Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (558.88 KB, 17 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠOTRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
BÀI TẬP LỚN MÔN TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN
Đề tài: “Quan điểm biện chứng duy vật về mối quan hệ biện chứng giữa cái chung và cái riêng và ý nghĩa của việc nghiên cứu quan điểm đó trong nghiên cứu, học tập của sinh viên.”
Họ và tên: Hà Nguyễn LuậnMã số sinh viên: 11223945STT: 28Lớp TC: 122GV hướng dẫn: TS. Lê Thị Hồng
Hà Nội 5/1-10/1/2023
</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2"><b>Mở Đầu</b>
Trong sự nghiệp đổi mới đất nước, tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta với mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Hiện nay, con người là nguồn nhân lực yếu tố quan trọng và lâu dài hàng đầu, quyết định đến sự phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững của đất nước. Chúng ta phải khẳng định rằng con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của phát triển kinh tế xã hội. Với quan điểm của chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng sự nghiệp trồng ngườingay từ khi là các mầm non của đất nước phải đước quan tâmvà đào tạo để có thể có một nền móng vững chắc trong quá trình phát triển đất nước để tạo ra những con người có tri thứcvà đạo đức.
Và mỗi cá nhân, gia đình, nhà trường như xã hội có vai trò quan trọng trong hoạt động phát triển phẩm chất năng lực của sinh viên của nước ta đặc biệt vấn đề được quan tâm hơn cả là quá trình nghiên cứu và học tập. Khi mà các em bắt đầu tiếp xúc với các kiến thức chuyên ngành và học tập để phát triển theo ngành nghề , lĩnh vực của bản thân . Theo quan điểm của triết học Mác – Lê nin: “Cái riêng xuất hiện chỉ tồn tại trong khoảng thời gian nhất định và khi nó mất đi sẽ khơng bao giờ xuất hiện lại, cái riêng là cái không lặp lại. Cái chung tồn tại trong nhiều cái riêng, khi một cái riêng nào đó mất đi thì những cái chung tồn tại ở cái riêng sẽ khơng mất đi,mà nó vẫn cịn tồn tại ở nhiều cái riêng khác”. Để tìm hiểu rõ hơn về vai trò của mối quan hệ của cái chung và cái riêng trong các hoạt động phát triển phẩm chất của sinh viên ngày nay nên em chọn chủ đề: “Quan điểm biện chứng duy vật về mối
<i><b>quan hệ biện chứng giữa cái chung và cái riêng và ý nghĩa của việc nghiêncứu quan điểm đó trong nghiên cứu, học tập của sinh viên.”</b></i>
</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">Biện chứng là phương pháp xem xét những sự vật và những phản ánh của chúng trong tư tưởng, trong mối quan hệ qua lạilẫn nhau của chúng, trong sự ràng buộc, sự vận động, sự phátsinh và tiêu vong của chúng.
Biện chứng bao gồm biện chứng khách quan và biện chứngchủ quan. Trong đó, biện chứng khách quan là biện chứng củacác sự vật, hiện tượng trong thế giới hiện thực khách quan;biện chứng chủ quan là sự phản ánh hiện thực khách quanđến đầu óc con người
<b>2.Phép biện chứng duy vật.</b>
Phép biện chứng là học thuyết nghiên cứu, khát quát biệnchứng của thế giới thành các nguyên lí, quy luật khoa họcnhằm xây dựng phương pháp luận khoa học.
Trong q trình phát triển, phép biện chứng có ba hình thứccơ bản là phép biện chứng chất phác cổ đại, phép biện chứngduy tâm (cổ điển Đức) và phép biện chứng duy vật. Phép biệnchứng duy vật được xây dựng trên cơ sở một hệ thống nhữngnguyên lý, những phạm trù cơ bản, những quy luật phổ biếnphản ánh đúng đắn hiện thực. Trong hệ thống đó nguyên lý vềmối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển là hainguyên lý khái quát nhất. Vì thế Ph.Ăng ghen đã định nghĩa:"phép biện chứng chẳng qua chỉ là môn khoa học về những
</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">quy luật phổ biến của sự vận động và sự phát triển của tựnhiên, của xã hội loài người và của tư duy"
Đặc điểm của phép biện chứng duy vật là sự thống nhấtgiữa thế giới quan duy vật và phương pháp luận biện chứng;giữa lý luận nhận thức và logic biện chứng; được chứng minhbằng sự phát triển của khoa học tự nhiên trước đó. Phép biệnchứng duy vật có vai trị là phương pháp luận trong nhận thứcvà thực tiễn để giải thích q trình phát triển của sự vật vànghiên cứu khoa học. Các cặp phạm trù cơ bản nhất của phépbiện chứng duy vật bao gồm phạm trù giữa cái riêng và cáichung; phạm trù nguyên nhân và kết quả; tất nhiên và ngẫunhiên;...
<b>3.Quan hệ biện chứng.</b>
- Cái chung là phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt,những thuộc tính, những mối quan hệ giống nhau ở nhiều sựvật, hiện tượng hay quá trình riêng lẻ.
- Cái riêng là phạm trù triết học dùng để chỉ một sự vật, mộthiện tượng, một quá trình riêng lẻ nhất định.
- Cái đơn nhất là phạm trù triết học dùng để chỉ một sự vật,một hiện tượng, một quá trình riêng lẻ nhất định. Cặp phạmtrù cái riêng và cái chung trong triết học gắn liền với “bộ ba”phạm trù là cái đơn nhất, cái đặc thù, cái phổ biến. Cái đơnnhất là phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt, nhữngthuộc tính… chỉ có ở một sự vật, một kết cấu vật chất. Nhữngmặt, những thuộc tính ấy khơng được lặp lại ở bất kỳ sự vật,hiện tượng hay kết cấu vật chất nào khác. Cái đặc thù làphạm trù triết học chỉ những thuộc tính… chỉ lặp lại ở một sốsự vật, hiện tượng hay kết cấu vật chất nhất định của một tậphợp nhất định. Cái phổ biến là phạm trù triết học được hiểunhư cái chung của tập hợp tương ứng.
<b>II. Mối quan hệ biện chứng giữa cái chung và cái riêng.</b>
</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5"><b>1.Cái chung và cái riêng.</b>
<b>1,1. Khái niệm cái chung và cái riêng.</b>
Cái chung và cái riêng là một cặp phạm trù trong phép biệnchứng duy vật Mác-Lenin và là một trong những nội dung củanguyên lý về mối liên hệ phổ biến dùng để chỉ mối quan hệbiện chứng giữa Cái riêng tức phạm trù chỉ về một sự vật, mộthiện tượng, một quá trình nhất định với Cái chung tức phạmtrù chỉ những mặt, những thuộc tính khơng những có ở mộtkết cấu vật chất nhất định, mà còn được lặp lại trong nhiều sựvật, hiện tượng hay quá trình riêng lẻ khác. Nội dung về cặpphạm trù này đã được đưa vào chương trình giảng dạy củamột số khối trường Đại học ở Việt Nam theo Quyết định củaBộ Giáo dục và Đào tạo.
Trong lịch sử triết học đã có hai xu hướng - duy thực và duydanh - đối lập nhau giải quyết vấn đề quan hệ giữa cái riêngvà cái chung. Các nhà duy thực khẳng định, cái chung tồn tạiđộc lập, không phụ thuộc vào cái riêng. Ở đây lại có hai luậngiải; theo luận giải thứ nhất, khá phổ biến, thì cái chungmang tính tư tưởng, tinh thần, tồn tại dưới dạng các khái niệmchung; còn theo cách lý giải khác, thì nó mang tính vật chất,tồn tại dưới dạng một khối không đổi, bao trùm tất cả, tựtrùng với mình hoặc dưới dạng nhóm các đối tượng... Cịn cáiriêng, hoặc hồn tồn khơng có (do xuất phát từ Platơn vốncoi các sự vật cảm tính là khơng thực, chỉ là bóng của nhữngý niệm), hoặc nó tồn tại phụ thuộc vào cái chung, là cái thứyếu, tạm thời, do cái chung sinh ra.
Các nhà duy danh cho rằng, cái chung không tồn tại thựctrong hiện thực khách quan. Chỉ có sự vật đơn lẻ, cái riêngmới tồn tại thực. Cái chung chỉ tồn tại trong tư duy con người.Cái chung chỉ là tên gọi của các đối tượng đơn lẻ. Tuy cùng coicái riêng là duy nhất có thực, song các nhà duy danh giải
</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">quyết khác nhau vấn đề hình thức tồn tại của nó. Một số (nhưOccam) cho rằng, cái riêng tồn tại như đối tượng vật chất cảmtính; số khác (Béccli) lại coi cảm giác là hình thức tồn tại củacái riêng...
<b>1,2 Mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng.</b>
Tuy nhiên, cả hai quan niệm của phái duy thực và phái duydanh đều là sai lầm. Họ đã tách rời cái riêng với cái chung, họkhông thấy sự tồn tại khách quan và mối liên hệ khăng khítgiữa chúng. Thực chất, cái đơn nhất, cái riêng hay cái chungđều tồn tại khách quan và giữa chúng có mối liên hệ hữu cơvới nhau.
*Mối quan hệ:
Phép biện chứng duy vật của Triết học Marx-Lenin cho rằngcái riêng, cái chung và cái đơn nhất đều tồn tại khách quan,giữa chúng có mối liên hệ hữu cơ với nhau; phạm trù cái riêngđược dùng để chỉ một sự vật, một hiện tượng, một q trìnhriêng lẻ nhất định, cịn phạm trù cái chung được dùng để chỉnhững mặt, những thuộc tính chung khơng những có ở mộtkết cấu vật chất nhất định, mà còn được lặp lại trong nhiều sựvật, hiện tượng hay quá trình riêng lẻ khác.
*Trong tác phẩm Bút ký Triết học, Lenin đã viết rằng:
Cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng.Cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ đưa đến cái chung. Bấtcứ cái riêng nào cũng là cái chung. Bất cứ cái chung nào cũnglà một bộ phận, một khía cạnh, hay một bản chất của cáiriêng. Bất cứ cái chung nào cũng chỉ bao quát một cách đạikhái tất cả mọi vật riêng lẻ. Bất cứ cái riêng nào cũng khônggia nhập đầy đủ vào cái chung.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng đã khắc phục những khiếmkhuyết của cả hai xu hướng đó trong việc lý giải mối quan hệcái chung - cái riêng. Cả cái chung lẫn cái đơn nhất đều không
</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">tồn tại độc lập, tự thân, vì chúng là thuộc tính nên phải gắnvới đối tượng xác định. Chỉ cái riêng (đối tượng, quá trình,hiện tượng riêng) mới tồn tại độc lập. Còn cái chung và cáiđơn nhất đều chỉ tồn tại trong cái riêng, như là các mặt củacái riêng.
Cái chung không tồn tại độc lập, mà là một mặt của cáiriêng và liên hệ không tách rời với cái đơn nhất, hệt như cáiđơn nhất liên hệ chặt chẽ với cái chung. “Bất cứ cái chungnào cũng chỉ bao quát một cách đại khái tất cả mọi vật riênglẻ. Bất cứ cái riêng nào cũng không gia nhập đầy đủ vào cáichung...”. Cái riêng khơng vĩnh cửu, nó xuất hiện, tồn tại mộtthời gian xác định rồi biến thành cái riêng khác, rồi lại thànhcái riêng khác nữa... cứ thế mãi vô cùng. V.I. Lênin viết: “Bấtcứ cái riêng nào cũng thơng qua hàng nghìn sự chuyển hóamà liên hệ với những cái riêng thuộc loại khác (sự vật, hiệntượng, quá trình). Nó “chỉ tồn tại trong mối liên hệ đưa đến cáichung” và có khả năng chuyển hóa ở những điều kiện phùhợp thành cái riêng bất kỳ khác.
Mọi cái riêng đều là sự thống nhất các mặt đối lập, nó đồngthời vừa là cái đơn nhất vừa là cái chung. Thơng qua nhữngthuộc tính, những đặc điểm khơng lặp lại của mình, nó thểhiện là cái đơn nhất; nhưng thơng qua những thuộc tính lặplại ở các đối tượng khác - lại thể hiện là cái chung. Trong khi lànhững mặt của cái riêng, cái đơn nhất và cái chung khôngđơn giản tồn tại trong cái riêng, mà gắn bó hữu cơ với nhauvà trong những điều kiện xác định chuyển hóa vào nhau. Mối liên hệ giữa cái đơn nhất với cái chung thể hiện trướchết ở mối liên hệ lẫn nhau trong một thể thống nhất gồm cácmặt, các yếu tố đơn lẻ vốn có trong một sự vật, hiện tượngnày và các mặt, các yếu tố được lặp lại ở nó và trong các sựvật, hiện tượng khác. Mối liên hệ giữa cái chung với cái riêng
</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">biểu hiện là mối liên hệ lẫn nhau giữa các thuộc tính (hay cácbộ phận) cùng có ở nhiều đối tượng với từng đối tượng đóđược xét như cái tồn bộ. Như vậy, cái riêng là cái toàn bộ, cáichung chỉ là bộ phận bởi bên cạnh cái chung thì bất cứ đốitượng (cái riêng) nào cũng cịn có cái đơn nhất, tức là bêncạnh những mặt được lặp lại cịn có những mặt khơng lặp lại,những mặt cá biệt; vì vậy, bất cứ sự vật, hiện tượng riêng lẻnào cũng là sự thống nhất giữa các mặt đối lập đó. Trong cùngmột lúc, sự vật, hiện tượng đó vừa là cái đơn nhất, vừa là cáichung; thông qua các đặc điểm cá biệt, các mặt khơng lặp lạicủa mình, sự vật, hiện tượng (cái riêng) đó biểu hiện là cáiđơn nhất, nhưng thông qua các mặt lặp lại trong các sự vật,hiện tượng khác, nó biểu hiện là cái chung.
<b>2.Ý nghĩa phương pháp luận.</b>
Thứ nhất, nếu bất cứ cái chung nào cũng chỉ tồn tại trongcái riêng, như một thuộc tính chung của một số cái riêng, nằmtrong mối liên hệ chặt chẽ với cái đơn nhất và mối liên hệ đóđem lại cho cái chung một hình thức riêng biệt, thì cácphương pháp thực tiễn dựa trên việc vận dụng một quy luậtchung nào đó đều khơng thể như nhau đối với mọi sự vật,hiện tượng (cái riêng) có liên hệ với cái chung đó. Vì bản thâncái chung trong mọi sự vật, hiện tượng không phải là một vàkhông giống nhau hoàn toàn, mà chỉ là biểu hiện của cáichung đã được cá biệt hóa, thì các phương pháp xuất phát từcái chung đó, trong mỗi trường hợp cụ thể, cần phải thay đổihình thức, phải cá biệt hóa cho phù hợp với đặc điểm củatừng trường hợp.
Thứ hai, nếu bất kỳ một phương pháp nào cũng bao hàm cảcái chung lẫn cái đơn nhất, thì khi sử dụng một kinh nghiệmnào đó trong điều kiện khác, khơng nên sử dụng hình thứchiện có của nó, mà chỉ nên rút ra những mặt chung đối với
</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">trường hợp đó, chỉ rút ra những cái thích hợp với điều kiệnnhất định đó.
Thứ ba, trong quá trình phát triển của sự vật, trong nhữngđiều kiện nhất định “cái đơn nhất” có thể biến thành “cáichung” và ngược lại “cái chung” có thể biến thành “cái đơnnhất”, nên trong hoạt động thực tiễn có thể và cần phải tạođiều kiện thuận lợi để “cái đơn nhất” có lợi cho con người trởthành “cái chung” và “cái chung” bất lợi trở thành “cái đơnnhất”. Tuy nhiên, vẫn còn một khó khăn trong tư duy mànhiều người biết, nhưng thường lảng tránh tìm hiểu, giải đápthấu đáo. Cái riêng và cái chung không nằm trên cùng mộtmặt bằng cơ sở, không cùng một đơn vị đo. Cái riêng là đốitượng, còn cái chung và cái đơn nhất chỉ là các thuộc tính củanhiều (hoặc một) cái riêng đó, cho nên phép biện chứng đíchthực phải đẩy chúng lên thành cặp phạm trù cái đặc thù vàcái phổ biến .
Cái đặc thù và cái phổ biến. Tuy nhiên, cái chung trongtương quan với cái đơn nhất được hiểu như trên chỉ là cáichung hình thức, cái phổ biến trừu tượng, có rất ít ý nghĩa đốivới nhận thức; trong khi tư duy nhận thức yêu cầu phải đạtđến trình độ hiểu cái chung biện chứng, cái phổ biến cụ thể.Đúng như Lênin đòi hỏi “Không phải chỉ là cái phổ biến trừutượng, mà là cái phổ biến bao hàm cả sự phong phú của cáiđặc thù, cái cá thể, cái cá biệt” (tất cả sự phong phú của cáiđặc thù và cái cá biệt!)”. Để làm rõ cái đơn nhất, cần phải sosánh đối tượng được xét với tất cả các đối tượng khác. Nhưngthực tế khơng thể làm được điều đó. Vì thế người ta thường sosánh một đối tượng chỉ với một số xác định các đối tượng. Dođó cái chung đối lập không hẳn ngay với cái đơn nhất, mà vớicái vừa ít chung hơn, vừa ít đơn nhất hơn, tức là với cái đặcthù. Việc so sánh thuộc tính của một đối tượng với thuộc tính
</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">của tất cả đối tượng cho sự hình dung về cái đơn nhất, nhưngnếu so sánh thuộc tính của một số đối tượng với thuộc tínhcủa tất cả, sẽ cho hình dung về cái đặc thù. Như vậy cái đặcthù chỉ ra sự khác biệt cùng có ở một số cái riêng với cáichung vốn có ở tất cả cái riêng.
Dựa vào những thuộc tính và mối liên hệ vốn có ở tất cả cácđối tượng, hoặc ở tất cả các giai đoạn, trạng thái vận độngkhác nhau của cùng một đối tượng, thì khơng thể phân biệtchúng với nhau. Những thứ đó khơng thể là cái đặc thù, màphải là cái chung làm cơ sở cho sự tồn tại bền vững của mọiđối tượng, hoặc gắn kết các giai đoạn, trạng thái vận độngkhác nhau của đối tượng về một cội nguồn. Kiểu cái chungnày được gọi là cái phổ biến biểu thị sự giống nhau, sự đồngnhất sâu trong cơ sở, bản chất và các tính quy luật của lớp đốitượng hoặc của một đối tượng ở các giai đoạn phát triển khácnhau của nó, vì thế cái phổ biến mới là phạm trù cùng cấp độvới “bản chất”, “quy luật” (Lênin) và có thể dùng chúng thaythế lẫn nhau. Cả Hêghen và C.Mác đều dùng cái phổ biến nhưphạm trù liên quan đến sự sinh thành và phát triển qua cácgiai đoạn khác nhau của cùng một đối tượng. Ở từng giaiđoạn phát triển của đối tượng cái phổ biến (bản chất, quyluật) đều biểu hiện như cái đặc thù. Trong nhận thức các hiệntượng xã hội việc chỉ ra cái phổ biến tương đối dễ hơn so vớiviệc nhận diện cái đặc thù chỉ biểu hiện ở từng giai đoạn pháttriển xác định của đối tượng.
Như vậy, có thể nói mọi cái phổ biến đều là cái chung theonghĩa hình thức, tức là chúng đều bao gồm những cái nhưnhau ở mọi đối tượng, giai đoạn vận động của chúng. Nhưngkhông phải mọi cái chung đều là cái phổ biến, bởi cái chungchỉ những thuộc tính cùng có ở tất cả đối tượng, nhưng cácthuộc ính đó mới chỉ là bề ngồi, hình thức, chưa phải là
</div>