấn đề về phạm vi,

nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong kiểm sát việc giải quyết vụ việc dân sự, vụ án

hành chính; các phương thức thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong công

tác kiểm sát việc giải quyết vụ việc dân sự, vụ án hành chính trong những năm gần

đây, một số kết quả đạt được, hạn chế và nguyên nhân; một số bài học kinh nghiệmkhi thực hiện công tác kiểm sát việc giải quyết vụ việc dân sự, vụ án hành chính và đưa ra một số định hướng đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả trong thời gian tới

và các biện pháp triển khai thực hiện, về phạm vi, nhiệm vụ, quyền hạn của

VKSND trong tố tụng hành chính, tác giả đánh giá qua các thời kỳ, thể hiện từ khi

có Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính năm 1996 đến Luật TTHC năm 2010 và Luật TTHC năm 2015; nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND có những

thay đổi, ví dụ tại Luật TTHC năm 2010 có sự thu hẹp về nhiệm vụ, quyền hạn cùa VKS, theo đó Luật TTHC năm 2010 bỏ quyền khởi tố vụ án hành chính của

VKSND. Đen Luật TTHC năm 2015, cùng với việc ban hành các đạo luật mới về tưpháp, VKS có thể một cấp kiểm sát mới đó là VKSND cấp cao được thành lập ở cả

ba miền Bắc, Trung, Nam, nội dung phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tịa (sơthẩm) có sự mở rộng hơn so với quy định tại Luật TTHC năm 2015, cùng với việc

quy định nguyên tắc “bảo đảm tranh tụng trong xét xử”, VKS có nhiệm vụ kiểm sátchặt chẽ việc tuân theo pháp luật, nhàm đảm bảo hoạt động tranh tụng trong tố tụnghành chính được thực hiện nghiêm chỉnh ... các quy định này, có ý nghĩa quantrọng làm tăng trách nhiệm của Kiềm sát viên tại phiên tịa xét xử vụ án hành chính. Bài viết cũng đưa một số bài học khi thực hiện công tác kiểm sát việc giải quyết vụ án hành chính như cần thường xuyên quá triệt đường lối, chủ trương của Đảng, tôntrọng nguyên tắc VKS được tổ chức theo nguyên tắc độc lập và chế độ lãnh đạo tậptrung thống nhất trong Ngành, đảm bảo công tác chỉ đạo, điều hành, kiên toàn tổ

chức bộ máy, tăng cường cơng tác phối hợp trong q trình triển khai nhiệm vụ,

quyền hạn của VKSND.

<small>20</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">

Nhìn chung các tài liệu nêu trên đã đề cập đến những khía cạnh khác nhau về vai trị, vị trí của VKSND trong tố tụng hành chính, chủ yếu việc đề cập đến nộidung này mới dừng lại ở mức độ nhất định, đề cập đến những khía cạnh riêng biệtvề chức năng của VKSND nói chung, vị trí, vai trị của VKSND trong tố tụng hành chính nói riêng mà chưa đánh giá một cách tổng quát về nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND trong tố tụng hành chính.

Các cơng trình liên quan đến luận văn, luận án, đề tài có liên quan đến nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND trong tố tụng hành chính trong thời gian qua có thể kểđến như: Trần Văn Nam (2010) với Luận án tiến sĩ <i>“Quá trìnhhình thành, phát </i>

tại Học viện Chính trị - Hành chính Quốc Gia Hồ Chí Minh. Luận án đánh giá thựctrạng tổ chức và hoạt động của VKS. Bên cạnh đó xây dựng mơ hình và giải pháp

thực hiện đổi mới VKS nhằm đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp. Trần Thị Thu Hà (2014) với đề <i>tài “Vai trò của Việnkiếmsát trong tố tụng hành chỉnh- qua thựctiễn </i>

<i>thànhphố HảiPhòng”</i> Đại học Quốc gia Hà Nội. Tác giả nghiên cứu và đánh giá

vai trị của VKS trong tố tụng hành chính cùa VKS trong tố tụng hành chính với pháp luật hiện hành qua thực tiễn thành phố Hải Phịng. Từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về vai trò của VKS trong tố tụng hành chính.

Phùng Thanh Hà (2014) với đề tài <i>Nhiệm vụ, quyền hạn của viện kiêm sátnhân </i>

tiễn trong pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND trong tố tụng dân sự trướcyêu cầu cải cách tư pháp hiện nay ở Việt Nam. Qua đó đề xuất những phương

hướng cơ bản nhằm hoàn thiện pháp luật và các giải pháp bảo đảm thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND trong tố tụng dân sự, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp. Đặng Minh Phượng (2013) <i>“ChếđịnhViện kiêmsát nhân dãn trong Hiếnpháp Việt </i>

<i>Nam” - Luận </i>văn thạc sĩ, Khoa luật Đại học Quốc gia Hà Nội, tác giả phân tích làm

rõ các nội dung: 1. Sự hình thành và phát triển của VKSND, trong đó nêu lên vị trí,vai trị của VKSND trong Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, VKSND

qua các bản Hiến pháp Việt Nam và VKS, Viện công tố theo quy định của Hiến pháp một số nước trên thế giới. 2. Thực trạng tố chức và hoạt động của VKSNDtheo quy định của Hiến pháp 1992, trong đó luận văn đưa ra thực trạng về cơ cấu, tổ

<small>21</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">

chức của VKSND và thực trạng vê hoạt động của VKSND trong các khâu công tác

như: trong thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong lĩnh vực hình sự; trong công tác kiểm sát việc tạm giam, tạm giữ, quản lý và giáo dục

người chấp hành án phạt tù; trong công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ việc dân sự, các vụ án hành chính và những việc khác theo quy định của pháp luật; trong

công tác kiểm sát thi hành án và công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo và kiểm sát

việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp. Nouanthong Sengnouthong (2016)<i> “Hoànthiệnpháp luậtvề bỏ nhiệm, quảnlý vàsử dụng Kiếm</i>

Hà Nội. Luận văn nêu lên thực trạng các quy định pháp luật về bố nhiệm, quản lý

và sử dụng Kiếm sát viên ở nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, thực tiễn thi hành các quy định của pháp luật và đánh giá thực tiễn thi hành các quy định của pháp luật về bố nhiệm, quản lý và sử dụng Kiếm sát viên. Từ đó, luận văn định hướng một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về bổ nhiệm, tuyển dụng và sử dụng Kiểm sát viên ở nước Cộng hòa dân chù nhân dân Lào. Nguyễn Thị Thế

(2016) “<i>Hoạt độngkiếm sát việcgiảiquyếtvụ án hành chính liênquan đến hoạtđộngquản lỷ nhà nước về đấtđai”.</i> Đề tài nêu lên những khó khăn, vướng mắc của Viện kiểm sát nhân dân trong quá trình kiểm sát việc giải quyết vụ án hành

chính liên quan đến đất đai trong đó có ngun nhân xuất phát từ chính các quyđịnh của pháp luật đất đai và pháp luật tố tụng hành chính hiện hành. Từ đó, đề tài đua ra các giải pháp nhằm nâng cao hiêu quả cùa công tác kiểm sát việc giải quyết

vụ án hành chính liên quan đến lĩnh vực quản lý nhà nước đặc thù này.

Liên quan đến nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND trong tố tụng hành chính

cịn có nhiều bài viết trên các tạp chí chun ngành đã được cơng bố đã góp phầnlàm rõ hơn nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong q trinh giải quyết vụ án hành

chính. Mồi cơng trình bàn về từng khía cạnh, từng hoạt động của VKSND khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo luật định. Đây là nguồn tài liệu tham khảo có giá trị

đối với các vấn đề nghiên cứu của tác giả kể cả hai khía cạnh ủng hộ và phản biện

quan điểm nghiên cứu của luận án, có thể kế đến một số bài viết như: Nguyễn

Hoàng Anh (2010)<i> “Vai trị của Viện kiêmsáttrong vụ án hànhchínhvà vấn đềđộc </i>

<small>22</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">

vai trò cùa VKSND trong vụ án hành chính và sự ảnh hưởng tới nguyên tăc độc lập

xét xử của Tịa hành chính. VKS có thể can thiệp từ hai phía: với tư cách một cơ

quan giám sát, và với tư cách thứ hai, rất đặc thù cho vụ án hành chính - tư cách người khởi kiện vụ án hành chính. Nguyễn Thị Thế, “Hoàn<i> thiện các quỵ định về </i>

<i>trả lại đơnkhởi kiện trong tố tụnghành chính ”,</i> tạp chí khoa học kiềm sát số03/2014, nghiên cứu những bất cập trong quá trình áp dụng các quy định của Luật

Tố tụng hành chính 2010 về trả lại đơn khởi kiện vụ án hành chính, từ đó kiến nghịsửa đối quy định của pháp luật về vấn đề này. Lê Văn Hảo, “Bàn<i> về nguyêntắc cơ bản đê tăng cường hiệu quảphảp luậttrong giảiquyếtvà kiêm sátviệcgiải quyết</i>

<i>cácvụán hành chỉnh”,</i> tạp chí kiểm sát số 09/2014. Tác giả phân tích một sốnguyên tác cơ bản trong tố tụng hành chính như: nguyên tắc bảo đảm sự thật khách

quan, ngun tắc cơng bằng, bình đẳng, ngun tắc dân chủ, nguyên tắc công khai

trong tố tụng hành chính, mối liên quan của các nguyên tắc này với hoạt động kiếmsát việc giải quyết vụ án hành chính của Viện kiểm sát nhân dân. Lã Thị Tú Anh,

Nguyễn Thị Thái,<i> “Một số giải pháp nâng caochất lượng công tác kháng nghị phúc </i>

vướng mắc, bất cập ảnh hường đến chất lượng kháng nghị phúc thẩm án dân sự,hành chính, từ đó nêu lên một số giải pháp nâng cao chất lượng kháng nghị phúc thẩm của Viện kiểm sát nhân dân như: cần chú trọng công tác xây dựng, sửa đổi,

bổ sung các quy định của pháp luật, tăng cường sự quan tâm, chỉ đạo của lãnh đạo Viện kiếm sát nhân dân các cấp, kiện toàn đội ngũ cán bộ công chức trong ngành và

tăng cường cơng tác phối hợp trong q trình thực hiện nhiệm vụ. Nguyễn Thị Thế,

<i>“Hoànthiện cácquyđịnh vềkiểm sátviệc tuân theo pháp luậttrong tổ tụnghành </i>

<i>chỉnh”,</i> tạp chí khoa học kiểm sát số 01/2015, bài viết nghiên cứu và đưa ra các kiến

nghị hoàn thiện quy định về kiểm sát trả lại đơn khởi kiện, về kiểm sát thụ lý vụ ánhành chính nhằm đảm bảo hồn thiện của pháp luật tố tụng hành chính, góp phần

thuận lợi cho công tác của Viện kiếm sát nhân dân. Vương Văn Bép, <i>“Kiến nghị </i>

<i>cách tưpháp”,</i> tạp chí kiềm sát số tân xuân 2015. Tác giả nêu lên một số vướng

mắc trong các quy định của pháp luật tố tụng hành chính về đối tượng khởi kiện và

vướng mắc trong kiểm sát việc giải quyết vụ án hành chính của Viện kiểm sát nhân

<small>23</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">

dân. Từ đó, tác giả nêu lên một số kiến nghị khắc phục những vướng mắc, bất cậptrong quá trình áp dụng Luật Tố tụng hành chính như: sửa đổi, bổ sung một số điều

của Nghị quyết số 02/2011/NQ - HĐTP về đối tượng khởi kiện vụ án hành chính,

về trường hợp Tịa án đình chỉ giải quyết vụ án hành chính khi người khởi kiện rút

đơn khởi kiện và về thẩm quyền của Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án

hành chính. Nguyễn Thị <i>Thế, “Mộtsốkiến nghị hồn thiệnDựthảo Luật Tố tụng </i>

<i>hànhchinh (sửa đổi) đáp ứngyêucầu cải cách tưpháp trong giaiđoạn hiện nay”, </i>

tạp chí khoa học kiểm sát số 03/2015, bài viết kiến nghị hoàn thiện một số quy địnhvề nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên trong tố tụng hành chính; về quyền khiếu nại, kiến nghị và giải quyết khiếu nại, kiến nghị về trả lại đơn khởi kiện; về hiệu lực

của bản án, quyết định giải quyết vụ án theo thủ tục rút gọn, góp phần đảm bảo hiệu quả cơng tác của Viện kiềm sát nhân dân khi kiếm sát việc giải quyết vụ án hành chính. Tác giả Nguyễn Thế Vụ, trong bài viết <i>“Nâng cao chất lượng phát biêucủaKiêm sát viên tại phiên tịa sơthâm, phúc thâmgiảiquyếtvụ ánhành chính”, </i>tạp chí

kiểm sát số 05/2015 đã nêu lên vai trị của Kiểm sát viên, ý nghĩa bài phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa giải quyết vụ án hành chính, những vấn đề đặt ra nhàmđảm bảo hiệu quả của bài phát biểu quan điểm của Kiểm sát viên. Tác giả Thái Văn

Đoàn, trong bài viết <i>“Kiến nghịhồnthiện mộtsố quyđịnhcủa Luật Tốtụng hànhchính”,</i> tạp chí kiểm sát số 19/2015. Tác giả nêu lên một số vướng mắc, bất cập trong công tác kiểm sát giải quyết vụ án hành chính như: vấn đề đối thoại, vấn đề thẩm

Lê Việt Sơn, Đoàn Thị Vĩnh Hà, <i>“Vaitrỏ củaViện kiểm sát nhân dântrong tổtụng </i>

<i>hànhchỉnh theo LuậtTố tụng hànhchính năm 2015”, </i>tạp chí kiếm sát số 05/2016.

Tác giả đã làm rõ vị trí, địa vị pháp lý của Viện kiếm sát nhân dân trong Luật Tố tụng

hành chính 2015, nhiệm vụ, quyền hạn cùa Viện trưởng VKSND, Kiểm sát viên,

Kiểm tra viên; sự có mặt của Kiếm sát viên tại phiên tịa, phiên họp giải quyết vụ ánhành chính, vấn đề phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa, phiên họp và vấn đề

<small>24</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32">

kiểm sát thi hành án hành chính. Nguyễn Thị Thủy <i>Khiêm, “Nhiệm vụ củacông tác</i>

<i>đặtrachocông tác kiểm sát thi hành án hànhchính”} </i>Nguyễn Thị Thế, <i>“Kiêmsát</i>

<i>rútra kiêm sát giải quyết vụánhành chỉnh liênquan đến thu hồi đất,giải phóng mặt</i>

viết của các tác giả nói trên đã làm rõ từng nội dung, từng vấn đề liên quan đến hoạt

động, nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND khi thực hiện kiểm sát việc giải quyết vụ án

hành chính theo quy định cùa Luật TTHC năm 2015, và những yêu cầu đặt ra cho

hoạt động này trong thời gian tới. Tác giả Lê Việt Sơn, với bài viết <i>“Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện trưởng Viện kiếm sát, Kiếm sát viênvà Kiểmtra viên theo Luật Tốtụnghành chính 2015”,</i> tạp chí kiểm sát số 05/2017 đã phân tích làm rõ quy định của pháp

luật về nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND, làm rõ chế định về Kiểm sát viên, Kiểm tra viên theo quy định của Luật TTHC năm 2015, tác giả đánh giá, Luật TTHC năm

2015 đã quy định khá đầy đủ, rõ ràng và chi tiết hơn so với Luật TTHC năm 2010,

điều này tạo điều kiện thuận lợi cho VKSND, Viện trường VKS, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên thực hiện tốt chức nãng và nhiệm vụ, quyền hạn của mình khi tham giavào hoạt động tố tụng hành chính. Tác giả Nguyễn Thành Duy với bài viết <i>“Giải</i>

<i>chính, vụ việc dân sựcủaViện kiếm sát nhản dân tỉnh Gia Lai”,</i> tạp chí kiểm sát số

06/2018 đã đánh giá thực trạng công tác kiểm sát việc giải quyết vụ án hành chính vụ

việc dân sự trên địa bản tỉnh Gia Lai, trên cơ sở đó nêu lên giải pháp nâng cao chấtlượng hiệu quả công tác kiếm sát việc giải quyết vụ án hành chính, vụ việc dân sự như: đối mới về nhận thức, giải pháp về quản lý, chỉ đạo, điều hành và giải pháp về

đào tạo, nâng cao chất lượng cán bộ làm công tác kiểm sát việc giải quyết vụ án hành chính, vụ việc dân sự. Tác giả Lê Ngọc Duy với bài viết “Một số vấn đề lý luận và

pháp luật về bảo vệ quyền con người, quyền công dân trong hoạt động tố tụng của

<small>25</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">

Viện kiểm sát nhân dân”, tạp chí kiểm sát số 19/2018, trong đó trình bày vị trí, vai trị

của VKS theo Hiến pháp năm 2013 trong bảo vệ quyền con người, quyền cồng dân;

mối quan hệ giữa chức năng với nhiệm vụ của VKSND trong bảo vệ quyền con

người, quyền công dân và nội dung bảo vệ quyền con người, quyền công dân trong

hoạt động tố tụng cùa VKSND. Tác giả Hoàng Thị Quỳnh Chi, Trần Quỳnh Hoa với

bài viết “Kinh nghiệm đổi mới tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân

Trung Quốc”, tạp chí kiểm sát số 18/2019 trong đó có trình bày về vai trị của

VKSND Trung Quốc trong tố tụng cơng ích (tố tụng dân sự cơng Ích và tố tụng hànhchính cơng ích) được thể hiện tại Luật sửa đổi Luật TTDS và Luật TTHC có hiệu lựctừ ngày 01/7/2017. Theo đó, hai văn bản luật nói trên đã giao nhiệm vụ tố tụng cơng

ích cho VKSND. Đối với tố tụng hành chính cơng ích, khi VKS phát hiện có hành vi

vi phạm trong lĩnh vực môi trường, y dược và thực phẩm thuộc trách nhiệm của cơ quan hành chính nhà nước, tài sản nhà nước (chù yếu là quyền sử dụng đất của nhà nước) thì VKS tiến hành tố tụng hành chính cơng ích, VKS tiến hành điều tra sơ bộvà sau đó ban hành văn bản kiến nghị cơ quan hành chính nhà nước (kiến nghị tiền tố tụng). Khi cơ quan nhà nước nhận được kiến nghị của VKS thì có trách nhiệm thực

hiện kiến nghị của VKS trong thời hạn 02 tháng để khắc phục những vi phạm trong

quản lý hành chính và có văn bản trả lời cho VKS về những biện pháp khắc phục.

Sau thời hạn 02 tháng, nếu cơ quan hành chính nhà nước khơng thực hiện kiến nghị của VKS thì VKS khởi kiện tại Tòa án. Kết quả thực hiện kiến nghị của VKS đạt

100%,do đó VKS Trung Quốc chưa phải khởi kiện vụ án hành chính nào tại Tòa án.

Tác giả Phan Văn Tâm với bài viết <i>“Một số vấn đề rút raqua03 năm thi hànhLuậtTố tụng hànhchỉnh năm2015 trong ngành Kiểm sát nhân dãrì\</i> tạp chí Kiểm sát số07/2020 đã làm rõ về đặc điểm, tình hình của loại án hành chính trong những nàm

gần đây; nêu lên một số ưu điểm, vướng mắc, bất cập của Luật TTHC năm 2015 như:

quy định về đối thoại trong tố tụng hành chính, về thẩm quyền giải quyết vụ án hành

chính theo thủ tục sơ thẩm của TAND, về chuyển hồ sơ vụ án giữa TAND với VKSND trong trường hợp xem xét kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm vụ án hànhchính ... bài viết cũng nêu lên kết quả qua 03 năm thi hành Luật TTHC năm 2015 trong ngành Kiểm sát nhân dân và nêu lên một số nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm của ngành Kiểm sát nhân dân đối với kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hành

<small>26</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34">

chính. Các tác giả Dương Đình Cơng, Ngơ Văn Minh với bài viêt “Luận bàn vê mộtsố nguyên tắc tố chức và hoạt động của Viện kiếm sát nhân dân theo quy định của Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014”, tạp chí khoa học kiểm sát số06/2020 đã trinh bày về nguyên tắc tổ chức và hoạt động của VKSND, những khó

khăn, vướng mắc về quy định pháp luật và thực tiễn thực hiện một số nguyê tắc tổ

chức và hoạt động của VKSND và đề xuất một số kiến nghi hoàn thiện quy định vềnguyên tắc tổ chức và hoạt động của VKSND như: kiến nghị về bổ sung nội dungnguyên tắc tố chức và hoạt động của VKSND, kiến nghị về làm rõ mối quan hệ giữa

Viện trưởng và Kiểm sát viên ....

Có thế thấy, các cơng trình nghiên cứu liên quan đến tồ chức và hoạt động của VKSND khá phong phú, được tiếp cận là làm rõ từ nhiều góc độ nghiên cứukhác nhau. Đây là những cơng trình nghiên cứu có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, là nguồn tài liệu tham khảo có tính chất định hướng nghiên cứu cho nghiên cứu sinh

trong quá trình hồn thiện luận án.

<b>1.2.Tình hìnhnghiên cứu trên thế giới liên quanđếnluận án</b>

Các cơng trình ở nước ngồi hiện nay liên quan đến nội dung nghiên cứu có

thể kể đến như:

Cuốn "Xây dựng Hiển pháp ở các nước Xô viết” (Constitution-making in theRegion of Former Soviet Dominance) của Rett R. Ludwikowski phần thứ nhất

nghiên cứu về mặt bối cảnh, tiền đề; phần thứ hai tập trung nghiên cứu các bản Hiến

pháp mới về các hình thức nhà nước, cơ cấu tố chức quyền lực nhà nước và bộ máy

nhà nước như của Albania, Séc, Estonia, Kazakhstan, Kyrghyz, Lithuania, Ba Lan và các nước cộng hòa XHCN.

OECD, 1997 với báo cáo <i>“Administrative proceduresand the supervision</i>

trình bày về thủ tục hành chính và các hình thức giám sát tư pháp hành chính tại các Quốc gia Hungari, Poland, Bulgaria, Estonia và Albania. Trong đó, tại phần 2

của báo cáo đã trình bày về hoạt động giám sát tư pháp hành chính của chủ thể như thanh tra, các ủy ban đặc biệt, công tố viên và các ùy ban cùa Quốc hội. Cụ

thể, tại Hungari, Công tố viên hoặc VKS được thành lập theo Hiến pháp và có chức năng đảm bảo việc tuân thủ pháp luật của các tổ chức xã hội, cơ quan nhà

<small>27</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35">

nước và công dân. Trường hợp phát hiện vi phạm pháp luật, Văn phịng Cơng tơ thực hiện các quyền nhằm áp dụng các biện pháp để các chủ thể khắc phục viphạm theo quy định của pháp luật; quyền hạn của Tổng cơng tố Cộng hịa Hungari

thời kỳ này rất rộng lớn, như: tham dự Nghị viện với tư cách cố vấn để sừa đồi các quy định do Hội đồng bộ trưởng hoặc do cá nhân Bộ trưởng ban hành; đề xuất sửađổi pháp luật; hoặc Văn phịng Cơng tố có thể đưa phán quyết của Tịa án tối cao và đề trinh kiến nghị lên Tòa án Hiến pháp để Tòa án ra các phán quyết liên quanđến Hiến pháp. Công tố viên sẽ tham gia các hoạt động thực thi pháp luật; giám

sát Hiến pháp và bảo vệ tính họp pháp của Hiến pháp. Đặc biệt, Cơng tố Hungari có vai trị trong việc giám sát hoạt động quản lý hành chính của các chủ thể quản lý hành chính nhà nước. Khi thực hiện nhiệm vụ giám sát tính hợp pháp, Cơng tố

viên hoạt động như luật sư cơng trong q trình tố tụng tư pháp [93]. Hay tại Ba lan, Văn phịng Cơng tố viên được thành lập theo Hiến pháp, ngồi vai trị cúamình trong lĩnh vực hình sự, chức năng của Cơng tố viên là bảo vệ việc tuân theo pháp luật của tất các các chủ thể trong xã hội, bao gồm cả cơ quan hành chính.

Cơng tố viên có vai trò quan trọng trong thủ tục tố tụng hành chính, Cơng tố viên được trao quyền u cầu cơ quan có thẩm quyền thực hiện hành động để loại bỏ vi

phạm pháp luật, Cơng tố viên cũng có quyền phản đối quyết định hành chính củacơ quan hành chính có vi phạm pháp luật, cơ quan có thấm quyền sau đó phải có

trách nhiệm xem xét lại quyết định của mình và thơng báo cho các bên có liên

quan theo quy định pháp luật [93] ... .

Adriaan Bedner (2001) với nghiên cứu <i>“Administrative Courts in Indonesia: </i>

lý. Cuốn sách này đánh giá hiệu suất của hệ thống tịa án hành chính Indonesia.

Năm 1991, Indonesia đã thành lập một hệ thống tịa án hành chính cung cấp khả

năng cho người dân chống lại hành vi hành chính trái pháp luật. Cuốn sách đã giải thích lý do tại sao các tòa án đã được thành lập mặc dù bản chất mang nặng tính độcđốn của nhà nước của Indonesia, và lý do tại sao hệ thống đó là chịu ảnh hưởng

của pháp luật Hà Lan. Tác giả phân tích các thấm quyền của các tịa án trong xử lý vụ án hành chính và các tịa án đã sử dụng thẩm quyền đó như thế nào. Cuốn sách

cịn đưa ra các nội dung nói lên bản chất khơng cơng bằng của vụ án hành chính,

<small>28</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36">

bằng cách phân tích các yếu tố bên trong và bên ngồi tố chức tịa án hành chính ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động. Các yếu tố này bao gồm thâm hụt ngân sách, thiếu các cơ hội đào tạo, thao tác nghề nghiệp, tham nhũng, thiếu sự hỗ trợ của chính phủ, và nhiều vấn đề không hợp pháp khác. Cuối cùng, tác giả cung cấp mộtsố kiến nghị cho sự thay đổi.

Malcolm Russell - Einhom và Jacek Chlebny (2006), <i>“Assessment of theAdministrative Justice System inMacedonia'’". </i>Báo cáo phân tích tống quan hệ thống

tư pháp hành chính hiện tại ở Cộng hịa Macedonia, cùng với các khuyến nghịchung về cách thức có thể được cải thiện thông qua một loạt các thay đổi về hệ

thống lập pháp, chính sách và quy định cũng như các sáng kiến về đào tạo và hỗ trợ

kỳ thuật. Báo cáo được thực hiện theo yêu cầu của Ngân hàng Thế giới liên quan

đến hoạt động tư pháp.

Burger, E. s., & Holland, M. (2008) với đề <i>tài “Law as politics:the Russian</i>

thi luật pháp tại Viện Kiểm Sát của Nga trong các đời tổng thống như Vladimir

Putin, Dmitri Medvedev. Qua đó đánh giá q trình thay đổi hệ thống luật pháp cũng như quyền hạn của Viện Kiểm sát trong các thời kỳ tổng thống.

Peter Cane với cuốn sách “Administrative Law”, 2011, cuốn sách tập trung

phân tích luật hành chính với tư cách là khung pháp lý của quản lý hành chính cơng.Với cách tiếp cận này, luật hành chính được hiếu theo ba khía cạnh, thứ nhất là về

các tồ chức quản lý hành chính và mối quan hệ của chúng với những cơ quan nhà nước khác (như cơ quan lập pháp và tòa án); thứ hai là các quy tắc pháp lý điềuchỉnh hoạt động thường ngày của cơng tác quản lỷ hành chính nhà nước; thứ ba làcác thiết chế và cơ chế liên quan đến các cơ quan quản lý hành chính chịu trách nhiệm đảm bảo việc tuân thủ các quy tắc pháp luật hành chính.

Global delivery ininitiative với báo cáo <i>“ImplementingAdministrativeJustice </i>

Nghiên cứu này xem xét việc cải cách công lý hành chính ở Armenia, Azerbaijan và

Georgia, làm rõ cách thức và lý do cải cách đã được bắt đầu; giới thiệu việc hỗ trợvà các khung pháp lý cơ bản đà được xây dựng như thế nào. Nghiên cứu tình huống

<small>29</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37">

đế so sánh quá trình thực hiện luật mới ở ba nước, xác định những điểm tương đồngvà khác biệt và phân tích làm thế nào và tại sao những trở ngại đã được khắc phục.

Sau khi Liên bang Xô viết tan rã năm 1991, chính phủ của Armenia, Azerbaijan

và Gruzia cam kết thiết lập nền kinh tế thị trường và các quy tắc của pháp luật để tăng cường nền dân chú và tăng trưởng kinh tế.

Trong thời kỳ Xô viết và tiếp tục vào những năm đầu tiên sau khi độc lập,

việc quản lý hành chính trong Armenia, Azerbaijan và Georgia đã trở nên ngàycàng tùy tiện, không đủ năng lực phục vụ, và tình trạng tham nhũng diễn ra phồ biến. Các nguyên tắc được luật quy định không nhất qn và tính khả thi kém, việc thực thi khơng đảm bảo quy định của pháp luật dẫn đến việc thiếu ý chí chính trị hoặc năng lực trong hoạt động hành pháp, và sự khơng hồn tồn tin tưởng vào năng lực cũng như sự độc lập của tòa án trong việc tuân theo pháp luật làm suy yếu

sự đầu tư và ngăn chặn tăng trưởng kinh tế, hơn nừa ngăn chặn nền dân chủ nhândân. Mối quan hệ giữa chính phủ và các cơng dân cần phải được xác định, quy địnhmới. Trên nền tảng này, vào cuối những năm 1990 và đầu nhừng năm 2000, chính phủ của Georgia, Armenia, và Azerbaijan đã khởi xướng và thực hiện cải cách tư

pháp hành chính với định hướng rõ ràng theo Mơ hình châu Âu.

Hiện nay, cả ba nước ở Nam Caucasus đều có luật hành chính cơ bản tại chỗ, cung cấp hướng dẫn các nguyên tắc minh bạch và vô tư trong hoạt động quản lýhành chính và thiết lập các cách hiệu quả để có những quyết định được xem xét

lại hoặc để tìm kiếm hỗ trợ tư pháp. Các tịa án hành chính đà được thành lập,

chù trì bởi các thẩm phán chuyên ngành. Tuy nhiên, các quốc gia chuyển đổi với tốc độ khác nhau và theo các chiến lược khác nhau trong việc giải quyết những

khó khăn. Việc thực hiện cùa các luật về cải cách tiếp tục đặt ra nhừng thách thức đối với ba tiểu bang.

Zhautikova, D. B. (2013) với bài báo “<i>Theformationof the unified system ofprocuracy in the republicof Kazakhstan\</i> Bài báo trình bày quá trình hình thành và

tiến trình phát triến của Viện Kiểm Sát tại Cộng hịa Kazakhstan. Từ đó chỉ ra được

những thành cơng và hạn chế trong quá trình phát triển cơ quan Viện kiểm sát tại

quốc gia này. Trên cơ sở đó đề xuất một số hướng phát triển Viện Kiểm Sát tại

Cộng hòa Kazakhstan trong thời gian tới.

<small>30</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38">

Ji Hongbo (2013) với bài báo “<i>Reforming Administrative DisputeResolution in </i>

<i>China”.</i> Bài viết đã tập trung phân tích những ưu điềm và vai trò của phương thức giải quyết khiếu nại trong cơ chế giải quyết tranh chấp hành chính; chỉ ra

những nỗ lực của Chính phủ Trung Quốc trong cải cách nhằm nâng cao hiệu quả

của phương thức này thơng qua việc thí điểm thành lập Ưỷ ban giải quyết khiếu

nại hành chính thuộc Văn phịng Luật pháp ở một số địa phương; phân tích

nhừng tác động tích cực và hạn chế của Ưỷ ban này trong giải quyết tranh chấp

hành chính ở Trung Quốc.

Chunyan Ding, Mandarins V. Mandarins: Procuratorate-initiated Administrative

Public Interest Litigation in China” (2022) 17(2) Journal of Comparative Law 286 -

312. Bài viết bàn về quyền khởi kiện vụ án hành chính vì lợi ích cơng cộng của

VKS Trung Quốc. Theo đó, bài viết trình bày về ba vẩn đề liên quan đến quyền

khởi kiện vụ án hành chính cùa VKS Trung Quốc bao gồm: mối quan hệ giữa VKS

và hành chính, các quy định cụ thế cùa pháp luật về khởi kiện vụ án hành chính và

ảnh hưởng của việc tư pháp hóa quản lý hành chính từ việc khởi kiện vụ án của

VKS. Từ đó làm rõ hơn về khởi kiện vụ án hành chính do VKS khởi xướng và việctriển khai nó theo pháp luật Trung Quốc hiện tại.

Yueduan Wang and Ying Xia (2022), The China Quarterly, Volume 253.

Với bài viết “Judicializing Environmental Politics? China’s Procurator-led Public Interest Litigation against the Government”. Các học giả đánh giá thiếu cơ chế tráchnhiệm giải trình của chính quyền địa phương là một thiếu sót lớn trong quản lý môi

trường tại Trung Quốc. Thông qua quy định về khởi kiện vụ án hành chính vì lơi ích

cơng của VKS, những thiếu sót này có thể được khắc phục. Báo cá kết luận rằnB, với vị thế của VKS trong hệ thống chính trị Trung Quốc, quyền độc lập tương đối

với chính quyền địa phương, việc thực hiện chức năng của các VKS địa phương nhìn chung đã duy trì sự cân bằng giữa việc buộc các cơ quan hành chính phải chịu

trách nhiệm về mơi trường và sự tuân thủ của chính quyền địa phương đối với việckhởi kiện vụ án hành chính vì lợi ích công của VKS. Tuy nhiên, cũng phải suy xét

đến vấn đề về sự quản lý của hệ thống cơ quan nhà nước từ trên xuống có thể làm cản trở sự mở rộng và tính ốn định hoạt động khởi kiện vụ án hành chính của VKSnhằm bảo vệ lợi ích cơng theo quy định.

<small>31</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 39</span><div class="page_container" data-page="39">

<b>1.3.Tóm lượccáckêtquả nghiên cứu</b>

Các cơng trình nghiên cứu đã đề cập đến những vấn đề khác nhau liên quan

trực tiếp hoặc gián tiếp đến chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND trong tố tụng hành chính, nhàm làm rõ hơn vị trí, vai trị của VKSND khi thực hiện hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hành chính, thể hiện ở các mặt

cơ bản sau:

Thứ nhất, các cơng trình nghiên cứu đã bàn đến vị trí, vai trị của VKSND trong bộ máy nhà nước, chức nãng của VKSND trong tổ chức thực hiện quyền lựcnhà nước; mơ hình tồn tại của cơ quan Viện kiếm sát, có nên chuyển sang mơ hình Viện cơng tố; vai trị của chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của VKSND, có

nên quy định chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp (trong đó bao gồm kiểm sát tư

pháp hành chính) cho VKSND khơng? Mặc dù còn nhiều câu hỏi như đã số quan

điểm cho rằng, việc tồn tại mơ hình VKS là phù hợp với hình thức tổ chức quyềnlực của Nhà nước ta trong thời điểm hiện nay, góp phần thực hiện hiệu quả nguyên tắc kiểm soát quyền lực nhà nước (quyền lực tư pháp). Đồng thời, đánh giá vai trò

quan trọng của chức năng kiếm sát hoạt động tư pháp trong việc đảm bảo các hoạtđộng tư pháp tuân thủ đúng quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp trong thời gian tới.

Kết quả nghiên cứu cũng chỉ ra một số nội dung liên quan đến nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND trong tố tụng hành chính như: Lịch sử ra đời cơ quan VKSND, cơ sở

thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND trong tố tụng hành chính; làm rõ vị trí,nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND khi thực hiện công tác kiểm sát việc giải quyết vụ án hành chính; đồng thời, các cơng trình nghiên cứu cũng làm rõ những khó

khăn, bất cập và cơ sở của những bất cập trong q trình thực hiện nhiệm vụ, quyền

hạn của VKSND.

Các cơng trình nghiên cứu đã xác định tư pháp hành chính là một trong

những cơ chế bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Vi vậy, nền tư pháp hành chính trong sạch, vững mạnh là cơ sở quan trọng trong việc bảo vệ quyền con người, quyền công dân; đồng thời, là cơ sở đảm bảo hiệu quả hoạt động cúa bộ máy

<small>32</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 40</span><div class="page_container" data-page="40">

nhà nước. Sự tham gia của VKSND là một trong nhừng biện pháp hữu hiệu đê đảm bao các yêu tô trên.

Các cơng trình nghiên cứu cũng đề cập đến cơ chế kiểm soát quyền lực trongbộ máy nhà nước Việt Nam và vị trí của VKS trong cơ chế quyền lực nhà nước, “thiết chế VKSND ở nước ta có tính chất lường tính: vừa là một thiết chế có chức năng giám sát quyền lực, vừa là cơ quan bảo vệ pháp luật ...”, vậy VKS có phải làcơ quan tư pháp hay không?

Các kết quả nghiên cứu cũng đánh giá vị trí quan trọng của VKSND trong tố tụng hành chính, với tư cách là cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng

hành chính, VKSND có ý nghĩa quan trọng trong việc đảm bảo việc giải quyết vụ án hành chính kịp thời, đúng căn cứ pháp luật.

Luận án sẽ kế thừa những kết quả nghiên cứu này trong quá trinh nghiên cứuvà hoàn thiện nội dung của luận án liên quan đến cơ sỡ lý luận về vị trí, vai trị của

VKSND trong tố tụng hành chính.

Thứ hai, các kêt quả nghiên cứu đã đê cập làm rõ những bât cập trong quy định của pháp luật tố tụng hành chính nói chung, quy định về nhiệm vụ, quyền hạn

cua VKSND trong tố tụng hành chính nói riêng. Đồng thời cũng đề cập đến những

khó khăn, bất cập trong q trình áp dụng quy định của pháp luật vào hoạt động giải quyết vụ án hành chính và kiểm sát giải quyết vụ án hành chính. Những khó khãn

trong hoạt động của VKSND xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó chú yếu từ

việc quy định của pháp luật chưa đầy đủ, chưa tạo cơ chế thuận lợi cho VKSND

thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của minh khi thực hiện chức năng kiểm sát việc giải

quyết vụ án hành chính. Ngồi ra, còn xuất phát từ các nguyên nhân khác như: nănglực cán bộ ngành kiểm sát nhân dân chưa đáp ứng với yêu cầu thực tiễn, công tác

chỉ đạo, điều hành trong ngành chưa hiệu quả, cơ chế phối hợp giữa các ban ngànhtrong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn cịn chưa nghiêm túc ... cũng ảnh hưởng khơng nhỏ đến chất lượng hoạt động kiểm sát việc giải quyết vụ án hành chính nói

chung của VKSND.

Luận án sẽ kế thừa các kết quả nghiên cứu trên để phát triển và hoàn thiện

nội dung của luận án liên quan đến thực trạng việc thực hiện nhiệm vụ quyền hạn của VKSND trong tố tụng hành chính và làm rõ nguyên nhân của thực trạng đó.

<small>33</small>

</div>

×