Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

Phân Tích Vai Trò Của Nguyễn Ái Quốc Trong Việc Thành Lập Đảng Cộng Sản Việt Nam Và Ý Nghĩa Sự Ra Đời Của Đảng Đối Với Cách Mạng Việt Nam. Liên Hệ Trong Giai Đoạn Hiện Nay.pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (343.64 KB, 16 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

<b> BÁO TIỂU LUẬN</b>

<b>Đề tài: "Phân tích vai trị của Nguyễn Ái Quốc trong việc thành lập</b>

Đảng Cộng sản Việt Nam và ý nghĩa sự ra đời của Đảng đối với cách mạng Việt Nam. Liên hệ trong giai đoạn hiện nay".

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

A. MỞ ĐẦU

Bất cứ ai trong chúng ta đều biết rằng Đảng cộng sản Việt Nam là một nhân tố quyết định trước tiên trong việc thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam được đánh giá chính là bước ngoặt to lớn trong lịch sử cách mạng Việt Nam, và nó có tính chất quyết định đến sự phát triển của dân tộc ta. Đảng cộng sản Việt Nam thành lập là kết quả của nhiều yếu tố khác nhau, trong đó khơng thể khơng kể đến vai trị to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Bài viết dưới đây chúng ta sẽ cùng nhau tìm hiểu về vai trò của Nguyễn Ái Quốc trong việc thành lập Đảng Cộng sản.

B. NỘI DUNG I. Cơ sở lý luận

1. Tiểu sử Nguyễn Ái Quốc và quá trình tìm đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc Nguyễn Ái Quốc (19/5/1890 - 2/9/1969), tên khai sinh là Nguyễn Sinh Cung, là một nhà cách mạng, lãnh tụ của Đảng Cộng sản và nhân dân Việt Nam. Người sinhra trong một gia đình nhà nho yêu nước, lớn lên ở một địa phương có truyền thống anh dũng chống giặc ngoại xâm. Sống trong hồn cảnh đất nước chìm dưới ách đơ hộ của thực dân Pháp, thời niên thiếu và thanh niên của mình, Nguyễn Ái Quốc đã chứng kiến nỗi khổ cực của đồng bào và những phong trào đấu tranh chống thực dân, từ đó Người sớm có chí đuổi thực dân, giành độc lập cho đất nước, đem lại tự do, hạnh phúc cho đồng bào. Với ý chí quyết tâm mãnh liệt đó, Nguyễn Ái Quốc đã rời Tổ quốc đi sang phương Tây để tìm con đường giải phóng dân tộc. Trước khi Nguyễn Ái Quốc ra đi tìm đường cứu nước, tại Việt Nam năm 1858, thực dân Pháo đã nổ súng tấn công xâm lượng và từng bước thiết lập bộ máy thống trị, biến một quốc gia phong kiến thành thuộc địa nửa phong kiến. Vào thời điểm này, về chính trị, thực dân Pháp áp đặt chính sách cai trị thực dân, tước bỏ quyền lực đối nội và đối ngoại của chính quyền phong kiến nhà Nguyễn; chia Việt Nam thành ba xứ: Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ và thực hiện ở mỗi kỳ một chế độ cai trị khác nhau. Về kinh tế, thực dân Pháp thực hiện chính sách bóc lột, cướp đoạt ruộng đất để lập đồn điền, đầu tư khai thác tài nguyên, xây dựng một số cơ sở công nghiệp, hệ thống đường giao thông, bến cảng phục vụ chính sách khai thác thuộc địa. Về văn hoá, thực dân Pháp thi hành triệt để chính sách văn hố nơ dịch, gây tâm lý tự ti, khuyến khích các hoạt động mê tín dị đoan. Mọi hoạt động yêu nước của nhân dân ta đều bị ngăn cấm. Chúng tìm mọi cách bưng bít và ngăn chặn ảnh hưởng của nền văn hoá tiến bộ thế giới vào Việt Nam và thi hành chính sách "ngu dân" để dễ bề cai trị. Trước sự xâm lược của thực dân Pháp, các phong trào yêu nước của nhân

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

dân ta diễn ra liên tục và sôi nổi nhưng đều không mang lại kết quả và đều rơi vào bế tắc. Đây đều là các phong trào đấu tranh kế thừa truyền thống yêu nước, bất khuất của dân tộc được hun đúc qua hàng ngàn năm lịch sử. Tuy nhiên do thiếu đường lối đúng đắn, thiếu tổ chức và lực lượng nên các phong trào ấy mới lần lượt thất bại, cách mạng Việt Nam chìm trong cuộc khủng hoảng sâu sắc về đường lối cứu nước. Trước tình hình đó, người thanh niên Nguyễn Tất Thành (Nguyễn Ái Quốc) đã ra đi tìm đường cứu nước theo phương hướng mới. Người đã đi qua nhiều quốc gia trên thế giới để phát hiện ra chân lý: Chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đếquốc thực dân là nguồn cội mọi đau khổ của cơng nhân và nhân dân lao động ở chính quốc cũng như ở các nước thuộc địa. Năm 1917, Người trở lại Pháp, đến Paris và đến năm 1919 gia nhập Đảng xã hội Pháp. Tháng 6/1919 thay mặt những người yêu nước Việt Nam, Người gửi bản yêu sách 8 điểm tới Hội nghị Vécxây. Tháng 7/1920, Nguyễn Ái Quốc đọc được "Đề cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa" của Lênin, từ đó, Người tìm ra con đường giải phóng dân tộc đúng đắn. Tại Đại hội Đảng Xã hội Pháp (tháng 12/1920), Nguyễn Ái Quốc bỏ phiếu tán thành Quốc tế III (Quốc tế Cộng sản do Lênin sáng lập) và tham gia thành lập Đảng cộngsản Pháp, trở thành người cộng sản đầu tiên của Việt Nam. Đó là sự kiện trọng đại đánh dấu bước chuyển quan trọng của Nguyễn Ái Quốc đi từ chủ nghĩa yêu nước đến với lý luận cách mạng của thời đại là chủ nghĩa Mác Lênin, đồng thời vạch ra quan điểm: muốn cứu nước và giải phóng dân tộc khơng cịn con đường nào khác ngồi con đường cách mạng vơ sản. Từ đây, cùng với việc thực hiện nhiệm vụ đối với phong trào cộng sản quốc tế, Nguyễn Ái Quốc xúc tiến truyền bá chủ nghĩa Mác Lênin, vạch ra phương hướng chiến lược cách mạng Việt Nam, chuẩn bị điều kiện để thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam.

2. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam và vai trò của Nguyễn Ái Quốc trong việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam

Trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, ở nước ta có tới 3 tổ chức Cộng sản nên không tránh khỏi sự phân tán về lực lượng và tổ chức, không thể thống nhất vềtư tưởng và hành động. Vì vậy, Hội nghị hợp nhất các tổ chức Cộng sản đã thống nhất các tổ chức cộng sản thành lập một đảng, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam và tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng đã quyết định lấy ngày 3/2 hằng năm là ngày kỷ niệm thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Sự ra đời của Đảnglà bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử Việt Nam, chứng tỏ giai cấp vô sản nước ta đã trưởng thành và đủ sức lãnh đạo cách mạng, chấm dứt thời kì khủng hoảng về vai trị lãnh đạo và đường lối phong trào cách mạng Việt Nam. Đó là kết quả của sự vận động, phát triển, thống nhất phong trào cách mạng trong cả nước, sự chuẩn bị

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

công phu về mọi mặt của Nguyễn Ái Quốc và sự đồn kết, nhất trí của những chiếnsĩ tiên phong vì lợi ích của giai cấp và dân tộc. Về vai trò của Nguyễn Ái Quốc trong việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam:

Thứ nhất, Nguyễn Ái Quốc tìm ra con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc. Trong bối cảnh lịch sử đất nước đang bị thực dân Pháp kìm kẹp, các phong trào yêu nước đều thất bại thì Nguyễn Ái Quốc đã sớm tiếp thu những tư tưởng tiến bộ của nhân loại về "tự do, bình đẳng, bác ái", với tầm nhìn chiến lược và phương pháp tư duy sáng tạo đã sớm hình thành ý chí cứu nước, cứu đồng bào ở Người. Đồng thời, khi đọc Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin, Người đã tìm thấy ở đó con đường đúng đắn giải phóng đất nước là con đường cách mạng vô sản, giải phóng dân tộc để tiến tới giải phóng con người. Người đã nhận thấy sự cần thiết của một Đảng lãnh đạo và chỉ có kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào u nước thì mới có thể xây dựng được một Đảng cách mạng chân chính, đảm bảo cách mạng phát triển đúng hướng và đi đến thắng lợi.

Thứ hai, Nguyễn Ái Quốc tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác Lênin vào trong nướcvà chuẩn bị những điều kiện cho sự thành lập Đảng. Về chính trị: Người tích cựctruyền bá chủ nghĩa Mác Lênin vào trong nước. Người đã phác thảo những vấn đềcơ bản về đường lối cứu nước đúng đắn của cách mạng Việt Nam, thể hiện tậptrung qua những bài giảng của Người cho những cán bộ cốt cán của Hội Việt Namcách mạng thanh niên. Về tư tưởng: Nguyễn Ái Quốc đã tích cực truyền bá chủnghĩa Mác Lênin vào Việt Nam nhằm làm chuyển biến nhận thức của quần chúng,đặc biệt là giai cấp công nhân, làm cho hệ tư tưởng Mác Lênin từng bước chiếm ưuthế trong đời sống xã hội, làm chuyển biến mạnh mẽ phong trào yêu nước. Nộidung truyền bá là những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin được cụ thểhố cho phù hợp với trình độ của các giai tầng trong xã hội.Về tổ chức: Nguyễn ÁiQuốc dày công chuẩn bị về mặt tổ chức cho sự ra đời của chính đảng vơ sản củagiai cấp cơng nhân Việt Nam. Đó là huấn luyện, đào tạo cán bộ từ các lớp huấnluyện do Người tiến hàng ở Quảng Châu để vừa chuẩn bị cán bộ, vừa truyền báchủ nghĩa Mác - Lênin. Năm 1925, Nguyễn Ái Quốc thành lập hội Việt Nam cáchmạng thanh niên, ra báo Thanh niên, mở lớp đào tạo cán bộ cách mạng cho 75đồng chí, từ đó giúp chõ những người Việt Nam yêu nước xuất thân từ các thànhphần, tầng lớp dễ tiếp thu tư tưởng cách mạng của Người, phản ánh tư duy sáng tạo

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

và là thành công của Nguyễn Ái Quốc trong chuẩn bị về mặt tổ chức cho Đảng rađời.

Đồng thời, trong những năm 1928 - 1929, phong trào đấu tranh cách mạng củanhân dân ta tiếp tục phát triển mạnh về số lượng và chất lượng. Chủ nghĩa Mácđược Nguyễn Ái Quốc và những chiến sĩ tiên phong truyền bá về trong nước, cùngvới phong trào "vơ sản hố" đã làm chuyển biến phong trào công nhân và giác ngộhọ. Thông qua phong trào "vơ sản hố", lớp lớp thanh niên yêu nước được rènluyện trong thực tiễn, giác ngộ lập trường giai cấp công nhân sâu sắc, hiểu rõnguyện vọng, lợi ích của nhân dân, thúc đẩy phong trào cơng nhân và phong tràoyêu nước phát triển mạnh mẽ, tiến tới sự ra đời của tổ chức cộng sản đầu tiên ởViệt Nam, tạo điều kiện chín muồi cho sự ra đời của Đảng.

Thứ ba, Nguyễn Ái Quốc chủ trì thành cơng Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộngsản. Năm 1929, Nguyễn Ái Quốc đang hoạt động ở Xiêm, mặc dù chưa nhận đượcchỉ thị của Quốc tế cộng sản về yêu cầu thống nhất các tổ chức cộng sản ở ViệtNam, nhưng do sự nhạy bén về chính trị, Nguyễn Ái Quốc đã chủ động triệu tậpHội nghị hợp nhất, thực hiện sứ mệnh lịch sử của người sáng lập Đảng Cộng sảnViệt Nam.

Thứ tư, Nguyễn Ái Quốc trực tiếp soạn thảo những văn kiện quan trọng có ý nghĩachiến lược. Trong bối cảnh lúc bấy giờ, sự thống nhất đường lối chính trị cấp thiếthơn bao giờ hết. Hội nghị hợp nhất đã thống nhất thông qua Chán cương vắn tắt,Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt, Điều lệ vắn tắt và Lời kêu gọi nhân dịpthành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Đặc biệt, nội dung của Chánh cương vắn tắt,Sách lược vắn tắt là do đồng chí Nguyễn Ái quốc soạn thảo được Hội nghị thơngqua đã trở thành Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam.II. Vận dụng

1. Khái niệm về Đảng Cộng sản Việt Nam

Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng cầm quyền và là chính đảng duy nhất được phéphoạt động tại Việt Nam theo Hiến pháp. Theo Cương lĩnh và Điều lệ chính thức hiện nay, Đảng là đại diện của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dântộc, lấy Chủ nghĩa Marx-Lenin và Tư tưởng Hồ Chí Minh làm kim chỉ nam cho mọi hoạt động.[3] Trong ngữ cảnh khơng chính thức cũng dùng từ "Đảng" (hoặc "Đảng ta") để nói về Đảng Cộng sản Việt Nam.[4][5] Cơ quan cao nhất của Đảng

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

là Đại hội Đại biểu toàn quốc, nơi sẽ bầu ra Ban Chấp hành Trung ương. Giữa các kỳ Đại hội Đảng, Ban Chấp hành Trung ương Đảng là cơ quan tối cao quyết định các vấn đề của Đảng. Sau Đại hội, Trung ương sẽ bầu ra Bộ Chính trị, Ban Bí thư và Ủy ban Kiểm tra Trung ương và bầu một Ủy viên Bộ Chính trị làm Tổng Bí thư.2. Vai trị của Đảng hiện nay

Trải qua lịch sử đấu tranh cách mạng, nhất là trải nghiệm thực tiễn lãnh đạo vàcầm quyền, Đảng đã có bước trưởng thành, tích lũy được nhiều kinh nghiệm vàđúc rút được những bài học quý giá. Trước tình hình mới và yêu cầu mới hiện nay,Đảng đã xác định, phải làm cho Đảng ngang tầm nhiệm vụ, phải ra sức nâng caonăng lực lãnh đạo và sức chiến đấu cũng như bản lĩnh cầm quyền của Đảng. Xâydựng Đảng được coi là then chốt, là nhiệm vụ hàng đầu, quan trọng nhất trongnhiệm kỳ khóa XI. Gần đây, Hội nghị Trung ương 4, khóa XI đã ban hành Nghịquyết về “một số vấn đề cấp bách trong xây dựng Đảng hiện nay.” Trong nhữngvấn đề cấp bách đặt ra đối với Đảng hiện nay, tình trạng suy thối về tư tưởng,chính trị, đạo đức lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ đảng viên, trước hếtlà cán bộ lãnh đạo quản lý các cấp, kể cả ở cấp cao là vấn đề cấp bách nhất, xuyênsuốt, bao trùm. Sự suy thối đó làm giảm sút nghiêm trọng lịng tin của đảng viên,của quần chúng nhân dân đối với Đảng. Nếu khơng đẩy lùi sự suy thối đó thì sinhmệnh của Đảng, sự tồn vong của chế độ sẽ bị thách thức. Trong thời điểm Đảngđang tiếp tục triển khai thực hiện Nghị quyết, đang diễn ra cuộc chỉnh đốn tự phêbình và phê bình ở tất cả các cấp, các tổ chức Đảng thì tồn Đảng tồn dân hiệnnay lại đang đóng góp ý kiến cho bản dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992, trong đónổi lên vấn đề về vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội. Đa số ýkiến đều tán thành việc hiến định vai trò, thẩm quyền, trách nhiệm của Đảng ở điều4 bản Hiến pháp sửa đổi. Song cũng có khơng ít người đề nghị xóa bỏ điều 4, ápdụng mơ hình đa Đảng, đa ngun chính trị. Đã thảo luận thì ý kiến, quan điểmkhác nhau, trái nhau cũng là chuyện bình thường. Chân lý chỉ sáng tỏ qua thựctiễn, qua thảo luận tranh luận, đối thoại trên tinh thần dân chủ, tôn trọng, lắng nghenhau, “văn hóa là biết lắng nghe” (Likhachov). Song khơng nên qn một thực tếlà, những khi Đảng gặp khó khăn và suy yếu thì đó là lúc xuất hiện những luồngdư luận, ý kiến hoặc hồi nghi, hoặc cơng kích, phê phán Đảng nhằm phủ nhận vaitrò lãnh đạo của Đảng. Thực tế đó cho thấy, việc Đảng ra sức xây dựng chỉnh đốnđội ngũ của mình, làm cho Đảng trong sạch vững mạnh là hết sức quan trọng vàtrở nên cấp bách. Nếu Đảng mạnh và có uy tín rộng lớn trong dân, trong xã hội, nội

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

bộ Đảng đoàn kết thống nhất, lãnh đạo cấp cao của Đảng vững vàng, sáng suốt vềphương hướng và bản lĩnh, quan hệ giữa Đảng với dân gắn bó mật thiết thì vai trịlãnh đạo của Đảng sẽ giữ vững được. Điều quan trọng, cốt tử nhất là ý Đảng thuậnvới lịng dân. Có sự ủng hộ, giúp đỡ của dân, của tồn dân tộc thì khơng khó khănnào khơng thể vượt qua. Từ thực tế như vậy, cần nhất lúc này là an dân, làm yênlòng dân bằng cách quan tâm tới đời sống của dân, làm cho dân phấn khởi yên ổnlàm ăn, đảm bảo những điều kiện cho dân có sự an tồn, bình ổn để phát triển.Được sự ủng hộ của dân với một đa số tuyệt đối thì sự tồn tại, phát triển và thực thichương trình hành động của Đảng, Nhà nước với xã hội sẽ thuận lợi. Nếu để xảy rasự phân tâm và phân liệt trong tư tưởng, tổ chức và hành động của Đảng thì Đảngkhơng thể đứng vững, khơng thể có sức sống. Nếu lại mất phương hướng và mắcsai lầm về nguyên tắc thì Đảng sẽ bị thách thức cả sinh mệnh lẫn sự tồn vong. Hơn20 năm về trước, chính biến ở Liên Xơ, Đơng Âu, làm cho chế độ xã hội chủ nghĩatan vỡ, hệ thống xã hội chủ nghĩa sụp đổ, tan rã, thể chế và quyền lực thay đổi, làmđảo lộn trật tự xã hội, gây nên sự điêu đứng trong tình cảnh sống của dân. Tất cảbắt đầu trực tiếp, khởi phát từ sai lầm chính trị nguy hiểm là từ bỏ điều 6 trongHiến pháp Xô Viết, chấp nhận đa nguyên ý thức hệ, đa đảng phái, kể cả Đảng đốilập. Vào thời điểm đó, Đảng Cộng sản Liên Xơ cịn từ bỏ cả nguyên tắc tập trungdân chủ, làm cho Đảng nhanh chóng mất sức chiến đấu, mất vai trị lãnh đạo, cầmquyền, Đảng nhanh chóng trở thành một tổ chức mà hành động ngược lại, khơng vìdân, chỉ vì mình (vì lợi ích nhóm ở thượng tầng). Thực tế biến dạng phũ phàng đóbộc lộ ra, đáng để cho chúng ta rút kinh nghiệm, tự mình cảnh báo chính mình vềnhững nguy cơ tiềm ẩn có thể xảy ra. Ghi vào điều 4 trong Hiến pháp về vai tròlãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội đã khó, chứng thực trong thực tiễnvề Đảng phát huy vai trò như thế nào, trong lãnh đạo Nhà nước và xã hội cịn khókhăn gấp bội. Khó mấy cũng phải làm cho bằng được, làm cho dân tin vào phẩmchất xứng đáng và tư cách lãnh đạo, cầm quyền chính đáng của Đảng theo Hiếnpháp và pháp luật, theo thể chế dân chủ-pháp quyền.

3. Những vấn đề khó khăn mà Đảng đang mắc phải

Một là, thách thức đến từ sự tinh vi, phức tạp của hành vi tham nhũng, tiêu cực.Hành vi tham nhũng, tiêu cực rất đa dạng, phức tạp và biến tướng ngày càng tinhvi, khó phát hiện. Nếu như trước đây, tham nhũng chỉ đơn giản là hành vi “ăn cắpvặt”, nhận “phong bì”, lợi ích vật chất nhỏ, tính chất riêng lẻ, đơn giản, manh mún,thì nay, cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, tham nhũng đã “biến

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

hình”, khoản tiền tham nhũng ngày càng lớn hơn, hành vi có tính cấu kết, nhiều vụcó tổ chức, có biểu hiện “nhóm lợi ích”, “lợi ích nhóm” ngày càng chặt chẽ, khépkín, có sức mạnh “lũng đoạn” các quyết sách của cả tập thể, tổ chức. Lợi ích màtham nhũng hướng đến không chỉ dừng lại ở vật chất nữa, mà cịn phi vật chất,khơng chỉ diễn ra trong khu vực cơng, mà cịn trong khu vực tư, có sự móc nối, câukết chặt chẽ giữa người có chức vụ, quyền hạn trong khu vực nhà nước với doanhnghiệp... Không chỉ tham nhũng, hành vi tiêu cực còn đa dạng, tinh vi, phức tạphơn, biểu hiện trong tất cả các lĩnh vực cơng tác, đời sống chính trị của cán bộ,công chức, viên chức...

Hai là, thách thức từ chủ thể thực hiện hành vi tham nhũng. Luật PCTN năm 2018quy định “tham nhũng” là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụngchức vụ, quyền hạn đó vì vụ lợi” (Khoản 1, Điều 3). Như vậy, chủ thể của hành vitham nhũng rất đặc biệt, phải là những người có chức vụ, quyền hạn. Khoản 2,Điều 352 Bộ luật hình sự 2015 và Khoản 2, Điều 3 Luật PCTN giải thích: “Ngườicó chức vụ, quyền hạn là người do bổ nhiệm, do bầu cử, do tuyển dụng, do hợpđồng hoặc do một hình thức khác, có hưởng lương hoặc không hưởng lương, đượcgiao thực hiện nhiệm vụ, cơng vụ nhất định và có quyền hạn nhất định trong khithực hiện nhiệm vụ, cơng vụ đó”. Luật PCTN cũng chia thành 5 nhóm chủ thể cóchức vụ, quyền hạn, trong đó điển hình nhất là nhóm cán bộ, công chức, viên chức.Xuất phát từ chức vụ, quyền hạn của mình, chủ thể thực hiện hành vi tham nhũngthường có nhiều quyền lực, quan hệ, kinh nghiệm, hiểu biết và họ có thể sử dụngquyền lực, quan hệ, hiểu biết, kinh nghiệm, tiền bạc để “ẩn mình”, “bọc lót”, chechắn cho việc vi phạm rất chắc chắn, kỹ lưỡng, thậm chí tác động ngược trở lại cáccơng cụ chống tham nhũng để làm giảm hoặc vơ hiệu hóa khả năng chống thamnhũng của các công cụ này. Những đặc điểm này của chủ thể hành vi tham nhũngchính là yếu tố gây khó khăn, thách thức lớn cho việc phát hiện, điều tra, xét xửhành vi tham nhũng, tiêu cực.

Ba là, thách thức từ sự suy thoái, tiêu cực trong một bộ phận cán bộ, đảng viên,nhất là trong cơ quan có chức năng PCTN, tiêu cực. Sự suy thối về tư tưởng chínhtrị, đạo đức, lối sống, tham nhũng, tiêu cực trong cán bộ, đảng viên là vấn đề đãđược Chủ tịch Hồ Chí Minh nói đến khi người bàn về đạo đức cách mạng. Ngườiluôn coi chủ nghĩa cá nhân, chứng bệnh tiêu cực là một loại giặc “nội xâm”, thứ

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

bệnh nguy hiểm ẩn nấp trong lòng mỗi con người, nguy hiểm khơng kém giặcngoại xâm, vì nó phá ta “từ trong phá ra”. Thứ bệnh này cũng được Đảng ta nhậndiện, chỉ ra từ Đại hội VI, nhưng đặc biệt được quan tâm và đề cập rõ nét về tínhchất diễn biến phức tạp, nhất là những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”trong Đại hội XII, XIII. Tại Hội nghị cán bộ toàn quốc quán triệt, triển khai Kếtluận và Quy định của Ban Chấp hành Trung ương về xây dựng, chỉnh đốn Đảngvừa qua (diễn ra ngày 9/12/2021, tại Hà Nội), đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn PhúTrọng đã có bài phát biểu chỉ đạo Hội nghị rất sâu sắc và quan trọng. Theo đồngchí Tổng Bí thư, Hội nghị Trung ương 4 (khóa XIII) lại tiếp tục bàn về việc đẩymạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng vì nhiều lý do, nhưng chủ yếu là việc thực hiệnNghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) của Đảng cũng cịn những hạn chế, khuyếtđiểm. Trong đó, “hệ thống chính trị ở nước ta chưa thực sự trong sạch, vững mạnhnhư mong muốn; khơng ít cán bộ, đảng viên, nhất là những người có chức, cóquyền, làm việc ở những ngành, lĩnh vực dễ phát sinh tham nhũng, tiêu cực vẫnthiếu tu dưỡng và rèn luyện, vẫn sa vào chủ nghĩa cá nhân, vi phạm các quy địnhcủa Đảng, pháp luật của Nhà nước, bị xử lý kỷ luật của Đảng và xử lý hình sự”.Đồng chí Tổng Bí thư đã nghiêm túc, thẳng thắn chỉ ra nguyên nhân chủ yếu là do:“Một số cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ lãnh đạo, quản lý, nhất là người đứng đầu,chưa nhận diện đầy đủ mức độ suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” tại địaphương, cơ quan, đơn vị mình… khơng thực hiện nghiêm ngun tắc tập trung dânchủ, chưa gương mẫu, thẳng thắn phê bình, tự phê bình, đấu tranh với những biểuhiện suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, thậm chí cịn mắc vào chủ nghĩa cánhân, cục bộ, lợi ích nhóm, bị cám dỗ bởi lợi ích vật chất; thờ ơ, vơ cảm trước khókhăn, bức xúc của nhân dân”. Nhưng điều đáng lo hơn cả là, hiện nay, sự suy thoái,“tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong một số cánbộ, đảng viên trong các cơ quan có chức năng PCTN đã bắt đầu xuất hiện và ngàycàng gia tăng. Thực tiễn thời gian qua cho thấy, có khơng ít các vụ việc tiêu cực,tham nhũng xảy ra trong chính các cơ quan có chức năng chống tham nhũng. Đơncử, trong ngành Thanh tra, trong giai đoạn 2013-2020, trong các cơ quan thanh tranhà nước đã xảy ra 71 vụ việc tham nhũng, tiêu cực, trong đó 3 vụ việc xảy ra tạithanh tra cấp bộ, 16 vụ việc xảy ra tại thanh tra cấp tỉnh, 42 vụ tại Thanh tra cấphuyện và 9 vụ tại Thanh tra sở. Số cán bộ, cơng chức, viên chức thanh tra có hànhvi tham nhũng, tiêu cực là 105 người(7). Dân gian có câu “làm nghề nào ăn nghềấy” để nói về nghề nghiệp của mỗi người, ai làm nghề nào thì sống bằng nghề đó,

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

nhưng dân gian cũng có câu “làm nghề nào, xào nghề đó” để chỉ những ngườitham ô, tham nhũng, kiếm chác, lợi dụng vị trí cơng tác, nghề nghiệp của mình đểtrục lợi. Và điều này cũng khơng loại trừ tình trạng tham nhũng trong chính nhữngcơ quan có chức năng chống tham nhũng. Bởi vậy, đồng chí Tổng Bí thư đã nhiềulần nhấn mạnh: “Phải chống tham nhũng ngay trong chính các cơ quan có chứcnăng chống tham nhũng”. Đây là một thách thức rất lớn đòi hỏi Đảng và Nhà nướcta phải có biện pháp kiên quyết, tồn diện và triệt để trong phòng ngừa và xử lýtham nhũng, tiêu cực, nhất là phải kiểm soát cho được quyền lực của những ngườicó quyền lực, có trách nhiệm trong PCTN, khơng để sự tha hóa, biến chất, sự suythối, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” lợi dụng, lạm dụng quyền lực để trục lợi.

Bốn là, thách thức trong quá trình hội nhập, đổi mới và sự tác động tiêu cực từ nềnkinh tế thị trường. Mặt trái của xu thế tồn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế tácđộng khơng nhỏ làm phát sinh nhận thức chính trị sai lệch trong một bộ phận cánbộ, đảng viên. Một số thế lực thù địch triển khai các hành động chống phá, thựchiện âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hịa bình”, “bạo loạn lật đổ”, thúc đẩy “tự diễnbiến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, đưa ra các luận điệu vơ cùng gian xảo hịnglàm thay đổi tư tưởng chính trị của một bộ phận cán bộ, đảng viên, từ đó hạ thấpvai trò lãnh đạo của Đảng và phủ định con đường đi lên CNXH ở Việt Nam. Mặtkhác, hội nhập quốc tế đặt ra những vấn đề phức tạp, khó khăn và thách thức chocơng tác PCTN nhất là trong việc xác định hành vi tham nhũng và các biện phápđấu tranh PCTN. Tham nhũng ngày càng tinh vi, phức tạp hơn bởi có yếu tố nướcngồi (việc chuyển tài sản, tiền tham nhũng ra nước ngoài hoặc hành vi tiếp taycho hoạt động rửa tiền của các tổ chức, cá nhân ở nước ngoài vào Việt Nam; ngườitham nhũng có thể lựa chọn nước ngồi là nơi khơng chỉ tẩu tán tài sản tham nhũngmà còn là nơi để trốn tránh sau khi có hành vi tham nhũng, gây khó khăn cho hoạtđộng điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án đối với tội phạm nguy hiểm này).Ngoài ra, mặt trái nền kinh tế thị trường có thể làm thay đổi nhận thức, hành độngcủa một bộ phận cán bộ, đảng viên. Khơng ít cán bộ kiên trung, gan dạ trong thờikỳ chiến tranh nhưng trong thời bình, lại bị khuất phục nhanh chóng bởi sức mạnhcủa vật chất, tiền bạc. Họ khơng cịn giữ được phương châm, nguyên tắc “đặt lợiích của Tổ quốc, Đảng, Nhân dân lên trên lợi ích của cá nhân”. Nhiều cán bộ, đảngviên sùng tín lối sống thực dụng, hưởng thụ, tơn thờ “chủ nghĩa cá nhân”, thíchsống một cuộc sống xa hoa, phú q, cống hiến thì ít mà muốn hưởng thụ thì nhiều,

</div>

×