Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (65.96 MB, 255 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">
<small>wiesexsrmarTHUVIEN |</small>
<small>TRY y LUAT Hf NO! |</small>
HOME SOC AG |
Chu nhiém dé tai : TS. Lé Mai Anh
ThS. Dang Thị Hồng Oanh
TS. Nguyễn Trung Tín
</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">Tổng thuật nội dung của đề tài
Giới thiệu khái quát về Công ước Viện 1969
Các vấn đề pháp lý cơ bản về ký kết điều ước quốc tế theo Công
ước Viên 1969
Các vấn đề pháp lý cơ bản về thực hiện điều ước quốc tế theo
Công ước Viên 1969
Vấn đề gia nhập và thực hiện Công ước Viên 1969 của Việt NamThay lời kết luận
Khái quát Công ước Viên 1969 về luật điều ước quốc tế ký kết
giữa các quốc gia
ThS. Vũ Thị Thanh Lan
Quy định của Công ước Viên 1969 về ký kết điều ước quốc tếThS. Nguyễn Kim NgânHiệu lực của điều ước quốc tế theo các quy định trong Công<small>ước Viên 1969</small>
GV. Dé Mạnh Hồng
Vấn đề thực hiện điều ước quốc tế theo Công ước Viên 1969
TS. Lê Mai Anh - ThS. Hoàng Ly Anh
Mối quan hệ giữa điều ước quốc tế và pháp luật quốc gia
TS. Lê Thị Tuyết Mai
Thực tiễn áp dụng và thực thi Công ước Viên 1969 tại Việt Nam1S. Lê Mai AnhQuá trình xây dựng dự thảo luật ký kết, gia nhập và thực hiện
điều ước quốc tế trong điều kiện Việt Nam là thành viên Công
ước viên năm 1969
1S. Nguyễn Thị Hoàng Anh
</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">A. MỤC DICH, PHAM VI NGHIÊN CUU1. Tính cấp thiết của dé tài
Thực hiện chính sách hịa bình, hữu nghị, hội nhập nhanh chóng, tồn
diện xu thế quốc tế hóa trên bình diện khu vực và tồn cầu, trong chưa đầymột thập kỷ vừa qua, Việt Nam đã ký kết, gia nhập và trở thành thành viên của
một số lượng lớn các điều ước quốc té Theo tổng kết của Bộ Ngoại giao thì
số lượng điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết trong thời gian 10 năm gần đây
bằng với số lượng điều ước được ký kết của cả 50 năm trở về trước. Thực tế
này chứng tỏ, Nhà nước ta đã sử dụng có hiệu quả điều ước quốc tế làm công
hóa, xã hội,... Sự hiện điện của một số lượng lớn các điều ước quốc tế như vậymột mặt góp phần thực hiện tốt đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nướcViệt Nam trên trường quốc tế, qua đó mở rộng hợp tác toàn điện giữa Việt
Nam với các nước, các tổ chức quốc tế, mặt khác có vai trị tích cực đối vớiviệc xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam.
Trong số những điều ước nêu trên, năm 2001, Việt Nam chính thức trở
thành thành viên của Cơng ước Viên 1969 về Luật điều ước quốc tế ký kếtgiữa các quốc gia (gọi tắt là Công ước Viên 1969). Với tính chất là luật hìnhthức, bao gồm các quy định điều chỉnh trình tự, thủ tục, cách thức ký kết, thựchiện điều ước quốc tế, Công ước Viên 1969 đã trở thành một trong số nguồn
hạn chế nhất định, nhưng đến nay, công ước vẫn được các quốc gia sử dụng
<small>(1) Xem thêm Báo cáo tổng kết thực hiện pháp lệnh ký kết và thực hiện điều ước quốc tế của Bộ Ngoại giaoViệt Nam năm 2004, trong đó đưa ra số liệu sau: Tính từ thời điểm từ khi ban hành Pháp lệnh về ký kết, thực</small>
<small>hiện điều ước quốc tế năm 1998 đến tháng 4/2004, Việt Nam đã ký kết, gia nhập khoảng 702 điều ước quốctế (chưa :ính dén diéu ước ký kết với danh nghĩa bộ, ngành), trong đó có khoảng 106 điều ước chưa có hiệu</small>
<small>lực, chủ yếu do phía đối tác nước ngoài chưa hoàn thành thủ tục pháp lý. Trong số 702 điều ước nêu trên, ViệtNam đã ký tổng số 604 điều ước song phương với danh nghĩa Nhà nước và danh nghĩa chính phủ, với 308điều ước song phương hiện dang có hiệu lực; 67 điều ước song phương đã hết hiệu lực; 66 điều ước chưa có</small>
<small>hiệu lực. Ngồi ra, tính từ năm 1998 đến nay, Việt Nam đã ký kết và gia nhập 98 điều ước đa phương (với 39</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">quốc tế.
So với nhiều thành viên khác, Việt Nam gia nhập Công ước Viên trongđiều kiện pháp luật quốc gia về ký kết và thực hiện điều ước quốc tế chưa
hoàn thiện nên vấn đề xây dựng cơ chế điều chỉnh pháp luật thống nhất giữa
công ước này với hệ thống pháp luật Việt Nam là yêu cầu mang tính thời sự cả
trong giai đoạn trước mắt cũng như về chiến lược phát triển pháp luật quốc gia
trong tương lai.
Song muốn hiện thực hóa Cơng ước Viên 1969 vào hoạt động ký kếtvà thực hiện điều ước quốc tế của các cơ quan chức năng thuộc bộ máy nhà
nước thì trước hết, cần làm sáng tỏ các vấn đề lý luận và pháp lý được ghi
nhận trong nội dung công ước này. Đây là công việc có ý nghĩa thiết thựckhơng chỉ đối với nghiên cứu, giảng dạy và truyền bá khoa học pháp lý quốc
tế tại Việt Nam mà cịn có giá trị phát triển và hoàn thiện hệ thống pháp luật
Việt Nam trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền.
Nhận thức rõ tầm quan trọng nêu trên của Công ước Viên 1969 nên tập
việc thực hiện công ước này ở Việt Nam".
2. Mục đích và phạm vi nghiên cứu
Cơng ước Viên 1969 đề cập đến rất nhiều vấn đề lý luận, pháp lý và
thực tế phức tạp, đòi hỏi phải được xem xét ở nhiều cấp độ và phạm vi khác
trọng pháp luật Việt Nam về ký kết và thực hiện điều ước quốc tế. Bên cạnh
sự đúc rút những vấn đề lý luận, pháp lý về Điều ước quốc tế và với mong
muốn, giúp cho các cơ quan chức năng có được nền tảng pháp lý quốc tế cần
</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế, theo tinh thần của Nghị quyết số21/2003/QH11 về chương trình xây dựng pháp luật năm 2004 của Quốc hộiNước cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trên cơ sở đó, đề tài tập trungvào những vấn đề khoa học sau:
- Sự hình thành của Cơng ước Viên với tính chất là luật của luật, điềuchỉnh quan hệ ký kết, thực hiện điều ước quốc tế giữa các quốc gia.
- Các vấn đề pháp lý cơ bản về ký kết và thực hiện điều ước quốc tế
theo Công ước Viên 1969.
- Việc thực thi Công ước Viên 1969 ở Việt Nam (trước, sau khi Việt
Nam là thành viên của công ước này) và vấn đề hoàn thiện pháp luật ViệtNam về ký kết, thực hiện điều ước quốc tế trong điều kiện là thành viên của
Công ước Viên.
3. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
tài liệu pháp lý và tài liệu tham khảo khác ở trong và ngồi nước. Đây là cơng
trình nghiên cứu về khoa học luật quốc tế trong lĩnh vực ký kết và thực hiện
quốc tế có tính hiệu quả cao do các quốc gia xây dựng; (2) là nguồn pháp lý
giữa các quốc gia với nhau.
Phương pháp nghiên cứu chủ yếu của đề tài là phương pháp duy vậtbiện chứng, duy vật lịch sử. Ngoài ra, nhóm tác giả cịn sử dụng một số
phương pháp có tính đặc thù của khoa học xã hội, như phương pháp phân tích,
</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">vấn đề đặt ra trong q trình thực hiện đề tài.4. Những đóng góp có ý nghĩa khoa học
Thập niên đầu của thế kỷ XXI là thời kỳ mà nhu cầu hội nhập quốc tế
đang đặt Việt Nam trước những cơ hội cùng thách thức to lớn. Đây cũng là thời
điểm mà Việt Nam đang có nhiều nỗ lực trong việc nâng cao vị thế quốc gia trêntrường quốc tế. Việc đạt được vi trí quan trọng trong một loạt các diễn dan quốc
tế và khu vực (như trong ASEAN, ASEM, APEC, ARF...) cùng với các hoạt
hưởng trực tiếp và lâu dài đến lợi ích quốc gia, dân tộc khi Việt Nam tham gia
Thứ nhất, đề tài tập trung làm rõ được về mặt khoa học luật quốc tếcác quy định về ký kết, thực hiện điều ước quốc tế trong nội dung Cơng ước
điều ước quốc tế; là căn cứ xác định trách nhiệm pháp lý của quốc gia trong
việc thi hành các nghĩa vụ va cam kết quốc tế,...). Trong điều kiện Việt Namgia nhập Công ước Viên chưa lâu và việc nghiên cứu về công ước cịn rất hạn chế
thì các kết quả của đề tài là một sự đóng góp có giá trị nhất định cho công táchọc tập, nghiên cứu và vận dụng vào thực tiễn thực thi pháp luật tại Việt Nam.
Thứ hai, đề tài mạnh dạn đưa ra cách tiếp cận về cơ chế điều chỉnh
pháp luật thống nhất dựa trên sự hài hịa giữa Cơng ước Viên, các điều ước
quốc tế mà Việt Nam là thành viên với các quy định của pháp luật Việt Nam
để tạo ra những chuyển biến mới cho công tác ký kết, gia nhập và thực hiện
điều ước quốc tế của Việt Nam thời gian tới đây.
Thứ ba, đề tài có sự luận giải và đánh giá ở mức độ cần thiết tác động
tích cực của Cơng ước Viên 1969 đối với q trình xây dựng, đổi mới và hoàn
thiện pháp luật Việt Nam về ký kết, thực hiện điều ước quốc tế. Đây là sự cố
gang lớn của tập thể tác giả với mong muốn kết quả nghiên cứu của dé tài có
Thứ tư, với những kết quả dat được, dé tài có thể trở thành tài liệu
tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy lý thuyết về điều ước quốc tế theo
quy định pháp lý quốc tế hiện hành và khoa học luật quốc tế hiện đại.
5. Kết cấu của đề tài
- Báo cáo phúc trình kết quả nghiên cứu
- Các chuyên đề
- Phụ lục (bản dịch tiếng Việt Công ước Viên 1969)
chỉ những thỏa thuận quốc tế được ký kết bằng văn bản giữa các quốc gia và
các chủ thể luật quốc tế và được luật quốc tế điều chỉnh, khơng phụ thuộc vào
việc thỏa thuận đó được ghi nhận trong một văn kiện duy nhất hay hai hoặc
nhiều văn kiện có quan hệ với nhau, cũng như không phụ thuộc vào tên gọi cụthé của những văn kiện dé". Ngày nay, điều ước quốc tế tham gia điều chỉnh hầu
</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">hết các quan hệ hợp tác quốc tế của các chủ thể luật quốc tế và trở thành cơng cụhữu hiệu để duy trì trật tự pháp lý quốc tế. Đặc biệt, sự ra đời của Công ước Viên1969 đánh dấu bước phát triển vượt bậc của diéu ước quốc tế và Luật điều ước
quốc tế. Khác với nhiều công ước đa phương khác, Công ước Viên 1969 là khuônmẫu của một điều ước quốc tế (nhìn từ phương diện hình thức), đồng thời có giá
trị là luật của luật, khi các điều khoản trong nội dung của công ước được chủ
Sự ra đời của Công ước xuất phát từ nhận thức của các quốc gia về vai
trò mang tính nền tảng, quan trọng và ngày càng gia tăng của điều ước quốc tếtrong lịch sử quan hệ quốc tế, lịch sử hình thành và phát triển của luật quốc tế.Ngoài ra, sự cần thiết phải xây dựng một khung pháp lý rõ ràng, nhằm điều
tế, giải thích, đăng ký, cơng bố điều ước quốc tế cũng là một trong những lýdo dẫn tới sự hình thành Công ước Viên 19690),
Trong quan hệ pháp luật về điều ước quốc tế, Cơng ước Viên 1969 vừacó hiệu lực áp dụng đối với các thành viên, vừa có giá trị viện dẫn để điều
chỉnh quan hệ điều ước quốc tế phát sinh giữa các quốc gia không là thànhviên Cơng ước Viên 1969 (với tính chất của luật tập qn). Do đó, tuy sốlượng thành viên cơng ước chỉ khoảng trên dưới 100 quốc gia, nhưng công ước
lại có một phạm vi tác động rộng rãi đến nhiều chủ thể khác nhau. Vì vậy,
quyết định gia nhập cơng ước này của Việt Nam là phù hợp với xu thế phát
về Cơng ước này như sau:
<small>(1) Trong khoa học pháp lí quốc tế hiện nay, ký kết điều ước quốc tế được hiểu theo nghĩa rất rộng bao gồm</small>
<small>các hành vi từ đàm phán, soạn thảo văn bản, thông qua văn bản điều ước và các hành vi ràng pháp lí mà chủ</small>
<small>thể luật quốc tế thực hiện để ràng buộc quốc gia với điều ước quốc tế như ký, phê chuẩn, phê duyệt, gia nhập</small>
<small>điều ước quốc tế. Còn thực hiện điều ước quốc tế về bản chất là quá trình hiện thực hố các quy dinh của điều ướcquốc tế trong thực tiễn. Với quan niệm cho rang, giải thích diều ước quốc tế là q trình làm sáng tỏ nội dung thatcủa điều ước mà không làm thay đổi hiệu lực của điều khoản của điều ước. Vì vậy, các nhà khoa học pháp lí quốctế của nhiều nước đã coi hành vi giải thích diéu ước quốc tế là một phần của thực hiện điểu ước quốc tế. Tuy</small>
<small>nhiên, trong bài viết này, tác gia sẽ tiếp cận việc giải thích diéu ước quốc tế như là một phương tiện hỗ trợ</small>
<small>thực hiện điều ước quốc tế, chứ không phải là một giai đoạn của thực hiện điều ước quốc tế, vì Cơng ước Viên</small>
<small>và rất nhiều điều ước quốc tế khác không ghi nhận nghĩa vụ giải thích điều ước quốc tế và cũng khơng quy</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">1. Q trình hình thành cơng ước Viên 1969
Điều ước quốc tế ra đời và phát triển gần như song hành cùng với sự hình
của những mối quan hệ bang giao quốc tế là lịch sử của chiến tranh và hòa bình,ln ln gắn liền với việc ký kết các Thỏa ước quốc tế. Có thể nói, các quy tắcvề việc ký kết và thực hiện điều ước quốc tế đã tồn tại từ xa xưa, như việc các
Pharaon Aicập ký kết thỏa ước với vua Hittie bằng việc trao đổi các văn kiện;
hoặc Grotius đã đưa ra nguyên tắc về việc giải thích điều ước quốc tế vào thế kỷ
thứ 17 (mặc dù nó khơng giống như các quy tắc của Cơng ước Viên sau này).
giải dựa trên một trong những nền tảng cơ bản là tinh thần đoàn kết giữa các
ích chung của nhân loại u cầu các vấn đề quốc tế phải được xử lý một cáchchung nhất. Nói cách khác, mối quan hệ bang giao giữa các quốc gia đòi hỏi
điều chỉnh quan hệ ký kết và thực hiện điều ước quốc tế giữa các quốc gia vàcác tổ chức quốc tế trở thành nhu cầu tất yếu.
Tuy nhiên, đến trước thời điểm Chiến tranh Thế giới lần thứ nhất, Luật về
điều ước quốc tế vẫn tiếp tục dựa trên truyền thống quân chủ trong sự bành trướngcủa Nghị viện và hệ thống dân chủ. Sau chiến tranh thế giới thứ nhất, bao trùmmọi khía cạnh của mối quan hệ quốc tế là tư tưởng về hịa bình đã có ảnh hưởng
quốc tế đã được Hội quốc liên quan tâm và đưa ra trong các khóa họp của mình.Sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai, Liên hợp quốc tiếp tục có những
Hình thành được một bộ luật về điều ước quốc tế là một trong số nộidung quan trọng của q trình pháp điển hóa luật quốc tế nói chung và được
Một nhóm các học giả nổi tiếng trong lĩnh vực luật quốc tế của nước Anh, như
Jame Briefly, Hersch Lauterpacht, Gerald Fitzmaurice va Humphrey Wakdock
đã được chi định như là những Báo cáo viên đặc biệt, với nhiệm vu pháp điển<small>hóa các quy định, hình thành nên một khung pháp lý hữu hiệu điều chỉnh mối</small>quan hệ giữa các quốc gia trong lĩnh vực ký kết, thực hiện điều ước quốc tế.
Quá trình xây dựng và soạn thảo cơng ước là cả một sự cố gắng, thểhiện nỗ lực vượt bậc của ủy ban luật quốc tế. Qua thảo luận dự thảo Công ước
với 11 điều khoản do Giáo sư Briefly đưa ra (vào năm 1950), cho đến tiếp
các báo cáo thứ hai (vào năm 1951), báo cáo thứ ba (vào năm 1952) và saunày là báo cáo của một số các chuyên gia khác, như giáo sư Lauterpacht,
hợp quốc cũng đã có được một văn bản dự thảo cuối cùng, gồm 75 điều khoảnvà các chú thích liên quan để đệ trình lên Đại hội đồng Liên hợp quốc vào
hướng thu hẹp đối tượng điều chính của cơng ước, đồng thời đề nghị Đại hộiđồng Liên hợp quốc triệu tập hội nghị với mục đích khuyến khích các quốcgia ký kết công ước này. Kết quả, Đại hội đồng Liên hợp quốc đã đồng ý triệutập hội nghị quốc tế với các đại diện toàn quyền, nhằm xem xét luật về điều ước
quốc tế được thể hiện dưới hình thức pháp lý là một công ước quốc tế cu thể.
đến 24 tháng 5 năm 1968, với sự tham gia của đại diện ủy quyền của 103 nước
và các quan sát viên từ 13 tổ chức quốc tế đặc biệt. Hội nghị đã bình luận các
Cuối cùng, 69 điều khoản đã được thông qua tại kỳ họp này.
Kỳ họp lần thứ hai năm 1969 của Hội đồng Liên: Hợp quốc về Luat
điều ước quốc tế được tổ chức tại Viên từ ngày 9 tháng 4 đến ngày 22 tháng 5năm 1969, 110 quốc gia và 14 tổ chức quốc tế đặc biệt đã tham dự. Hội nghịđã chấp nhận bổ sung 13 điều khoản và đệ trình để để nghị bỏ phiếu thông
</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">qua. Như vậy, tại ky họp này, 110 quốc gia tiến hành xem xét dự thảo Công
di trên thực tế, một số các điều khoản đã được nhất trí tại các cuộc thảo luậntrước đây. Cuối cùng, lời nói đầu và điều khoản cuối cùng của Công ước cũng
các điều khoản của Công ước đã được thảo luận tại hội nghị và được luật hóavào văn bản chính thức.
Hội nghị Liên hợp quốc về Luật điều ước quốc tế đã thông qua Công
ước Viên về Luật điều ước quốc tế ngày 23 tháng 5 năm 1969, 79 quốc gia đãbỏ phiếu tán thành Công ước này, Pháp phản đối, 19 quốc gia khác bỏ phiếutrắng. Sau một "hành trình" khá dài, Công ước Viên 1969 về Luật quốc tế,
như Phu lục đính kèm cho tất cả các nước tham gia.
Cho đến ngày 27 tháng 1 năm 1980, 30 ngày sau ngày quốc gia thứ 35
việc gia nhập. Hiện nay, số lượng các quốc gia thành viên vẫn ngày càng tăng,
chứng tỏ rằng, Công ước có giá trị pháp lý cao trong việc điều chỉnh quan hệ ký
kết, thực hiện điều ước quốc tế giữa các quốc gia.
2 Cơ cấu và vai trò của Công ước Viên 1969
Công ước Viên 1969 được kết cấu thành lời nói đầu, nội dung, các điều
khoản cuối cùng và một phụ lục đính kèm. Chương 1 (từ Điều 1 đến Điều 5) là
Phần mở đầu, nhằm xác định giới hạn phạm vi điều chỉnh của công ước, những
thuật ngữ quan trọng được sử dụng trong công ước, đặc biệt là thuật ngữ "điều ước
quốc tế”, "phê chuẩn, phê duyệt, chấp thuận, gia nhập, giấy ủy quyền, bảo lưu...".
Chương 2 (từ Điều 6 đến Điều 25) quy định về ký kết và hiệu lực của điềuước quốc tế. Đây là những quy định cơ bản nhất, điều chỉnh những hoạt động
với một điều ước quốc tế của các quốc gia thành viên. Thông qua quy định vềcác hành vi ký kết điều ước quốc tế, Chương này xác định rõ quyền và nghĩa
vụ của các chủ thể trong khi tham gia vào quan hệ ký kết điều ước quốc tế.
Chương 3 (từ Điều 26 đến Điều 38) gồm bốn mục, quy định về nghĩavụ tơn trọng, thi hành và giải thích điều ước quốc tế của các quốc gia thànhviên. Chương 5 (từ Điều 42 đến Điều 72) là các quy định về vấn đề vơ hiệu,chấm dứt và tạm đình chỉ thi hành điều ước.
Phụ lục của Công ước này được xác định là phần không thể tách rờikhỏi Công ước, bao gồm các quy định hướng dẫn thủ tục liên quan đến vấn đềvề giải quyết tranh chấp phát sinh giữa các thành viên trong quá trình thực thị,
Xem xét một cách tồn diện (hình thức, nội dung và giá trị pháp lý, chính tn...),
Cơng ước Vién 1969 có những ý nghĩa cực kỳ quan trọng.
triển hịa bình, an ninh quốc tế, đồng thời góp phần làm giảm bớt những tranh
chấp giữa các nước trong quá trình ký kết và thực hiện điều ước quốc tế, quađó xây dựng lịng tin giữa các quốc gia với nhau khi thiết lập và tăng cườngcác quan hệ hợp tác quốc tế.
Thứ hai, Cơng ước đã góp phần ổn định một cách tương đối trật tự
pháp lý quốc tế, giữ gìn quan hệ bình đẳng giữa các quốc gia, đảm bảo dung
hịa giữa lợi ích cộng đồng quốc tế và lợi ích quốc gia. Cơng ước đã chứng tỏ
sự bắt đầu một kỷ nguyên phát triển mới của luật điều ước quốc tế, với nhiềutác động tích đến quá trình phát triển của quan hệ quốc tế nói chung và pháp
hệ thống luật quốc tế, đồng thời có ảnh hưởng mạnh mẽ đến hệ thống pháp
luật quốc gia. Cơng ước vừa có ý nghĩa thể chế hóa hoạt động ký kết và thựchiện điều ước quốc tế của các quốc gia trong khuôn khổ pháp luật quốc tế, vừatạo cơ sở pháp lý để giải quyết mối quan hệ giữa luật quốc tế và luật quốc gia
trong thực tiễn xây dựng và thực thi điều ước quốc tế của các quốc gia.
hệ thống quy phạm pháp luật quốc tế, với tính vượt trội của quy phạm pháp
các quốc gia nói chung và hội nhập pháp luật nói riêng. Trên thực tế, rất nhiềucác quốc gia chưa phải là thành viên của Công ước đã và đang viện dẫn các
quy định của Công ước với tính chất là các quy phạm của luật tập quán.
Ngày nay, Công ước Viên 1969 cùng với các Công ước Viên 1961 về
quan hệ ngoại giao, Công ước Viên 1963 về quan hệ lãnh sự, Công ước Luật
quốc gia, các dân tộc gia trong thời đại tồn cầu hóa.
THEO CÔNG ƯỚC VIÊN 1969
trong q trình hình thành; tính cơng khai và dé viện dẫn...). Cơng ước Viên 1969
ra đời có giá trị tạo cơ sở pháp lý cần thiết để các quốc gia phát huy một cách
triệt để những lợi thế này của điều ước quốc tế. Với ý nghĩa đó, Cơng ướcViên 1969 đã dành một số lượng đáng kể các điều khoản để quy định về các
vấn đề liên quan đến ký kết điều ước quốc tế.
1. Quy định của Công ước Viên 1969 về quyền năng ký kết điều
Qua cách xác định phạm vi áp dụng của Công ước Viên 1969 thì quốc
gia là chủ thể có quyền năng ký kết các điều ước quốc tế. Quốc gia thực hiệnquyền nang này thông qua hành vi của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền,
quyền năng ký kết điều ước quốc tế, còn trong Công ước Viên, quyền năng này
do quốc gia tự thực hiện, dựa trên chủ quyền và là một bằng chứng có giá trị về
gia" được sử dụng trong Công ước (Điều 6) được hiểu cùng nghĩa với quốc gia
trong Hiến chương Liên hợp quốc (tức quốc gia theo nghĩa của luật quốc tế). Do
quốc gia. Vì vậy, theo cơng ước thì khơng có sự phân loại về mặt pháp luật quốc
tế điều ước được ký kết nhân danh cấp ký kết nào (nhà nước, chính phủ hay bộ,
điều chính. Riêng loại thỏa thuận cấp bộ, ngành thì nhiều nước khơng xác định
Song song với xác định quyền năng ký kết điều ước của quốc gia, Công
khác theo quy định) và đại diện theo ủy quyền. Những người đó chỉ được coi là
</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">ước khi có giấy ủy quyền, trừ trường hợp các quốc gia hữu quan có thỏa thuận
pháp, hành vi của một cá nhân liên quan đến việc ký kết một điều ước quốc tế sẽkhông có giá trị pháp lý, trừ khi sau đó hành vi này được quốc gia xác nhận.
Mục đích của quy định về đại diện đương nhiên và đại diện theo ủy quyền
trong quan hệ điều ước nhằm xác định tính hợp pháp của điều ước quốc tế khi đã
được hình thành và đảm bảo cho sự thực thi điều ước quốc tế ở cấp độ quốc tế
cũng như trong phạm vi lãnh thổ quốc gia. Điều này sẽ ràng buộc các quốc giatrong việc ký kết điều ước phải đúng thẩm quyền và không được viện dẫn đếnhành vi ký kết sai thẩm quyền như là một lý do để từ bỏ nghĩa vụ pháp lý phát
sinh từ điều ước quốc tế đã ký kết, trừ trường hợp việc vi phạm này quá rõ ràng
và liên quan đến một quy định có tính chất cơ bản của pháp luật trong nước.
Trong một chừng mực nhất định, tính chất hai mặt như trên về vấn đề
có thể bị vơ hiệu. Vì thế, tn thủ quy định về xuất trình và kiểm tra tư cách
của đại diện được ủy quyền là một trong yêu cầu quan trọng trong quá trìnhđàm phán, soạn thảo và xây dựng văn bản dự thảo điều ước. Về phương diện
lập pháp, lập quy trong nước, những lý luận cơ bản về quyền năng ký kết điềuước của quốc gia cũng như thẩm quyền ký kết của đại diện hợp pháp cho quốc
2. Quy định của Công ước Viên về các hành vi ký kết, chấp thuận,gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế
Đối với bất kỳ một loại hình điều ước nào (song phương, đa phương)thì đại diện ký kết cũng đều phải thực hiện một loạt những hành vi pháp lýkhác nhau. Q trình pháp điển hóa các quy phạm truyền thống của luật tập
</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">quán về điều ước quốc tế và dựa trên cơ sở tiếp cận hiện đại với quan hệ điềuước giữa các quốc gia, Công ước Viên đã quy định, chủ thể kết ước có thể tiến
hành những hành vi ký kết sau, khi muốn thiết lập quan hệ điều ước với nhau:
- Những hành vi pháp lý để hình thành văn bản điều ước, bao gồm
hành vi dam phán, soạn thảo và thông qua văn bản điều ước quốc tế. Khi thực
hiện những hành vi này, các bên ký kết đã tạo dựng được văn bản dự thảo điều
ước để ghi nhận những thỏa thuận xác định quyền và nghĩa vụ, trách nhiệm
pháp lý quốc tế cho những chủ đó trong một quan hệ phát sinh.
- Những hành vi pháp lý thể hiện sự ràng buộc của chủ thể ký kết với
văn bản dự thảo, bao gồm các hành vi ký, trao đổi các văn kiện cấu thành điều
nào khác theo thỏa thuận. Những hành vi này có giá tri tạo ra hiệu lực pháp lýcho điều ước trên cả hai phương diện, luật quốc gia và luật quốc tế.
- Hành vi thực thi điều ước, như công bố, đăng ký, giải thích, viện dẫn,
áp dụng, chuyển hóa. Giải quyết tranh chấp phát sinh... nhằm hiện thực hóacác quyền và nghĩa vụ quốc tế theo thỏa thuận điều ước vào thực tiễn sinh hoạt
quốc tế và thực tiễn của từng quốc gia thành viên.
Các hành vi pháp lý nêu trên phải tuân theo nguyên tắc, trình tự, thủ tục
pháp lý nhất định. Việc Cơng ước Viên 1969 "luật hóa" các hành vi này theo tiêu
chí của Luật điều ước quốc tế có tác dụng hình thành nên khn mẫu cho cáchoạt động ký kết điều ước phát sinh giữa các quốc gia trong mọi lĩnh vực hợp tácquốc tế. Do đặc trưng của điều ước quốc tế là kết quả của quá trình vừa hợp tác,
vừa đấu tranh giữa các quốc gia nên quan hệ điều ước phản ánh sâu sắc quan hệ
quốc tế hiện đại, phản ánh lợi ích của từng quốc gia đặt trong tương quan lợi ích
3. Quy định của Cơng ước Viên 1969 về quy trình ký kết hoặc gia
ước quốc tế và nguồn bất thành văn (tập quán quốc tế). Giữa hai nguồn này có
sự khác nhau cơ bản về hình thức tồn tại và cách thức hình thành. Quy trình ký
</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">kết một điều ước là quy trình lập pháp quốc tế, được tiến hành bởi các quốc
có cơ quan quyền lực chung, do đó mỗi quốc gia được tự do (theo luật quốctế) đối với việc thỏa thuận để hình thành các điều khoản có tính chất pháp lý,ràng buộc quyền, nghĩa vụ giữa các quốc gia với nhau.
Trong quy định của Cơng ước Viên, quốc gia có thể trở thành thànhviên của một điều ước quốc tế (kể cả của Công ước này) theo hai cách thức:(1) ký kết trực tiếp với chủ thể khác và (2) gia nhập (hoặc chấp thuận) điều
ước. Bằng cách thức thứ nhất, dù là điều ước song phương hay đa phương thì cácbước thơng thường để tiến hành ký kết sẽ bao gồm: Đàm phán, soạn thảo, thôngqua, ký, phê duyệt, phê chuẩn văn bản dự thảo điều ước. Tùy tính chất của quan
hệ và lĩnh vực hợp tác mà trình tự các bước ký kết có thể theo quy trình đơn
giản (đàm phán, soạn thảo, thông qua, ký và điều ước có hiệu lực ngay sau đó)
hay theo quy trình nhiều giai đoạn (phải qua trình tự phê duyệt, phê chuẩn mới
có hiệu lực). Chi phối bởi yếu tố thỏa thuận, tự nguyện nên bản chất của quy
trình ký kết điều ước là quy trình lập pháp độc lập với quy trình lập pháp trongnước. Quy trình này địi hỏi quốc gia phải tuân theo các nguyên tắc tự nguyện,
Điều này đồng nghĩa với việc loại bỏ sự áp đặt, cưỡng bức và sử dụng vũ lực
hay các biện pháp gian lận, lừa đối khi ký kết điều ước quốc tế. Các chủ thể
tham gia ký kết điều ước luôn bị chi phối bởi ý chí và lợi ích của quốc gia,
nhưng quy trình tiến hành phải trong khuôn khổ do Công ước Viên quy định.Gia nhập điều ước là phương thức truyền thống mà theo đó, một quốc
gia trong những hồn cảnh nhất định, trở thành một trong các bên của điềuước đa phương mà quốc gia đó đã khơng tham gia ký kết. Trước đây, đã từng
trong cả Cơng ước Viên và các điều ước hiện đại thường có điều khoản về gianhập. Quyền gia nhập điều ước không phụ thuộc vào sự có hiệu lực của điềuước, hoặc thậm chí quy định rõ ràng bằng việc cho phép gia nhập điều ướctrước ngày xác định là điều ước có hiệu lực.
Tương tự, khi công ước đề cập đến chấp thuận như là một thủ tục mới
Chấp thuận mang tính thuật ngữ hơn là hàm ý về một phương thức. Vì thế, nếu
một điều ước có quy định rằng, nó sẽ được mở để ký "phụ thuộc vào chấp thuận”thì cũng có thể hiểu một cách tương đồng với quy định "ký kết phụ thuộc vàophê chuẩn”. Theo tỉnh thần của Cơng ước Viên thì "ký kết phụ thuộc vào chấpthuận" chủ yếu nhằm quy định hình thức "phê chuẩn" đơn giản dé cho phép
chính phủ có cơ hội hơn nữa trong xem xét điều ước, khi nó khơng cần thiết
phải đặt dưới thủ tục Hiến pháp của quốc gia để nhận được sự phê chuẩn.
Như vậy, lựa chọn cách thức nào để tham gia quan hệ điều ước hoàn toàntùy thuộc vào quyết định và sự tự nguyện của một quốc gia, tuân theo các điều
kiện về thành viên của từng điều ước (vì cũng có những điều ước hạn chế số
lượng thành viên hoặc đặt ra điều kiện phải đáp ứng nếu muốn gia nhập điều
ước đó). Với Cơng ước Viên 1969, một quốc gia có thể áp dụng cả hai cách thức
trên khi quyết định sẽ trở thành một trong số các thành viên của cơng ước này.
quốc tế thì nghĩa vụ thực thi điều ước sẽ giải quyết thông qua quan hệ kế thừa
quốc gia và việc có kế thừa nghĩa vụ thành viên một điều ước nào đó hay
khơng do quốc gia quyết định, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 62
Công ước Viên 1969.
Tất cả những lý giải nêu trên về quyền năng, thẩm quyền, hành vi và
có trở thành thành viên của một điều ước thì quốc gia mới có quyền viện dẫnđến bất kỳ điều khoản nào trong điều ước. Quyền viện dẫn đến một quy định
của điều ước hồn tồn có thể phát sinh cả đối với một bên không ký kết, chấp
phạm vi tác động của Công ước Viên đến những quan hệ điều ước được hình
1. Quy định của Công ước Viên về hiệu lực của điều ước quốc tế
bởi những điều kiện nhất định. Trong công ước Viên 1969, một điều ước
muốn phát sinh hiệu lực phải thỏa mãn được các điều kiện nhất định.
Bản chất pháp lý của luật quốc tế quy định, hiệu lực của điều ước quốctế hoàn toàn phụ thuộc vào việc, các chủ thể ký kết đã thể hiện sự thỏa thuận
đích thực của mình và sự thỏa thuận này phải có nội dung khơng trái với các
phải có sự hợp pháp cả về phương thức kí kết, nội dung, mục tiêu và mục đíchcủa việc thiết lập điều ước đó. Điều này được Cơng ước Viên khái qt dưới
dạng các điều kiện mang tính khách quan và chủ quan”.
Khoa học luật quốc tế có sự phân biệt khái niệm hiệu lực của điềuước với khái niệm hiệu lực thi hành điều ước quốc tế. Hiệu lực thi hành một
(áp dụng) điều ước, việc đình chỉ, tạm đình chỉ hiệu lực điều ước và các điều
kiện khác. Còn hiệu lực pháp luật của một điều ước quốc tế được xác định dựa
phát sinh hiệu lực và có giá trị pháp lý là điều ước quốc tế. Khi đó, văn bản
được ký kết này mới trở thành nguồn của luật quốc tế.
Sự phân biệt như trên có ý nghĩa thiết thực trong thực tế thực thi vaviện dẫn đến các quy định nào đó của một điều ước. Luật quốc tế hiện hành
tồn tại nguyên tắc suy đốn tính hiệu lực (tính giá trị) của điều ước quốc tế.Nguyên tắc suy đoán này được phi nhận tại Điều 42 của Công ướcViên 1969 với nội dung: “Hiệu lực của một điều ước hoặc việc một quốc gia
Lập luận của Điều 42 Công ước Viên phù hợp với nguyên tắc suy đoántheo nghĩa, hiệu lực của một điều ước quốc tế là lẽ đương nhiên, là tình trạng
chứng minh sự vơ hiệu của điều ước đó. Như vậy, khi điều ước được ký kết
<small>(1) Xem thêm Lời nói đầu và các điều 24, 26, 48, 49, 50, 52, 53, 64 Cơng ước Viên 1969.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">hợp pháp thì sẽ có hiệu lực pháp luật đối với các thành viên và có hiệu lực viện
dẫn áp dụng với giá trị pháp lý là nguồn của luật quốc tế (tùy thuộc vào cáchthức chủ thể luật quốc tế viện dẫn điều ước đó theo tư cách là thành viên điềuước hay tư cách là bên thứ ba, áp dụng quy định trong điều ước dưới dạng quyphạm của luật tập quán).
Điều kiện có hiệu lực của điều ước đồng thời là căn cứ để xác định sựvô hiệu của điều ước, vốn tồn tại như mặt trái phát sinh trong thực tiễn ký kếtđiều ước quốc tế. Công ước Viên 1969 đã giành một lượng điều khoản thíchhợp, có giới hạn điều chỉnh vấn đề này.
b) Điều ước quốc tế vô hiệu
Tuy luật quốc tế và luật điều ước quốc tế không tồn tại cơ chế quyềnlực chung bao đảm cho việc thực thi điều ước, nhưng sự tôn trọng “hiệu luc
thân thánh" của Nguyên tắc Pacta Sunt Servanda chính là nền tảng pháp lý co
ban đảm bao cho các thỏa thuận và cam kết quốc tế được thực hiện nghiêmchỉnh. Điều kiện này buộc Cơng ước Viên phải có sự trù liệu cần thiết về
trường hợp điều ước vô hiệu. Danh mục các nguyên nhân làm cho điều ước vô
ước quốc tế của các quốc gia tham kết; (2) nguyên nhân có lỗi khi ký kết và
phù hợp với qui phạm Jus cogens của những điều khoản trong điều ước đượcký kết bởi các quốc gia.
Công ước quy định vấn đề vô hiệu của điều ước do từng nhóm nguyênnhân gây ra như trên theo hướng hạn chế đến mức thấp nhất sự lạm dụng của
các bên ký kết vào hoàn cảnh chủ quan, khách quan để lẩn tránh thực thi
nghĩa vụ thành viên. Ví dụ, trong trường hợp có sự cưỡng ép đối với đại diệnquốc gia, công ước quy định, khơng phải bất kì loại cưỡng ép nào đối với quốc
gia cũng có thể được coi là ngun nhân vơ hiệu của điều ước quốc tế, mà chỉkhi việc cưỡng ép được thực hiện bằng đe dọa sử dụng vũ lực (và phai là việcsử dụng vũ lực trái với các nguyên tắc luật quốc tế được ghi nhận trong Hiến
chương Liên hiệp quốc) thì mới làm cho điều ước vô hiệu. Các trường hợp
khác cũng vậy, sự vô hiệu của điều ước không thể xác định một cách tràn lan,
</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">mà phải tuân theo các quy tắc nghiêm ngặt như Cơng ước Viên đã ghi nhận.
Có như vậy, khả năng thực thi trên thực tế của một điều ước mới được đảm bảo.
c) Hiệu lực thi hành của điều ước quốc tế
Theo khoa học luật quốc tế, điều ước có hiệu lực thi hành về thời gian,không gian và đối với đối tượng chịu sự tác động của điều ước là các quốc giathành viên của điều ước quốc tế đó. Đây là các vấn đề được điều chỉnh theocác qui phạm luật điều ước quốc tế chứa đựng không chỉ trong Công ước Viên
1969 mà còn ở tập quán quốc tế, cũng như các qui phạm khác.
Hiệu lực thi hành của điều ước phụ thuộc trước hết vào thời điểm các
hành của điều ước quốc tế, các bên hữu quan cần phải hoàn thành thủ tục trao
Công ước Viên 1969 đã quy ước).
Cũng cần phải lưu ý rằng, hiệu lực thi hành của điều ước quốc tế có
thể liên quan đến hai nhóm quốc gia khác nhau, đó là các quốc gia thành viên
(các bên tham kết) và các nước không phải là thành viên, thường được gọi làbên thứ ba. Thông thường, điều ước có hiệu lực sẽ tạo ra quyền và nghĩa vụchỉ cho các bên thành viên của nó, tức Pacta Tertics nec nocent nec prosunt(các thỏa thuận không mang lại lợi ích và khơng gây hại cho người thứ ba).Nhưng đặc thù của cơ chế viện dẫn, áp dụng các loại nguồn của luật quốc tếlại hình thành mối quan hệ thực tế giữa các nước không phải thành viên của
một điều ước với chính điều ước đó, thơng qua cach thừa nhận hiệu luc thi
hành của các điều khoản trong điều ước với bên này, theo tính chất là luật tậpquán, hình thành từ thực tiễn ký kết, thực hiện điều ước quốc tế hoặc trong
một số trường hợp quy định khác (điều ước qui định quyền hoặc nghĩa vụ cho
quốc gia thứ ba). Sự đặc thù này về hiệu lực pháp luật của các loại điều ước
cũng như ngay chính Cơng ước Viên 1969 tạo cho các quốc gia và chủ thể của
</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">nhập công ước này.
Song hiệu lực thi hành của điều ước quốc tế không phải là vơ thời hạn
<small>(1) Xem thêm các điều từ 54 đến 59 Công ước Viên 1969.(2) Xem thêm Điều 62 Công ước Viên 1969.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">thực hiện theo điều ước. Như vậy, Công ước Viên 1969 công nhận tại Điều 62,
sự thay đổi cơ bản các hồn cảnh trong những điều kiện đặc biệt có thể được
coi là nguyên nhân hợp pháp chấm dứt hiệu lực của điều ước với các điều kiện<small>ràng buộc nêu trên.</small>
Tuy nhiên, Clausula Rebus sic stantibus không thể được chấp nhận ngaycả khi các điều kiện yêu cầu nêu trên được thỏa mãn, nếu sự thay đổi hoàn cảnhliên quan đến Điều ước quốc tế về đường biên giới hoặc sự thay đổi cơ bản là
kết quả của hành vi xâm phạm cam kết quốc tế bất kì của các quốc gia việndẫn Rebus sic stantibus. Cần lưu ý rằng, Công ước Viên 1969 chỉ cho phép sự
riêng biệt cho việc chấm dứt hiệu lực Điều ước quốc tế dựa trên Clausula Rebussic stantibus (mục 4 Công ước Viên). Mac dù vậy, vẫn cịn đó sự hồi nghitrong giới khoa học luật quốc tế về các qui định liên quan đến khả năng hủy
bỏ điều ước vì ngun nhân thay đổi cơ bản các hồn cảnh. Chính vì vậy, một
Trường hợp liên quan đến việc viện dẫn Điều 62 nêu trên khác với những
trường hợp xuất hiện các vấn đề bất thường, làm biến đổi tình trạng quan hệ
chính trị, ngoại giao, kinh tế, văn hóa... giữa các quốc gia và qua đó ảnh
do điều ước đặt ra giữa các quốc gia này, trừ khi việc tồn tại của các quan hệ
gia hữu quan. Trong vấn đề này có một ngoại lệ: Việc chấm dứt quan hệ ngoại
giao - lãnh sự sẽ có tác động quan trọng đến hiệu lực của điều ước, nếu quan hệ
<small>(1) Như trường hợp của Argentina.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">Tóm lại, những quy định trên về hiệu lực thi hành của điều ước sẽ là
cơ sở pháp lý để các thành viên có thể hiện thực hóa vào đời sống quốc gia và
đời sống sinh hoạt quốc tế.
2 Quy định của Cơng ước Viên về q trình thực hiện điều ước
quốc tế
Về nguyên tắc, giai đoạn cuối cùng của quá trình ký kết một điều ước
các quốc gia thành viên. Các quy định của điều ước quốc tế được đảm bảo bởi
Q trình này phải trên cơ sở của việc thực thi luật quốc tế, là quá trình các
chủ thể áp dụng cơ chế hợp pháp, phù hợp để đảm bảo các quy định của luậtquốc 1é được thi hành và được tôn trọng đây đủ trong đời sống quốc tế®).
Ngồi ra, mơi trường pháp luật trong nước hài hòa với nghĩa vụ và cam kết
quốc tế của quốc gia là điều kiện không thể thiếu trong thực thi điều ước.
a) Moi quan hệ giữa điều ước quốc tế và pháp luật quốc gia
Vấn đề mối quan hệ giữa điều ước quốc tế và pháp luật quốc gia được
quan tâm nghiên cứu hang thế ky nay. Day là vấn đề phức tạp, có nhiều ý kiến
khác nhau do nhận thức, điều kiện lịch sử, đường lối chính sách ở các quốc gia
khác nhau. Việc giải quyết tốt mối quan hệ này về mặt lý luận sẽ gdp phần quan
trọng vào việc thực hiện các cam kết quốc tế của các quốc gia. Một quốc gia giải
quyết đúng đắn mối quan hệ đó trong pháp luật của mình sẽ là cơ sở đảm bảocho hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp được tiến hành một cách ổn định
và hiệu quả khi các hoạt động trên đụng chạm tới mối quan hệ ấy. Ngoài ra,việc giải quyết tốt mối quan hệ này trong pháp luật quốc gia cịn góp phần thúc
Trên thực tiễn, mối quan hệ giữa điều ước quốc tế và pháp luật quốc
gia biểu hiện rõ qua sự tác động qua lại giữa chúng trong các lĩnh vực khác
nhau của đời sống quốc tế, với một số vấn đề ln mang tính thời sự, dù đã có
lịch sử hàng thế kỷ tranh luận, đó là chuyển hóa. nội luật hóa và viện dẫn điềuước quốc tế vào pháp luật quốc gia. Theo nguyên tắc chung, hiệu lực pháp lýcủa điều ước quốc tế độc lập với pháp luật quốc gia, tức không thể viện dẫn sự
<small>(1) Giáo trình Luật quốc tế - Đại học Luật Hà Nội - Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2004, tr. 13.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">khác biệt của điều ước và luật trong nước để không thực thi điều ước. Vậy,phải nhấn mạnh rằng, chuyển hóa điều ước (theo cách thức trực tiếp hoặc giántiếp) không phải là nghĩa vụ bất buộc đối với thành viên điều ước theo quy địnhcủa Công ước Viên 1969 và luật điều ước quốc tế, mà là hoạt động pháp lý mang
tính chất hài hịa hóa các quy định của điều ước trong điều kiện pháp luật của
quốc gia thành viên, nhằm đảm bảo cho điều ước được thực thi và tôn trọng (trừ
những điều ước có quy định chuyển hóa là nghĩa vụ của thành viên điều ước đó).
Tương tự thì viện dẫn áp dụng các quy định của điều ước quốc tế trong phápluật quốc gia là việc quốc gia ghi nhận trong pháp luật của mình (trong mộtvăn bản, hoặc trong các văn bản khác nhau tương ứng với các điều ước quốctế) rằng, các quy định của các điều ước quốc tế có hiệu lực với quốc gia ấy sẽ
được áp dụng thay thế cho các quy định tương ứng của pháp luật quốc gia, nếu
khi chúng điều chỉnh cùng một vấn đề nhưng có sự quy định khác nhau.
Như vậy, điều quan trọng là cách thức áp dụng các quy định của điều ước
quốc tế trong pháp luật quốc gia như thế nào là hợp pháp và hiệu quả nhất? Về
tính hợp pháp, chúng ta chỉ có thể bàn từ góc độ luật quốc tế, vì từ góc độ phápluật quốc gia thì phải căn cứ vào hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia cụ thể. Về
đã nêu đều được coi là hợp pháp từ góc độ pháp luật quốc tế. Điều đó có nghĩa làcác quốc gia có quyền quyết định chọn các biện pháp khác nhau để đảm bảotuân thủ các cam kết quốc tế của mình. Tuy nhiên, như đã nêu ở trên, hiện nay
đã xuất hiện một số lĩnh vực mà ở đó các quốc gia buộc phải sửa đổi, bổ sung
các quy định pháp luật của mình như là một trong các biện pháp để đảm bảotuân thủ các cam kết quốc tế ngay từ khâu lập pháp (ví dụ, các yêu cầu củaWTO đối với các quốc gia sẽ hoặc đã là thành viên; các công ước quốc tế về
nhân quyền; một số điều ước quốc tế trong tổ chức Liên minh châu Au...).
Đối với điều kiện của hệ thống pháp luật Việt Nam hiện hành, vấn đề
quốc tế của các cơ quan chức năng thuộc bộ máy nhà nước thực sự là ahiém
<small>(1) Xem thêm chuyên đề về Thuc tiễn áp dụng và thực thi Công ước Viên 1969 tại Việt Nam - TS. Lê Mai Anh vàThS. Hoàng Ly Anh (thuộc nội dung của dé tài Công ước Viên 1969 và việc thực hiện công ước này tại Việt Nam)</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">b) Cơ chế thực thi điều ước
Luật điều ước quốc tế nói chung cũng như Cơng ước Viên 1969 nóiriêng chỉ quy định nghĩa vụ thực hiện các điều ước mà khơng có các quy định
về cách thức, trình tự tổ chức, triển khai thực hiện điều ước cho các chủ thể kýkết. Sở di pháp luật quốc tế khơng thể xây dung một quy trình chung đối với
quá trình thực tế thực hiện điều ước quốc tế vì khơng thể dự liệu được các vấnđề phát sinh phong phú và đa dạng trong điều kiện hoàn cảnh khác nhau củacác nước thành viên, mà chỉ yêu cầu các quốc gia thành viên đảm bảo ghinhận việc thực hiện điều ước quốc tế trong Hiến pháp của mình. Mặt khác,
mỗi quốc gia sẽ có có chế thực hiện riêng biệt, phụ thuộc vào điều kiện của
từng quốc gia cũng như nội dung của các cam kết.
Đây là lý do giải thích tại sao Cơng ước Viên 1969 khơng có nhiều
quy định cụ thể về thực hiện điều ước quốc tế, mà chủ yếu chỉ ghi nhận cácnguyên tắc cơ bản để thực hiện điều ước quốc tế, với việc đề cao sự tận tâm,thiện chí của các thành viên (Pacta sunt servanda). Nội dung Nguyên tắc Pacta
sunt servanda (qua các quy định từ Điều 26 đến Điều 30 của Cơng ước) baogồm hai nội dung chính: (1) Tất cả các quốc gia thành viên phải có nghĩa vụ
thực hiện điều ước quốc tế sau khi điều ước có hiệu lực và (2) tất cả điều ước
- Thực hiện đúng các quy định với phạm vi, nội dung phù hợp với mục
đích của điều ước;
hiệu quả;
điều ước quốc tế.
Yêu cầu tận tâm, thiện chí trong thực thi điều ước có mối quan hệ chặt
chẽ với phạm vi tác động của một điều ước, theo đó địi hỏi điều ước phải
Quy trình thực hiện điều ước quốc tế theo quy định của Công ước Viên
1969 thường bao gồm trước hết là việc tiến hành các thủ tục để tạo bước di ban
đầu cho thực tiễn thi hành và áp dụng điều ước quốc tế tại từng quốc gia thànhviên. Do quy trình ký kết hoặc gia nhập điều ước quốc tế khác với quy trình lập
pháp trong từng quốc gia nên những động thái pháp lý như công bố, đăng ký điềuước quốc tế có ý nghĩa thực tế rất thiết thực đối với thực hiện điều ước quốc tế.
cơng khai hóa các điều ước quốc tế đã được ký kết bởi các quốc gia theo thủ
đăng ký điều ước quốc tế theo tinh thần của Hiến chương có giá trị ràng buộc
quốc tế đã ký kết. Tuy mang tính chất thủ tục, nhưng đây là nhưng quy định
hiện điều ước tới đây tại Việt Nam.
<small>(1) Xem thêm chuyên dé: “Vấn đề thực hiện diéu ước quốc tế theo Công ước Viên 1969” thuộc đề tài này, TS. Lê</small>
<small>Mai Anh</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">điều khoản trong điều ước. Vì vậy, hoạt động giải thích điều ước quốc tế làhoạt động hỗ trợ để có thể thực hiện điều ước quốc tế một cách thực chất và
đúng theo tinh thần của các công ước. Theo Fitzmaurice", có ba trường pháichính về giải thích điều ước quốc tế. Đó là giải thích theo “ý định của các bêncủa điều ước", giải thích theo văn ban hay theo "nghĩa thông thường của thuậtngữ (văn ban)" và giải thích theo “mực đích và mục tiêu của điều ước”. Su
khác nhau chủ yếu giữa các trường phái không phải là sự khác biệt hoàn toàn
về nội dung của các trường phái mà là ở quan niệm về mục đích và ngun tắcgiải thích điều ước. Vì vậy, các quan điểm của các trường phái khác nhau về
giải thích điều ước quốc tế khơng nhằm mục đích loại trừ lẫn nhau. Nói cách
khác, chúng có thể cùng được áp dụng để giải thích điều ước.
Về mặt lý luận, giải thích điều ước quốc tế có thể là giải thích chính
thức hoặc giải thích khơng chính thức. Giải thích chính thức là giải thích của
các chủ thể luật quốc tế, thành viên của điều ước. Giải thích chính thức cũngcó thể là giải thích của các tổ chức quốc tế bảo trợ để điều ước được ký kết.
Trong khi đó, giải thích khơng chính thức là giải thích của các nhà nghiên
cứu, của các nhà khoa học trong quá trình nghiên cứu các quy định của điều
Về nguyên tắc, Công ước Viên yêu cầu điều ước phải được giải thíchmột cách "thiện chí”, có nghĩa là "giải thích theo nghĩa thông thường của thuậtngữ trong văn cảnh và dưới ánh sáng của đối tượng và mục đích của điều ước”
(khoản 1, Điều 31). Ngoài ra, khoản 4, điều 31 cũng quy định rằng "nghĩa đặc
biệt của thật ngữ cũng được sử dụng nếu các bên có ý định như vậy”. Như vậy,
xét khi soạn thảo các điều khoản về giải thích điều ước quốc tế trong Côngước Viên 1969. Nhưng dù theo cách nào thì mục đích chung của giải thích
vào điều chỉnh những quan hệ pháp luật nảy sinh trong thực tiễn quốc tế cũng
như thực hiện nghĩa vụ thành viên điều ước quốc tế.
<small>(1) Harris, D.J. Cases and Materials on International Law (4° ed.) Sweet & Maxwell, London, 1991, p. 766</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">Qua cách giải quyết của Công ước Viên và các điều ước quốc tế khác,
thực hiện điều ước là quá trình phức tạp mà quốc gia thành viên buộc phải giải
quyết thực tế nhiều vấn đề, ví dụ, giải quyết mối quan hệ giữa các điều ước mà
quốc gia là thành viên; xây dựng, duy trì cơ chế thực thi điều ước; giải quyết cáctranh chấp phát sinh trong quá trình các bên liên quan viện dẫn áp dụng điều ước...
Thực tiễn thi hành điều ước quốc tế của các quốc gia nhiều trường hợpđã phải xử lý mối quan hệ giữa các điều ước với nhau. Về pháp lý, giữa các
trong thực tiễn xảy ra tình trạng có sự xung đột (quy định khác nhau) của một
số điều ước có liên quan về cùng một lĩnh vực hợp tác. Điều này sẽ dẫn đếnviệc các quốc gia thành viên khó có thể thực thi (hoặc áp dụng) đồng thời cả
chương. Sự ghi nhận này trong Hiến chương không loại trừ việc áp dụng cho
cả Công ước Viên 1969 trong mối quan hệ giữa công ước này với hiến chương.
giữa một bên ký kết tham gia cả hai điều ước và một bên ký kết chỉ tham giamột điều ước thì điều ước mà cả hai quốc gia cùng tham gia sẽ điều chỉnhquyền, nghĩa vụ pháp lý quốc tế của cả hai quốc gia đó
Di sâu vào vấn đề xây dung và duy trì cơ chế thực thi điều ước cho thấy,ngày nay, việc thực thi điều ước quốc tế tuy được xác định là một trong nhữngnghĩa vụ pháp lý của thành viên các điều ước quốc tế, nhưng trong một số lĩnh
vực hợp tác có tính chất chun mơn, bên cạnh cách thức riêng của từng quốc
gia, cịn có các cơ chế quốc tế được hình thành, để vừa có tính chất hỗ trợ các
quốc gia thành viên trong việc thực thi điều ước quốc tế, vừa mang tính chất
kiểm sốt quốc tế nhằm đảm bảo cho điều ước được tuân thủ. Các cơ chế này
bao gồm các thiết chế quốc tế phù hợp với hai chức năng hoạt động chính là
vi phạm các quy định của điều ước cũng như phòng ngừa xảy ra tranh chấpgiữa các thành viên trong quá trình thực thi các điều ước đó. Cùng với sự tồntại của các thiết chế quốc tế trên, các điều ước loại này cịn duy trì một thủ tụcpháp lý rất quan trong là làm và bảo vệ báo cáo quốc gia về thực thi các quy
cầu quốc gia thành viên phải làm báo cáo về quá trình thực hiện các nghĩa vụ
trong những lĩnh vực chuyên môn, sự hiện diện của các cơ chế quốc tế có tác
động tích cực đến việc thực thi điều ước tại từng quốc gia. Bởi vì, mặc dù
Cơ chế quốc gia về thực thi điều ước quốc tế được hình thành một mặt
dựa trên cơ sở bộ máy nhà nước của từng quốc gia, mặt khác lại phải căn cứ vào
hai là các đảm bảo pháp lý, thực tế để thực hiện điều ước quốc tế. Trong phạm vinhiệm vụ, quyền hạn của mình, các bộ, ngành và các cấp chính quyền có trách
nhiệm trong việc đề ra kế hoạch cụ thể và các biện pháp bảo đảm khả thi các cam
kết quốc tế mà Việt Nam đưa ra trong các điều ước quốc tế. Có những loại điều
ước quốc tế cần có cơ quan chuyên trách của quốc gia, hoạt động với tính chất là
cơ quan đầu mối, đồng thời là cơ quan chủ trì trong việc theo đõi tình hình thihành điều ước đó tại từng quốc gia thành viên. Cơng ước Viên khơng có u cầu
riêng về cơ chế quốc gia để thi hành cơng ước, nhưng với tính chất là luật của
luật nên việc thực hiện công ước này tại từng nước thành viên vẫn bao trùm lên
vụ Quốc hội và các cơ quan của quốc hội thi hành chức nang thực hiện công ước
này cũng như điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên nói chung với tính
chất của cơ quan lập pháp, thơng qua hoạt động ban hành văn bản quy phạm
pháp luật thuộc thẩm quyền, nhằm hài hịa hóa các điều khoản của công ước
với pháp luật Việt Nam về ký kết và thực hiện điều ước quốc tế.
thống pháp luật quốc gia hài hòa với các thỏa thuận quốc tế mà Việt Nam làthành viên, năng lực hoạt động của bộ máy nhà nước; năng lực của đội ngũ
ước quốc tế đã được ký kết một cách hợp pháp và hợp thức thì sẽ có hiệu lựcbắt buộc đối với các thành viên. Do đó, thực hiện điều ước quốc tế được xác
</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">định là nghĩa vụ pháp lý quốc tế quan trọng của quốc gia, dù được tiến hànhvới cách thức nào. Trong điều kiện của từng quốc gia, điều ước quốc tế có ảnh
hưởng sâu sắc đến sự phát triển của nội luật, thông qua cơ chế bảo đảm thi
hành điều ước ở mỗi nước. Quá trình thực hiện điều ước quốc tế đặt ra nhiềuvấn đề mà quốc gia thành viên phải đối diện, như mối quan hệ giữa điều ước
và pháp luật quốc gia; mối quan hệ giữa việc thực hiện nghĩa vụ thành viên và
vấn đề bảo vệ lợi ích quốc gia; vấn đề giải quyết tranh chấp phát sinh trong
điều quan trọng, quốc gia thành viên luôn phải dé cao các nguyên tắc thực thi
điều ước, đặc biệt là nguyên tắc Pacta sunt servanda. Có như vay thì một điều
pháp luật quốc gia cũng không bị hạn chế hoặc mất đi hiệu lực ràng buộc đối
với các chủ thể ký kết. Thi hành điều ước bằng cách nào là công việc thuộc
đến lợi ích quốc gia, dân tộc. Vì vậy, việc khơng thực hiện hoặc thực hiện
khơng đúng các nghĩa vụ điều ước sẽ dẫn đến trách nhiệm pháp lý quốc tế củaquốc gia chứ không đặt ra trách nhiệm pháp lý của cá nhân. Điều này càng
VIỆT NAM
không thể chỉ chủ yếu dựa vào quan hệ mang tính chất chính tri, ngoại giao
Công nhận và cho thi hành các phán quyết của trọng tài nước ngồi, nhiều
năm 1982... Thực tiễn này địi hỏi Việt Nam phải có cách nhìn nhận mới vềvai trị của điều ước quốc tế nói chung và Cơng ước Viên nói riêng, vì rấtnhiều các quốc gia trong số đối tác của Việt Nam đã là thành viên của Công ước<small>Viên 1969. Hiện Công ước Viên đã có 91 thành viên, trong đó có Trung Quốc,</small>
Slovakia, Ucraina, Uzobékistan...); trong khối ASEAN có Lào, Ma-lai-xi-a,Mién Dién va Phi-lip-pin.
Từ góc độ quan hệ quốc tế, gia nhập Công ước Viên sẽ thể hiện rõ
những nỗ lực và thiện chí của Việt Nam trong việc thực hiện chính sách và
chủ trương về tăng cường hội nhập quốc tế, đặc biệt trong lĩnh vực ký kết và
mở, tin cậy hơn khi mở rộng quan hệ hợp tác với Việt Nam theo các khuôn
khổ của luật quốc tế.
Hiến pháp 1992, tình trạng có sự thiếu thống nhất giữa quy định giữa Hiến
lệnh 1998 và các văn bản hướng dẫn thi hành pháp lệnh này. Vì vậy, sự hội
định việc Việt Nam cam kết tơn trọng luật pháp quốc tế nói chung và Luật
Việt Nam gia nhập Công ước Viên 1969. Việt Nam đã gửi Văn kiện gia nhập
</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35">Đồng thời với việc tuyên bố gia nhập, Việt Nam ra tuyên bố bảo lưu Điều 66của Công ước với nội dung: "Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khơng bị
các qui định của Điều ó6 Cơng ước Viên về Luật điều ước ràng buộc. Bất kỳtranh chấp nào giữa các bên ky kết liên quan đến việc áp dụng hoặc giải thích
các Điều 53 và 64 chỉ được trình lên Tịa án quốc tế quyết định hoặc bất kỳ
tranh chấp nào liên quan đến việc áp dụng hoặc giải thích các điều khoản
xét, sau khi có sự đồng ý của tất cả các bên tranh chấp trong từng trường hợp
viên của Công ước Viên 1969.
a) Thời kỳ trước khi gia nhập Công ước Viên 1969
kết và thực hiện điều ước quốc tế. Hai pháp lệnh nói trên cùng với Hiến pháp,các luật và văn bản dưới luật có liên quan đã hình thành nên một khn khổpháp luật có giá trị điều chỉnh khá hiệu quả hoạt động ký kết, thực hiện điều
ước quốc tế của Việt Nam.
Trong khn khổ pháp luật đó, thẩm quyền ký kết điều ước quốc tếcủa những cơ quan, cá nhân thuộc bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, như Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ và các Bộ, ngành,
Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân đân tối cao đã được xác định.Cùng với quy định về thẩm quyền ký kết điều ước quốc tế, hệ thống văn bản
pháp luật này đã xây dựng được hai quy trình tham gia quan hệ điều ước quốctế khá tương đồng với cách quy định trong Cơng ước Viên 1969, đó là quy
trình ký kết điều ước quốc tế, được tiến hành bởi chủ thể có thẩm quyền, nhân
danh nhà nước, chính phủ, bộ, ngành của Việt Nam, thông qua những hành vi
pháp lý để thực hiện trình tự trên theo các bước: Đề xuất, đàm phán, ký, phêduyệt, phê chuẩn văn bản điều ước mà Việt Nam ký kết với các đối tác nướcngoài. Ngoài ra, quan hệ điều ước của Việt Nam cịn có thể được thiết lập theo
quy trình gia nhập điều ước quốc tế như đã quy định tại Công ước Viên 1969và văn bản pháp luật trong nước của Việt Nam. Liên quan đến cả hai quy trìnhký kết và gia nhập điều ước, khung pháp luật Việt Nam đã chú trọng quy địnhcác vấn đề chủ yếu về hình thành văn bản dự thảo điều ước quốc tế và về xácnhận ràng buộc đối với một điều ước quốc tế.
Những điều trên đây chứng tỏ rằng, pháp luật Việt Nam về ký kết vàthực hiện điều ước quốc tế từ khi bắt đầu có Hiến pháp 1946 đến nay đã có sự
tương đồng cơ bản với quy định của Cơng ước Viên 1969. Nói một cách khác,
pháp luật Việt Nam về ký kết và thực hiện điều ước quốc tế đã thường xuyênáp dụng các chuẩn mực pháp lý chung về ký kết và thực hiện điều ước quốc tế
trong Cơng ước Viên 1969 dưới hình thức tập qn quốc tế. Tuy không phải làquốc gia tham gia từ đầu vào q trình xây dựng Cơng ước Viên 1969 và cũngkhông phải là một trong những quốc gia đầu tiên gia nhập Công ước, nhưngtrên thực tế, việc viện dẫn áp dụng Công ước cho thấy, pháp luật Việt Namtheo kịp với các quy định chung của luật điều ước quốc tế. Chính vì vậy,khung pháp luật quốc gia của Việt Nam trong điều chỉnh hoạt động ký kết
điều ước quốc tế hầu như khơng có những điểm q khác biệt so với pháp luật
</div><span class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37">quốc tế về điều ước quốc tế nói chung cũng như Cơng ước Viên 1969 nói riêng.Với hiện trạng đó, hồn tồn có cơ sở để đánh giá được việc thực hiện Công
ước này trong giai đoạn trước khi là thành viên của Việt Nam, thơng qua việcnội luật hóa và viện dẫn quy định của luật tập quán hình thành từ thực tiễn ký
kết, thực hiện Công ước Viên 1969.
Do thực tế này mà trên bình diện chung, tại thời điểm chưa gia nhập
Công ước Viên 1969 nhưng công ước đã ln có những tác động tích cực đối
với pháp luật cũng thực tiễn hoạt động ký kết và thực hiện điều ước quốc tếcủa Việt Nam. Trong mọi quan hệ ký kết điều ước quốc tế, Công ước là cơ sở
quốc gia về điều ước quốc tế.
Nhưng cho đến thời điểm trước năm 2001, các hoạt động ký kết, thựchiện điều ước quốc tế do các cơ quan chức năng thực hiện chủ yếu dựa trênquy định của văn bản pháp luật trong nước về điều ước quốc tế và các văn bảnpháp luật liên quan. Về pháp lý, thực tế này đã gây khó khăn cho Việt Nam
Mặc dù thời gian tham gia Cơng ước Viên 1969 của Việt Nam cịn q
Nam đã tiến hành những hoạt động pháp lý để thực thi công ước này, mà biểu
hiện rõ nét nhất là việc sửa đổi một số quy định của Hiến pháp 1992 về ký kết,
thực hiện điều ước quốc tế tương đồng với các quy định của công ước. Theo
quy định của Công ước Viên 1969, "mỗi quốc gia đều có quyền năng ký kết
các điều ước quốc tế” (Điều 6). Và để phù hợp với quy định của các điều 6, 7
và 8, Công ước Viên 1969 đã chỉ rõ phạm vi các đối tượng là chủ thể có thẩmquyền ký kết điều ước nhân danh quốc gia ký kết. Đối với Việt Nam, tương
thích với cách quy định nói trên của Cơng ước Viên 1969 và phù hợp với tư
cách là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, cũng như là cơ quan duy nhất cóquyền lập hiến, lập pháp và giám sát tối đối với toàn bộ hoạt động của nhà
nước thì Quốc hội Việt Nam có quyền: "Phê chuẩn hoặc bãi bỏ điều ước quốctế do Chủ tịch nước trực tiếp ký; phê chuẩn hoặc bãi bỏ các điều ước quốc tế
khác đã được ký kết hoặc gia nhập theo đề nghị của Chủ tịch nước" (Điều 84,
khoản 13 Hiến pháp 1992 sửa đổi).
Song hành với xác định thẩm quyền của Quốc hội, Hiến pháp 1992 sửa
đầu nhà nước, thay mặt nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trongquan hệ đối nội và đối ngoại, sẽ có quyền hạn trong việc "tiến hành đàm phán,ký kết điều ước quốc tế nhân danh nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam với người đứng đầu nhà nước khác; trình Quốc hội phê chuẩn điều ướcquốc tế đã trực tiếp ký; quyết định phê chuẩn hoặc gia nhập điều ước quốc tế,trừ trường hợp cần trình Quốc hội quyết định” (Điều 103, điểm 10, Hiến pháp
nước cao nhất, cơ quan thống nhất quản lý cơng tác đối ngoại, sẽ có nhiệm vụ,quyền hạn đối với việc "đàm phán, ký kết điều ước quốc tế nhân danh Nhà
Chính phủ; chỉ đao việc thực hiện các điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết
tương thích giữa hai nguồn văn bản pháp luật quốc gia và văn bản Luật Điều
ước quốc tế về những nội dung hết sức cơ bản trong hoạt động ký kết và thực
hiện điều ước quốc tế, đó là vấn dé quy định về thẩm quyền, trình tự chung
của một quy trình ký kết, thực hiện điều ước quốc tế, áp dụng đối với điềukiện, hoàn cảnh Việt Nam, nhưng đặt trong tương quan với việc thực thi cácnghĩa vụ thành viên Công ước Viên 1969 của Việt Nam.
Đi sâu vào vào các quy định hiện hành trong Hiến pháp 1992, có thể
chí phân loại của pháp luật Việt Nam. Giữa quy định của các điều 6, 7, 8 của
sở của cơ quan đứng ra ký kết và ký kết nhân danh ai trong số các danh nghĩa
viện dẫn sự khác biệt trong pháp luật quốc gia so với Cơng ước Viên 1969 nói
quốc tế trong Công ước Viên 1969 là kết quả của đồng thời hai động thái pháp
Nam gia nhập Công ước Viên đã nảy sinh một số bất cập giữa pháp luật Việt
Nam hiện hành và quy định của công ước, chẳng hạn, chưa có sự chuyển hóa
<small>các quy phạm thực chất (mang tính nội dung) của Cơng ước vào nội luật (quy</small>tắc, cơ sở giải thích điều ước quốc tế; quy tắc về chấm dứt hiệu lực; về vị trícủa điều ước quốc tế trong hệ thống pháp luật trong nước...).
Đó là chưa kể đến một thực tế khác là sau khi sửa đổi Hiến pháp thì
hệ thống văn bản pháp luật Việt Nam về điều ước quốc tế rơi vào thực trạng có
sự khác nhau trong các quy định của Hiến pháp với các văn bản luật trongnước, đưa đến những hạn chế và thách thức mới cho hoạt động ký kết, gia nhập
và thực hiện điều ước quốc tế của nhà nước ta. Điều này sẽ đưa đến nhiều bấtlợi cho Việt Nam trong khi chúng ta đang hết sức nỗ lực nhằm nâng cao uytín, thế và lực của Việt Nam trên trường quốc tế.
Nhằm khắc phục nhanh chóng hiện trạng văn bản luật và dưới luật có
những quy định khác (theo hướng khơng phù hợp) với Hiến pháp 1992 sửa
đổi, nhu cầu ban hành Bộ luật về ký kết, thực hiện điều ước quốc tế được đặtra cho Việt nam trong điều kiện chính thức là thành viên Công ước Viên 1969.
Vấn đề này được đưa vào trong chương trình xây dựng pháp luật của Quốc hộinước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.Theo tinh thần nghị quyết số
Nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, vấn đề xây dựng và ban hành Luậtvề ký kết và thực hiện điều ước quốc tế Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa ViệtNam đã chính thức được thơng qua. Nó đáp ứng kịp thời nhu cầu phải có mộtbộ luật có giá trị điều chỉnh một cách toàn diện, khoa học quan hệ điều ước
quốc tế giữa Việt Nam và các chủ thể quan hệ pháp luật quốc tế.
3. Vấn đề xây dựng dự thảo Luật ký kết, gia nhập và thực hiện
cũng như nhiều quốc gia trong khu vực, Việt Nam được đánh giá là nước có
cũng đang tồn tại một thực tế khác đáng lưu ý là có sự khác nhau giữa quy
định của pháp luật Việt Nam về điều ước quốc tế với quy định trong Công ước
</div>