Tải bản đầy đủ (.pdf) (213 trang)

Luận án tiến sĩ Luật học: Di sản thừa kế trong pháp luật dân sự Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (57.19 MB, 213 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

TRƯỜNG DAI HỌC LUẬT HÀ NỘI

TRAN THỊ HUE

DI SAN THUA KE

TRONG PHAP LUAT DAN SU VIET NAM

Chuyén nganh: Luật dân sự.Mã số: 62.38.30.01

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

1. PGS.TS. ĐINH VĂN THANH

2. TS. ĐINH NGỌC HIỆN

THƯ VIỆN __.

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HA NO!

DUANG yr :

HÀ NỘI - 2007

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

lôi xin cam đoan đây là cơng trình

nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu nêutrong luận án là trung thực. Những kếtluận khoa học của luận án chưa từngđược ai cơng bố trong bất kỳ cơng trình

nào khác.

TÁC GIÁ LUẬN ÁN

Trần Thị Huệ

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

<small>BLDS&TMBộ DLBBộ DLTGCNQSDĐHN&GDHVLL</small>

<small>Bộ luật dân su</small>

<small>Bộ luật dân sự và thương mại</small>

Bộ Dân luật Bắc kỳ<small>Bộ Dân luật Trung kỳ</small>

Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất<small>Hơn nhân và gia đình</small>

<small>Hồng Việt luật lệPháp lệnh thừa kế</small>

Quốc triều hình luật<small>Tồ án nhân dân</small>

<small>Tồ án nhân dân tối caoUỷ ban nhân dân</small>

Viện kiểm sát nhân dân

Viện kiểm sát nhân dan tố: cao

<small>Xã hội chủ nghĩa</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

Phan mo đầu

CHUONG 1: CO SO LY LUAN VE DI SAN THUA KE

Quan niệm về di san va di sản thừa kế

Mối quan hệ giữa quyền sở hữu tài san và di sản thừa kế

Y nghĩa của những qui định trong pháp luật dan sự về di sản

<small>thừa kế</small>

Lược sử qui dinh về di sản thừa kế trong pháp luật dân sự<small>Việt Nam</small>

Di sản thừa kế trong pháp luật của một số nước trên thế giới.

CHƯƠNG 2: QUI ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN

HANH VE DI SAN THỪA KẾ

ad t

<small>9 >Jools</small>

<small>phosTài san trong Bộ luật dân sự</small>

Nguyên tac chung trong việc xác định di sản thừa kế

ác định di sản thừa kế

Thành ohần của di sản và di sản thừa kế

Xác định đi sản thừa kế trong một số trường hợp cụ thể

CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP VỀ DI

SẢN THỪA KẾ VÀ HƯỚNG HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH CỦA PHÁPLUẬT VỀ DI SẢN THỪA KẾ.

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

1. TINH CAP THIẾT CUA VIỆC NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI

Pháp luật bảo hộ quyền thừa kế của công dân, cho phép công dân được để

lại thừa kế tài sản của mình cho người khác theo di chúc hoặc theo pháp luật. Điều58 Hiến pháp năm 1992 qui định: “Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu hợp pháp và

<small>guyén thừa kế của công dan".</small>

Thừa kế va di sản thừa kế là vấn dé mang tính kinh tế, mang tính xã hội

truyền thống nhưng cũng là vấn đề phức tạp về mặt pháp lý. Có thể nói, di sản thừa

<small>kế là yếu tố quan trọng hang đầu trong việc làm phát sinh và thực hiện quan hệ dân</small>

su về thừa kế.

<small>Trong thực tế, các vụ kiện tranh chấp về thừa kế ngày càng gia tăng, phức</small>

tạp, tình hình kinh tế - xã hội có nhiều thay đổi, nên việc giải quyết các án kiện

thừa kế trong đó việc xác định di sản thừa ké/gap nhiều khó khăn; có nhiều vu án

<small>kéo dài nhiều năm hoặc qua nhiều cấp xét xử. Hàng năm, Toà án nhân dân</small>

(TAND) các cấp đã thụ lý và xét xử sơ thẩm trên dưới 3.000 vụ án về thừa kế. Quacông tác xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm cho thấy số vụ xét xử sai bịhủy án, sửa án còn khá cao. Nguyên nhân có nhiều, trong đó phải kể đến một số

<small>qu! định của pháp luật liên quan đến di sản thừa kế mới chỉ dừng lại ở tính chất</small>

khung hoặc mang tính nguyên tắc chung, chưa chi tiết, chưa cụ thể, chưa theo kịp

với sự phát triển kinh tế - xã hội trong điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng

<small>xã hội chủ nghĩa (XHCN). Đặc biệt là các văn bản hướng dẫn áp dung cho từng</small>

chương và từng vấn đề cụ thể chưa có. Vì vậy, về phương diện khoa học còn nhiềuquan điểm chưa thống nhất; thực tiễn áp dụng Bộ luật dân sự (BLDS) khi giảiquyết tranh chấp còn nhiều vướng mắc, đặc biệt là các tranh chấp về thừa kế.

<small>Trong đó, việc xác định di sản thừa kế - yếu tố quan trọng hàng đầu đối với việc</small>

giải quyết các án kiện về thừa kế còn nhiều nan giải cả về mặt lý luận và trong

<small>thực tiễn áp dụng.</small>

<small>Đích cuối cùng của tranh chấp thừa kế là xác định đúng khối di sản thừa kế</small>

và phân chia di sản thừa kế theo kỷ phần mà người thừa kế có quyền được hưởng.

Có thể nói rằng việc xác định đúng di sản thừa kế có ý nghĩa rất quan trọng trong

<small>việc gii ¡ quyết các án kiện về thừa kế.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

<small>Luật Đất đai, Luật Doanh nghiệp, Luật Hơn nhân va Gia đình (HN&GD), Luật</small>

Thương mại... làm cho tài sản thuộc sở hữu cá nhân có sự thay đổi về loại, thànhphần và giá trị, kéo theo là sự thay đổi về di sản thừa kế.

Trong bối cảnh hội nhập, với thực trạng của nền kinh tế thị trường và xâydựng Nhà nước pháp quyền ở nước ta hiện nay thì vấn đề tài sản thuộc quyền sở

<small>hữu của cá nhân ngày càng trở nên phức tạp và đa dạng. Vì thế, di sản thừa kế vàviệc xác định di sản thừa kế cũng đặt ra nhiều hơn những vấn đề lý luận và thựctiễn cần giải quyết.</small>

Trước thực trạng đó, việc nghiên cứu, phân tích, làm rõ cơ sở lý luận và thựctiên những qui định của pháp luật về di sản thừa kế là một trong các nhu cầu cấp

<small>bách đối với khoa học pháp lý dân sự ở Việt Nam hiện nay.</small>

Với tinh thần đó, việc chọn dé tài: "Di sadn thừa kế trong pháp luật dan sự

<small>Việt Nam" làm dé tài luận án tiến sĩ luật học là bao dam tính cấp thiết và tính thờisự của vấn đề nghiên cứu.</small>

2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI

<small>Trong khoa học pháp lý từ trước đến nay, ở nước ta chưa có một cơng trìnhnghiên cứu chun sâu và có hệ thống về di sản thừa kế. Bên cạnh những văn bản</small>

hướng dẫn áp dụng BLDS, mới chỉ có một số bài viết trên các tạp chí như Tạp chíTAND, Tạp chí Luật học, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật... nghiên cứu, đề xuất,

<small>kiến nghị một số vấn đề liên quan đến di sản thừa kế. Trong các giáo trình giảngđạy luật học tại các cơ sở đào tạo luật ở nước ta những năm qua (Giáo trình Luật</small>

Dân sự Việt Nam, Giáo trình Luật HN&GD Việt Nam, SỐ tay thẩm phán, Giáo

<small>trình Kỹ năng giải quyết các vụ án dân sự...) cũng mới đề cập một cách cơ bản vàchung nhất về di sản trong chương trình đào tạo cử nhân luật hoặc cán bộ pháp lý.</small>

Một số sách chuyên khảo liên quan đến di sản thừa kế như: “Hoi, đáp về pháp luật

<small>thừa kế” của Tiến sĩ Dinh Văn Thanh và Luật su Trần Hữu Bién; “Cau hỏi và giảiđáp pháp luật về thừa kế” của Luật sư Lê Kim Quế... cũng mới chỉ đề cập một</small>

lượng kiến thức cơ bản, phổ thông.

<small>Hàng năm, tại các cơ sở đào tạo đã có một số cơng trình nghiên cứu ở bậccử nhân về di sản thừa kế. Ngoài ra, trong thời gian qua đã có một số cơng trình</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

thừa kế trong Bộ luật Dán sự Việt Nam ”, Nguyễn Hồng Bắc: “Vấn đề thừa kế

<small>theo pháp luật ở Việt Nam”... Một số luận án tiến sĩ cũng đã đề cập đến di sản thừakế như luận án của Tiến sĩ Phùng Trung Tập: “Thừa ké theo pháp luật của công danViệt Nam từ năm 1945 cho đến nay”, Tiến sĩ Phạm Văn Tuyết: “Thừa kế theo di chúctrong qui định của BLDS Việt Nam ”. Các cơng trình trên đây mới chỉ đề cập và phântích một cách chung nhất về di sản thừa kế trên phương diện là một nội dung của luận</small>

án. Cơng trình nghiên cứu liên quan đến di sản thừa kế còn phải kể đến “Chế độ hôn

<small>sản và thừa kế trong Luật Dân sự Việt Nam của Nguyễn Mạnh Bách. Trong cơng</small>

trình khoa học này, tác giả cũng đã đề cập đến vấn đề di sản thừa kế qua các thành

<small>phần của nó như di san thờ cúng, di tặng va cách lập di sản thờ cúng. Cuốn sách “Motsố suy nghĩ về thừa kế trong Luật Dân sự Việt Nam” của Tiến sĩ Nguyễn NgọcĐiện cũng là một cơng trình khoa học khá công phu và chuyên sâu đề cập đếnnhiều nội dung của chế định thừa kế.</small>

Nhìn chung, trong các cơng trình khoa học kể trên, vấn đề di sản thừa kế

<small>mới chỉ dừng lại ở nét chung cơ bản trên nền tảng lý luận về di sản hoặc mang tínhgiới thiệu di sản trong BLDS hoặc chỉ được xem xét như một trong những yếu tốđược đề cập đến trong nội dung các cơng trình này. Các cơng trình khoa học cóliên quan trên đây đều có mục đích, nội dung nghiên cứu cũng như phương pháptiếp cận khác với luận án này. Tuy nhiên, trong quá trình nghiên cứu và thực hiệndé tài, tác giả có tham khảo và trích dẫn một số kết quả nghiên cứu và bình luận ýtưởng khoa học liên quan đến nội dung của luận án.</small>

<small>Hiện nay trong tầm quan sát của tác giả luận án, chưa thấy có một cơngtrình có qui mơ nào của nước ngồi trực tiếp nghiên cứu về di sản thừa kế dưới gócđộ pháp luật được cơng bố ở Việt Nam. Với tình hình trên, đề tài “Di sản thừa kếtrong pháp luật dân sự Việt Nam”, lần đầu tiên được nghiên cứu ở cấp độ luận án</small>

<small>tiến sĩ dưới góc độ pháp luật một cách tương đối tồn diện và có hệ thống, khơngcó sự trùng lặp với các cơng trình nghiên cứu khoa học đã được công bố.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

Việc nghiên cứu dé tài nhằm thực hiện mục đích: Một là, làm rõ cơ sở lý

luận về di sản và di sản thừa kế. Trên cơ sở lý luận để nghiên cứu các qui định củaluật thực định về di sản thừa kế, tìm hiểu thực tế áp dụng luật thực định để giải

quyết các tranh chấp về di sản trong hoạt động xét xử của toà án. Hai là, đề xuấtcác giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống các qui định của pháp luật về di sản thừa

<small>kế của nước ta ở hai góc độ: điều chỉnh pháp luật và áp dụng pháp luật.</small>

* Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài

Mục đích nghiên cứu nói trên được cụ thể hố trong việc giải quyết các

<small>nhiệm vụ chủ yếu sau :</small>

Một là, nghiên cứu, làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận cơ bản về di sản

<small>thừa kế.</small>

Hai là, tìm hiểu một cách đầy đủ có hệ thống qui định của pháp luật về disản thừa kế trong pháp luật đân sự Việt Nam, đồng thời tìm hiểu một số qui địnhcủa pháp luật về di sản thừa kế của một số quốc gia trên thế giới, để thấy được

những điểm giống và khác nhau so với qui định của pháp luật dân sự Việt Nam về

<small>đó luận giải về yêu cầu hoàn thiện qui định của pháp luật về di sản thừa kế, đồng</small>

thời đề ra các giải pháp hoàn thiện cho các qui định này.* Phạm vi nghiên cứu của đề tài

<small>Nghiên cứu các qui định của pháp luật hiện hành về di sản thừa kế, luận ánđi sâu phân tích nội dung của các qui định về di sản thừa kế trong BLDS Việt Namvà một số qui định của các ngành luật khác liên quản đến di sản thừa kế (Luật Dat</small>

đai, Luật HN&GD, Luật Doanh nghiệp, Luật Sở hữu trí t...). Tìm hiểu mục đích,

cơ sO của việc qui định các điều luật về di sản thừa kế. Tìm hiểu thực tiễn áp dun,

<small>pháp luật về di sản thừa kế và xác định di sản thừa kế qua hoạt động xét xử cy</small>

TAND. Ngoài ra, khi phân tích các qui định cụ thể, luận án cũng đề cập đến

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

<small>khác biệt về di sản và xác định di sản thừa kế. Do tính chất phức tạp, dàn trải củavấn đề di sản trong quan hệ thừa kế, trong luận án này không đề cập và giải quyết</small>

được vấn đề di sản liên quan đến yếu tố nước ngồi, cũng như các khía cạnh liên

<small>quan đến quyền nhân thân.</small>

4. PHƯƠNG PHÁP LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

<small>Cơ sở phương pháp luận của việc nghiên cứu và hoàn thành luận án là dựatrên cơ sở lý luận của học thuyết Mác - Lê nin về chủ nghĩa duy vật biện chứng vàchủ nghĩa duy vật lịch sử. Luận án cũng dựa trên nền tảng tư tưởng Hồ Chí Minh,đường lối chính sách của Dang và pháp luật của Nhà nước nhằm tìm ra mối liên hệ</small>

giữa các hiện tượng để đánh giá các vấn đề nghiên cứu một cách khoa học.

<small>Một số phương pháp nghiên cứu khoa học khác như phương pháp lịch sử,</small>

phân tích, logic, phương pháp tổng hợp, phương pháp đối chiếu, chứng minh, so

<small>sánh, thống kê... cũng được sử dụng hợp lý trong quá trình nghiên cứu giải quyết</small>

các vấn đề trong nội dung của luận án.

5. NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI VỀ KHOA HỌC CỦA LUẬN ÁN

Luận án là cơng trình đầu tiên phân tích một cách tồn diện, day đủ và có hệthống về di sản thừa kế. Luận án được trình bày với những điểm mới sau đây:

<small>Luận án đã tiếp cận một cách khoa học về di sản thế giới, di sản quốc giatrên cơ sở chung nhất, từ đó xây dựng các khái niệm về đi sản, di sản thừa kế; xác</small>

định các thành phần của di sản và di sản thừa kế trong mối liên hệ tổng thể vớikhối di sản mà người chết để lại.

<small>Hệ thống hoá những qui định của pháp luật về di sản thừa kế qua các giai</small>

đoạn lịch sử dé phân tích, so sánh va đưa ra nhận định làm sáng tỏ quá trình hìnhthành và phát triển của pháp luật thừa kế nói chung và những qui định của pháp

luật về đi sản thừa kế nói riêng.

Qua phân tích và chứng minh, luận án đã làm rõ thời điểm xác lập quyền sở

<small>hữu đối với phin tài sản của người thừa kế cũng như người hưởng di sản thừa kếkhác. Day là vin dé quan trọng liên quan đến việc xác định phần di sản của mỗingười có quyér hưởng di sản cũng như việc chấp nhận rủi ro dựa trên hệ luận của</small>

quyền sở hữu hay hệ luận của quyền thừa kế.

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

trên tinh thar. của các nguyên tắc chung trong BLDS, đồng thời thể hiện nét đặc

<small>thù trong quan hệ thừa kế.</small>

<small>Đặc biệt, với mong muốn đóng góp sức mình vào sự hồn thiện pháp luật</small>

cũng như áp dung pháp luật, luận án đã đưa ra một số trường hợp cụ thể còn nhiều

vướng mắc khi xác định di sản. Bằng luận cứ khoa học, luận án đã đánh giá va đưa

ra kết luận trong việc xác định di sản thừa kế đối với các trường hợp cụ thể đó.

<small>Trên cơ sở xác định các thành phần của di sản và di sản thừa kế, luận án</small>

đã đưa ra một tổ hợp các (công thức) xác định di sản thừa kế va mơ hình hốcác thành phần di sản nằm trong khối di sản mà người chết để lại. Từ các côngthức này, xác định được phạm vi khối di sản chia thừa kế khi người chết có để

<small>lại di chúc mà trong di chúc có định phần dành cho di tặng, dành cho thờ cúng,</small>

phần dành chiz thừa kế sẽ khác với khi người chết khơng để lại di chúc.

<small>Qua lý luận và phân tích thực tiễn áp dụng luật về di sản thừa kế, luận án</small>

phân tích những qui định thiếu tính cụ thể, thiếu tính đồng bộ dẫn đến bất cập,

khơng hợp lý, chưa bảo đảm được tính khoa học về những qui định của luật thựcđịnh về đi sản thừa kế ; về xác định di sản thừa kế cũng như các thành phần của

<small>nó, từ đó nêu các kiến nghị hồn thiện các qui định về đi sản thừa kế theo pháp</small>

<small>luật hiện hành.</small>

6. Ý NGHĨA KHOA HỌC CỦA LUẬN ÁN

<small>Hoàn th¿nh luận án này, chúng tôi hy vọng, những kiến thức khoa hoc trong</small>

<small>luận án sẽ là tai liéu phục vụ cho việc học tập, giảng day và nghiên cứu khoa học tạicác cơ sở đào to luật ở Việt Nam, đặc biệt đối với chuyên ngành Luật Dân sự.</small>

Nội dun; của luận án sẽ có ý nghĩa thiết thực, bổ ích, cần thiết cho mọi cánhân khi tìm hitu, xác định di sản thừa kế cũng như thực hiện quyền để lại và nhận

<small>di sản thừa kế.</small>

Chúng téi tin rằng, những kiến nghị khoa học trong luận án sẽ được sử dung

trong cơng việc pháp điển hố Luật Dân sự của Nhà nước, sẽ là những đóng góp cóý nghĩa thiết thực cho những cán bộ áp dụng pháp luật để giải quyết tranh chấp

<small>liên quan đến d sản thừa kế.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

<small>được kết cấu gồm 3 chương, 13 mục.</small>

Chương 1: Cơ sở lý luận về đi sản thừa kế.

Chương 2: Qui định của pháp luật Việt Nam hiện hành về di sản thừa kế.

Chương 3: Thực trạng giải quyết tranh chấp về di sản thừa kế và hướng

<small>hoàn thiên qui định của pháp luật về di sản thừa kế.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

CƠ SỞ LÝ LUẬN VE DI SAN THỪA KẾ1.1.QUAN NIỆM VỀ DI SẢN VÀ DI SẢN THỪA KẾ

<small>1.1.1. Quan niệm về di sản.</small>

<small>Trong bất kỳ xã hội nào cũng luôn tồn tại vô vàn các sự vật và các hiệntượng xã hội. Các sự vật và các hiện tượng ấy nằm trong quá trình tác động của các</small>

<small>hoạt động chính trị, van hố xã hội, kinh tế, khoa học, kỹ thuật, tôn giáo... Các</small>

<small>hoạt động này diễn ra hết sức đa dạng và phong phú, phản ánh quá trình nhận thứcvà chinh phục thế giới tự nhiên, phản ánh quá trình nhận thức xã hội của lồi</small>

<small>người. Các hoạt động nay dù có phong phú, da dang và phức tạp đến đâu thì mục</small>

<small>đích cuối cùng của chúng là nhằm hướng tới thoả mãn các nhu cầu vật chất (lợi íchvật chất) và tinh than (lợi ích tinh thần) của con người.</small>

<small>Thế giới vật chất tồn tại vô han và vô tận trong sự vận động và biến đổi khơng</small>

ngừng, nó khơng phải chỉ là sự chuyển vị trí trong khơng gian mà theo nghĩa chung

nhất, vận động là sự biến đổi nói chung.

Ph. Ăngghen viết: Vận động hiểu theo nghĩa chung nhất - tức được hiểu là một

<small>phương thức ton tại của vật chất, là một thuộc tính cố hitu của vật chất, thì bao gơm</small>

tất cả mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi vị trí

<small>đơn giản cho đến tư dh'y. [2. Tr.92]</small>

<small>Như vậy, bất cứ sự vật, hiện tượng nào dù trong tự nhiên hay trong xã hội</small>

đều tồn tại trong trạng thái vận động biến đổi không ngừng. Tuy nhiên, sự tồn tại

vô hạn và vô tận của thế giới vật chất lại được cấu thành từ các vật thể, các bộ phận<small>vật chất hữu hạn (có ranh giới) tồn tại đa dạng, mn hình mn vẻ và cũng hếtsức phức tạp. Con người, xuất phát từ thế giới, làm căn cứ cho hoạt động có mục</small>đích của mình là cải tạo thế giới có hiệu quả theo nhu cầu và lợi ích nhất định. Để

có thể biến đổi sự vật, cải tạo thế giới khách quan, con người phải hiểu biết su vật,

<small>phải có những tri thức về thế giới, mà tri thức lại khơng có sẵn trong con người,</small>

không được đem lại cho con người dưới dạng “bẩm sinh ”.

<small>Vì thế, muốn có tri thức, con người phải tiến hành một loạt hoạt động, đặc</small>

<small>biệt là hoạt động nhận thức và chính thơng qua hoạt động nhận thức mà con người</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

Hoạt động thực tiễn là hoạt động vật chất của con người mang tính lịch sử và xãhội nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội. Hoạt động tinh thần là hoạt động nhận thức

phản ánh sáng tạo về thế giới. Nhưng hoạt động sáng tạo này sẽ khơng thể có đượcở bên ngồi quá trình con người biến đối thế giới xung quanh. Chính thực tiễn hoạt

<small>động lao động đã đưa lại cho bộ óc người năng lực sáng tạo phản ánh thế giới, đem</small>lại cho con người khả năng và điều kiện nhận biết, khám phá các thuộc tính khác

<small>nhau của sự vật cũng như các qui luật chi phối chúng. Nhờ lao động mà con ngườiđã tạo ra những thứ khác với dạng tồn tại sẵn có trong giới tự nhiên [43. Tr.43].</small>

<small>Như vậy, cùng với các dạng vật chất sẵn có trong giới tự nhiên, con người</small>

đã bang lao động tạo ra những “thit khác ”, những thứ đó có thể tồn tại dưới danghữu hình hoặc vơ hình. Các dạng vật chất sẵn có trong giới tự nhiên, các sản phẩm

<small>do con người cải biến thế giới vật chất theo những thuộc tính, những qui luật vốn</small>

có của nó có thể được xác định là của nhân loại (thế giới); của quốc gia riêng biệthay là của một công dân của một quốc gia cụ thể nào đó trên trái đất.

<small>Trên phương diện triết học, trong thế giới không ở đâu có tận cùng cả bề</small>

rộng lẫn bề sâu, cũng như không ở đâu lại ngừng trệ, không biến đổi và khơng cósự tiếp nối, kế thừa của các quá trình, của các sự vật và hiện tượng, trong đó có kế

<small>thừa tự nhiên và kế thừa chủ động. Kế thừa chủ động phụ thuộc vào nhận thức củacon người dựa vào những điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội của một giai đoạn lịch</small>

sử nhất định. Sự kế thừa, tiếp nối là biểu hiện của “cá¡” có trước, và “cái” có sau;

cái để lại từ thời trước, của xã hội trước, của người trước... cho thời sau; cho đời

sau và cho người sau đang tồn tại. Để chỉ những gì mà thời trước hay người trước

để lại, người ta thường dùng hai từ “di sản”.

Thuật ngữ “di sản” là một từ ghép Hán Việt được tách ra làm hai từ đểhiểu. Trước hết “di” trong Từ điển tiếng Việt [76. Tr.246, 247] được hiểu ở các

<small>khía cạnh sau:</small>

- “Di” biểu hiện sự chuyển động ra khỏi vi trí nhất định thơng qua sự tácđộng nào đó lên một vật để lại dấu vết nhất định.

- “Di” còn được hiểu là dời đi nơi khác, dời đi chỗ khác, “thodt” khỏi vi trí

ban đầu, biểu hiện của sự chuyển động từ nơi này đến nơi khác, từ điểm này đếnđiểm khác trong không gian và thời gian (không gian là điều kiện căn bản của sự

</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">

tồn tại của vật chất, còn thời gian là điều kiện căn bản của sự biến đối trạng thái

<small>của vật chất).</small>

- “Di” với nghĩa khác là sự truyền lại, lưu lại, để lại cho đời sau, thế hệ sau,người “di” sau, như “di bản”, “đi cdo”. “Di” với nghĩa để lại lời day, lời dan lạicủa một người trước khi chết, đó là “di huấn, di chúc”. Cịn “di thần” là để chỉbầy tơi cịn lại của triều vua trước đã bị lật đổ trong quan hệ với triều vua mới, như

<small>di thần triều Lê dưới triều Nguyễn...</small>

Với các nghĩa trên đây, “di” có thể được hiểu một cách chung nhất là sự

dịch chuyển sự vật, hiện tượng làm thay đổi vị trí của chúng trong khơng gian vàthời gian. Sự thay đối vi trí của chúng bao giờ cũng thể hiện yếu tố “rước ” và“sau”. Nó có thể diễn ra trong một thời gian rất ngắn (như nét vẽ đầu tiên đến nét

<small>vẽ tiếp theo trong một bức tranh) hoặc nó được diễn ra trong một thời gian dài (như</small>

từ thời cổ đại sang thời trung đại)...

Từ “sản” trong tiếng Việt được hiểu ở các khía cạnh sau:- Sinh ra, làm ra, tạo ra sản phẩm để sinh sống;

<small>- Cái do con người tạo ra là kết quả tự nhiên của quá trình lao động, sản xuất;</small>

- Là từ dùng để chỉ gia tài, sản nghiệp mang tính tổng thể của những tài sản

<small>trong một khối.</small>

<small>- Vì thế, trong nhân dân, người ta thường dùng câu “san nghiệp của cha ông</small>

để lại”, “gia tài của ông bà, cha mẹ để lại `.

Với các nghĩa trên đây, “sản” được hiểu một cách chung nhất là tài sản hoặc

khối tài sẵn nằm trong sự chiếm hím và sử dụng để mang lại lợi ích cho con người.

Từ “di” được ghép với từ “sdn” thành “di sẩn” nhằm để chi của cải, gia tài,sản nghiệp, cái mà thời trước để lại cho đời sau. Trong Từ điển tiếng Việt thi “disản ” được hiểu với nghĩa là:

- Tài sản của người chết để lại, “hưởng di sản của cha me để lại”.

- Cái của thời trước để lại: Kế thừa di sản văn hoá, kinh tế; di sản pháp luật;di sản về nghiên cứu khoa hoc... chẳng hạn như di tích lịch sử, di vat lịch sử, bảnviết hoặc in của thời trước để lại, kể cả để lại những mối hận, những tai hoa, những

<small>tàn dư của thời trước, đến cả những lời dặn dò, những lời răn dạy của một người</small>

<small>trước khi chết cho con cháu...</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">

Hiểu theo nghĩa rộng, nghĩa thông thường thi “di sdn” là tài san của ngườichết để lại hoặc những cái mà thời trước để lại cho đời sau, bao gồm:

<small>- Các giá trị vật chất là các tài sản đáp ứng nhu cầu nào đó của con người.</small>

- Các giá tri tinh thần thuộc về đời sống nội tâm, những tư duy, ý tưởng, ý

<small>nghĩ định hướng cho hoạt động của con người.</small>

<small>Thuật ngữ “di sản ” được dùng trong rất nhiều lĩnh vực hoạt động của con</small>

người. Chúng được dùng phổ biến nhất là trong lĩnh vực văn hoá, kinh tế, phápluật, khảo cổ học, nghệ thuật, thẩm mỹ và nhân chủng học. Biểu hiện cụ thể của nó

<small>là các qui luật hoạt động kinh tế, các phát minh khoa học, các văn bản pháp luật,</small>

các cơng trình kiến trúc, điêu khắc, hội hoa, các cơng trình xây dung, các tác phẩm

<small>văn học và các thắng cảnh khác.</small>

Thuật ngữ “di sản” cũng được dùng để chỉ di sản của thế giới, di sản của

<small>quốc gia riêng biệt và di san của cá nhân (công dân).* Di sản thế giới được xác định làm hai loại:</small>

Loại thứ nhất là toàn bộ lãnh thổ (bao gồm những bộ phận lãnh thổ được sửdụng chung cho cả cộng đồng quốc tế) như biển quốc tế, vùng trời trên vùng đặcquyền kinh tế, vùng trời quốc tế, vùng đáy biển quốc tế, khoảng không vũ trụ (kể

<small>cả mặt trăng và các hành tinh), châu Nam cực cùng với tài nguyên của nó va gia trị</small>

sử dụng của các bộ phận lãnh thổ ấy là tài sản chung của nhân loại (Rexcomnunex). Các bộ phận lãnh thổ mà pháp luật quốc tế gọi là lãnh thổ quốc tế đã

<small>có sẵn trên trái đất. Lúc đầu con người chỉ chiếm hữu và sử dụng những sản vật sẵn</small>

có trong giới tự nhiên trong các bộ phận lãnh thổ ấy để sinh tồn. Cùng với các

<small>“ndc thang” tiến hố của xã hội lồi người, dan dần và từng bước họ đồng thời đã</small>

nhận thức, chinh phục và cải biến thế giới để phục vụ cho nhu cầu cuộc sống củamình. “Con người khơng thể bằng ý thức mà sản sinh ra các đối tượng vật chất

được. Con người chi có thể cải biến thế giới vật chất theo những thuộc tính, nhữngqui luật vốn có của nó để đáp ứng cho nhu cầu cuộc sống hiện thực ”. [L. Tr.79].

* Trên phương diện triết học và phương diện xã hội, những bộ phận lãnh thổtrên trái đất theo năm tháng và cùng với sự phát triển của xã hội loài người vẫn tồn

tại vĩnh viễn, được truyền lại cho các thế hệ người sống trên trái đất. Sự “truyén

lại” này biểu hiện sự “địch chuyển” về quyền làm chủ và cải biến nó của các thế

hệ người chứ không phải là sự dịch chuyển cơ học của chúng trong không gian. Sự

</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">

<small>“truyền lai” này chỉ yếu tố “rước ”, “sau” của một quá trình nối tiếp mang tinhkế thừa tự nhiên của xã hội loài người.</small>

* Trên phương diện pháp lý, dựa trên cơ sở ghi nhận lãnh thổ quốc tế và cáctài nguyên của nó là tài sản chung của nhân loại, tất cả các quốc gia và các chủ thể

khác của Luật quốc tế đều có quyền bình đẳng trong việc sử dụng tài sản thế giới

vào mục đích hồ bình và phát triển, vì lợi ích của tồn thể lồi người. Ở đây, thể

<small>hiện tính sở hữu quốc tế, vì thế khơng có quốc gia nào được phép xác lập chủ</small>

quyền hoặc quyền chủ quyền của mình đối với khối tài sản thuộc quyền sở hữu của

cộng đồng quốc tế. Tuy nhiên, để tất cả các quốc gia được bình đẳng trong việc

hưởng quyền sử dụng “khối tdi sản” thuộc quyền sở hữu của cộng đồng quốc tế,

<small>căn cứ vào vi trí, tính chất, vai trị, tác dụng... của từng “bộ phận tài sadn” mà pháp</small>

luật quốc tế đã dựa trên nguyên tắc chung làm cơ sở cho việc sử dụng các bộ phận

lãnh thổ quốc tế được qui định tại các ngành luật của hệ thống pháp luật quốc tế.Đó là, Luật biển quốc tế qui định nguyên tac “ do biển cd”, nguyên tắc “đấtthống trị biển ”..., Luật Hàng không quốc tế qui định nguyên tắc “tu do bay trong

vung trời quốc tế”, Luật Vũ trụ quốc tế qui định nguyên tac “ne do nghiên cứu vàsử dụng khoảng không vũ trụ”, nguyên tắc “vùng và di sản trên vùng là di sản

<small>chung của nhân loại”...</small>

Các quyền sử dụng tài sản chung của cộng đồng quốc tế ngày càng được mở

rộng cho tất cả các quốc gia thể hiện qua các thời kỳ phát triển kể từ thời kỳ cổ

<small>đại, thời kỳ trung đại, thời kỳ cận đại cho đến nay (thời kỳ hiện đại). Việc mở rộngquyền sử dụng tài sản chung của cộng đồng quốc tế cũng chính là nội dung pháp lý</small>

của pháp luật quốc tế ngày càng phong phú. Điều đó chứng tỏ rằng nhận thức của con

người trong mối quan hệ với mơi trường tự nhiên đã có sự thay đổi sâu sắc, cụ thể là:- Thay đổi về cách nhìn nhận, đánh giá vai trị và tầm quan trọng từng bộ

<small>phận của khối tài sản thuộc cộng đồng quốc tế;</small>

- Thay đổi về việc cần thiết phải bảo vệ khối tài sản theo từng bộ phận của nó;- Thay đổi nhận thức chung về các vấn đề môi trường quốc tế;

- Thay đổi về việc phải mở rộng thêm quyền cho các quốc gia khi sử dụng

<small>khối tai sản thuộc cộng đồng quốc tế...;</small>

- Thay đổi về việc cần thiết phải có quy chế pháp lý đối với từng bộ phận

<small>trong khối tài sản của nhân loại (hình thành khung pháp luật quốc tế về môitrường, về vùng và tài nguyên của nó...).</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">

“Vùng” được hiểu là đáy biển va lòng đất dudi đáy biển nằm bên ngoài giớihạn thẩm quyền tài phán quốc gia [22. khoản | Điều 01]. Tài nguyên của vùngbao gồm các tài nguyên khoáng sản ở thể rắn, lỏng hoặc thể khí (insitu) (ngay tạichỗ), kể cả các khối đa kim nằm dưới đáy đại dương và trong lòng đất dưới đáy

[22. Điều 136]. Nghị quyết số 2749 ngày 17/12/1970 của Đại hội đồng Liên hợp

quốc và Điều 136 của Công ước Luật Biển 1982 đã bổ sung mở rộng khái niệm về

<small>vùng bằng thuật ngữ mới xác định rõ chế độ pháp lý của vùng, khái niệm di sảnchung của lồi người được chính thức hình thành. “Viing và tài ngun của nó là</small>

di sản chung của lồi người ”. Khái niệm này xác định khối tài sản không thể phân

<small>chia, thuộc sở hữu của cộng đồng quốc tế. Các quốc gia thành viên phải đảm bảo</small>

khơng có sự thay đổi nào đối với nội dung vùng và tài nguyên của vùng là di sản

chung của loài người, đồng thời cam kết không tham gia vào bất kỳ điều ước quốctế nào vi phạm nguyên tắc pháp lý này. Chế độ pháp lý vùng được xây dựng dựatrên nền tảng của nguyên tắc vùng và tài nguyên của vùng là đi sản chung của<small>nhân loại.</small>

<small>Từ thập ky 70, 80 của thế ky XX đến nay, con người đã phải nhận thức lại</small>

về mối quan hệ giữa môi trường và sự phát triển, giữa môi trường và con người, bởi

<small>hậu quả của các vụ ô nhiễm làm suy giảm tầng ô - zơn suy thối mơi trường, thay</small>

đổi khí hậu.... Sự thay đổi nhận thức này được thể hiện trong quá trình hình thành

<small>và phát triển của một ngành luật mới - Luật quốc tế về môi trường. Đây là vấn đề</small>

tất yếu khách quan do nhu cầu phát triển của thực tiễn đời sống quốc tế cũng nhưkhoa học pháp lý. Luật quốc tế về môi trường ra đời tạo nên “khung pháp lý” để bảo

vệ và phát triển bền vững môi trường của mỗi quốc gia cũng như trên phạm vi tồnthế giới. Luật quốc tế về mơi trường, mà trong đó có các vấn đề pháp lý cơ bản là: bảo

<small>vệ khí quyển và khí hậu; bảo vệ rừng; bảo vệ đa dạng sinh học; bảo vệ tài nguyên</small>

nước; bảo vệ môi trường biển.

Pháp luát quốc tế, bên cạnh qui định quyền bình đẳng của các quốc gia

trong việc sử dụng các bộ phận lãnh thổ quốc tế và tài ngun thiên nhiên của nó

<small>thì đồng thời qui định nghĩa vụ của các quốc gia khi sử dụng, khai thác, quản lýnghiên cứu chúng và cả nghĩa vụ gánh chịu trách nhiệm pháp lý quốc tế đối vớihoạt động gây hương hại đến lợi ích của cộng đồng nhân loại [79. Tr. 469, 470]</small>

Loại thử hai là các di tích, các quần thé, các thắng cảnh, các di tích tự

<small>nhiên, các cấu trúc địa chất học, các cảnh vật tự nhiên... thuộc sở hữu của một</small>

quốc gia nào d5 nhưng có giá trị quốc tế đặc biệt (có giá trị nổi bật toàn cầu) xét

</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">

theo quan điểm lich sử, khoa học, nghệ thuật, bảo tồn hay thẩm mỹ đã được

<small>UNESCO công nhận là di sản văn hoá, di sản thiên nhiên thế giới.Các tiêu chí này</small>

dược xem xét theo qui định của Cơng ước năm 1972 của UNESCO về việc bảo vệ

<small>các di sản văn hoá và thiên nhiên thế giới. Đây là văn bản pháp lý quốc tế cao nhấtlàm cơ sở cho việc công nhận và bảo vệ các di sản văn hố và thiên nhiên thế giớiđược thơng qua tại khố họp lần thứ 17 của Đại hội đồng UNESCO họp tại Parisngày 16/11/1972. Việt Nam đã trở thành thành viên của Cơng ước này ngày19/10/1987 theo hình thức chấp thuận. Cơng ước này ra đời với những địi hỏi cấp</small>

thiết từ những nguyên nhân trầm trong cả về khách quan và chủ quan. Cu thể: Tính

cổ truyền (lâu đời) bị xuống cấp một cách tu nhiên; hành vi phá hoại của con người<small>làm cho các loại di sản bi hư hong, bi tàn phá ghê gớm; sự xuống cấp va tàn pha đã</small>

<small>làm nghèo nàn di sản của tất cả các dân tộc trên thế giới.</small>

<small>Nếu từng quốc gia riêng lẻ thực hiện việc bảo vệ nó thì khơng có đủ điềukiện về nguồn lực kinh tế, khoa học và kỹ thuật. Bởi lẽ, việc bảo vệ các di sản này</small>

đòi hỏi rất nhiều phương tiện để bảo tồn một cách hoàn chỉnh mới đạt được hiệu

quả cao nhất. Lời nói đầu Cơng ước năm 1972 của UNESCO về việc bảo vệ các disản van hoá và thiên nhiên thế giới xác định rõ: Mục đích giúp đỡ, duy tri, xúc tiếnvà phổ biến kiến thức để chăm lo tới việc bảo tôn và bảo vệ di sản của thế giới,

khuyến nghị cho tất cả các dân tộc có liên quan đến Cơng tớc quốc tế. Điều đó lạicàng quan trọng đối với việc bảo tồn các tài sản độc nhất và không thể thay thế

được, bất luận chúng thuộc về ddan tộc nào [23]. Theo Cơng ước này thì di sản bao

<small>gồm di sản văn hoá và đi sản thiên nhiên.</small>

<small>Tính đến tháng 7/2003, Uy ban Di sản thế giới của UNESCO đã ghi tên 574địa danh có giá trị quốc tế đặc biệt của 129 quốc gia, trong đó các di sản của Việt</small>

Nam được ghi vào danh mục các di sản thế giới là năm di sản: Quần thể di tích cốđơ Huế, Nhã nhạc cung đình Huế (kiệt tác văn hoá phi vật thể và truyền khẩu củanhân loại); Vịnh Hạ Long (về cảnh quan, địa chất, địa mạo); Khu đô thị cổ Hội An(sự giao lưu của các nền văn hố điển hình về truyền thống định cư của lồingười); khu Di tích Mỹ Sơn; (là một ví dụ điển hình về trao đổi văn hoá và bằng

chứng duy nhất của một nền văn minh ở Châu Á bị biến mất); Vườn quốc gia Phong

Nha - Kẻ Bàng (là một trong những vùng Karst cổ rộng lớn bị chia cắt mạnh và pháttriển liên tục, được hình thành trên 400 triệu năm, tiêu biểu nhất cho hệ đá vôi

<small>cacbon-pecmi).</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">

<small>Xét trên phương diện kinh tế - xã hội, các di sản thế giới của bất kỳ một</small>

quốc gia nào cũng năm trong sự nối tiếp, kế thừa của việc bảo vệ, bảo tổn, tơn tạo<small>và tái sử dụng đi sản đó.</small>

<small>Về phương diện pháp lý, mỗi một quốc gia có di sản được cơng nhận là di</small>

sản thế giới phải có trách nhiệm bảo đảm việc xác định bảo vệ, bảo tồn, tôn tạo và

<small>truyền lại cho các thế hệ tương lai di sản văn hoá và di sản tự nhiên này trên lãnh</small>

thổ của mình và phải coi đó là trách nhiệm trước tiên của quốc gia mình. Điều 4

Cơng ước năm 1972 về việc bảo vệ di sản văn hoá và tự nhiên của thế giới khẳng

định: Quốc gia này phải nỗ luc hành động tối da cho mục đích tôn tạo và bảo tồnvà sit dung bằng những nguồn lực mà mình sẵn có và nếu có, thì bằng cả sự viện

trợ và hợp tác quốc tế mà nó có thể được hưởng nhất là về mặt tài chính, nghệ thuật,

<small>khoa học và kỹ thuật [23].</small>

<small>Được công nhận là di sản thế giới nhưng chủ quyền quốc gia đối với những</small>

di sản đó vẫn được tơn trọng. Các tài sản nằm trong danh sách di sản thế giới vẫn

<small>thuộc quyền sở hữu của các quốc gia có di sản đó. Các nước tham gia Cơng ước</small>

phải cơng nhận đó là một di sản của thế giới mà toàn thể cộng đồng quốc tế cónghĩa vụ hợp tác để bảo vệ, góp sức một cách tương xứng vào sự bảo tồn và bảo vệdi sản nếu quốc gia có di sản nằm trên lãnh thổ của nó yêu cầu. Các quốc giakhông được phép dùng bất cứ biện pháp nào có thể gây phương hại đến di sản thếgiới nằm trên lãnh thổ của nước khác tham gia Công ước này.

Nhìn nhận một cách tổng quan thì Di sản thế giới chính là tài sản nằmtrong q trình dịch chuyển từ đời này qua đời khác, từ thời trước truyền lại cho

<small>các thế hệ tương lai theo từng nắc thang tiến hố của xã hội lồi người. Việc xácđịnh, bảo vệ, bảo tồn, tôn tạo tát su dụng và quản lý nó phải được áp dung các</small>

biện pháp pháp luật, khoa học, kỹ thuật, hành chính và tài nguyên quốc tế, luôn

<small>luôn được bảo hộ quốc tế về mặt pháp lý.</small>

<small>* Di sản quốc gia được xác định dựa trên sự công nhận quốc tế về quyền</small>

năng chủ thể của Luật Quốc tế. Quyền năng này chính là những phương diện thểhiện khả năng pháp lý đặc trưng của những thực thể pháp lý được hưởng quyền và

<small>gánh vác những nghĩa vụ cũng như trách nhiệm pháp lý trong quan hệ quốc tế.</small>

Khoa học Luật Quốc tế quan niệm, quốc gia là thực thể được hình thành trên cơ sở

có lãnh thổ, có dân cư và quyền lực nhà nước với thuộc tính chính trị - pháp lý bao<small>trùm là chủ quyền quốc gia. Cho đến nay, chưa có định nghĩa thống nhất trên bình</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">

<small>diện quốc tế về quốc gia. Tuy vậy, cách tiếp cận của khoa học pháp lý quốc tếtruyền thống và hiện đại cũng đã xác định những tiêu chí được thừa nhận rộng rãi</small>

về thực thể có dình nghĩa quốc gia [79. Tr.60]. Theo công ước Mon Monter năm

1933 về quyền va nghĩa vụ quốc gia thì một thực thể được coi là quốc gia theopháp luật quốc ế phải có bốn yếu tố cơ bản sau: dân cư thường xuyên; lãnh thổ

<small>được xác định; Chính phủ; năng lực của quốc gia</small>

Quốc gia là chủ thể gắn liền với pháp lý - chính trị đặc thù là chủ quyền

quốc gia. Chủ quyền quốc gia là quyền tối cao của quốc gia trong phạm vi lãnh thổ

<small>của mình và quyền độc lập của quốc gia đó trong quan hệ quốc tế. Trong thời dai</small>

ngày nay, chủ quyền quốc gia là quyền tối cao của quốc gia trong phạm vi lãnh thổ

của mình và quyền độc lập của quốc gia đó trong quan hệ quốc tế. Trong phạm vi

lãnh thổ của mình, quốc gia có quyền lực chính trị tối cao. Quyền lực tối cao này

thể hiện là quyền quyết định mọi vấn đề về chính trị, kinh tế, xã hội đời sống vật

chất và tinh thar của quốc gia. Mà lãnh thổ quốc gia là một phần của trái đất, baogồm vùng đất, vùng nước, vùng trời và vùng lòng đất thuộc chủ quyền hoàn toàn

<small>riêng biệt hoặc tuyệt đối của một quốc gia. Các mơi trường tự nhiên này chính là</small>

nội dung vật chất của lãnh thổ quốc gia và thuộc về quốc gia trong pham vi được

giới han bởi đường biên giới quốc gia. Quốc gia có quyền sở hữu hồn toàn đầy đủ

và tron ven tất cả các tài nguyên thiên nhiên của tất cả các “vùng” nằm trong lãnhthổ quốc gia. Quốc gia cũng có quyền sở hữu đối với tất cả các thành quả lao động

<small>của nhân dân nước mình làm ra và kế thừa những thành quả cách mạng. Ví dụ, khiCách mạng tháng Mười Nga thành công, Nhà nước Xô Viết đã tuyên bố kế thừa tất</small>

yếu đối với tất câ các tài sản của nước Nga cũ, khơng kể tài sản đó đang ở tại đâu

<small>và kế thừa tất cả những thành quả lao động của nhân dân nước Nga làm ra. Tương</small>

<small>tự như vậy, ở Vist Nam, sau khi miền Nam được hoàn toàn giải phóng (ngày</small>

30/4/1975) Chính phủ lâm thời Cộng hồ miền Nam Việt Nam đã ban hành nhiều

<small>văn bản pháp lý có liên quan đến vấn đề kế thừa quốc gia, trong đó có Tuyên bốngày 30/4/1975 [£7, tr 6]. Nội dung Tuyên bố này ghi rõ:</small>

<small>Tất cả tài sin ở miền Nam Việt Nam cũng như nước ngoài, những bất động</small>

sản và động sản, rền tệ, vàng bạc, các phương tiện giao thơng... trước thuộc chínhquyền Sài Gịn, từnay thuộc về nhân dân miền Nam Việt Nam và Chính phủ Cách

<small>mạng lâm thời cộtg hoà miền Nam Việt Nam được pháp luật quốc tế công nhận.Hoặc trong Tuyên bố ngày 1/5/1975 về vấn đề các cơ quan đại diện của Chính</small>

quyền Sài Gịn cũ ở nước ngồi, Bộ Ngoại giao Cộng hoà miền Nam Việt Nam ghi

</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">

rõ: Toản bộ tài sản của các cơ quan đó, kể cả hồ sơ tứ liệu, tài khoản ở ngân hang,nhà cửa, phương tiện vận chuyển... là tài sản của nhân dân miền Nam Việt Nam.

<small>Chính phủ cách mạng lâm thời miền Nam Việt Nam quản lý tất cả hồ sơ, ne liệu và</small>

<small>tài sản đó.</small>

Về phương diện kinh tế - xã hội: các tài sản của quốc gia sẽ được quốc gia

sử dụng cho lợi ích cộng đồng dân cư trên lãnh thổ của quốc gia. Các tài sản đó

<small>cũng được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác trong quá trình hình thành và</small>

phát triển của quốc gia.

<small>Về phương diện pháp lý: Trên nguyên tắc chủ quyền vĩnh viễn đối với tài</small>

nguyên thiên nhiên cũng như các loại tài sản khác trên lãnh thổ quốc gia, quốc gia

thực hiện quyền tài phán đối với tài sản trong phạm vi lãnh thổ một cách khônghạn chế và vĩnh viễn (trừ khi có sự thay thế của một quốc gia này cho một quốc gia

<small>khác trong việc hưởng quyền và gánh chịu nghĩa vụ pháp lý quốc tế đối với lãnh</small>

thổ nào đó - tức là có sự thay đổi triệt để về chủ quyền của một quốc gia tại mộtlãnh thổ nhất định). Hiểu theo nghĩa rộng, nghĩa chung nhất thì di sản quốc gia lànhững gì được để lại theo tính kế truyền tiếp nối từ thế hệ này sang thế hệ khác,

<small>tham chí từ chế độ chính trị-xã hội nay sang chế độ chính trị-xã hội khác trong quá</small>

trình hình thành và phát triển của quốc gia. Theo nghĩa này thì di sản quốc gia baogồm cả những bộ phận lớn nhất như vùng đất, vùng trời, vùng nước... cùng tàinguyên của nó, đến các sản phẩm vật chất và tinh thần của con người làm ra;

<small>những bí quyết về một nghề truyền thống, lối sống, nếp sống, những kinh nghiệm</small>

về chiến tranh cách mạng, về những quyền mưu, binh pháp, di chỉ khảo cổ các bí

quyết y học cổ truyền, tư tưởng đạo đức và lối sống của con người của xã hội cũ để

Có thể khẳng định ở bất cứ quốc gia nào thì người xưa cũng để lại những di

<small>sản quý báu không những cho quốc gia sở tại mà cho cả nhân loại (như kiến trúc</small>

về Hin-Đu giáo đồ sé ở AngKo, những kiến trúc Phật giáo Bay-On của

<small>Campuchia, Van lý trường thành, lăng mộ Tan Thuy Hoàng, Cung điện Mùa hè...của Trung Quốc, tháp Eiffen, nhà thờ Đức Bà của Pháp, toà thánh Vatican, thápnghiêng Pisa, đấu trường Colossaum của Italia; cung điện nhà thờ Charle Magne</small>

của Đức, tháp That - luổng của Lào...

<small>Trong các quá trình kế thừa của các quốc gia có kế thừa tự nhiên và kế thừa</small>

chủ động các di sản của thế hệ trước để lại, trong đó, kế thừa chủ động phụ thuộc

| THƯVIỆN

<sub>ẽ '</sub><small>| TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUAT HA NỘI</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">

<small>vào wao chế độ chính trị, cách nhìn nhận, thé giới quan và nhân sinh quan của chủ thé</small>

<small>văn Wan hố.</small>

Ở Việt Nam, từ xa xưa ơng cha ta đã rất quan tâm đến việc bảo vệ và phá

huy quy các di sản văn hố dân tộc, coi đó là nhân tố quan trong để xác lập và vun day

tình ình yêu quê hương, đất nước và con người. Ông cha ta để lại trên đất nước mộ

kho kho tàng di sản vô cùng phong phú và đa dạng, biểu hiện truyền thống lịch sử vivăn kăn hoá của cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Đó chính là cơ sở để xây dựng viphát shat triển nền văn hoá mới trên cơ sở kế thừa có chon lọc “cdi” mà cha ơng để lạiTrong tồn bộ “những gì” mà cha ông để lại được coi là di san (di sản víkinh (nh tế, kỹ thuật trồng lúa nước; di sản về y học cổ truyền; di sản về pháp luật; dsản wan văn hoá ẩm thực; trang phục truyền thống: các di tích, các quần thể kiến trúc

các các danh lam thắng cảnh và các loại khác) thì trong đó theo các nhà nghiên cứt

<small>văn băn hố, lich sử, dân tộc học, có một bộ phận di sản có tính kế thừa một cách mant</small>

liệt, dệt, có tính cội nguồn và là “vốn liếng” quan trọng của một dân tộc để đảm bắc

cho sho sự phat triển bền vững một nền văn hố. GS.TS Trương Quốc Bình (Cục bac

tồn tồn bảo tàng Bộ Văn hố thơng tin) cho rằng: “Kho tàng di sản văn hoá nguns

dongiong những tri thức kinh nghiệm của cộng đồng các dân tộc thể hiện thế ứng x

giữa yitta con người với thiên nhiên, giữa con người với con người ” [75]. Còn TS. Hồ Bz

ThànThành (Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn) có kết luận rang: Ban thân di saithơnthơng qua chủ thể văn hoá bao giờ cũng phải tự phê phán và kế thừa, phát triểnvai trai trò của quản lý văn hoá, luật và dư luận xã hội, các qui định kiểm tra, xử lý Icvô cừô cùng quan trọng không nên để tự phát, tự điều chỉnh theo kiểu kế thừa tt nhiên

[75]. 75]. Sắc nét hon và cũng quan trọng hơn khi nhận định về sự mất còn của dân tộccó nbó nhà nghiên cứu văn hố đã cho rằng “Văn hoá là linh hồn, là sức sống của mơquốctwốc gia dân tộc. văn hố cịn thì dân tộc cịn, văn hố suy thì dân tộc suy, vãi

<small>hố nố mất thì dân tơc điệt vong” [75. Tr.8].</small>

Từ những góc độ ấy, di sản văn hóa khơng chi là nền tang hay tiền dé mi

<small>cịn l:ịn là mơi trường văn hoá nội sinh cho các thế hệ nối tiếp giao lưu kế thừa va san;</small>

tao. (ao. Qua thời gian, nó lang đọng lại trong hồn dân tộc, trong trí tuệ nhân dânnhưnthưng khơng phái điều gì cũng tốt, bởi cịn cả những điều lạc hậu dong lại nhìmột một nét vẽ trong “bơ nhớ” của con người. Vì thế, trong q trình kế thừa cần phảcó sựó sự sàng lọc, “gan duc khơi trong”; cuộc sống luôn biến động khiến nó bị đồi

nén dén để buộc phải giao lưu và chon lọc.

</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">

Cùng với thời gian, một bộ phận di san của Việt Nam cũng nam trong tình

<small>trạng chung như di sản của các quốc gia khác trên thế giới, bị xuống cấp, bị biến</small>

dạng, mai một... do tính cổ truyền (lâu đời) của nó. Một số di sản văn hố có thể bịbiến mất do bị huỷ diệt hoặc bị vơ hiệu hố trong tiến trình phát triển bị gạt ra bênngồi bởi những quan niệm mới (nhưng chưa hẳn tiến bộ của con người).

<small>Một bộ phận di sản bị con người phá hoại đưa đến sự hư hỏng, tàn phá ngoàisức tưởng tượng Bên cạnh đó, một bộ phận di sản, đặc biệt là di sản văn hoá là sản</small>

phẩm sáng tạo của nhiều thế hệ trong hoàn cảnh lịch sử cụ thể và cũng do hạn chế

lich sử mà nó sinh ra. Di sản chính là truyền thống, nó cũng chứa đựng những mau

thuần của sự phat triển. Vì thế, khi nghiên cứu nó cũng như khi xây dựng xã hộicũng nên nhìn thẳng vào mặt lạc hậu của nó, bởi nó có thể đè nặng lên vai người

đang sống, làm ò nhiễm mơi trường văn hố hiện tại. [75. Tr.21].

<small>Kế thừa ruyền thống của ông cha, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta vớinhững nhận thức mới về vai trò quan trọng của văn hố nói chung và đi sản văn</small>

<small>hố nói riêng đi định hình được di sản trong những chủ trương, đường lối của</small>

<small>mình mà tập trung nhất là trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành</small>

Trung ương Đảrg khoá VIII về xây dựng va phát triển nền văn hoá Việt Nam tiêntiến đậm đà bản sắc dân tộc.

Nghị quyất đã dé ra: Di sản văn hoá là tài sản vô giá, gắn kết cộng đồngdân tộc là cốt lố của bản sắc dân tộc, cơ sở để sáng tạo những giá trị mới và giao

<small>lưu văn hố, hết sức coi trọng bảo tơn, kế thừa và phát huy những giá trị văn hoá</small>

truyền thống, văn hoá cách mang bao gồm văn hoá vật thể và phi vật thé. [33]

<small>Việc bảo tồn và phát huy đi sản văn hố dân tộc là một u cầu mang tínhcấp bách, cần thết gắn liền với sự phồn thịnh của mỗi quốc gia, dân tộc; là quốc</small>

sách mang tính tên phong. Nghị quyết hội nghị của Trung ương Đảng về xây dựngva phát triển nền văn hoá đã được thể chế hoá thành những qui định pháp lý của

<small>Luật Di sản văn hoa nam 2001.</small>

Luật Di sin văn hoá đã xác định cu thể nội hàm của khái niệm “di sản văn

<small>hoá ”. Đồng thời trên cơ sở phạm vi và đối tượng điều chính đã được mở rộng này,</small>

Luật đã xác định những qui định pháp lý về việc bảo vệ, nghiên cứu và phát triểndi sản văn hoá rước ta; xác định quyền và nghĩa vụ của các tổ chức, cá nhân đối

<small>với di sản van hed ở Việt Nam.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">

<small>Điều 1 Luật Di san văn hoá năm 2001 qui định: Di sản văn hoá bao gồm di</small>

sản văn hoá phi vật thể và di sản văn hoá vật thể, là sản phẩm tinh thần, vật chất

<small>có giá trị lịch sứ, văn hố, khoa học được lưu truyền từ thế hệ này qua thế hệ khácở nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Theo qui định này thì di sadn văn</small>

hố, trước hết là tài sản quý, có giá trị và mức độ ảnh hưởng về lịch sử, văn hoá,

khoa học; thể hiện nguồn gốc và mang tính bền vững được lưu truyền từ thế hệ này

<small>qua thế hệ khác ở nước ta và đặt dưới sự bảo hộ của quốc gia về mặt pháp lý. Luật</small>

Di sản văn hoá qui định thành hai loại: Di sản văn hoá phi vật thể và đi sản văn hoá

vật thể.

<small>Về tổng quan, di sản quốc gia là những tài sản quý giá được lưu truyền từthế hệ này sang thế hệ khác và đặt dưới sự bảo hộ của quốc gia về mặt pháp lý.</small>

<small>* Di sản của cá nhân</small>

<small>Đối với cá nhân, sống trong cộng đồng dân cư của một quốc gia thì cá nhân</small>

là chủ thể của mọi quan hệ xã hội. Ngoài việc con người tác động vào giới tự nhiên

<small>thì giữa con người với con người lại có quan hệ với nhau trong mọi lĩnh vực của</small>

<small>cuộc sống xã hội.</small>

<small>Theo C. Mác, con người trước hết phải ăn, mặc, ở, đi lại sau đó mới đến làm</small>

chính trị, khoa học, nghệ thuật. Muốn tồn tại và hoạt động trong bất kỳ lĩnh vực

<small>nào thì con người cũng khơng tách rời khỏi cơ sở vật chất nhất định cũng như</small>

những yếu tố tinh thần, những giá trị tinh thần gắn với mỗi con người cụ thể. Cónghĩa họ sống, làm việc, sinh hoạt và phát triển thì cần và phải có “những thứ” để

<small>tồn tại, làm việc và tham gia các quan hệ xã hội.</small>

Về phương diện đạo đức, bốn phận của mỗi người đối với gia đình, đối với

<small>con cháu, đối với ông, bà, cha, mẹ và những người thân không chỉ được ghi nhớ vàthực hiện trong hiện tại mà cả trong tương lai. Với quan niệm này thì các thế hệ</small>

ông bà, cha mẹ, cháu con đều thấy được bổn phận phải thực hiện trách nhiệm về

<small>tinh thần cũng như vật chất khi còn sống và ca sau khi đã chết đối với nhau. Khi</small>

còn sống họ cùng nhau gây dựng gia tài của gia đình để cùng chăm lo cho cuộc

<small>sống của nhau. Lúc chết, phần tài sản chung trong đó cũng như tài sản riêng của</small>

ho được để lại cho người thân trong gia đình, trong dịng họ va cả những bạn bè

đồng nghiệp. Ngược lại, những người cịn sống cũng xác định được bổn phận của

mình đối với người đã chết (chẳng hạn như tự nguyện thực hiện nghĩa vụ về tài sản

của người chết để lại).

</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">

Về phương điện kính té, gia tài của gia đình cần phải được tiếp tục phát triển

<small>va sử dụng mộ. cách liên tục. Việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt và khai thác lợi</small>

ích của tài sản phải được dịch chuyển từ đời này sang đời khác do tính tuyệt đối và

<small>vĩnh viễn của quyền sở hữu tạo ra. Tính vĩnh viên của quyền sở hữu được dịch</small>

chuyển từ chủ sở hữu này sang cho chủ sở hữu khác chứng tỏ rằng gia tài, sinnghiệp của thế hệ trước để lại có giá trị kinh tế. Hai phương diện này (phương diện

đạo đức và phương diện kinh tế) đều là cơ sở căn bản cho việc dịch chuyển tài sản

<small>của người chết cho người còn sống khác.</small>

Ông Nguyễn Mạnh Bách cho rằng: Néu cần chọn cho luật thừa kế một căn

bản thì bổn phận đối với gia đình có thể được coi là căn bản vững chắc nhất. Vì

néu cơng nhận rằng người q cố có bổn phận đối với gia đình vợ, con thì đã gián

tiếp làm cho quyền sở hữu có một tác dụng có giá trị kinh tế và khi đó thì căn bản

đạo đức sẽ bao g6m cả căn bản kinh tế (4. Tr.126]. Ơng hồn tồn có lý khi dua

ra kết luận này, vì rằng, nếu một người khơng quan niệm và không xác định trách

nhiệm và bổn shan với người khác trong gia đình sau khi họ chết thì khơng có ý<small>thức tạo dựng nên sản nghiệp hoặc là có sản nghiệp, có gia tài nhưng mục đích gâydựng khơng phải là giành lại cho thế hệ nối tiếp. Lúc này, lý giải rằng khơng có di</small>

sản thừa kế để lại cho người thừa kế vì người q cố khơng muốn và khơng thực

hiện bổn phận của mình.

Từ thực tế, “sinh rhời” những gì mà họ có thì khi họ chết những thứ đó sẽ

được để lại cho những người còn sống khác là một diễn biến hiển nhiên. Xét theonghĩa rộng, thì di sản của một người để lại bao gồm toàn bộ giá trị vật chất và giá

trị tỉnh thần cùng với các nghĩa vụ về tài sản mà người chết để lại. Xét theo nghĩa

hẹp, đi sản là toàn bộ của cải thuộc sản nghiệp của người chết để lại, trong đó bao

gồm cả nghĩa vụ về tài sản được Nhà nước bảo hộ về mặt pháp lý.

Từ những phân tích trên đây có thể kết luận: Di sản là tồn bộ tài sản có giá

<small>trị vat chất hoặc giá tri tỉnh thần cùng với các nghĩa vụ về tài sản được lưu truyền,tiếp nốt từ thế hê này sang thế hệ khác, từ đời này sang đời khác, được bảo hộ về</small>

<small>mat pháp lý.</small>

1.1.2. Quan niệm về di sản thừa kế

<small>Thuật ngt “di sản” được sử dụng rất nhiều trong các lĩnh vực hoạt động của</small>

<small>con người, như van hố, khoa học, kinh tế, chính trị... ở mọi quốc gia. Trong lĩnh</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">

vực pháp luật các nhà làm luật cũng sử dụng thuật ngữ này để chỉ di sản thừa kế<small>trong pháp luật dân sự.</small>

Dưới thời La Mã, sản xuất nơng nghiệp đóng vai trị chủ đạo (nền kinh tế

<small>thuần nơng) do vậy đất đai là tài sản quý giá của người dân lúc bấy giờ. Về sau do</small>

có sự ghi nhận của Nhà nước về sự đặc quyền của giai cấp chủ nô và sự vô quyền

<small>của người nô lệ, quan niệm về tài sản gắn liền với sự chiếm hữu nô lệ, vì thế quan</small>

niệm về tài sản cũng bị thay đổi. Lúc này cùng với đất đai thì con người cũng bịcoi là “di sdn” của giai cấp chủ nô, là hàng hoá để dem ra trao đổi mua bán như

<small>một công cụ sản xuất (công cụ nửa câm chịu sự chi phối hồn tồn vào chủ nơ.C.Mác viết: “N6 lệ khơng bán lao động của mình cho chủ nơ, citing nhit con bị</small>

khơng bán sản phẩm lao động của nó cho người nơng dan. Cùng với lao động của

mình, người nô lệ bị bán đứt cho chú nô ” [20. Tr.543]. Quyền chiếm hữu của chủ

nô cả về tư liệu sản xuất và người lao động, tức là nô lệ là đặc điểm nổi bật nhất

<small>của quan hệ sản xuất xã hội chiếm hữu nô lệ. Đất đai, nô lệ và những vật dụngquan trọng khác như nhà ở, trâu, bị, cừu, ngựa hàng hố thủ cơng đều trở thành di</small>

sản thừa kế mà người chết để lại.

<small>Chế độ chiếm hữu nơ lệ bản thân nó chứa đựng những mâu thuẫn sâu sắcgiữa chủ nô và nô lệ, giữa lao động trí óc và lao động chân tay. So với xã hội cộngsản nguyên thuỷ, ban đầu chế độ nô lệ là một sự tiến bộ của xã hội loài người</small>

nhưng đến một thời điểm nhất định chế độ chiếm hữu nơ lệ trở thành sự kìm hãm

sự phát triển hơn nữa của lực lượng sản xuất cho nên tất yếu sẽ tan rã và diệt vong.

<small>Chế độ phong kiến ra đời.</small>

<small>Dưới chế độ phong kiến, ngành kinh tế có vai trị quyết định nhất là nơngnghiệp. Tư liệu sản xuất chủ yếu là ruộng đất. Thời kỳ đầu nơng cụ cịn rất thơ sơ,</small>

<small>về sau do một số ngành nơng nghiệp mới ra đời và hình thành các trang trại lớn</small>

của địa chủ. Yêu cầu phải cải tiến công cụ sản xuất nông nghiệp đã thúc đẩy nghềthủ công phát triển. Những sản phẩm nông nghiệp và sản phẩm thủ công nghiệp

<small>cùng với ruộng đất là tài sản chủ yếu trong xã hội phong kiến. Tuy nhiên, đất đai,tư liệu sản xuất chủ yếu tập trung phần lớn vào tay địa chủ, cịn nơng dân nhữngngười trực tiếp sản xuất thì có rất ít ruộng đất. Dần dần hầu như tồn bộ ruộng đấtđều giao cho nơng dân sử dụng. Tầng lớp địa chủ phong kiến không trực tiếp khai</small>

thác ruộng đất nữa mà sống bằng địa tô do những nông dân được giao đất cống

nộp. Nông dân sử dụng phần đất được giao thuê có thể để lại các quyền thuê đất từ

<small>thế hệ này sang thế hệ khác nhưng họ khơng có quyền bán hay định đoạt dưới bất</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">

kỳ hình thức nào. Bên cạnh sở hữu phong kiến cịn có sở hữu cá thể nhỏ của ngườilao động (của nông dan, tho thủ công) về công cu lao động, nhà cửa để ở và để tíchtrữ, giống cây trồng, gia cầm, gia súc và các loại tài sản phụ khác. Đặc điểm của

<small>chế độ sở hữu đó là dựa trên lao động của bản thân người lao động và gia đình họkhơng có tính chất bóc lột.</small>

Trong xã hội phong kiến có sự bất bình đẳng về tài sản giữa kẻ giàu (địa

<small>chủ) và người nghèo (nông dân) do chế độ phong kiến thực hiện chính sách bóc lột</small>

thơng qua qui định của pháp luật để duy trì củng cố quyền sở hữu đối với các loạitài sản mà trong đó đất đai là tài sản chủ yếu. Việc để lại đi sản và nhận di sản thừakế trong thời kỳ này là một phương tiện để duy trì quyền sở hữu của tầng lớp địachủ phong kiến từ đời này sang đời khác, kể cả phần đất mà chúng giao cho nơngdân để bóc lột địa tơ.

Đến giai đoạn chủ nghĩa tư bản, quan niệm về tài sản càng thay đổi nhiều

hơn. Ở đó có nền đại cơng nghiệp cơ khí (giai đoạn phát triển cao của chủ nghĩa tư

bản) tạo nên sức lao động tập thể, phân công công trường thủ cơng, cách mạng hố

<small>cơng cụ lao động, cơng nghiệp hoá các ngành sản xuất tạo ra năng suất lao độngcao, số lượng giá tri sử dụng ngày càng nhiều, chủng loại phong phú... Di sản thừa</small>

kế của người chết để lại không chỉ đơn thuần là các vật dụng có giá trị nhỏ như

<small>trước đây. Di sản thừa kế là các tài sản có giá trị lớn như cơng xưởng, nhà máy, ô</small>

tô, thiết bị, cổ phần, cổ phiếu, các quyền tài sản...

<small>Trong thời kỳ XHCN, quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa được thiết lập và</small>

củng cố dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất quan trọng - đó là quan hệ

sản xuất thể hiện sự hợp tác, tương trợ, khơng có áp bức, bóc lột. Cá nhân sở hữu

<small>chủ yếu là tư liệu tiêu dùng và các tư liệu sản xuất thông thường, phần tài sản củacá nhân ngày càng được mở rộng, đa dạng và phong phú với nhiều loại tài sản khácnhau. Toàn bộ tài sản của cá nhân sẽ là di sản thừa kế khi người đó chết. Cá nhâncó tài sản dựa trên những căn cứ xác lập quyền sở hữu hợp pháp theo qui định của</small>

pháp luật về quyền sở hữu tư nhân. Sở hữu tư nhân là hình thức sở hữu của từng cánhân về tư liệu sinh hoạt, tư liệu tiêu ding và tư liệu sản xuất nhằm đáp ứng nhucầu vật chất va tinh thần của cá nhân. “Moi cá nhân déu có quyền sở hữu, quyền

<small>thừa kế và các quyền khác đối với tài sản của minh.” [6. Điều 15]. Cá nhân đượcxác lập quyền sở hữu không phụ thuộc vào năng lực hành vi, trình độ hoc vấn, địa</small>

vị xã hội, dân tộc, giới tính... Đây là quyền dân sự cụ thể của cá nhân mà không ai

<small>bị hạn chế, bị tước đoạt trái pháp luật quyền sở hữu đối với tài sản của mình. Tuy</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">

nhiên, trong trường hop cá nhân khơng có nang lực hành vi khi thực hiện quyền<small>chiếm hữu hay định đoạt phải thông qua hành vi của người giám hộ. Đối với người</small>

bị hạn chế năng lực hành vi khi định đoạt tài sản (mua bán, trao đổi, tặng cho...)thì phải có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật. Muốn trở thành chủ thể

của sở hữu tư nhân và toàn quyền thực hiện các quyền năng của chủ sở hữu thì

phải đảm bảo những điều kiện nhất định. Nếu người để lại di sản thơng qua việclập di chúc thì người đó phải có đầy đủ năng lực hành vi. Người từ đủ 15 tuổi đếnchưa đủ 18 tuổi có thể lập di chúc nếu được cha me hoặc người giám hộ đồng ý.

Những người khơng có đầy đủ năng lực hành vi dân sự thì khơng có quyền lập di

chúc miệng để định đoạt tài sản của chính người đó [6. Điều 652].

O bất kỳ quốc gia nào, chế độ kinh tế là cơ sở cho pháp luật, nội dung của

pháp luật là do các quan hệ kinh tế - xã hội quyết định. Sự thay đổi của chế độkinh tế - xã hội sớm hay muộn cũng sẽ dẫn đến thay đổi của pháp luật. Pháp luậtln phản ánh trình độ phát triển của chế độ kinh tế trong một xã hội nhất định.

<small>Tuy nhiên, pháp luật còn chịu sự tác động và phản ánh các yếu tố tâm lý xã hội,</small>

truyền thống đạo đức, tập quán và bản sắc dân tộc... nhất là pháp luật về thừa kế.

<small>Khi đạt đến độ ấy thì pháp luật mới thực sự là những quy phạm di vào cuộc sống.</small>O Việt Nam, Luật Dân sự đặt trong sự phát triển của kinh tế - xã hội và chịu

sự tác động của truyền thống đạo đức, thể hiện “sốc thái Việt Nam”.

“Sắc thái Việt Nam” mà những con người ở đó từ ngàn xưa đã sống với tấm

lòng hướng thiện, nhường nhịn, bao dung, tình cảm u thương gắn bó ln bao

<small>trim lên những nếp nhà của mỗi gia đình người Việt. Từ trong cái “nói” ni lớnđời người ấy mà những người con ln ln làm trịn đạo hiếu, đó cũng là nơi ôngbà, cha mẹ “bác sinh thành, nuôi dưỡng ”, khi còn sống họ làm lung, chat chiu xây</small>

dựng “cơ đồ”, khi nhắm mắt họ để lại “cơ dé” ấy cho hậu thế. Các thế hệ nối tiếp

nhau ra đời và của cải họ làm ra được truyền từ đời này sang đời khác hầu như

được ứng xử theo bổn phận, đạo hiếu trong gia đình, dịng tộc và tập qn có tínhchất phổ thơng. Sự kế thừa, tiếp nối từ thế hệ này sang thế hệ khác được diễn ra

<small>như một qui luật khách quan, nhưng các quan hệ thừa kế mà các nội dung trong đó</small>

ở mỗi chế độ xã hội khác nhau được thừa nhận và giải quyết như thế nào do ý chí

<small>của giai cấp lãnh đạo xã hội quyết định trên cơ sở tiếp thu và ghi nhận các tập quántiến bộ, phù hợp với lợi ích của giai cấp thống tri.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">

<small>Dưới chế độ phong kiến, người nông dân chiếm đa số nhưng luôn phụ thuộcvào địa chủ bởi sự làm thuê, cuốc mướn trên mảnh đất của chúng. Thời đó, ở Việt</small>

Nam, nền kinh tế cơ bản là sản xuất nông nghiệp (đã có nghề thủ cơng nhưng cịn

<small>rất hạn chế). Các hoạt động của các cá nhân, thành viên trong gia đình hay của gia</small>

đình thường là nhằm đáp ứng nhu cầu sinh sống của gia đình, nhằm duy trì và

củng cố kinh tế của gia đình. Yếu tố sản xuất để thúc đẩy nền kinh tế xã hội tác

động thúc day các giao dịch dân sự trong xã hội vẫn cịn rất mờ nhạt. Do su bóc lộttruyền kiếp của địa chủ mà đa số các gia đình người nơng dân mắc nợ, sản xuất

nơng nghiệp của gia đình khơng đủ để ni sống các thành viên trong đó, phần lớncác tháng trong năm để gia đình tồn tại và sinh sống là do vay mượn, cầm cố, ngày

<small>này qua tháng khác họ nợ nần, thuê mượn, vay, cầm... Các hành vi này được thựchiện thông qua hành vi của người “cẩm trich” trong gia đình. Khi người này chết,</small>

<small>nào là nợ của gia đình, nào là nợ do chi phí cho mai táng người chết lại tăng lên,</small>

nợ nần chồng chất, gia đình họ càng khốn khó. Lúc này nợ của người chết để lại

<small>chính là nợ của gia đình, những người cịn sống phải thực hiện tồn bộ nghĩa vụ về</small>

tài san mà người chết để lại, mặc dù có thể tồn bộ “gia tai” để lại khơng đủ để

<small>thanh tốn. Các thừa kế lần lượt phải trả nợ, nếu khơng đủ thì bằng cách đi làm“con ở” cho chủ nợ cho đến hết đời người vẫn chưa hết nợ. Từ điều kiện kinh tế</small>

của xã hội thời bấy giờ mà cổ luật cũng như tục lệ phải thừa nhận một thực tế

<small>khách quan. Trong chế độ phong kiến, việc trả nợ có khi có tính truyền kiếp, phải</small>

ở để trả nợ. Đến thời kỳ Pháp thuộc, nghĩa vụ tài sản mà người chết để lại khôngchỉ giới hạn trong phạm vi di sản để lại. Nội dung này được qui định rất cụ thể và

rõ nét tại Điều 374 Bộ DLB và Điều 379 Bộ DLT: Các con được hưởng di sản củacha mẹ thì phải liên đới trả cho hết các khoản nợ của cha mẹ. Người chánh thất,

<small>quả phụ hoặc người đích tơn thừa tự cũng thế. Những khoản nợ của người thứ nhất</small>

mệnh một để lại mà người ấy vì sự làm ích lợi cho gia đình, hay bn bán phải vay

<small>thời cả người chéng,vo cũng phải trả như vậy. Còn những người thừa kế khác thìchỉ phải trả các khoản nợ, gánh vác các trách nhiệm của người mệnh một ngangvới phan di sản mà mình được hưởng là cùng, trừ khi nào từ chối di sản thì khơngphải gánh chịu.</small>

Qui định này của Bộ DLB, Bộ DLT được hiểu là đối với những đi sản mà do

<small>cha mẹ truyền lại cho con thì những người con này phải gánh chịu các món nợ củacha mẹ một cách liên đới và vơ hạn, người chồng gố hay người vợ gố và cháuđích tôn mà ăn thừa tự cũng chịu nghĩa vụ như vậy. Các chủ nợ khơng phải địi</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">

từng phần theo mỗi người thừa kế mà họ có quyền chọn một người thừa kế bắt trả

<small>đủ nợ. Những người thừa kế phải thực hiện sang cả tài sản riêng của mình mà</small>

khơng được quyền lựa chọn lấy tài sản là di sản để thanh toán trước. Chủ nợ hồntồn có quyền u cầu thực hiện nghĩa vụ trả nợ trên di sản của người chết để lạihoặc là bằng tài sản riêng của người chết để thanh toán cho kịp thời.

Nhưng đối với những trường hợp khác (người thừa kế không phải là con,

<small>cháu, vợ, chồng hay cháu đích tơn) thì những người thừa kế chỉ phải thực hiệnnghĩa vụ về tài sản của người chết trong phạm vi di sản được hưởng. Những ngườinày hồn tồn có quyền khước từ nhận di sản, họ không phải đem tài sản riêng của</small>

mình để thực hiện nghĩa vụ về tài sản mà người chết để lại. Điều này càng có cơ sởđể kết luận rằng khi những món nợ đã là phương tiện đảm bảo cho gia đình sinh

<small>sống, đồng thời người thừa kế phải là thành viên với tư cách là con, cháu, vợ,chồng hoặc cháu đích tơn trong gia đình liên quan đến việc sử dụng tài sản thì mớiphải gánh chịu trách nhiệm vơ hạn, cịn những người khơng cùng sống trong giađình nhưng với tư cách là người thừa kế thì chỉ chịu trách nhiệm của mình trongphạm vi di sản được hưởng.</small>

<small>Qua đó cho thấy, khi một người trong gia đình chết thì khơng xác định đâu</small>

là nợ của gia đình và đâu là nợ của người chết để lại. Việc thực hiện này phải theo

một nguyên tắc là danh nghĩa gia đình trả nợ và theo một thứ tự là nếu người chết

<small>có vợ (chồng) thì người cịn sống phải trả tất cả nợ nần, nếu cả cha và mẹ đều mất</small>

thì con cháu trong gia đình phải trả tất cả các khoản nợ của cha và mẹ để lại. Bởi

thế, ở thời kỳ này luật cũng như tục lệ đã coi di sản thừa kế mà người chết để lại

<small>bao gồm cả tài sản và nghĩa vụ về tai sản. Tục lệ “phụ trái tứ hoàn ” trong nhân</small>

dân ngày ấy được coi là một nếp sống, là chuẩn mực đạo đức, là bổn phận của con

<small>cháu đối với người đã khuất. Song, xét về phương diện kinh tế thì việc bắt buộc</small>

thực hiện toàn bộ nghĩa vụ về tài sản, cho dù di sản để lại không đủ để trả nợ,người thừa kế cũng phải dùng tài sản riêng để thực hiện nghĩa vụ tài sản mà người

chết để lại, vào thời bấy giờ xem ra là hợp lý. Vì, các món nợ ấy khơng hồn tồnchi dùng riêng cho cá nhân người chết, mà nhằm chi dùng cho cuộc sống của cả

<small>gia đình họ, thì nghĩa vụ tài sản phải được thực hiện cả phần tài sản của người chếtvà tài sản của những người khác trong gia đình. Suy cho cùng thì việc thực hiện</small>

nghĩa vụ mà người chết để lại một cách vô hạn như vậy là do chế độ bóc lột của

giai cấp địa chủ và sự bóc lột ấy nhằm mục đích duy trì và củng cố chế độ tư hữu.

</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">

<small>Sau Cách mang thang Tám năm 1945, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hồ ra</small>

đời đã xố bỏ hồn tồn chế độ chính trị và hệ thống chính quyền thực dân phongkiến, xây dựng chế độ chính trị mới và hệ thống chính quyền mới, hệ thống chính

<small>quyền của nhân dân. Chính quyền nhân dân non trẻ phải đối phó với những thửthách và thực hiện nhiệm vụ mới. Một lĩnh vực rất thiết thực của đời sống xã hội là</small>

phải pháp chế hố luật dân sự, trong đó có vấn đề thừa kế. Sau hơn 5 năm kể từngày thành lập nước, sự biến đổi nhanh chóng, sâu sắc của xã hội Việt Nam trong

điều kiện mới và tiến bộ của đất nước địi hỏi phải có những qui định của pháp luật

<small>thích ứng với nó. Mặt khác với chủ trương từng bước xoá bỏ tàn dư của chế độ</small>

phong kiến, xố bỏ sự bất bình đẳng giữa nam và nữ... nhằm đem lại lợi ích chotồn thể nhân dân lao động. Ngày 22/5/1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số97/SL để sửa đổi một số quy lệ về chế định trong Dân luật cũ. Sắc lệnh đã cụ thểhố quyền bình đẳng của cơng dân trong quan hệ tài sản, trong đó có vấn đề thừakế, theo đó: “Con, cháu, hoặc vợ hay chồng của người chết không bắt buộc phải

<small>nhận thừa kế của người ấy. Khi nhận thừa kế, các chủ nợ của người chết cũng</small>

khơng có quyền đòi nợ quá số di sản để lại”, “Trong lúc sinh thời, người chồng

<small>god hay vợ goa, các con đã thành niên có quyên đem chia phần tài san thuộc</small>

quyền sở hữu của người chết sau khi đã thanh tốn tài san chung”. Đó là những

ngun tắc tiến bộ phá vỡ tính cổ hủ, lỗi thời trong pháp luật về thừa kế trước đó.

Xố bỏ quy lệ bất cơng của chế độ cũ bắt buộc con cháu của người chết phải thừa

kế theo tục lệ “phu trái tử hoàn ”. Mặc dù Sắc lệnh số 97/SL chưa qui định cụ thể

<small>về đi sản thừa kế, nhưng với những qui định cơ bản ấy đã gián tiếp đề cập đến disản thừa kế không bao gồm nghĩa vụ tài sản và chỉ trong phạm vi di sản của người</small>

<small>đã chết.</small>

Những qui định trong Sắc lệnh số 97/SL đã đặt cơ sở cho sự hình thành vàphát triển pháp luật dân sự ở nước ta. Nó thực sự dân chủ tiến bộ và mang đậm nét

<small>dân chủ nhân dân. Riêng những qui định về di sản thừa kế đã có những giai đoạn</small>

bị thay đổi do quan niệm về vấn đề tài sản và về tư cách của người thừa kế, về việc

<small>hưởng di sản thừa kế.</small>

Khẩu hiệu “người cày có ruộng ” là đường lối chiến lược của Dang ta ngay

<small>từ khi thành lập. Việt Nam là đất nước có đến hơn 80% dân số làm nơng nghiệp thì</small>

vấn đề quan trọng của đất nước là vấn đề của người nông dân và vấn đề quan trọngnhất của người nông dân là vấn đề ruộng đất. Do vậy, giải quyết được vấn đề ruộng

<small>đất là một trong những điều kiện có tính chất quyết định cho việc bảo tồn thành</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32">

quả của cách mạng trong giai đoạn này. Nhận thức sâu sắc các vấn đề trên, năm

<small>1953, Quốc hội đã thông qua Luật Cai cách ruộng đất trong đó nội dung quan trọng</small>

là tịch thu ruộng đất của địa chủ, phong kiến, cường hào để chia cho nơng dân, thựchiện khẩu hiệu “người cày có ruộng”. Đây là căn cứ pháp lý xác lập quyền sở hữu

<small>đất đai của cá nhân. Khi cá nhân đó chết, đất đai đó được xác định là di sản thừa kế.</small>

Hiến pháp năm 1959 tại Điều 14 qui định: “Nhà nước chiéu theo pháp luật

<small>bdo hộ quyền sở hữu ruộng đất và các tr liệu sản xuất khác của người dán ”. Tiếpđó, Hiến pháp năm 1980, trên cơ sở đường lối, chính sách của Đảng, đã qui định“Dat dai, rừng núi, sông hồ, ham mỏ, tai nguyên thiên nhiên trong lòng đất, viing</small>

biển và thêm lục địa đều thuộc sở hữu toàn dân”. Đây là cơ sở pháp lý cao nhất

xác định rõ toàn thể nhân dân Việt Nam là chủ thể sở hữu đối với tồn bộ diện tích

đất của quốc gia. Cá nhân khơng có quyền xác lập quyền sở hữu đối với đất đai. Vì<small>vậy, đất đai theo qui định của pháp luật, không được xác định là đi sản thừa kế.</small>

<small>Trên cơ sở các văn bản pháp luật quan trọng liên quan đến qui định về disản (Hiến pháp năm 1959, Luật HN&GD năm 1959...) cùng với những yêu cầuđáp ứng nguyện vọng của nhân dân và phục vụ cho công tác giải quyết tranh chấpvề thừa kế nói chung va di sản thừa kế của liệt sĩ nói riêng, TANDTC trong phạmvi chức năng của mình đã ban hành một số văn bản hướng dẫn đường lối xét xửtranh chấp về thừa kế như:</small>

<small>- Thông tư số 594/NCPL ngày 27/8/1973 hướng dẫn đường lối xét xử cáctranh chấp về thừa kế;</small>

- Thông tư số 02/TATC ngày 28/8/1973 hướng dẫn giải quyết tranh chấp về<small>đi sản liệt sĩ;</small>

Theo các văn bản trên, “di sản thừa kế không chỉ là tài sản thuộc quyền sở

hữu của cá nhân người đó để lại mà cịn bao gồm cả quyền tài sản và nghĩa vụ tàisản phát sinh do quan hệ hợp đồng hoặc do gây thiệt hại mà người chết để lai”. So

sánh với qui định gián tiếp trong Sắc lệnh số 97/SL thì ở Thơng tư số 594/NCPL

<small>ngày 27/8/1973 đã coi nghĩa vụ về tài sản là di sản thừa kế. Tiếp sau đó là Thơngtư số 81/NCPL ngày 24/7/1981 của TANDTC cũng quan niệm di sản thừa kế là</small>

toàn bộ tài sản, quyền tài sản và nghĩa vụ tài sản của người chết. Thông tư đã dành

cả phần II để qui định về di sản thừa kế một cách cụ thể và hướng dẫn các loại tài

<small>sản là di sản thừa kế. Theo Thông tư này thì di sản thừa kế bao gồm: Các tai sản</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">

thuộc quyền sở hữu của người để lại thừa kế, các quyền về tài sản và các nghĩa vụ

về tài sản mà người chết để lại.

<small>Như vậy, theo hướng dan của hai Thông tư số 594 và Thơng tu số 8] thìtrong suốt thời gian 10 nam, từ năm 1981 đến năm 1990, di sản thừa kế được xác</small>

định là toàn bộ tài sản, quyền tài sản và nghĩa vụ tài sản của người chết để lại.

Cùng với sự thay đổi của nền kinh tế, lĩnh vực thừa kế được kéo theo trong

sự vận động, phát triển không ngừng của xã hội. Các văn bản pháp luật kể trên

<small>chưa đáp ứng được đòi hỏi của thực tế. Do vậy, ngày 30/8/1990, Hội đồng Nhànước đã ban hành Pháp lệnh thừa kế (PLTK). Cho đến những năm đầu của thậpniên 90 của thế kỷ trước, PLTK được coi là một van bản pháp luật day đủ và có hệ</small>

thống nhất về lĩnh vực thừa kế. Đáng lưu ý nhất là tại Điều 4 của PLTK các nhàlàm luật đã không du liệu “nghĩa vụ về tài sản” là di sản thừa kế nữa. Nhưng do

<small>phạm vi tài sản của công dân được mở rộng hơn trước, nên di sản không chi là đồdùng hàng ngày, các công cụ sản xuất trong những trường hợp được phép lao động</small>

riêng lẻ như trước đây, ma di sản bao gồm cả máy móc, nhà xưởng, vốn bằng tiền,

vàng, ngoại tệ, cổ phần, cổ phiếu, tín phiếu... với số lượng khơng hạn chế. Do đó, tất

cả mọi tài sản thuộc quyền sở hữu của một người sẽ là di sản khi người đó chết. Qua

<small>thời gian thực hiện PLTK về cơ bản vẫn phù hợp với thực trang của quan hệ thừa</small>kế. Kế thừa hầu hết các qui định của PLTK, riêng qui định về di sản thừa kế tại<small>Điều 637 BLDS năm 1995 về cơ bản cũng tương tự như Điều 4 PLTK trước đây,</small>

song tại khoản 2 Điều 637 BLDS năm 1995 đã bổ sung một nội dung mới có tính

chất rất đặc biệt so với các văn bản qui định về di sản trước đây, đó là “quyên sit

Điều 634 BLDS năm 2005 về “Di sdn” qui định: “Di sản bao gồm tài san

<small>riêng của người chết, phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người</small>

khác ”. So với Điều 637 BLDS năm 1995, qui định này đã lược bỏ phần “quyển sit

<small>dụng đất cũng là di sản thừa kế”, lược bỏ phần này là hợp lý, vì tại Điều 163</small>

BLDS năm 2005 đã qui định tài sản bao gồm cả “guyén tài sản” mà quyền tài sảntrong đó có quyền sử dụng đất. Cả hai điều luật kể trên đều qui định nghĩa vụ về

</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34">

kế nhưng tiêu đề thì chỉ dừng lại hai từ “di sản ”.

Nhu vậy. quan niệm về di sản thừa kế từ tục lệ, cổ luật, luật cận đại cho đếnluật hiện đại ln có sự thay đổi trong việc nhận thức về nghĩa vụ tài sản có phải là

<small>di sản thừa kế hay khơng? Hiện nay, BLDS của nước ta cũng như BLDS của một số</small>

nước trên thế giới chưa đưa ra một khái niệm cu thể về di sản thừa kế, mà chi qui

định di sản thừa kế bao gồm những tài sản nào. Vì thế, khi nói về di sản thừa kế có

nhiều cách hiểu khác nhau. Hiện nay, trong khoa học pháp lý vấn đề di sản thừa kế

vẫn còn tồn tại ba quan điểm khác nhau:

* Quan điểm thứ nhất cho rằng, di sản thừa kế bao gồm tài sản và các

nghĩa vụ tài sản của người chết để lại. Những người theo quan điểm này hiểu rằng

khi còn sống, người để lại di sản thừa kế ngồi những tài sản có “trong tay” thì họ

<small>cịn có những khoản nợ (nghĩa vụ tài sản). Những nghĩa vụ tài sản phát sinh từ các</small>

quan hệ dân sự, như nghĩa vụ phải trả nợ trong hợp đồng vay, nghĩa vụ trả tiền thuêtrong hợp đồng thuê tài sản, nghĩa vụ bồi thường thiệt hại trong quan hệ bồi thường

thiệt hại ngoài hợp đồng/nghĩa vu trả tiền công lao động trong hợp đồng sử dung

lao động... Khi họ chết đi họ để lại các nghĩa vụ về tài sản, các nghĩa vụ này phải

được dịch chuyển sang cho những người thừa kế thực hiện. Có như vậy thì mới

đảm bảo được quyền lợi cho người có quyền đối với các nghĩa vụ mà người chếtphải thực hiện hết nếu còn sống /đồng thời cũng đảm bảo cho các quan hệ dân sự

<small>đã phát sinh được thực hiện đúng theo cam kết cũng như theo qui định của pháp</small>

luật. Quan điểm này chỉ có thể phù hợp khi mà tài sản của người chết và tài sản

<small>của gia đình khơng tách bach được. Cũng như “nợ cứa gia đình ” và nợ của ngườichết khơng phân biệt được bởi các khoản nợ phát sinh từ việc tham gia giao dịchcủa gia đình chứ khơng phải chi cho cá nhân; Có nghĩa là các khoản tài sản có củangười chết trở thành tài sản có của người thừa kế, nợ của người chết cũng là nợ của</small>

người thừa kế bất kể tài sản của người chết có đủ để thanh tốn hay khơng. Vơhình chung chúng ta thừa nhận, từ thời điểm mở thừa kế, hai người này là một đối

với tư cách thanh toán nợ đối với chủ thể mang quyền. Người thừa kế có nghĩa vụ

<small>trả nợ một cách vô hạn, phải trả cho hết được nợ, cho dù phần nhận di sản rất ít so</small>

<small>với phần nghĩa vụ tài sản phải thực hiện. Trong khi đó, BLDS năm 2005 tại khoản</small>2 Điều 107 qui định: “Giao dich dân sự do người đại diện của hộ gia đình xác lập,thực hiện vì lợi ích chung của hộ mới phát sinh quyền và nghĩa vụ của cả hộ gia

</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35">

<small>đình ”. Đồng thời khoản 2 Điều 110 BLDS năm 2005 còn qui định: Hộ gia đìnhchịu trách nhiệm dán sự bằng tài sản chung của hộ, nếu tài sản chung của cả hộ</small>

không đủ để thực hiện nghĩa vụ chung của hộ, thì các thành viên phải chịu trách

<small>nhiệm liên đới bằng tài sản riêng của mình. Từ các qui định trên đây cho thấy</small>

những người thừa kế có thể phải thực hiện nghĩa vụ tài sản mà người chết để lạibằng tài sản chung của gia đình và cả bằng tài sản riêng của mình (nếu tài sản

chung khơng đủ để thực hiện nghĩa vụ) khi những nghĩa vụ tài sản đó phát sinh từ

<small>những giao dịch dân sự do người đại diện của hộ gia đình xác lập thực hiện vì lợiích chung của hộ gia đình. Nếu những nghĩa vụ từ giao dịch dân sự nhân danh cá</small>

nhân mà buộc người thừa kế phải thực hiện vô hạn (bằng cả tài sản riêng) thì lại trở

<small>về luật tục “phự trái tử hoàn ”. Luật tục này được người dân ngày đó coi là daohiếu với bậc sinh thành nhưng bản chất sâu xa của luật tục ấy là củng cố duy trìchế độ bóc lột của bọn địa chủ cường hào đối với khoản nợ truyền kiếp của người</small>

nông dân. Quy lệ bất công của chế độ cũ đã bị xoá bỏ hon 50 năm qua bằng những

qui định của Sắc lệnh số 97/SL ngày 22/5/1950.

* Quan điểm thứ hai lại cho rằng, di sản thừa kế bao gồm tài sản và nghĩa

vụ tài sản trong phạm vi di sản của người chết để lại. Quan điểm này hiểu theo

nghĩa rộng về tài sản bao gồm cả tài sản có và tài sản nợ, tài sản có và tài sản nợ

ngang bằng đhau có nghĩa là việc xác định di sản của người chết để lại thừa kế<small>không chỉ là tài sản mà còn bao gồm cả nghĩa vụ cũng được xác định ngang bằng</small>

trong khối di sản mà họ để lại, thực hiện nghĩa vụ trong phạm vi di sản mà ngườichết để lại. Khác với việc thực hiện nghĩa vụ tài sản ở quan điểm thứ nhất, ở đây,<small>người thừa kế chỉ phải thực hiện nghĩa vụ trong phạm vi di sản được hưởng, ho</small>

không phải thực hiện nghĩa vụ của người chết để lại bằng tài sản riêng của mình.Nhưng nội dung căn bản mà hai quan điểm này thống nhất là đều xác định nghĩa

vụ tài sản mà người chết để lại là di sản thừa kế.

* Quan điểm thứ ba cho rằng, di sản thừa kế chỉ bao gồm các tài sản củangười chết để lại mà không bao gồm các nghĩa vụ tài sản. Tồn tại một thực tế hiểnnhiên là khi còn sống, một người cần đến tài sản để sản xuất và sinh sống. Tài sản

<small>đó có được dựa trên nhiều căn cứ hợp pháp, họ hồn tồn có quyền sở hữu đối với</small>

tài sản đó. Bên cạnh đó họ có thể cịn có các nghĩa vụ tài sản đối với các chủ thể<small>khác. Các nghia vụ này phát sinh từ giao dịch dân sự, từ hành vi gây thiệt hại hoặctừ các quan hệ pháp luật khác, chưa kịp thực hiện thì khi người này chết, tồn bộ</small>tài sản cũng như các nghĩa vụ tài sản sẽ được để lại là tất yếu. Thậm chí xét rộng ra

</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36">

người chết còn để lại cả những kinh nghiệm, tiếng tăm, danh dự, tư tưởng, hận thù,

tai hoạ... “Tráu chết để da, già chết để tiếng”, “Để lại tiếng tăm cho đời”, “để

hoa cho con cháu”... có nghĩa là để lại các giá trị nhân thân, những ý nghĩ địnhhướng tốt cho hoạt động của con người, nhưng cũng có thể để lại cả sự hạn chế, lạchậu, cổ hủ của người đó... Tất cả các yếu tố này của người chết để lại gọi là “cdi”của thời trước, của người trước để lại, được xác định là “di sản ” [76. Tr.246], chứ

<small>không chỉ là di sản thừa kế.</small>

Tuy nhiên, ủng hộ quan điểm này, trong luận án tiếp cận khái niệm di sản ở

<small>phạm vi hẹp hơn, chỉ bao gồm những giá tri vật chất - tài sản chứ không bao gồm</small>

tất cả các yếu tố kể trên. Nằm trong cách hiểu chung ấy thì nghĩa vụ tài sản của

<small>người chết không phải là di sản thừa kế. Bởi lẽ:</small>

<small>* Về ngữ nghĩa thì thừa kế là thừa hưởng gia tài của người đi trước một</small>

cách kế tục. Theo nghĩa này, Từ điển tiếng Việt đã định nghĩa: “Thừa kế là hưởngcủa người chết để lại cho” (như thừa kế gia sản của cha mẹ để lại) [76. Tr.93§],

mà “thừa hưởng” trong “Pháp luật danh từ giải nghĩa” được hiểu là “được ăn<small>dùng, được tiêu thụ, được hưởng lợi, được giữ, được dùng làm của minh” [56,</small>

Tr.208]. Với ý nghĩa này thì khơng thể tư duy theo hướng người thừa kế, người

hưởng di sản “được hưởng nghĩa vụ tài san” hay “hưởng tài sản nợ của ông bà,cha mẹ để lại, nếu di sản chỉ có nghĩa vụ tài sản ”.

* Về phương diện kinh tế và đạo đức, theo suy nghĩ truyền thống của người

<small>Việt Nam, cha me sinh con thì có nghĩa vụ ni con, chăm sóc con, giáo dục con</small>

<small>khơn lớn trưởng thành, “sinh con ai nỡ sinh lòng, sinh con ai cũng vun trồng cho</small>

con”, “con dai cái mang”... Con, cháu phải có “bổn phận ” kính trọng, chăm sóc,phụng dưỡng ơng, bà, cha, mẹ. Những việc làm mang tính “bổn phận” khơng chỉ

được thực hiện khi cịn sống mà cịn có bổn phận phải tao một “tién đề vật chất”ban đầu cho họ. Nghĩa là sau khi chết có tài sản để lại cho thế hệ sau thừa hưởng.Thừa hưởng tài sản để tạo lập cuộc sống, phát triển gia sản và cứ thế để tích luỹ vàlại để dành để thực hiện bổn phận của mình đối với thế hệ tiếp sau. Khi nói đến

“bổn phận ”, người ta thường nói đến “bổn phận ” đối với nhau giữa cha mẹ và cáccon, các cháu và ngược lại “bổn phận” giữa các con cháu với ơng bà, cha mẹ.

<small>Ngồi việc mà pháp luật yêu cầu thực hiện theo nghĩa vụ pháp lý, bản thân các chủ</small>

thể trong quan hệ thừa kế hoàn tồn có quyền thực hiện một cách tự nguyện các

<small>nghĩa vụ mà pháp luật không yêu cầu.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37">

Ở Việt Nam, một gia đình có nhiều thế hệ cùng chung sống trong một nhàlà truyền thống có từ lâu. Ở đó là tình thương, trách nhiệm và gắn bó của các thế

hệ trong gia đình. Dé đảm bảo việc kế nghiệp gia sản thì việc dịch chuyển di sản

<small>của người chết cho người cịn sống trong gia đình là cần thiết. Chính vì vậy phápluật thừa kế Việt Nam đã qui định cơ sở cho việc thừa kế là dựa trên quan hệ hôn</small>

nhân, quan hệ huyết thống, quan hệ ni dưỡng và dựa theo ý chí của người để lại

<small>di sản thông qua việc lập di chúc.</small>

Cố nhiên, tài sản mà họ để lại thừa kế phải thuộc quyền sở hữu của họ. Do

tính chất vĩnh viễn và tuyệt đối của quyền sở hữu mà nguyên tắc liên tục của việc

<small>đảm nhận tư cách chủ sở hữu đối với tài sản phải được dat ra: “Thita kế là việc dich</small>

chuyển tài sản của người chết sang cho những người cịn sống khác ” [78.Tr.158§]. Với

<small>phương diện này, đi sản chỉ là tài sản của người chết mà không bao gồm nghĩa vụ.</small>

* Về phương diện pháp lý, nếu quan niệm di sản thừa kế mà người chết để

<small>lại không chỉ bao gồm tài sản, quyền tài sản mà còn bao gồm cả các nghĩa vụ tài</small>

sản của người đó để lại, thì vấn đề thanh tốn và phân chia di sản thừa kế đượchiểu như thế nào?

<small>Theo qui định tại Điều 637 BLDS năm 2005, thì việc thực hiện nghĩa vụ tài</small>sản thuộc về những người hưởng di sản thừa kế: “Những người hưởng thừa kế có

trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản trong phạm vi di sdn do người chết đểlại...”. Qui định nay cần được hiểu là người hưởng thừa kế thực hiện nghĩa vụ tàisản do người chết để lại không phải với tư cách là chủ thể mới “bước vào quan hệnghĩa vụ”, có nghĩa là họ khơng thay thế vi trí chủ thể. Họ thực hiện nghĩa vụ tàisản bằng tài sản của người chết để lại, hay nói cách khác, họ phải trả nợ chỉ vì họtiếp nhận tài sản có của người chết để lại (nợ của người chết không phải là nợ củangười hưởng di sản). Sau khi thanh tốn tồn bộ nghĩa vụ của người chết để lại và

<small>những chi phí liên quan đến di sản thừa kế, nếu tài sản khơng cịn (nghĩa vụ tài sản</small>

và các chi phí khác bằng hoặc lớn hơn khối tài sản mà người chết để lại) thì khi đókhơng cịn tài sản để chia thừa kế và như vậy thì khơng có quan hệ nhận di sảnthừa kế. Ví dụ: Một người để lại khối di sản thừa kế trị giá 360 triệu đồng nhưng

lúc cịn sống, người đó vay nợ 200 triệu đồng và nợ tiền thuế Nhà nước là 160 triệu

<small>đồng; trước lúc chết người đó chưa kịp thực hiện các nghĩa vụ này. Như vậy, di sản</small>

để lại ngang bằng với các khoản nợ. Sau khi thanh tốn khơng cịn di sản để chia

<small>cho những người thừa kế.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38">

<small>Thứ nữa, theo qui định tại Điều 642 BLDS năm 2005 thì người thừa kế cóquyền nhận hoặc từ chối tiếp nhận di sản. Nếu nhận di sản thì phải thực hiện việc</small>

trả nợ thay cho người để lại di sản. Nếu từ chối nhận đi sản cũng có nghĩa từ chối

<small>thực hiện nghĩa vụ tài sản của người chết, họ không phải thực hiện nghĩa vụ tài sản</small>của người chết. Bởi vì, họ chẳng mắc nợ gì ai. Điều này chứng tỏ rằng, người thừa

kế không buộc phải nhận di sản để rồi phải thực hiện nghĩa vụ tài sản của người

<small>chết cho chủ nợ. Nếu quan niệm nghĩa vụ tài sản là di sản thừa kế thì trong mọi</small>

trường hợp chủ nợ đều có quyền yêu cầu người thừa kế thực hiện việc trả nợ.

<small>Nghĩa vụ tài sản của người chết thực sự là món nợ của người đó lúc cịn</small>

<small>sống phát sinh từ những hành vi pháp lý của họ. Vì thế, phải coi nghĩa vụ đó là của</small>chính bản thân người chết, phải dùng di sản của người chết để thanh toán. Nếu sau

<small>khi đã thanh toán nghĩa vu tài san và các chi phí khác liên quan đến di sản mà vẫn</small>

cịn di sản (dù ở mức độ nào, ít hay nhiều) để chia cho những người có quyền

<small>hưởng di sản, phần di sản còn lại này mới được gọi là di sản thừa kế. Trong đó có</small>

thể có phần di sản dùng cho thờ cúng, phần di sản dành cho di tang, phần di san

<small>đành cho người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc va phần di sảndành chia cho những người thừa kế. Nếu sau khi thanh tốn mà khơng cịn di sản</small>

để dịch chuyển cho người hưởng di sản thì rõ ràng là người chết không để lại disản thừa kế. Nhu vậy, di sản thừa kế không bao gồm nghĩa vụ tài sản của người

chết mà chi bao gồm tài sản, các quyền tài sản được xác lập dua trên những căn

cứ hợp pháp mà người chết để lại cho những người hưởng thừa kế Hiểu một cách

tổng quan nhất, thì di sản thừa kế là toàn bộ tài sản thuộc quyền sở hữu của ngườichết để lại cho những người có quyền hưởng thừa kế, mà không bao gồm các nghĩa

<small>vu tài sản của người đó.</small>

Khi nói đến di sản và dịch chuyển di sản thì một số vấn để cần xem xét vàbàn tới đó là thời điểm xác lập quyền sở hữu đối với di sản thừa kế. Sau khi mở thừa

<small>kế thì có phát sinh quyền sở hữu đối với tài sản của người chết nữa hay không?</small>

Vấn đề là thời điểm xác lập quyền sở hữu đối với di sản thừa kế của người

<small>hưởng di sản. Theo quan niệm tâm linh của người La Mã, người ta không muốn tại</small>

thời điểm mở thừa kế ngay lập tức đã tước đi quyền sở hữu tài sản của người quácố. Vào thời điểm người có tài sản chết, tài sản đó được hiểu là “tdi sản chờ” hay

“tài sản nằm chờ” chủ của nó - tức là những người được hưởng thừa kế. Trong

Luật La Mã cổ đại, tài sản trong thời gian chưa thuộc về những người thừa kế được

<small>gọi là “tai san vô ch” mặc dù không ai được phép chiếm dụng tài sản đó. Thời</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 39</span><div class="page_container" data-page="39">

gian “ndm chờ” này không quá một năm. Vào thời cổ điển (Principat) “tdi san

thừa kế nằm chờ” không được xem là tài sản vơ chủ nữa, mà nó “chứa đựng sự

<small>bao lưu tư cách người chết” tức là nó vẫn thuộc về người chết [36. Tr.170]. Như</small>

vậy, kể từ thời điểm mở thừa kế những người thừa kế chưa có quyền sở hữu đối vớidi sản thừa kế, quyền sở hữu chỉ được xác lập khi người thừa kế nhận di sản.

<small>Bộ DLB năm 1931, Bộ DLT năm 1936 (Điều 303) và Bộ Dân luật Sài Gòn</small>

năm 1972 (Điều 499) đều qui định “tai sản thành ra di sản kể từ ngày người có tàisản mệnh chung”, “sự thừa kế chỉ bắt đâu khi người để lại của cải chết ”.

<small>BLDS Nhật Bản (Điều 896); BLDS&TM Thái Lan (Điều 1599); BLDS nướcCộng hoà Pháp (Điều 718) cũng chỉ qui định người thừa kế được thừa kế từ thời</small>

điểm mở thừa kế. Các điều luật kể trên đều không qui định thời điểm xác lậpquyền sở hữu của người hưởng thừa kế vào thời điểm người để lại di sản chết (thờiđiểm mở thừa kế). Tuy nhiên, Điều 30 PLTK qui định: Tờ thời điểm mở thừa kế, di

<small>sản thuộc quyền sở hữu của người thừa kế, và từ đó họ có quyền lợi, nghĩa vụ về</small>

tài sản do người chết để lại ”. Theo nội dung này thì người thừa kế đương nhiên trởthành chủ sở hữu đối với di sản của người chết để lại, đồng thời tiếp nhận những

<small>khoản nợ và nghĩa vụ khác của người đã chết. Tiến sĩ luật học Nguyễn Ngọc Điện</small>

cũng cho rằng: “Từ thoi điểm mở thừa kế, di sản thuộc về những người thừa kế.Những người này đương nhiên trở thành chủ sở hữu các tài sản được di chuyển

<small>cho ho” (37. Tr.313]. Dường như ông đã tư duy theo hướng sẽ khơng tồn tai mộttài sản mà khơng có chủ sở hữu, và cũng không tồn tại một nghĩa vụ mà khơng có</small>

chủ thể thực hiện nó. Ơng cịn cho rằng: “Ngay cả đối với các bất động sản mà

pháp luật có qui định đăng ký quyền sở hữu thì thời điểm chuyển quyền sở hữu làthời điểm mở thừa kế, mà không phải là thời điểm đăng ky” [37, Tr.313]. Về mặtnày, ông đứng trên quan điểm bảo vệ lợi ích của người cùng tham gia vào các giao

dịch dân sự, sự thay thế phải được thực hiện ngay sau khi thừa kế được mở để

không lúc nào một quyền hoặc một nghĩa vụ tồn tại mà không có chủ thể.

Chúng tơi cho rằng “quyền hưởng di sản” và “thực hiện quyền hưởng disản ” được diễn ra ở hai thời điểm khác nhau. Nếu “quyển hưởng di sản” và “thực

hiện quyền hưởng di sản ” diễn ra cùng một thời điểm (thời điểm mở thừa kế) chỉđúng trong một phạm vi rất hẹp. Đó là, di sản “đang nằm trong tay”, “dang nằm

<small>trong sự chiếm hữu một cách hợp pháp của người hưởng di san” (người có quyềnhưởng thừa kế) và loại tài sản này không bị phân chia và không phải đăng ký</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 40</span><div class="page_container" data-page="40">

quyền sở hữu. Chang han, người hưởng thừa kế dang giữ một khoản tiền, một số<small>đồ trang sức hoặc một số đồ dùng khác... mà các tài sản này là “phản ” mà chínhhọ được hưởng thừa kế.</small>

Kể từ thời điểm mở thừa kế, những người hưởng thừa kế có quyền hưởng disản (quyền thừa kế), thời điểm này những người thừa kế chưa có quyền sở hữu đối

<small>với di sản thừa kế. Mac dù về nguyên tắc, người có quyền hưởng di sản có quyền</small>

yêu cầu chia di sản thừa kế bất cứ lúc nào, kể từ thời điểm mở thừa kế, nhưng việc

chia thừa kế không thể diễn ra ngay sau khi người có tài sản chết.

<small>Trong gia đình khi có một người “nam xuống” thì việc làm đầu tiên là lomai táng cho người đó. Mai táng cho người chết qua nhiều thủ tục như đăng kýbáo tử, nhập quan, phát tang, phúng viếng, ha quan... Lúc “tang gia bối rối”thường thì khơng ai lại thực hiện việc chia thừa kế.</small>

Để có thể chia thừa kế, những người thừa kế thường thực hiện những công

việc khác liên quan đến đi sản thừa kế mà người chết để lại. Họ cần có sự bàn bạc,

<small>thoả thuận và thống nhất ý chí trong việc quản lý di sản, người phân chia di san,lập danh mục di sản, cách thức phân chia... Vì thế, họ thường họp mặt những người</small>

thừa kế để giải quyết các vấn đề cần thiết nêu trên.

Trong một gia đình khơng phải lúc nào ơng bà, cha mẹ, con cái, cháu chất

đều được ở cạnh nhau. Đặc biệt, trong giai đoạn phát triển kinh tế nhiều thành

phần như ngày nay, mỗi người một ngành, một nghề nhất định, họ có thể ở rất xa

nhau, kể cả những người học tập, lao động hoặc định cư ở nước ngoài; con trai, con

gái lấy vợ, lấy chồng ở xa cha mẹ, ông bà... muốn họp mặt được đông đủ để bàn

<small>bạc thoả thuận cũng cần phải có thời gian.</small>

<small>Nếu việc họp mặt những người thừa kế mà không đem đến kết quả, không</small>

đạt được sự thống nhất giữa những người hưởng thừa kế thì có thể dẫn đến tranh

chấp về di sản, về việc xác định người thừa kế, phần thừa kế, xác định khối disản... vì những người thừa kế cho rằng quyền và lợi ích của mình bị xâm phạm. Họcó đơn khởi kiện u cầu Tồ án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Cho

<small>đến khi phán quyết của Tồ án có hiệu lực pháp luật thì họ mới có điều kiện nhậnđược di sản thừa kế. Họ nhận được lúc nào lại còn phụ thuộc vào việc chấp hành</small>

thi hành án của chủ thể có nghĩa vụ. Kể từ thời điểm mở thừa kế cho đến khi giải

<small>quyết xong các công việc ấy, người hưởng di sản sé được nhận phần di san thừa kếtheo di chúc hoặc theo pháp luật lúc nào? Có những vụ việc phải từ 5 đến 10 năm</small>

</div>

×