Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (666.32 KB, 70 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">
<b>Mục lục </b>
<b><small>CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CƠ QUAN NHÂN QUYỀN QUỐC GIA</small></b>
<b><small>... 1</small></b>
<b><small>1.1Lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống Cơ quan Nhân quyền quốc gia .. 1</small></b>
<b><small>1.1.1Lịch sử hình thành Cơ quan Nhân quyền quốc gia ... 1</small></b>
<b><small>1.1.2Liên Hợp Quốc và hệ thống Cơ quan Nhân quyền quốc gia ... 2</small></b>
<b><small>1.2Khái niệm và đặc điểm của Cơ quan Nhân quyền quốc gia ... 4</small></b>
<b><small>1.2.1Khái niệm Cơ quan Nhân quyền quốc gia ... 4</small></b>
<b><small>1.2.2Đặc điểm của Cơ quan Nhân quyền quốc gia... 6</small></b>
<b><small>1.2.3Mối quan hệ giữa Cơ quan Nhân quyền quốc gia và các thiết chế khác ... 8</small></b>
<b><small>1.3.Các mơ hình Cơ quan Nhân quyền quốc gia phổ biến ... 10</small></b>
<b><small>1.3.1 Uỷ ban nhân quyền quốc gia (National Human Rights Commission/ Committee) ... 10</small></b>
<b><small>1.3.2 Cơ quan Thanh tra Quốc hội (Ombudsman) ... 12</small></b>
<b><small>1.3.3 Các cơ quan chuyên trách về vấn đề nhân quyền (Specialized Institution) .... 14</small></b>
<b><small>1.4.Vai trò của Cơ quan Nhân quyền quốc gia ... 15</small></b>
<b><small>1.4.1Vai trò chung ... 15</small></b>
<b><small>1.4.2Chức năng, nhiệm vụ của Cơ quan Nhân quyền quốc gia theo Nguyên tắc Paris 15KẾT LUẬN CHƯƠNG I ... 16</small></b>
<b><small>CHƯƠNG II: CƠ QUAN NHÂN QUYỀN QUỐC GIA Ở MỘT SỐ QUỐC GIA ... 17</small></b>
<b><small>2.1Cơ quan nhân quyền quốc gia ở Hoa Kỳ ... 17</small></b>
<b><small>2.1.1Cách thức thành lập ... 17</small></b>
<b><small>2.1.2Cơ cấu tổ chức, thành viên ... 18</small></b>
<b><small>2.1.3Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn ... 18</small></b>
<b><small>2.1.4Nhận xét về các cơ quan nhân quyền quốc gia ở Hoa Kỳ ... 21</small></b>
<b><small>2.2Cơ quan nhân quyền quốc gia ở Đan Mạch... 22</small></b>
<b><small>2.2.1Cách thức thành lập ... 22</small></b>
<b><small>2.2.2Cơ cấu tổ chức và thành viên ... 23</small></b>
<b><small>2.2.3Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn ... 25</small></b>
<b><small>2.2.4Nhận xét về các cơ quan nhân quyền quốc gia ở Đan Mạch... 27</small></b>
<b><small>2.3Cơ quan nhân quyền quốc gia ở Thụy Điển ... 29</small></b>
<b><small>2.3.1Cách thức thành lập ... 30</small></b>
<b><small>2.3.2Cơ cấu tổ chức, thành viên ... 31</small></b>
<b><small>2.3.3Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn ... 34</small></b>
<b><small>2.4Nhận xét về các cơ quan nhân quyền quốc gia ở Thụy Điển ... 38</small></b>
</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2"><b><small>a)Một số nhận xét chung về cơ quan nhân quyền quốc gia ở Thụy Điển ... 38</small></b>
<b><small>b)Phân tích ưu và nhược điểm của cơ quan nhân quyền quốc gia ở Thụy Điển38KẾT LUẬN CHƯƠNG II ... 40</small></b>
<b><small>CHƯƠNG III: MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ CHO VIỆC THÀNH LẬP CƠ QUAN NHÂN QUYỀN QUỐC GIA TẠI VIỆT NAM ... 41</small></b>
<b><small>3.1Cơ chế bảo vệ nhân quyền ở Việt Nam hiện nay ... 41</small></b>
<b><small>3.1.1Pháp luật Việt Nam về bảo vệ quyền con người ... 41</small></b>
<b><small>3.1.2Thực trạng bảo vệ quyền con người ở Việt Nam hiện nay ... 47</small></b>
<b><small>3.2Sự cần thiết thành lập cơ quan nhân quyền và một số khuyến nghị cho Việt Nam về việc thành lập một cơ quan nhân quyền quốc gia ... 55</small></b>
<b><small>3.2.1Sự cần thiết thành lập cơ quan nhân quyền ở Việt Nam ... 55</small></b>
<b><small>3.2.2Một số khuyến nghị cho Việt Nam trong công tác xây dựng cơ quan nhân quyền quốc gia ... 56</small></b>
<b><small>KẾT LUẬN CHƯƠNG III ... 63</small></b>
<b><small>KẾT LUẬN CHUNG ... 64</small></b>
<b><small>Danh mục tham khảo... 65</small></b>
</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3"><b>CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CƠ QUAN NHÂN QUYỀN QUỐC GIA </b>
<b>1.1 Lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống Cơ quan Nhân quyền quốc gia </b>
Bản Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của Hoa Kỳ với tư cách là bản Tuyên ngôn
<i>độc lập thành văn được ra đời sớm nhất trên thế giới có một trích dẫn nổi tiếng: “Tất cả </i>
<i>mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền khơng ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”</i><small>1</small>. Đó là một phát ngôn được xem là thấm nhuần tư tưởng tiến bộ của thời đại vì sau hàng thế kỷ nhân loại sống trong cảnh nô lệ, thuộc địa, lần đầu tiên tiếng nói “bình đẳng”, “tự do”, “nhân quyền” được ghi nhận bằng giấy trắng mực đen trên dòng lịch sử. Sau này, cùng với sự ra đời của Liên Hợp Quốc và việc cơ quan này ban hành Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền (1948) đã cho thấy sự kế thừa và phát triển tinh thần đó, đánh dấu việc các quyền con người được toàn thế giới đồng thuận, quan tâm và ghi nhận trong hệ thống pháp luật của quốc gia và quốc tế.
Song bảo vệ và phát triển nhân quyền là một công cuộc khó khăn, lâu dài và phức tạp đặt trong hồn cảnh xã hội cịn tồn tại nhiều sự bất bình đẳng, nhiều tư tưởng lỗi thời và nhiều vi phạm về nhân quyền vẫn đang âm thầm diễn ra ở khắp mọi nơi. Do đó, việc các quyền con người được hiến định và luật định bởi các quốc gia sẽ không bao giờ là đủ để đảm bảo các quyền đó được thực hiện trên thực tế. Bảo vệ nhân quyền là trách nhiệm và nghĩa vụ của bất cứ cá nhân, tổ chức nào, từ Nhà nước đến cộng đồng, các tổ chức phi chính phủ, cơng dân, … Theo đó, nhân quyền chỉ có thể được đảm bảo một cách toàn diện và bền vững khi tất cả mọi người, bằng hành động và các biện pháp cụ thể thực hiện việc phổ biến, giáo dục, nâng cao nhận thức về nhân quyền cho cộng đồng cho đến theo dõi, giám sát, xử lý những hành vi vi phạm về quyền… Xuất phát từ những nhu cầu và những điều kiện nêu trên đó, nhiều nước đã thành lập cho mình các Cơ quan Nhân quyền quốc gia.
Cơ chế quốc gia về bảo vệ và thúc đẩy quyền con người xuất phát từ và nhằm thực hiện những nghĩa vụ của các Nhà nước được nêu trong tất cả các văn kiện quốc tế về quyền con người. Nòng cốt của cơ chế là các cơ quan quốc gia về bảo vệ và thúc đẩy nhân quyền. Có vài nghiên cứu cho rằng đã xuất hiện những cơ quan với vai trò tương tự như một Cơ quan Nhân quyền quốc gia ở một số ít quốc gia ngay từ sau khi kết thúc Chiến tranh Thế giới thứ hai<small>2</small>. Nói cách khác, ý tưởng về việc thành lập các thiết chế
<i>nhân quyền quốc gia đã có từ rất sớm. Chẳng hạn, ở Thụy Điển, một thiết chế "đại diện </i>
<i>người dân" hay "bảo vệ người dân", gọi là Ombudsman, đã được thành lập từ năm </i>
1809,<small>3</small> với chức năng giám sát các cơ quan hành chính thông qua tiếp nhận và giải quyết khiếu nại của người dân. Sau Chiến tranh Thế giới thứ hai, vào năm 1946, song song
</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">với việc soạn thảo Tuyên ngôn Nhân quyền Phổ quát tại Liên Hợp Quốc, Hội đồng Kinh tế và Xã hội đã xem xét vấn đề thiết chế nhân quyền quốc gia và kêu gọi các nước thành
<i>viên Liên Hợp Quốc thành lập "các nhóm thông tin hoặc các ủy ban nhân quyền địa </i>
<i>phương". Tuy vậy, sự nở rộ của các cơ quan này chỉ thật sự rõ rệt hơn kể từ những năm </i>
đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX, chứng minh bởi việc tăng gấp bốn lần về số lượng và xuất hiện ở gần 100 quốc gia<small>4</small>.
Về cách thức hình thành, Hội đồng quốc tế về chính sách nhân quyền của Liên Hợp Quốc báo cáo rằng các Cơ quan Nhân quyền quốc gia thường được thành lập theo ba cách chính:
<i>Một là, Cơ quan Nhân quyền xuất hiện tại các quốc gia đang gặp xung đột (thường </i>
là do mâu thuẫn nội bộ như Nam Phi, Ireland hoặc Tây Ban Nha)<small>5</small>, hoặc những nơi nào có nhiều các khiếu nại về việc vi phạm nghiêm trọng quyền con người để phản hồi các khiếu nại đó.
<i>Hai là, Cơ quan Nhân quyền quốc gia cũng có thể được thiết lập để đảm bảo an </i>
ninh thể chế trực tiếp, như một cơ quan được coi là sinh ra để giải quyết các vấn đề phổ biến về quyền con người (như ở Mexico và Nigeria).
<i>Cuối cùng là để nhấn mạnh và củng cố các biện pháp bảo vệ nhân quyền mang </i>
tính cá nhân và đặc trưng ở quốc gia đó (như ở Úc và New Zealand).
Khi nói đến lịch sử về sự ra đời và phát triển của các Cơ quan Nhân quyền – không chỉ của quốc gia mà còn ở cấp độ khu vực và quốc tế, khơng thể khơng kể đến sự đóng góp to lớn của Liên Hợp Quốc. Thông qua các cơ chế của Liên Hợp Quốc về nhân quyền, tổ chức liên chính phủ này đã có vai trị nền móng trong việc thúc đẩy và bảo vệ quyền con người.
Nhân quyền đã được xác định là mối quan tâm chủ yếu của Liên Hợp Quốc kể từ khi thành lập. Và cho dù xét ở phạm vi quốc tế, khu vực hay quốc gia thì trách nhiệm tôn trọng, bảo vệ và thực hiện các quyền con người vẫn trước hết thuộc về các quốc gia. Các công việc xoay quanh việc quản lý nhân quyền rất phức tạp và phân tán. Tất cả các bộ phận của chính phủ đều tham gia, cùng với đó là các cơ quan nhà nước và tổ chức xã hội khác: cơ quan hành pháp, các cơ quan lập pháp, cơ quan tư pháp, một chương trình giáo dục về nhân quyền áp dụng ở tất cả các cấp… Trong số này, các tổ chức nhân quyền quốc gia chiếm một vị trí chủ đạo.
Như đã nói, Liên Hợp Quốc có sự tham gia mạnh mẽ và sâu sắc vào việc thành lập và củng cố các Cơ quan Nhân quyền quốc gia. Đây là một ưu tiên của Văn phòng Cao ủy Nhân quyền Liên Hợp Quốc (OHCHR) cũng như của các bộ phận khác trong Liên Hợp Quốc, chẳng hạn như Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP). Ủy ban Nhân quyền Liên Hợp Quốc đã thông qua các nghị quyết vào năm 1992, trong đó
<small>4</small><i><small> “Emerging Global Actors: The United States and National Human Rights Institutions”, Global Governance, P. </small></i>
<small>23 </small>
<small>5</small><i><small> Cardenas, Sonia, “Chains of Justice: The Global Rise of State Institutions for Human Rights”, University of </small></i>
<small>Pennsylvania Press </small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">khuyến nghị những nước nào chưa có bất kỳ thiết chế nhân quyền quốc gia nào thì nên đẩy mạnh việc xây dựng các tổ chức này, đồng thời cũng kêu gọi sự tiến bộ của những nước đã có thiết chế nhân quyền quốc gia. Các hiệp định về nhân quyền khu vực cũng khuyến khích sự thành lập và phát triển các thiết chế nhân quyền thông qua các hỗ trợ theo các thỏa thuận quốc tế (như Diễn đàn của các tổ chức nhân quyền quốc gia châu Á - Thái Bình Dương).
Trong hơn một thập kỉ kể từ cuối thế kỉ XX, số lượng Cơ quan Nhân quyền quốc gia đã tăng lên, phần lớn là nhờ sự hỗ trợ của Liên Hợp Quốc dành cho các cơ quan này một cách thực tế. Mặc dù tất cả các Cơ quan Nhân quyền quốc gia được cho là nên có thẩm quyền rộng rãi để thực hiện bảo vệ và thúc đẩy quyền con người một cách có hiệu quả, nhưng sự phát triển này đã kéo theo những thách thức trong thực tiễn và hoạt động. Nhiều trong số đó có thể kể đến như là: sự gia tăng chóng mặt và sự khơng đồng đều về số lượng của các Cơ quan Nhân quyền quốc gia ở các châu lục cùng với sự khác biệt về thể chế; đối mặt với sự đa dạng về lãnh thổ, dân tộc; nhu cầu cần có những quy chuẩn tối thiểu để các Cơ quan Nhân quyền quốc gia, dù về mặt cấu trúc hay thẩm quyền, có thể được đánh giá một cách công bằng và được công nhận (sau này, nguyên tắc Paris ra đời đã giải quyết yêu cầu này); thách thức liên quan đến xác định tầm quan trọng của những hoạt động bảo vệ cốt lõi như: ngăn chặn việc tra tấn và giam giữ người trái phép, giám sát và bảo vệ những cá nhân hoặc cơ quan có nhiệm vụ bảo vệ nhân quyền…
<b>Nguyên tắc Paris </b>
Nhằm để giải quyết phần nào các thách thức đặt ra trong những ngày đầu hình thành nên các Cơ quan Nhân quyền quốc gia, Ủy ban Nhân quyền liên hợp quốc đã triệu tập một hội nghị tại Paris vào năm 1991, nơi tập hợp đại diện của các tổ chức nhân quyền quốc gia từ khắp nơi trên thế giới để xác định các thuộc tính cốt lõi mà tất cả các Cơ quan Nhân quyền quốc gia nên có đồng thời phát triển nên các quy tắc, hướng dẫn,… Nguyên tắc Paris là một văn kiện quốc tế có tính khuyến nghị (khơng có hiệu lực ràng buộc về pháp lý), được Đại hội đồng liên hợp quốc thông qua theo Nghị quyết 48/134 ngày 20/12/1993. Đây là bộ nguyên tắc quy định về quy chế của các cơ quan quốc gia trong việc thúc đẩy và bảo vệ quyền con người, đưa ra các tiêu chuẩn tối thiểu mà các tổ chức nhân quyền quốc gia phải có để được coi là đáng tin cậy và hoạt động hiệu quả. Các Nguyên tắc Paris được đồng thuận một cách rộng rãi, trong đó xác định sáu tiêu chí mà các Cơ quan Nhân quyền quốc gia phải đáp ứng để hoạt động hiệu quả, bao gồm:
Thứ nhất, các Cơ quan Nhân quyền quốc gia cần phải có tính độc lập với các cơ quan nhà nước khác; mức độ độc lập càng cao càng tốt. Nguyên tắc này không bắt buộc các cơ quan phải độc lập trên những khía cạnh nào vậy nên có thể hiểu là chỉ cần khơng hồn tồn phụ thuộc thì tùy vào điều kiện thực tế của mỗi nước mà mỗi Cơ quan Nhân quyền quốc gia cụ thể sẽ có thể tự chủ về cách thức thành lập, cơ cấu thành phần hoặc chức năng, nhiệm vụ, …
Thứ hai, tính độc lập này được đảm bảo bởi hiến pháp hoặc luật. Ở các nước có xây dựng Cơ quan Nhân quyền quốc gia thì trong hệ thống luật pháp của nước đó phải nêu rõ rằng cơ quan này độc lập với các cơ quan nhà nước khác và độc lập như thế nào.
</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">Chẳng hạn, Điều 1 và 2 của Luật về Ombudsman của Đan Mạch quy định: Thanh tra viên Quốc hội do quốc hội bầu ra nhưng không được là thành viên của Quốc hội.<small>6</small>
Thứ ba, các cơ quan có thẩm quyền phù hợp để tiếp nhận và xử lý những khiếu nại, tố cáo về vi phạm nhân quyền. Các quyền này thường sẽ bao gồm: quyền điều tra về những vấn đề liên quan đến nhân quyền, quyền giám sát các cơ quan nhà nước khác trong thực hiện và ban hành các đạo luật về nhân quyền, v.v.
Thứ tư, tính đa nguyên, tức là Cơ quan Nhân quyền quốc gia phải bao gồm những thành viên có khả năng đại diện cho phần lớn các thành phần trong xã hội.
Thứ năm, các cơ quan này sẽ được cung cấp nguồn nhân lực và tài chính đầy đủ. Đây là một nguyên tắc nhằm đảm bảo và duy trì cho các hoạt động của những cơ quan này được tiến hành trên thực tế
Thứ sáu, họ có thẩm quyền rõ ràng và rộng rãi bao trùm những tiêu chuẩn quyền con người phổ biến. Thẩm quyền của các cơ quan này thường được quy định trong các đạo luật được ban hành khi thành lập.
Mặc dù nguyên tắc Paris chỉ có tính khuyến nghị, khơng mang tính bắt buộc đối với các quốc gia thành viên, tuy nhiên, nguyên tắc này lại mang tính định hướng chung trong việc xây dựng Cơ quan Nhân quyền quốc gia ở các quốc gia.
<b>1.2 Khái niệm và đặc điểm của Cơ quan Nhân quyền quốc gia 1.2.1 Khái niệm Cơ quan Nhân quyền quốc gia </b>
<i><b>a) Khái niệm nhân quyền </b></i>
Để có thể đi đến một khái niệm về Cơ quan Nhân quyền ở quốc gia thì trước hết điều cần làm rõ đó chính là thuật ngữ “nhân quyền” hay “quyền con người”. Trên thực tế, có nhiều cách định nghĩa khác nhau về quyền con người, mỗi định nghĩa tiếp cận vấn đề từ một góc độ nhất định, chỉ ra những thuộc tính nhất định, song chưa một khái niệm nào về quyền con người hồn thiện, có thể phản ánh được đầy đủ nội dung, mọi khía cạnh của nó.
<i>Ở cấp độ quốc tế, Văn phòng Cao ủy Liên Hợp Quốc đã định nghĩa: “nhân quyền </i>
<i>là những bảo đảm pháp lý tồn cầu có tác dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống lại những hành động hoặc sự bỏ mặc mà làm tổn hại đến nhân phẩm, những tự do cơ bản của con người”</i><small>7</small>. Một định nghĩa khác mang dấu ấn của học thuyết về các quyền tự nhiên cho rằng: quyền con người là những sự được phép (entitlements) mà tất cả thành viên của cộng đồng nhân loại, khơng phân biệt giới tính, chủng tộc, tơn giáo, địa vị xã hội...; đều có ngay từ khi sinh ra, đơn giản chỉ vì họ là con người. Nhìn chung, nhân quyền hay quyền con người được hiểu là những nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có và khách quan của con người được ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế.<small>8</small>
<small>6</small><i><small> “Chapter I: Election, dismissal, etc.”, The Ombudsman Act, </small></i><small> United Nations, UNHCHR, “Freequently Asked Questions on a Human Rights-based Approach to Development Cooperation”, New York and Geneva, 2006, tr.8 </small></i>
<small>8</small><i><small> Khoa Luật – ĐHQGHN, Giáo Trình Lý Luận Và Pháp Luật Về Quyền Con Người, NXB Chính trị quốc gia, </small></i>
<small>2009 </small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">Có thể thấy, từ lâu, nhiều quốc gia đã luôn xác định: con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực cho sự nghiệp xây dựng đất nước và bảo vệ quyền con người là nhân tố quan trọng cho sự phát triển bền vững của mỗi quốc gia dân tộc. Nhân quyền, do đó
<i>khơng chỉ đơn thuần là “thuật ngữ chung” mà còn là “sản phẩm chung” và “mục tiêu </i>
chung” của mọi quốc gia trên thế giới. Vì lẽ ấy, nhiều cơ chế Cơ quan Nhân quyền khác nhau được xây dựng nhằm bảo vệ và thúc đẩy quyền con người ở cấp độ đa phương toàn cầu, khu vực và cấp độ quốc gia.
<i><b>b) Khái niệm Cơ quan Nhân quyền quốc gia </b></i>
Giống như định nghĩa về “nhân quyền”, hiện nay, vẫn chưa có một khái niệm chung, thống nhất về “Cơ quan Nhân quyền quốc gia”. Theo Văn phòng Cao uỷ Liên
<i>hợp quốc về nhân quyền: “Cơ quan Nhân quyền quốc gia là những cơ quan nhà nước </i>
<i>(State bodies) có thẩm quyền hiến định và/hoặc luật định trong việc bảo vệ và thúc đẩy các quyền con người. Các cơ quan này là một phần của bộ máy nhà nước và được nhà nước cung cấp kinh phí hoạt động”. Theo Linda Reif, tác giả của “The Ombudsman, </i>
Good Governance, and the International Human Rights System”, Cơ quan Nhân quyền
<i>quốc gia là “một cơ quan được nhà nước thiết lập bởi hiến pháp hoặc bởi luật hay nghị </i>
<i>định, với chức năng được thiết kế để thúc đẩy và bảo vệ quyền con người.”, hay nói </i>
<i>cách khác là “một cơ quan bán chính phủ hay một thiết chế luật định được ủy trị về </i>
<i>quyền con người”. </i>
Như vậy, có thể rút ra một số nội dung chung cơ bản về Cơ quan Nhân quyền quốc gia như sau: (i) Cơ quan Nhân quyền quốc gia được hiểu là cơ quan do nhà nước thành lập và (ii) nhằm mục đích thúc đẩy và bảo vệ quyền con người trong phạm vi quốc gia. Và như đã đề cập trước đó, các Cơ quan Nhân quyền quốc gia này được hình thành dựa trên cơ sở là Nguyên tắc Paris và được định hướng xây dựng dựa trên bộ nguyên tắc này.
Các Cơ quan Nhân quyền quốc gia – ít nhất là các cơ quan tuân thủ nguyên tắc Paris – đang là nền tảng của các hệ thống bảo vệ nhân quyền quốc gia và ngày càng đóng vai trị là cơ chế chuyển tiếp giữa các quy tắc nhân quyền quốc tế với Nhà nước sở tại. Cơ quan Nhân quyền quốc gia độc lập và không giống với các bộ phận khác của Chính phủ: các cơ quan này khơng nằm dưới quyền trực tiếp của cơ quan hành pháp, lập pháp hay tư pháp mặc dù theo quy định, các cơ quan này chịu trách nhiệm giải trình trực tiếp hoặc gián tiếp trước cơ quan lập pháp. Chúng tuy tách biệt với Chính phủ song vẫn được nhận nguồn tài trợ độc quyền hoặc chủ yếu từ Chính phủ. Các thành viên của Cơ quan Nhân quyền quốc gia khơng được hình thành bằng con đường bầu, mặc dù cũng có lúc những thành viên này sẽ được bổ nhiệm bởi các đại diện được bầu (elected representatives). Việc phân loại Cơ quan Nhân quyền quốc gia là một cơ quan cơng quyền có ý nghĩa quan trọng trong quy định về việc giải trình, báo cáo cơng tác và chịu trách nhiệm của cơ quan này. Nếu việc quản lý và chi tiêu công quỹ của Cơ quan Nhân quyền do Chính phủ điều hành, sự điều hành đó khơng được ảnh hưởng đến các khả năng của Cơ quan Nhân quyền quốc gia để chúng có thể thực hiện vai trị của mình một cách độc lập và hiệu quả.
Rất nhiều người nhầm lẫn khi đồng nhất Cơ quan Nhân quyền quốc gia với các tổ chức phi chính phủ. Thực chất, chúng khơng phải là các tổ chức phi chính phủ. Đó là bởi các Cơ quan Nhân quyền quốc gia có cơ sở pháp lý theo luật định và có trách nhiệm
</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">pháp lý cụ thể như một phần của bộ máy Nhà nước. Điều này sẽ được làm rõ hơn khi tìm hiểu về các đặc điểm của Cơ quan Nhân quyền quốc gia.
Các Cơ quan Nhân quyền quốc gia không chỉ là các yếu tố trung tâm của một hệ thống nhân quyền quốc gia vững mạnh: chúng còn là “cầu nối” giữa xã hội với các Nhà nước; chúng liên kết trách nhiệm của Nhà nước với quyền của công dân và chúng kết nối luật pháp quốc gia với các hệ thống nhân quyền của khu vực và quốc tế. Đồng thời, các Cơ quan Nhân quyền quốc gia cũng có thể chỉ trích chính hành động của các Chính phủ đã tạo ra và tài trợ cho họ, điều này khơng có gì đáng ngạc nhiên vì các Nhà nước vừa là chủ thể có nghĩa vụ chính trong việc bảo vệ, thúc đẩy nhân quyền song cũng vừa là thủ phạm chính của các vi phạm nhân quyền.
<b>1.2.2 Đặc điểm của Cơ quan Nhân quyền quốc gia </b>
<i>“Xét về bản chất, Cơ quan Nhân quyền quốc gia không hẳn là một cơ quan nhà nước, cũng không hẳn là một tổ chức phi chính phủ. Đây là một thiết chế có tính chất nửa cơ quan nhà nước, nửa tổ chức xã hội, có chức năng tư vấn, hỗ trợ các nhà nước trong việc bảo vệ, thúc đẩy nhân quyền.”</i><small>9</small> Xoay quanh nhận định này, tồn tại một số khác biệt trong góc nhìn của các nhà nghiên cứu cả ở Việt Nam và trên thế giới liên
<b>quan đến vị trí, tính chất của các Cơ quan Nhân quyền quốc gia. </b>
Đầu tiên, khi xét đến Cơ quan Nhân quyền quốc gia là một cơ quan nhà nước
<i>“càng độc lập càng tốt”, nó có các đặc điểm như sau: </i>
<i>Thứ nhất, Cơ quan Nhân quyền quốc gia có nhiều đặc điểm giống một cơ quan </i>
nhà nước, đặc biệt ở chỗ nó thuộc bộ máy nhà nước và thực hiện sứ mệnh của mình là bảo vệ và phát triển quyền con người bằng quyền lực nhà nước. Với cách hiểu này, thì Nhà nước trên thực tế đóng vai trị là đơn vị tài trợ nguồn ngân sách cho các cơ quan này chứ các Cơ quan Nhân quyền quốc gia không nhận tài trợ từ phía xã hội hoặc từ các nhà tài trợ quốc tế như các tổ chức xã hội. Đó là cơ sở để khẳng định đây khơng phải là các tổ chức xã hội hay tổ chức phi chính phủ.
<i>Thứ hai, khi tồn tại trong các bộ máy nhà nước, các Cơ quan Nhân quyền quốc </i>
gia ln có một vị trí tương đối độc nhất và độc lập. Điều này là bởi các cơ quan này không nằm trong cơ cấu tổ chức của bất kỳ cơ quan nào trong bộ ba lập pháp, hành pháp, tư pháp. Chằng hạn, mặc dù cùng hoạt động hướng đến việc bảo vệ nhân quyền nhưng Cơ quan Nhân quyền quốc gia khơng thuộc về nhánh tư pháp vì chúng khơng có chức năng xét xử. Đặc điểm này cũng cho thấy sự tuân thủ nguyên tắc thứ nhất trong các Nguyên tắc Paris nêu trên về tính độc lập của Cơ quan Nhân quyền quốc gia. Sự độc lập này đóng vai trị hết sức quan trọng và sẽ rất đáng lo ngại nếu không được giữ vững vì nó ảnh hưởng to lớn đến tính khách quan trong việc tiến hành các hoạt động bảo vệ, thúc đẩy quyền con người trong đó bao gồm việc giám sát và đưa ra những nhận định, góp ý, khuyến nghị về mức độ bảo vệ quyền con người trong hoạt động của các cơ quan nhà nước truyền thống. Trong thực tế ở nhiều nước, nguồn ngân sách cho các hoạt động của Cơ quan Nhân quyền quốc gia sẽ được cấp bởi Chính phủ, nhưng khơng
<small>9</small><i><small> Vũ Công Giao, Nguyễn Thủy Nguyên, “Luận bàn việc thành lập Cơ quan Nhân quyền quốc gia tại Việt Nam”, Tạp chí Xây dụng Đảng, 2021, </small></i><small> </small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">có nghĩa là các cơ quan này sẽ lệ thuộc vào Chính phủ mà bắt buộc quy trình cung cấp tài chính này không được tạo điều kiện cho các tác động không chính đáng của Chính phủ tới các Cơ quan Nhân quyền.
<i>Thứ ba, khi xác định Cơ quan Nhân quyền quốc gia là cơ quan nhà nước thì có thể </i>
xếp nó vào nhóm những cơ quan hiến định độc lập (dù ở một số nước nó khơng được ghi nhận trong Hiến pháp) bởi tính độc lập của nó. Cơ quan này có nhiệm vụ và chức năng chuyên trách trong lĩnh vực mà mình được giao – đó là lĩnh vực bảo vệ và thúc đẩy nhân quyền trong phạm vi lãnh thổ.
Thông qua các đặc điểm đó, có thể đưa ra một số nhận xét rằng: các Cơ quan Nhân quyền quốc gia theo cách hiểu này sẽ được cho là hồn thiện nhất nếu nó chỉ đứng riêng một mình với vai trị là một cơ quan nhà nước cá biệt, càng cố gắng tách bạch với chính phủ và các tổ chức phi chính phủ càng tốt. Với chỗ đứng được xác định như vậy, các cơ quan này có lợi thế để vận hành như một công cụ trung lập vừa bảo vệ người dân đồng thời cũng là công cụ đảm bảo cho việc Nhà nước, các cơ quan hoặc các cán bộ công chức sẽ phải chịu trách nhiệm trước các vi phạm nhân quyền do chính họ gây ra. Mặt khác, cũng phải thẳng thắn nhìn nhận những khó khăn về mặt tài trợ ngân sách và xây dựng các mối quan hệ làm việc khi các Cơ quan Nhân quyền quốc gia tách hồn tồn ra khỏi Chính phủ hoặc các tổ chức phi chính phủ. Cịn nếu các cơ quan này vẫn nhận tài trợ từ phía chính phủ (như thực tế ở hầu hết các quốc gia hiện nay), thì một bất cập xảy đến đó là quyền tự chủ của các Cơ quan Nhân quyền quốc gia sẽ khơng cịn rõ rệt và gây trở ngại cho việc đưa ra những quyết định, kế hoạch riêng, độc lập.
Khi nhìn nhận vị trí của các Cơ quan Nhân quyền quốc gia với cái nhìn mềm dẻo hơn, tức là một cơ quan có khả năng dung hịa những đặc điểm của nó theo cách nói:
<i>“là một thiết chế nửa cơ quan nhà nước, nửa tổ chức xã hội”</i><small>10</small>, thì ta sẽ có một góc
<i>nhìn phần nào lạc quan hơn. “Cơ quan Nhân quyền Quốc Gia là các cơ quan nhà nước </i>
<i>được thành lập theo quy định của Hiến pháp hoặc luật nhưng chúng bị buộc phải hoạt động độc lập với chính phủ. Tuy nhiên chúng cũng không phải các tổ chức phi chính phủ hay các tổ chúc xã hội. Nhờ vào vị trí đặc biệt này, các Cơ quan Nhân quyền quốc gia có thể hỗ trợ nối kết giữa các tổ chức xã hội với chính phủ. Cùng với đó, chúng có tiềm năng ở sự chính danh và sức ảnh hưởng to lớn hơn các tổ chức xã hội có sứ mệnh tương tự.”</i><small>11</small>
Cả hai ý kiến nêu ra đều phản ánh phần nào cách mà các Cơ quan Nhân quyền quốc gia trên thế giới vận hành, cũng như cho thấy những thách thức và cơ hội hiện có trong nhiệm vụ thúc đẩy và bảo vệ nhân quyền. Xem xét và tiếp thu một cách khách quan các quan điểm sẽ là kinh nghiệm cho chúng ta trong việc xây dựng và phát triển một Cơ quan Nhân quyền quốc gia vững mạnh và hiệu quả.
<i><b>Một số đặc điểm khác của Cơ quan Nhân quyền quốc gia dựa trên Nguyên tắc Paris:</b></i>
<small>10</small><i><small> Vũ Công Giao, Nguyễn Thủy Nguyên, “Luận bàn việc thành lập Cơ quan Nhân quyền quốc gia tại Việt Nam”, Tạp chí nghiên cứu, hướng dẫn công tác tổ chức xây dựng đảng của ban tổ chức trung ương, 2021, </small></i>
<small> “Role of national human rights institutions”, Youtube: The Danish Institute for Human Rights </small></i>
</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10"><i>Về cơ sở pháp lý, để cho việc thành lập các Cơ quan Nhân quyền quốc gia được </i>
chính danh và hợp pháp thì việc thành lập này phải được ghi nhận trong Hiến pháp và pháp luật của các nước, trong đó quy định chi tiết về thành phần, cơ cấu và phạm vi, thẩm quyền của Cơ quan Nhân quyền quốc gia.
<i>Về cơ cấu thành viên, cần đảm bảo tính đa dạng về thành phần của các cơ quan </i>
này. Theo đó, thành viên của Cơ quan Nhân quyền quốc gia bên cạnh những người đại diện của nhiều cơ quan trong bộ máy tư pháp, tổ chức trong xã hội, Quốc hội… thì cịn phải có sự tham gia của các tổ chức phi chính phủ hoạt động trong lĩnh vực quyền con người và chống phân biệt đối xử, các tổ chức cơng đồn, các tổ chức xã hội và nghề nghiệp liên quan như đoàn luật sư, hiệp hội của các bác sĩ, nhà báo các nhà khoa học…; các xu hướng tôn giáo và triết học; các trường đại học; các nghị viện; các cơ quan chính phủ…. Các thành viên này phải được lựa chọn, bổ nhiệm độc lập, được trao thẩm quyền độc lập nhất định. Đặc điểm này chính là điều tạo nên nền tảng vững chắc cho Cơ quan Nhân quyền được công nhận đầy đủ bởi mọi tầng lớp nhân dân, mọi thành phần trong xã hội. Bên cạnh đó, tính đa dạng về thành phần sẽ tạo ra những thuận lợi nhất định trong việc ủng hộ và sẵn sàng thi hành các quyết định của Cơ quan Nhân quyền quốc gia.
<i>Về thẩm quyền, nguyên tắc Paris khuyến khích việc trao thẩm quyền cho cơ quan </i>
<i>quyền con người quốc gia “càng rộng càng tốt” và thẩm quyền đó cịn phải được quy </i>
định rõ ràng trong Hiến pháp hoặc văn bản luật.
<b>1.2.3 Mối quan hệ giữa Cơ quan Nhân quyền quốc gia và các thiết chế khác </b>
Trong việc xây dựng các Cơ quan Nhân quyền quốc gia thì cần đảm bảo tính độc lập, song đây khơng phải là một cơ quan độc nhất, sứ mệnh bảo vệ và thúc đẩy quyền con người đã đặt ra cho các cơ quan này yêu cầu phải thực thi các hoạt động, kế hoạch trên cơ sở mối liên kết với Nhà nước, các tổ chức và các cá nhân, có như vậy thì Cơ quan Nhân quyền mới có thể tiếp cận một cách sâu sắc, thực tế và gần gũi đến đời sống của mọi tầng lớp người dân, từ đó kiến tạo mầm mống của sự bình đẳng.
<i>Về bản chất, Cơ quan Nhân quyền quốc gia không phải là một cơ quan nhà nước, </i>
cũng không phải là một tổ chức phi chính phủ. Đây là một thiết chế có tính chất nửa cơ quan nhà nước, nửa tổ chức xã hội, có chức năng tư vấn, hỗ trợ các thiết chế khác trong việc bảo vệ, thúc đẩy nhân quyền.
Trên phương diện quốc tế, Liên Hợp Quốc đã quan tâm và tích cực tiếp nhận sự trợ giúp của các chủ thể ở nhiều cấp độ vào hoạt động bảo vệ, thúc đẩy nhân quyền. Ở cấp độ quốc gia, các nhà nước là chủ thể có nghĩa vụ chính trong việc bảo vệ, thúc đẩy nhân quyền, vừa là thủ phạm chính của các vi phạm nhân quyền, vì vậy, cần một cơ quan tư vấn có tính độc lập tương đối để góp ý và trợ giúp. Các Cơ quan Nhân quyền quốc gia được thiết lập để đóng vai trị đó.
<i>Về thẩm quyền, theo các Nguyên tắc Paris, các Cơ quan Nhân quyền quốc gia phải </i>
được pháp luật quốc gia giao quyền và nhiệm vụ thúc đẩy và bảo vệ nhân quyền càng rộng càng tốt. Tính độc lập (tương đối) là yếu tố không thể thiếu của các Cơ quan Nhân quyền quốc gia. Theo các Nguyên tắc Paris, các Cơ quan Nhân quyền quốc gia cần phải có tính độc lập với các cơ quan nhà nước khác; mức độ độc lập càng cao càng tốt.
</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">Không phải tất cả, song khá nhiều Cơ quan Nhân quyền quốc gia được giao cả thẩm quyền tiếp nhận và xử lý bất kỳ khiếu nại, tố cáo nào về vi phạm nhân quyền của quốc gia được gửi tới, hoặc chuyển tiếp chúng đến các cơ quan có thẩm quyền khác theo quy định pháp luật; giải quyết các khiếu nại bằng biện pháp hòa giải, bao gồm việc đưa ra những quyết định có tính ràng buộc, trên cơ sở giữ kín thơng tin về người khiếu nại; thông báo cho chủ thể khiếu nại các quyền của họ, các giải pháp đền bù có thể và hỗ trợ họ đạt được các giải pháp đó; đưa ra khuyến nghị với bất kỳ cơ quan có thẩm quyền nào về bất kỳ vấn đề nào liên quan đến lập pháp, hành pháp và thực tiễn về nhân quyền.
Từ những phân tích ở trên, có thể thấy, việc thành lập một hoặc một số cơ quan có chức năng của Cơ quan Nhân quyền quốc gia ở các nước hiện là cần thiết và có ý nghĩa nhiều mặt đối với các thiết chế khác, cụ thể:
<i><b>a) Với các cơ quan nhà nước </b></i>
Thứ nhất, việc thành lập Cơ quan Nhân quyền quốc gia thúc đẩy, bảo vệ nhân quyền là một yêu cầu khách quan để bảo đảm sự tồn tại của các chính thể trên thế giới. Thực tiễn trên thế giới cho thấy các Cơ quan Nhân quyền quốc gia là một phần cấu thành không thể thiếu trong cơ chế, bộ máy đó.
Thứ hai, việc thành lập cơ quan này nhằm giải quyết ngày càng nhiều hơn các vấn đề về nhân quyền ở tất cả các cấp độ, quốc gia, khu vực và quốc tế, nhà nước địi hỏi phải sớm hồn thiện cơ chế, bộ máy hiện có về bảo vệ và thúc đẩy nhân quyền mà hiện đang thiếu một cấu phần cơ bản là các Cơ quan Nhân quyền quốc gia.
Thứ ba, với vị thế đặc biệt của nó, Cơ quan Nhân quyền quốc gia là cơ quan hữu ích giúp nhà nước giải quyết những yêu cầu khách quan, chủ quan kể trên, vì thiết chế này có thể:
(i) tư vấn và trợ giúp độc lập, khách quan, có tính xây dựng cho nhà nước trong việc bảo vệ và thúc đẩy nhân quyền;
(ii) đáp ứng nhu cầu hội nhập quốc tế, làm tăng uy tín của nhà nước trên trường quốc tế;
(iii) là đầu mối cung cấp thông tin khách quan, đáng tin cậy cho cộng đồng quốc tế về tình hình nhân quyền ở Việt Nam;
(iv) làm trung gian giúp giảm thiểu cũng như hóa giải những bất đồng giữa nhà nước và người dân, giữa nhà nước và các tổ chức quốc tế trong vấn đề nhân quyền.
<i><b>b) Với các tổ chức xã hội </b></i>
<i>Thứ nhất, do tính đặc thù, các Cơ quan Nhân quyền quốc gia bao gồm giới truyền </i>
thơng, các tổ chức cơng đồn, các tổ chức phi chính phủ, nói cách khác, đó là tất cả các thực thể của xã hội. Vì thế, nó có thể dễ dàng phát hiện những vi phạm của các tổ chức nhà nước, cá nhân và có thể tham gia trợ giúp hiệu quả các tổ chức xã hội giải quyết khiếu nại của nạn nhân ở những mức độ khác nhau.
<i>Thứ hai, các Cơ quan Nhân quyền quốc gia có thể hỗ trợ việc xây dựng các chương </i>
trình giảng dạy và nghiên cứu về quyền con người và tham gia triển khai các chương trình đó trên thực tế; thay mặt các tổ chức xã hội trình lên chính phủ, nghị viện và bất
</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">kỳ cơ quan có thẩm quyền nào khác những quan điểm, khuyến nghị, đề xuất và báo cáo về bất kỳ vấn đề nào liên quan đến thúc đẩy và bảo vệ quyền con người.
<i>Thứ ba, các Cơ quan Nhân quyền quốc gia đã và đang tích cực đóng góp vào việc </i>
bảo vệ, thúc đẩy quyền con người trong các tổ chức xã hội thông qua: tập hợp ý kiến, tổ chức trao đổi về quyền con người; tổ chức đối thoại về quyền con người; đại diện và bảo vệ quyền lợi cho các hội viên khi quyền lợi bị xâm phạm; phản ánh ý nguyện của các thành viên về bảo đảm, bảo vệ quyền con người; giám sát các cơ quan nhà nước, công chức nhà nước trong việc bảo vệ quyền con người …
<b>1.3. Các mơ hình Cơ quan Nhân quyền quốc gia phổ biến </b>
Trên thực tế, khơng có một mơ hình chung về Cơ quan Nhân quyền cho các quốc gia. Mỗi nước có những mơ hình Cơ quan Nhân quyền khác nhau (về tên gọi, cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ…). Tuy nhiên, các Cơ quan Nhân quyền thông thường được thiết lập theo ba hình thức chủ yếu đó là:
(1) Ủy ban nhân quyền quốc gia (National Human Rights Commission/ Committee);
(2) Cơ quan thanh tra Quốc hội (Ombudsman);
(3) Cơ quan chuyên trách về một vấn đề nhân quyền cụ thể (Specialized Institutions).
Theo kết quả khảo sát vào năm 2009 của Văn phòng Cao ủy Liên Hợp Quốc về quyền con người, mơ hình Cơ quan Nhân quyền quốc gia phổ biến nhất là Ủy ban nhân quyền quốc gia (chiếm 58% trên tổng số các Cơ quan Nhân quyền quốc gia trên thế giới). Mơ hình Thanh tra Quốc hội đứng ở vị trí thứ hai, chiếm 30% và đặc biệt phổ biến ở Châu Mỹ<small>12</small>. Chỉ có một số nhỏ các Cơ quan Nhân quyền quốc gia trên thế giới được thành lập dưới dạng thức khác.
Trong phạm vi cơng trình nghiên cứu này, nhóm tác giả sẽ tập trung phân tích ba mơ hình Cơ quan Nhân quyền quốc gia phổ biến nhất bao gồm: Ủy ban nhân quyền quốc gia (National Human Rights Commission/ Committee), Cơ quan Thanh tra Quốc hội (Ombudsman), Cơ quan chuyên trách về vấn đề nhân quyền (Specialized Institutions) ở các khía cạnh là cách thức hình thành, cơ cấu tổ chức và phương diện hoạt động chủ yếu.
<b>1.3.1 Uỷ ban nhân quyền quốc gia (National Human Rights Commission/ Committee) </b>
<i><b>a) Cách thức thành lập </b></i>
Ủy ban nhân quyền quốc gia là mơ hình chiếm tỷ lệ cao hơn cả trong số các Cơ quan Nhân quyền quốc gia hiện có trên thế giới, với tỷ lệ xuất hiện ở các quốc gia lên đến hơn 50%. Do sự phân bố rộng rãi đó nên thiết chế này cịn được biết đến với vài tên gọi khác, ví dụ như Ủy ban/Trung tâm quyền con người quốc gia, Ủy ban quyền con người và bình đẳng… Tương tự như sự đa dạng về tên gọi thì cơ sở pháp lý cho việc thành lập và hoạt động của thiết chế này cũng khác nhau giữa các nước. Ví dụ, nó có
<small>12</small><i><small> UN OHCHR, “National Human Rights Institutions: History, Principles, Roles and Responsibilities”, United </small></i>
<small>Nations Publication, 2010, p.15 </small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">thể được quy định trong Hiến pháp (như Philippine, Thái Lan), bằng một đạo luật cụ thể (như Malaysia), bởi một nghị quyết của Nghị viện (như Đan Mạch), hoặc theo một quyết định của Tổng thống (như Indonesia).<small>13</small>
Nhưng nhìn chung, đây vẫn là những cơ quan nhà nước với nhiệm vụ được quy định một cách cụ thể và minh bạch là sinh ra để bảo vệ và thúc đẩy nhân quyền. Các Ủy ban nhân quyền quốc gia có thể được thành lập bởi cơ quan lập pháp hay cơ quan hành pháp. Trong trường hợp thuộc cơ quan hành pháp, chúng vẫn có tính độc lập tương đối với các cơ quan hành pháp khác và có thể có nhiệm vụ báo cáo thường kỳ với cơ quan lập pháp.
<i>b) Cơ cấu tổ chức </i>
Ủy ban nhân quyền thường bao gồm nhiều thành viên đại diện cho các nhóm xã hội, nghề nghiệp khác nhau. Điều này nhằm đảm bảo sự đa nguyên và đa dạng trong cơ cấu thành phần – một tiêu chuẩn cơ bản được quy định trong Nguyên tắc Paris mà nhóm tác giả đã nêu ra trước đó. Các thành viên có thể chun trách hoặc khơng, nhưng người đứng đầu Ủy ban bắt buộc phải chuyên trách. Ủy viên của các ủy ban nhân quyền quốc gia có thể có chun mơn khác nhau, tuy nhiên đều phải có uy tín, kinh nghiệm, được bầu ra trên cơ sở tính đến tính đại diện cho vùng, miền, nhóm người, đảng phái của quốc gia. Mặt khác, mặc dù đa nguyên là một lợi thế của các ủy ban này song mặt trái của việc này là sự lãnh đạo phân tán có thể dẫn đến chậm trễ trong quá trình ra quyết định và tốn nhiều chi phí. Vấn đề này có thể giải thích thêm là: giống như hầu hết các tổ chức hoạt động theo ngun tắc tập thể thì nhược điểm của mơ hình Ủy ban nhân quyền quốc gia đôi khi là sự khó khăn trong việc thống nhất các luồng ý kiến để đưa ra một tiếng nói chung, một quyết định cuối cùng giữa bối cảnh đang có nhiều bài tốn nhân quyền cần lời giải đáp và phương án giải quyết đến một cách chậm trễ sẽ trở nên vô nghĩa. Bên cạnh đó, việc trong cơ cấu thành phần của Ủy ban có quá nhiều thành viên khiến ta đặt ra câu hỏi là liệu có phải tất cả thành viên đều đang hoạt động một cách có hiệu quả? Nếu câu trả lời vẫn là không chắc chắn thì sẽ dẫn đến hệ lụy làm lãng phí ngân sách để nuôi một bộ máy thiếu năng suất.
<i>c) Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn </i>
Tổng quan thì chức năng cơ bản của các Ủy ban nhân quyền quốc gia là bảo vệ các cá nhân khỏi sự phân biệt đối xử và thúc đẩy các quyền con người, đặc biệt là quyền của các nhóm xã hội dễ bị xâm hại hoặc phân biệt đối xử như phụ nữ, trẻ em, người thiểu số, người bản địa... Có những ủy ban được giao thẩm quyền xử lý tất cả vi phạm các quyền được nêu lên trong Hiến pháp, trong khi một số khác chỉ có thẩm quyền xử lý những vi phạm về chủng tộc, tôn giáo, giới, quan điểm chính trị…
Một chức năng cụ thể không kém phần quan trọng của các Ủy ban này là tiếp nhận, điều tra và giải quyết những khiếu nại của các cá nhân và các nhóm về những vi phạm quyền con người theo pháp luật quốc gia. Quyền được tiến hành những cuộc điều tra về vấn đề nhân quyền và tiếp nhận các khiếu nại cá nhân đóng vai trị là cơng cụ trọng tâm để cơ quan này tiếp cận và giải quyết những vấn đề liên quan đến quyền con người theo đúng nghĩa. Tuy nhiên cùng lúc đó thì, các ủy ban - nơi có những quyết định
<small>13</small><i><small> “Giáo trình Lý luận về pháp luật và quyền con người”, NXB. Đại học quốc gia Hà Nội, tr. 381 </small></i>
</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">hay cuộc điều tra là đối tượng phải được xem xét lại về mặt tư pháp tại tịa án – thường có xu hướng thận trọng hơn trong khi tiến hành các cuộc điều tra của họ, điều này có thể dẫn đến sự chậm trễ và cách tiếp cận mang tính hình thức. Nó cũng làm yếu đi những lợi thế liên quan mà Ủy ban nhân quyền quốc gia đáng ra phải mang lại. Cũng phải thừa nhận một điều là chi phí của các ủy ban với thẩm quyền như vậy có thể khá cao, đặc biệt nếu họ cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí cho người khiếu nại trong trường hợp các vụ kiện này bị đưa ra tòa hoặc tòa án chuyên trách.
Bên cạnh các chức năng kể trên, nhiều Ủy ban quyền con người quốc gia được giao thẩm quyền nghiên cứu chính sách và hoạt động liên quan đến quyền con người của chính phủ để phát hiện những tồn tại, hạn chế và đề xuất những biện pháp khắc phục, từ đó thúc đẩy sự tiến bộ trong việc bảo vệ quyền con người. Các ủy ban cũng có thể được giao quyền giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước trong việc tuân thủ pháp luật quốc gia và quốc tế về quyền con người. Cuối cùng, nhiều ủy ban quyền con người quốc gia còn được giao chức năng giáo dục, tuyên truyền nâng cao nhận thức của người dân về quyền con người.
Ở góc độ thế giới thì có một số Ủy ban nhân quyền chỉ tập trung vào công việc liên quan đến quyền bình đẳng và chống phân biệt đối xử. Minh chứng cho điều này được tìm thấy ở Hoa Kỳ và ở nhiều quốc gia thuộc Khối thịnh vượng chung, bao gồm Úc, Canada, New Zealand và Vương quốc Anh. Nhưng nhìn chung thì trong hầu hết các trường hợp, các Cơ quan Nhân quyền quốc gia đều có nhiệm vụ to lớn là thúc đẩy và bảo vệ tất cả các quyền con người.
<b>1.3.2 Cơ quan Thanh tra Quốc hội (Ombudsman) </b>
Cơ chế Ombudsman xuất hiện đầu tiên tại Nghị viện Thụy Điển vào năm 1809. Thuật ngữ “Ombudsman” có nguồn gốc từ tiếng Thụy Điển (có nghĩa là người đại diện). Tại một số quốc gia, Ombudsman tương đương với Thanh tra Quốc Hội hoặc Thanh tra nhà nước. Ombudsman thường có một bộ máy giúp việc, gọi là Văn phòng Ombudsman.
Đây là một thiết chế hiến định độc lập có lịch sử hình thành lâu đời, gắn liền với chế độ đại nghị và xuất hiện phổ biến ở các nước Bắc Âu. Sự ra đời, tồn tại và phát triển nhanh chóng của Ombudsman từ cuối thế kỷ 20 phản ánh xu hướng dân chủ hoá rộng khắp trên thế giới. Trong quá trình phát triển lâu dài, dù tồn tại dưới hình thức và tên gọi như thế nào, điểm chung của các thiết chế Ombudsman là tính chất lưỡng tính, tức khơng thuần túy là cơ quan nhà nước, cũng không phải là tổ chức xã hội đúng nghĩa - mà là một dạng thiết chế lai ghép (quasi-body) giữa hai dạng đó. Tính chất này giúp Ombudsman trở thành một công cụ kết nối nhà nước với người dân và các tổ chức xã hội, giúp người dân và các tổ chức xã hội có khả năng thể hiện quan điểm, thái độ của mình với nhà nước và giúp nhà nước giải quyết những bất đồng và nguyện vọng của người dân liên quan đến hoạt động của nhà nước (thông qua việc tiếp nhận và xử lý những khiếu nại, tố cáo).
<i><b>a) Cách thức hình thành </b></i>
Cơ quan Thanh tra Quốc hội có thể là một cá nhân hoặc một nhóm cá nhân (Văn phòng/ Cơ quan thanh tra Quốc hội). Các Cơ quan Thanh tra Quốc hội thông thường
</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">thuộc nhánh lập pháp, được Nghị viện thành lập nhưng có tính độc lập tương đối với Nghị viện. Về bản chất, Thanh tra Quốc hội không phải là cơ quan giám sát nhánh hành pháp, mà chỉ đóng vai trò là cơ quan trung gian giữa các cá nhân và các chính phủ (giống các ủy ban nhân quyền) trong các vấn đề nhân quyền.
Do có bề dày về thời gian hình thành và sự xuất hiện rộng rãi trên phạm vi hơn 80 quốc gia trên thế giới, các mơ hình Ombudsman khơng hồn tồn giống nhau mà có sự đa dạng nhất định. Hiện trên thế giới tồn tại bốn hình thức Ombudsman bao gồm: (i) Ombudsman là thiết chế trung gian giữa nhà nước và nhân dân; (ii) Ombudsman là thiết chế thuộc Quốc hội; (iii) Ombudsman là thiết chế thuộc Chính phủ ‐ nhánh hành pháp; và (iv) Ombudsman là thiết chế đóng vai trị người đại diện cho một nhóm lợi ích đặc biệt trong xã hội<small>14</small>. Trong các hình thức này, chỉ có Ombudsman truyền thống theo mơ hình Bắc Âu mới thực sự có nguồn gốc từ Quốc hội.
Vì là thiết chế thuộc Quốc hội, thẩm quyền của Cơ quan Thanh tra Quốc Hội ở những nước Bắc Âu bao trùm toàn bộ hệ thống cơ quan hành pháp, từ trung ương đến địa phương. Tại Thụy Điển và Phần Lan, thẩm quyền này còn được mở rộng sang cả Tòa án. Ở Đan Mạch và Na Uy, Cơ quan Thanh tra Quốc Hội không giám sát hoạt động của Tòa án, mà được coi như là một lựa chọn bổ sung cho hệ thống tư pháp. Người dân lựa chọn đến với Cơ quan Thanh tra Quốc Hội vì tiết kiệm chi phí và thời gian hơn so với việc sử dụng con đường tòa án.
Hiện nay, sở dĩ Ombudsman là một thiết chế hiến định mang tính phổ biến trên thế giới vì nền tảng tư tưởng của thiết chế này chính là những lý thuyết của luật hiến pháp hiện đại, ví dụ như chủ quyền nhân dân, pháp quyền, chủ nghĩa hiến pháp... Những lý thuyết này tuy có nội hàm khác nhau, song chia sẻ những giá trị chung như: dân chủ, bảo vệ nhân quyền, kiểm soát quyền lực và sự công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Đây là những giá trị được đại diện và bảo vệ bởi thiết chế Ombudsman.
<i><b>b) Cơ cấu tổ chức </b></i>
Thanh tra Quốc hội sẽ do Quốc hội bầu ra với nhiệm kỳ nhất định (ở Thụy Điển và Phần Lan là 4 năm) và có thể được bầu lại. Mặc dù khơng có quy định chính thức rằng thành viên Thanh tra Quốc hội phải là một luật gia nhưng trên thực tế, các Thanh tra Quốc hội là những người đã được đào tạo bài bản về pháp luật.
Mỗi Thanh tra viên phụ trách riêng từng mảng lĩnh vực của mình và một trong bốn Thanh tra viên sẽ có một người giữ chức vụ Trưởng Thanh tra. Trưởng Thanh tra chịu trách nhiệm quản lý, đưa ra quyết định và phân bố các lĩnh vực hoạt động cho các Thanh tra viên khác. Tuy vậy, Trưởng Thanh tra cũng không thể can thiệp vào hoạt động trong lĩnh vực cụ thể của một Thanh tra viên khác. Thêm vào đó, mỗi Thanh tra viên hoạt động tương đối độc lập và chịu trách nhiệm cá nhân trực tiếp trước Quốc hội về hành vi của mình. Mỗi năm, các Thanh tra viên sẽ phải đệ trình báo cáo thường niên lên Quốc hội cũng như Ủy ban thường trực về Hiến pháp. Sau đó, các Thanh tra viên cũng có thể phải đưa ra những báo cáo bằng văn bản riêng của mình nếu như Quốc hội có yêu cầu trong từng trường hợp cụ thể.
<small>14</small><i><small> Trương Thị Hồng Hà, “Thanh tra Quốc hội của một số nước trên thế giới”, trong cuốn Những thiết chế hiến định độc lậ”, NXB. Hồng Đức, Hà Nội, 2008, tr. 68 </small></i>
</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16"><i><b>c) Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn </b></i>
Chức năng chủ yếu của Cơ quan Thanh tra Quốc hội là giám sát và bảo vệ sự cơng bằng và tính pháp lý trong hoạt động của bộ máy hành chính cơng (bao gồm hoặc có thể rộng hơn việc bảo vệ quyền con người). Mặc dù các Cơ quan Thanh tra Quốc hội trên thế giới khơng hồn tồn giống nhau về cách thức tổ chức nhưng khá đồng nhất về chức năng, nhiệm vụ và thủ tục hoạt động.
Cụ thể, văn phòng Ombudsman có trách nhiệm bảo vệ quyền của những người là nạn nhân của những hành vi, quyết định của cơ quan hành pháp. Do đó, ở các nước có định chế này, Ombudsman thường được coi là trung gian hịa giải giữa cá nhân có quyền bị xâm phạm với chính quyền. Hiện tại, một số quốc gia trên thế giới đã thành lập Ombudsman như là một cơ chế quốc gia để thúc đẩy và bảo vệ quyền con người (Đan Mạch, Thụy Điển, Áo, Tây Ban Nha, Vênêzuêla…). Quy trình hoạt động của Ombudsman ở các quốc gia tương đối giống nhau.
Ombudsman nhận khiếu nại từ công chúng và tiến hành điều tra nếu vụ việc thuộc thẩm quyền của mình. Ở một số quốc gia, người dân có thể gửi đơn khiếu nại trực tiếp đến văn phòng Ombudsman, nhưng ở một số quốc gia khác, người dân chỉ có thể gửi qua trung gian, ví dụ như thơng qua các đại biểu Quốc hội ở địa phương. Các đơn khiếu nại thường được giữ bí mật danh tính trừ khi có sự đồng ý của người khiếu nại. Không chỉ giải quyết các vụ việc khi được yêu cầu, giống như các ủy ban quyền con người quốc gia, ở nhiều nước, Ombudsman còn có thẩm quyền chủ động tiến hành điều tra những vi phạm quyền con người trên phạm vi rộng hoặc thu hút sự quan tâm lớn của cơng chúng. Nhìn chung, thẩm quyền của Ombudsman và Ủy ban quyền con người quốc gia có nhiều điểm giống nhau liên quan đến tiếp nhận và giải quyết khiếu nại. Tuy nhiên, hai cơ chế này vẫn có những điểm khác biệt (đó là lý do mà một số quốc gia có cả hai loại cơ chế, ví dụ như Đan Mạch). Sự khác nhau thể hiện ở chỗ Ombudsman chủ yếu bảo đảm công bằng và pháp chế trong quản lý hành chính, trong khi các ủy ban quyền con người quốc gia quan tâm đến những vi phạm quyền con người ở phạm vi rộng hơn, đặc biệt là các vi phạm liên quan đến vấn đề phân biệt đối xử. Thêm vào đó, Ombudsman chủ yếu tập trung vào những vi phạm quyền con người của các cơ quan và viên chức nhà nước, trong khi các ủy ban quyền con người quốc gia quan tâm cả đến các vi phạm quyền con người của các cá nhân và chủ thể tư nhân.
Như vậy, Ombudsman là một thiết chế giám sát được thừa nhận ở nhiều nước trên thế giới. Với vai trò giám sát, giải quyết các khiếu nại, tố cáo của nhân dân, bảo vệ quyền con người, quyền cơng dân, phịng chống tiêu cực, tham nhũng, Ombudsman thể hiện mối quan hệ giữa Quốc hội và nhân dân, giúp Quốc hội giải quyết phần lớn những nhiệm vụ liên quan đến hoạt động giám sát của Quốc hội.
<b>1.3.3 Các cơ quan chuyên trách về vấn đề nhân quyền (Specialized Institution) </b>
Ngoài hai dạng phổ biến kể trên, một mơ hình ngày càng được ưa chuộng và xuất hiện nhiều là việc hình thành một tổ chức có trách nhiệm thúc đẩy và bảo vệ các quyền nhất định (ví dụ: các quyền liên quan đến giới tính, trẻ em, người bản địa…) ở các quốc gia. Hay nói cách khác đây là việc một số nước thành lập ra các cơ quan chuyên trách về một vấn đề nhân quyền cụ thể hoặc quyền của một số nhóm xã hội nhất định, cụ thể như các Ủy ban quốc gia về người thiểu số, người bản địa, phụ nữ, trẻ em, người khuyết tật, người lao động di trú…
</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">Việc phối hợp giữa các cơ quan chuyên trách như vậy rất được khuyến khích để các chức năng và quyền hạn của họ được sử dụng theo cách đảm bảo bảo vệ và thúc đẩy quyền con người tương đối triệt để. Ủy ban điều phối quốc tế (The International Coordinating Committee) đã thừa nhận sự phát triển này, điều đang dần trở nên phổ biến hơn ở nhiều khu vực trên thế giới.
<b>1.4. Vai trò của Cơ quan Nhân quyền quốc gia </b>
Vai trò của các Cơ quan Nhân quyền quốc gia, ngay từ khi chúng ra đời đã được xác định là nhằm để bảo vệ và thúc đẩy sự phát triển các quyền con người. Trong phạm vi quốc gia, các Cơ quan Nhân quyền quốc gia đảm nhiệm chức trách như là một chuyên gia hoặc một “ngọn hải đăng” đối với các nhà hoạt động khác trong Hệ thống Nhân quyền quốc gia bằng cách nhận diện và giám sát các vấn đề về nhân quyền cũng như giáo dục và ủng hộ cho việc thúc đẩy và bảo vệ quyền con người. Ví dụ, một Cơ quan Nhân quyền quốc gia có thể đưa ra lời khuyên cho Chính phủ và Nghị viện trong việc làm luật, đưa ra các chính sách, kế hoạch, v.v. Một số Cơ quan Nhân quyền quốc gia có thẩm quyền bán tư pháp (quasi-judicial), cho phép họ bổ sung cho tòa án trong những vụ việc liên quan đến vi phạm nhân quyền, thông qua những cuộc điều tra cơng khai hoặc làm trung gian hịa giải. Tuy nhiên, phạm vi ảnh hưởng và quyền lực của Cơ quan Nhân quyền quốc gia hẹp hơn nhiều lần so với tòa án.
Ở cấp độ rộng hơn, các Cơ quan Nhân quyền quốc gia cịn đóng một vai trò chủ đạo trong việc làm cầu nối giữa hệ thống Nhân quyền quốc gia, khu vực và quốc tế. Các cơ quan này có nhiệm vụ đảm bảo rằng các chuẩn mực và tiêu chuẩn nhân quyền quốc tế được tôn trọng và đưa vào thực hiện một cách phù hợp ở từng quốc gia. Họ cịn có thề độc lập báo cáo các mối lo ngại về quyền con người tại địa phương đến các cơ quan và cơ chế nhân quyền khu vực và quốc tế và nhờ đó mang những vấn đề về nhân quyền này đến các diễn đàn khu vực và quốc tế. Những Cơ quan Nhân quyền quốc gia mạnh mẽ và hiệu quả sẽ giúp chắc chắn việc các quốc gia, với tư cách là người chịu trách nhiệm, có thể thực hiện được những nghĩa vụ nhân quyền quốc tế trên lãnh thổ mình và nhờ đó người dân có thể được bảo đảm các quyền vốn có của mình. Bằng cách này, các Cơ quan Nhân quyền quốc gia nếu hoạt động có hiệu quả sẽ là trở thành trung gian nối kết giữa quyền của các cá nhân với trách nhiệm của nhà nước.
Nguyên tắc Paris yêu cầu các Cơ quan Nhân quyền quốc gia phải có vai trị càng rộng càng tốt, xoay quanh hai trách nhiệm chính bao gồm bảo vệ quyền con người và thúc đẩy quyền con người. Xuất phát từ hai vai trò trung tâm này, thực tiễn đã phát sinh ra các nhiệm vụ và chức năng xuyên suốt, cụ thể mà các Cơ quan Nhân quyền quốc gia đang thực hiện một cách thường xuyên nhằm đảm bảo cho việc bảo vệ và phát triển vấn đề nhân quyền như sau:
<i>Một là, bảo vệ quyền con người, với vai trò này, các Cơ quan Nhân quyền quốc </i>
gia có trách nhiệm chính xoay quanh các nội dung là: giúp xác định và điều tra các vi phạm về nhân quyền; đưa những người chịu trách nhiệm về các vi phạm nhân quyền ra
</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">trước công lý; cung cấp những biện pháp khắc phục và bồi thường cho các nạn nhân. Các Cơ quan Nhân quyền quốc gia ở hầu hết các nước sẽ được giao cho thẩm quyền hợp pháp để thực hiện các chức năng này, họ hồn tồn có thể đưa ra các quan điểm, kiến nghị của mình hoặc thậm chí tìm kiếm các biện pháp khắc phục trước tòa án (rút ra từ sự tham khảo các đạo luật hiện hành). Cụ thể, các Cơ quan Nhân quyền quốc gia sẽ trình lên Chính phủ, Nghị viện (Quốc hội) và bất kỳ cơ quan có thẩm quyền nào khác những ý kiến, khuyến nghị, đề xuất và báo cáo về tất cả những vấn đề liên quan đến thúc đẩy và bảo vệ quyền con người. Về vai trò đối với hệ thống pháp luật, thúc đẩy và bảo đảm sự tương thích của pháp luật quốc gia với các văn kiện pháp lý quốc tế mà quốc gia là thành viên, và việc áp dụng chúng một cách hiệu quả; khuyến khích việc phê chuẩn, gia nhập và áp dụng các văn kiện quốc tế về quyền con người là các công việc được các cơ quan này xem trọng và tiến hành với tư cách là những chức năng, nhiệm vụ chính yếu. Ngồi ra, họ cịn thường xun đóng góp ý kiến xây dựng các báo cáo quốc gia trình lên các ủy ban và cơ quan Liên hợp quốc cũng như cho các cơ quan khu vực và khi cần thiết thì bày tỏ quan điểm về nội dung của các báo cáo do quốc gia khác trình lên.
<i>Hai là, thúc đẩy quyền con người, bên cạnh việc bảo vệ và ngăn chặn các vi phạm </i>
nhân quyền, các Cơ quan Nhân quyền quốc gia đồng thời đảm nhiệm một sứ mệnh quan trọng là tạo ra một không gian mang bản sắc quốc gia về nhân quyền, nơi phát triển lịng khoan dung, sự bình đẳng và tơn trọng lẫn nhau. Nhiệm vụ này thường hướng đến những cơng việc mang tính chất giáo dục, tun truyền, tạo nền tảng nhận thức về các vấn đề xoay quanh quyền con người. Thực hiện sứ mệnh này, một biện pháp được tiến hành thường xuyên và rộng rãi bởi các Cơ quan Nhân quyền quốc gia đó là phổ biến những kiến thức, hiểu biết về quyền con người và nỗ lực chống mọi hình thức phân biệt đối xử, đặc biệt là phân biệt đối xử về sắc tộc bằng việc tăng cường nhận thức cho công chúng, đặc biệt là qua việc giáo dục, thông tin, hợp tác với các cơ quan báo chí. Bên cạnh đó, họ cịn hỗ trợ việc xây dựng các chương trình giảng dạy và nghiên cứu về quyền con người và tham gia triển khai các chương trình đó trên thực tế. Trong phạm vi rộng hơn, họ sẽ chủ động tiến hành việc hợp tác với Liên hợp quốc, các cơ quan của Liên hợp quốc, các cơ quan khu vực và các cơ quan quốc gia về thúc đẩy và bảo vệ quyền con người của các nước khác, đây là cơng việc thường thấy ở các nước có cơ chế về nhân quyền phát triển mạnh mẽ, được thành lập từ sớm như Thụy Điển, Đan Mạch, Hoa Kỳ,… bởi chúng là các cơ quan có bề dày kinh nghiệm, có khả năng chia sẻ và giúp đỡ cho bạn bè quốc tế trên khía cạnh thúc đẩy nhân quyền.
<b>KẾT LUẬN CHƯƠNG I </b>
Trong phạm vi chương I của bài nghiên cứu này, nhóm tác giả đã trình bày các vấn đề lý luận xoay quanh Cơ quan Nhân quyền quốc gia thơng qua việc tìm hiểu trên các khía cạnh lịch sử hình thành, khái niệm, đặc điểm, vai trò của hệ thống cơ quan này. Các phần được phân tích trong chương trên được tổng kết lại bẳng các nội dung sau đây:
Việc tăng nhanh và mạnh về số lượng cũng như sự xuất hiện rộng rãi trên gần 100 quốc gia và vùng lãnh thổ của các Cơ quan Nhân quyền quốc gia đã cho thấy chúng chỉ thật sự phát triển và tồn tại một cách rõ rệt hơn kể từ những năm đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX. Nhằm giải quyết phần nào các thách thức đặt ra trong những ngày đầu hình thành nên các Cơ quan Nhân quyền quốc gia, Ủy ban Nhân quyền liên hợp quốc đã triệu
</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">tập một hội nghị tại Paris vào năm 1991, nơi tập hợp đại diện của các tổ chức nhân quyền quốc gia từ khắp nơi trên thế giới để xác định các thuộc tính cốt lõi mà tất cả các Cơ quan Nhân quyền quốc gia nên có đồng thời phát triển nên các quy tắc, hướng dẫn, …
Nhìn chung, Cơ quan Nhân quyền quốc gia được hiểu là cơ quan do nhà nước thành lập nhằm mục đích thúc đẩy và bảo vệ quyền con người trong phạm vi quốc gia. Và các cơ quan này được hình thành dựa trên cơ sở là Nguyên tắc Paris và được định hướng xây dựng dựa trên bộ ngun tắc này.
Trên thực tế, khơng có một mơ hình chung về Cơ quan Nhân quyền cho các quốc gia do sự đa dạng và phong phú về thể chế chính trị, đặc điểm dân cư, khác biệt về lịch sử, địa lý, văn hóa, ... Mỗi nước có những mơ hình Cơ quan Nhân quyền khác nhau. Tuy nhiên, các Cơ quan Nhân quyền thông thường được thiết lập theo ba hình thức chủ yếu đó là: (1) Ủy ban nhân quyền quốc gia; (2) Cơ quan thanh tra Quốc hội (Ombudsman); (3) Cơ quan chuyên trách về một vấn đề nhân quyền cụ thể
Vai trò của các Cơ quan Nhân quyền quốc gia, ngay từ khi chúng ra đời đã được xác định là hướng đến bảo vệ và thúc đẩy sự phát triển các quyền con người. Những vai trị trung tâm này đã hình thành nên các trách nhiệm và chức năng xuyên suốt khác của Cơ quan Nhân quyền quốc gia nhằm đảm bảo cho việc thúc đẩy và bảo vệ nhân quyền ở các nước.
<b>CHƯƠNG II: CƠ QUAN NHÂN QUYỀN QUỐC GIA Ở MỘT SỐ QUỐC GIA TRÊN THẾ GIỚI </b>
<b>2.1 Cơ quan nhân quyền quốc gia ở Hoa Kỳ </b>
Cơ quan nhân quyền của Hoa Kỳ là Cổng Thông tin Nhân Quyền Quốc gia Hoa Kỳ (U.S. National Human Rights Institution), được thành lập và hoạt động dưới sự chỉ đạo của Ủy ban Nhân quyền Quốc gia Ho a Kỳ (U.S. Commission on Civil Rights). Cơ quan này có nhiệm vụ kiểm tra và giám sát việc tuân thủ các quyền con người tại Hoa Kỳ, bao gồm quyền công dân, quyền bình đẳng, quyền tự do tơn giáo, quyền tự do ngôn luận và quyền không bị tra tấn.
<b>2.1.1 Cách thức thành lập </b>
Ủy ban Dân quyền là một ủy ban độc lập, lưỡng đảng của chính phủ liên bang Hoa Kỳ, được thành lập theo Đạo luật Dân quyền năm 1957 dưới thời chính quyền Eisenhower. Được tái thành lập thành Ủy ban Dân quyền Hoa Kỳ theo Đạo luật sửa đổi Ủy ban Dân quyền năm 1994.
Ủy ban được thành lập để đáp lại khuyến nghị của Ủy ban Đặc biệt về Dân quyền của Tổng thống, cần có một ủy ban thường trực trong một xã hội dân chủ. Vì lúc bấy giờ trong chính phủ khơng có một cơ quan nào chịu trách nhiệm đánh giá các tình trạng của quyền công dân, việc xem xét, phê phán các nhu cầu xã hội và chính sách cơng là một điều cần thiết cơ bản đối với lĩnh vực quyền công dân. Và điều này đúng với một nơi đang tồn đọng nhiều vấn đề và phạm vi ngày càng lớn...sự tiếp cận tạm thời, lẻ tẻ, hời hợt không thể giải quyết triệt để được các vấn đề đó. Một Ủy ban thường trực có thể thực hiện chức năng vô giá bằng cách hỗ trợ phát triển chính sách dân quyền quốc gia và tăng cường thực thi luật dân quyền liên bang. Ủy ban tổ chức các phiên điều trần công khai, thu thập và nghiên cứu thông tin về phân biệt đối xử hoặc từ chối sự bảo vệ bình đẳng của pháp luật vì chủng tộc, màu da, tơn giáo, giới tính, tuổi tác, khuyết tật
</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">hoặc nguồn gốc quốc gia; về phân biệt đối xử trong quyền bầu cử; và về phân biệt đối xử trong quản lý tư pháp.
Ngay sau khi Đạo luật 1957 được thông qua, Ủy ban lưỡng đảng lúc bấy giờ gồm sáu thành viên: John A. Hannah , Chủ tịch Đại học Bang Michigan; Robert Storey, Hiệu trưởng Trường Luật Đại học Giám lý Phương Nam; Cha Theodore Hesburgh , Hiệu trưởng Đại học Notre Dame; John Stewart Battle , cựu thống đốc bang Virginia; Ernest Wilkins , luật sư của Bộ Lao động; và Doyle E. Carlton , cựu thống đốc bang Florida<small>15</small>.
<b>2.1.2 Cơ cấu tổ chức, thành viên </b>
Ủy ban thành lập các Ủy ban cố vấn ở mọi tiểu bang, Đặc khu Columbia và năm vùng lãnh thổ của Hoa Kỳ. Các Ủy ban này đóng vai trị là “tai mắt” của Ủy ban và tư vấn cho Ủy ban về các vấn đề dân quyền tại địa phương của họ.
Ủy ban Dân quyền Hoa Kỳ (U.S. Commission on Civil Rights) được tổ chức theo cơ cấu sau:
<b>Chủ tịch: Chủ tịch của Uỷ ban được bổ nhiệm bởi Tổng thống Hoa Kỳ và là người </b>
đứng đầu của Uỷ ban. Chủ tịch có nhiệm vụ chủ trì các cuộc họp của Uỷ ban và đại diện cho Uỷ ban trong các hoạt động và sự kiện.
<b>Tổng thư ký: Tổng thư ký của Uỷ ban là người đứng đầu văn phòng của Uỷ ban. </b>
Tổng thư ký có nhiệm vụ quản lý các hoạt động hàng ngày của Uỷ ban và đảm bảo việc thực hiện các quyết định của Uỷ ban.
<b>Các Ủy viên: Uỷ ban Dân quyền có tối đa 8 ủy viên được bổ nhiệm bởi Tổng </b>
thống và phải được Thượng viện Hoa Kỳ xác nhận. Các ủy viên phải đại diện cho các cộng đồng và lĩnh vực khác nhau trong xã hội, bao gồm các cộng đồng dân tộc, giới tính, tơn giáo, và khuyết tật. Các ủy viên có nhiệm vụ giám sát và đánh giá tình hình dân quyền và phân biệt đối xử trên toàn quốc, tiến hành các cuộc điều tra và nghiên cứu về các vấn đề dân quyền và phân biệt đối xử, và đưa ra các khuyến nghị và đề xuất giải pháp để giải quyết các vấn đề này.
<b>Các Văn phòng: Uỷ ban Dân quyền có các văn phịng tại Washington DC và các </b>
thành phố khác trên toàn quốc. Các văn phịng này có nhiệm vụ hỗ trợ các hoạt động của Uỷ ban, bao gồm tổ chức các cuộc điều tra, hội thảo và buổi lắng nghe, thu thập dữ liệu và thông tin về các vấn đề dân quyền và phân biệt đối xử, và cung cấp thông tin và tư liệu cho các chính quyền, các tổ chức phi chính phủ và cơng chúng.<small>16</small>
<b>2.1.3 Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn </b>
<i>a) Nhiệm vụ </i>
Ủy ban Dân quyền có nhiệm vụ chung là thúc đẩy và bảo vệ các quyền dân sự tại
<i>Hoa Kỳ. Các nhiệm vụ của thể bao gồm: </i>
<i><b>Điều tra các hành vi lạm dụng quyền công dân: Ủy ban điều tra các cáo buộc lạm </b></i>
dụng quyền công dân, bao gồm phân biệt đối xử dựa trên chủng tộc, giới tính, tơn giáo, nguồn gốc quốc gia, tuổi tác và tình trạng khuyết tật.
</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21"><i>Tiến hành nghiên cứu và giáo dục công chúng: Ủy ban tiến hành nghiên cứu và </i>
giáo dục công chúng về các vấn đề quyền công dân, bao gồm lập báo cáo, tiến hành điều trần và phổ biến thông tin cho công chúng.
<i>Đưa ra khuyến nghị: Ủy ban đưa ra khuyến nghị cho chính quyền liên bang, tiểu </i>
bang và địa phương, cũng như cho các tổ chức tư nhân, về cách cải thiện việc bảo vệ quyền công dân và giải quyết các vi phạm quyền công dân.
<i>Cung cấp hỗ trợ kỹ thuật: Ủy ban cung cấp hỗ trợ kỹ thuật cho các cá nhân, tổ </i>
chức và cơ quan chính phủ về các vấn đề dân quyền.
<i>Thúc đẩy và nâng cao nhận thức về dân quyền: các Ủy ban thúc đẩy và nâng cao </i>
nhận thức về dân quyền và làm việc để nâng cao nhận thức của công chúng về các vấn đề về quyền công dân.
Ủy ban thực hiện nhiệm vụ của mình theo một số cách sau:
Một là, tổ chức các cuộc họp giao ban công khai, phát hành thông cáo báo chí, cơng khai thơng tin trên trang Web của Ủy ban và cung cấp dịch vụ giới thiệu khiếu nại để nâng cao nhận thức cộng đồng về các vấn đề, bảo vệ và thực thi quyền công dân;
Hai là, tiến hành các phiên điều trần về các vấn đề cực kỳ quan trọng về quyền công dân, bao gồm phát hành trát đòi hầu tòa để cung cấp tài liệu và sự có mặt của các nhân chứng;
Ba là, xuất bản các nghiên cứu và báo cáo quan trọng về nhiều vấn đề dân quyền, thường bao gồm các phát hiện và khuyến nghị, để cung cấp thông tin và tư vấn cho các nhà hoạch định chính sách; Và duy trì sự tham gia của Ủy ban cố vấn trong việc <small>17</small>lập kế hoạch chương trình quốc gia để tăng cường tìm hiểu thực tế bằng cách mở rộng phạm vi nghiên cứu để bao gồm các quan điểm và dữ liệu của tiểu bang và địa phương.
(ii) Để nghiên cứu và thu thập thông tin liên quan đến phân biệt đối xử hoặc từ chối bảo vệ bình đẳng của pháp luật theo Hiến pháp vì màu da, chủng tộc, tơn giáo, giới tính, tuổi tác, khuyết tật hoặc nguồn gốc quốc gia hoặc trong quản lý tư pháp;
(iii) Để thẩm định các luật và chính sách của Chính phủ Liên bang liên quan đến phân biệt đối xử hoặc từ chối sự bảo vệ bình đẳng của các luật theo Hiến pháp vì màu da, chủng tộc, tơn giáo, giới tính, tuổi tác, khuyết tật, hoặc nguồn gốc quốc gia hoặc trong việc quản lý tư pháp;
<small>17</small><i><small>“Our Mission”, U.S. Commission on Civil Rights – Since 1957, </small></i><small> </small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">(iv) Để phục vụ như một cơ quan thanh toán bù trừ quốc gia về thông tin liên quan đến phân biệt đối xử hoặc từ chối sự bảo vệ bình đẳng của pháp luật vì màu da, chủng tộc, tơn giáo, giới tính, tuổi tác, khuyết tật hoặc nguồn gốc quốc gia; (v) Để chuẩn bị các thông báo dịch vụ công cộng và các chiến dịch quảng cáo nhằm
ngăn chặn sự phân biệt đối xử hoặc từ chối sự bảo vệ bình đẳng của pháp luật vì màu da, chủng tộc, tơn giáo, giới tính, tuổi tác, khuyết tật hoặc nguồn gốc quốc gia.<small>18</small>
Thứ hai, theo tiêu đề 42 Bộ luật Hoa Kỳ (U.S. Code) §1975a – Khoản (c): Báo cáo, Ủy ban phải nộp ít nhất một báo cáo hàng năm giám sát các nỗ lực thực thi quyền dân sự của Liên bang tại Hoa Kỳ và các báo cáo khác như vậy cho Tổng thống và Quốc hội vào những thời điểm như Ủy ban, Quốc hội, hoặc Tổng thống sẽ cho là phù hợp.
Thứ ba, để hoàn thành các trách nhiệm này, Ủy ban được Đạo luật cho phép tổ chức các phiên điều trần và đưa ra trát hầu tòa để có mặt các nhân chứng; tham khảo ý kiến của các thống đốc, tổng chưởng lý; và các đại diện khác của chính quyền Tiểu bang và địa phương, và các tổ chức tư nhân; và được yêu cầu thành lập một ủy ban cố vấn ở mỗi Bang. Đạo luật cũng quy định rằng tất cả các cơ quan Liên bang phải hợp tác đầy đủ với Ủy ban để Ủy ban có thể thực hiện hiệu quả các chức năng và nhiệm vụ của mình.<small>19</small>
<i>c) Chức năng </i>
Ủy ban về Quyền Công dân thu thập và nghiên cứu thông tin về phân biệt đối xử hoặc từ chối sự bảo vệ bình đẳng của pháp luật vì chủng tộc, màu da, tơn giáo, giới tính, tuổi tác, khuyết tật, nguồn gốc quốc gia hoặc trong việc quản lý tư pháp trong các lĩnh vực như quyền biểu quyết, thực thi của luật dân quyền liên bang, và bình đẳng ...<small>20</small>
<i>d) Quyền hạn </i>
Các cơ quan nhân quyền tại Hoa Kỳ có quyền hạn và trách nhiệm để bảo vệ và thúc đẩy quyền lợi và tự do của con người, đảm bảo sự công bằng và bình đẳng trong xã hội, và ngăn chặn bất kỳ hành vi phân biệt chủng tộc, tôn giáo, giới tính, hoặc sắc tộc nào.
Những quyền hạn cụ thể của các cơ quan nhân quyền tại Hoa Kỳ bao gồm:
<i><b>Tiếp nhận khiếu nại: Các cơ quan nhân quyền tại Hoa Kỳ có trách nhiệm tiếp nhận </b></i>
các khiếu nại về vi phạm quyền lợi và tự do của người dân.
<i>Điều tra: Các cơ quan nhân quyền có quyền điều tra các vấn đề liên quan đến nhân </i>
quyền, nghiên cứu và đưa ra các khuyến nghị về các vấn đề này.
<i>Tổ chức phiên điều trần cơng khai: Các cơ quan nhân quyền có quyền tổ chức các </i>
phiên điều trần công khai để thu thập thông tin và đưa ra các khuyến nghị.
<i>Ra lệnh truy tìm (subpoena): Các cơ quan nhân quyền có quyền ra lệnh truy tìm </i>
để thu thập thơng tin từ các cơ quan chính phủ và các tổ chức tư nhân.
</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23"><i>Đưa ra khuyến nghị và báo cáo: Các cơ quan nhân quyền có quyền đưa ra các </i>
khuyến nghị và báo cáo về các vấn đề liên quan đến nhân quyền. Những khuyến nghị và báo cáo này được coi là có tầm quan trọng lớn trong việc hình thành chính sách cơng cộng và cung cấp thông tin cho công chúng về các vấn đề liên quan đến nhân quyền.
<i>Giám sát việc thực thi chính sách và luật pháp về nhân quyền: Các cơ quan nhân </i>
quyền có quyền giám sát việc thực thi chính sách và luật pháp về nhân quyền và đưa ra các khuyến nghị để cải thiện tình trạng nhân quyền trong nước.
Tuy nhiên, các cơ quan nhân quyền tại Hoa Kỳ khơng có quyền thực thi. Việc thực thi các khuyến nghị và báo cáo của các cơ quan nhân quyền là trách nhiệm của các cơ quan chính phủ khác, như Quốc hội, Tổng thống và các tịa án.<small>2122</small>Mặc dù vậy, Ủy ban đóng vai trị quan trọng trong việc giám sát và bảo vệ quyền lợi về nhân quyền tại Hoa Kỳ.
<b>2.1.4 Nhận xét về các cơ quan nhân quyền quốc gia ở Hoa Kỳ </b>
<i>a) Một số nhận xét chung về nhân quyền ở Hoa Kỳ </i>
Ở một số quốc gia, nhân quyền không được tôn trọng và bảo vệ đầy đủ, trong khi ở các quốc gia khác, nhân quyền được coi là quyền cơ bản và được đảm bảo bởi pháp luật. Dưới đây là một số điểm khác nhau giữa dân quyền ở Hoa Kỳ so với một số quốc gia khác:
Thứ nhất, tự do ngôn luận: Tự do ngôn luận là một quyền cơ bản của dân quyền, và ở Hoa Kỳ, nó được bảo vệ bởi Hiến pháp. Tuy nhiên, ở một số quốc gia, tự do ngôn luận bị hạn chế, và người dân không được tự do bày tỏ ý kiến hoặc tham gia vào các hoạt động chính trị.
Thứ hai, quyền bầu cử: Quyền bầu cử cũng là một quyền cơ bản của dân quyền, và ở Hoa Kỳ, mọi công dân đều có quyền bầu cử và tham gia vào q trình chính trị. Tuy nhiên, ở một số quốc gia, quyền bầu cử không được đảm bảo hoặc bị hạn chế đáng kể.
Thứ ba, quyền tôn giáo: Tôn giáo là một phần quan trọng của cuộc sống của nhiều người, và ở Hoa Kỳ, quyền tôn giáo được bảo vệ bởi Hiến pháp. Tuy nhiên, ở một số quốc gia, quyền tôn giáo bị hạn chế hoặc bị coi là vi phạm quy định pháp luật.
Thứ tư, quyền sở hữu: Quyền sở hữu là một quyền cơ bản của dân quyền, và ở Hoa Kỳ, quyền này được bảo vệ bởi pháp luật. Tuy nhiên, ở một số quốc gia, quyền sở hữu bị hạn chế hoặc khơng được đảm bảo đầy đủ.
<i>b) Phân tích ưu và nhược điểm của cơ quan nhân quyền quốc gia ở Hoa Kỳ </i>
So với các hệ thống cơ quan nhân quyền khác trên thế giới, Uỷ ban Dân quyền của Hoa Kỳ có những điểm nổi trội hơn cả, cụ thể là:
(i) Pháp luật và hệ thống pháp lý:
Tất cả các nước đều có các luật và hệ thống pháp lý để bảo vệ quyền con người và dân quyền. Tuy nhiên, cách thức và cấp độ thực thi các luật pháp này có thể khác nhau ở mỗi quốc gia. Hoa Kỳ có một hệ thống pháp lý phát triển, độc lập và khá mạnh mẽ, với nhiều quy định bảo vệ quyền con người và dân quyền. Tuy
<small>21</small><i><small> “Official Views”, U.S. Commission on Civil Rights – Since 1957, </small></i><small> “Civil Rights”, U.S. Commission on Civil Rights – Since 1957,</small></i><small> </small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">nhiên, việc thực thi pháp luật và bảo vệ quyền con người vẫn còn nhiều hạn chế và tranh cãi trong nước.
(ii) Độc lập và khách quan:
Ủy ban Dân quyền Hoa Kỳ được thành lập nhằm đảm bảo một cơ quan độc lập, không phụ thuộc vào chính phủ, để giám sát và bảo vệ dân quyền và nhân quyền. Điều này đảm bảo được khả năng đánh giá và giải quyết các khiếu nại về quyền con người một cách khách quan và độc lập không bị ảnh hưởng hay chi phối bởi chính phủ.
(iii) Chun mơn và hiệu quả:
Là một cơ quan chuyên môn với nhiều năm kinh nghiệm trong việc giám sát và bảo vệ dân quyền và nhân quyền. Điều này giúp cho Ủy ban có khả năng đưa ra các đề xuất và giải pháp hiệu quả để bảo vệ quyền con người.
(iv) Quy mô lớn và phạm vi rộng:
Hoạt động của Ủy ban Dân quyền Hoa Kỳ bao gồm cả giám sát và bảo vệ quyền dân và nhân quyền trên toàn quốc. Điều này giúp Ủy ban tiếp cận được với nhiều người và giải quyết các khiếu nại về quyền con người ở nhiều địa điểm khác nhau trên lãnh thổ Hoa Kỳ.
(v) Được tài trợ bởi chính phủ:
Ủy ban Dân quyền Hoa Kỳ được tài trợ bởi chính phủ Hoa Kỳ, điều này giúp cho hoạt động và triển khai các hoạt động giám sát và bảo vệ quyền con người một cách hiệu quả.
Mặc dù Ủy ban Dân quyền Hoa Kỳ đóng vai trị quan trọng trong việc bảo vệ quyền con người, nhưng thể chế này cũng có những hạn chế ta cần quan tâm, khắc phục. Trong đó, bao gồm:
Một là, giới hạn quyền lực: Uỷ ban Dân quyền Hoa Kỳ khơng có quyền thực hiện các biện pháp trừng phạt hay áp đặt các hình phạt đối với các cá nhân hay tổ chức vi phạm quyền dân quyền.
Hai là, phụ thuộc vào ngân sách chính phủ: Uỷ ban Dân quyền Hoa Kỳ phải phụ thuộc vào ngân sách của chính phủ để hoạt động. Khi chính phủ cắt giảm ngân sách, Ủy ban có thể gặp khó khăn trong việc thực hiện nhiệm vụ của mình.
Ba là, hạn chế về địa lý: Uỷ ban Dân quyền Hoa Kỳ chỉ có thẩm quyền giám sát và bảo vệ quyền dân quyền và nhân quyền trên lãnh thổ Hoa Kỳ, khơng có thẩm quyền trên các vấn đề quốc tế.
<b>2.2 Cơ quan nhân quyền quốc gia ở Đan Mạch </b>
Đan Mạch là một quốc gia ở khu vực Bắc Âu thuộc châu Âu – quê hương của nhiều thể chế dân chủ, cũng là khu vực có nhiều cơ quan nhân quyền quốc gia được thành lập sớm nhất so với các khu vực trên thế giới. Ở châu âu, các mơ hình cơ quan nhân quyền quốc gia tương đối đa dạng, đó là lý do một số nước ở khu vực này thường đồng thời tồn tại nhiều cơ quan nhân quyền quốc gia. Đan Mạch là một trong số các nước có cả hai loại cơ chế, bao gồm mơ hình Viện Nhân quyền quốc gia và Thanh tra Quốc hội (Ombudsman).
<b>2.2.1 Cách thức thành lập </b>
<i>a) Viện Nhân quyền quốc gia Đan Mạch (DIHR) </i>
Viện Nhân quyền Đan Mạch (DIHR) là một tổ chức nhân quyền quốc gia (NHRI) hoạt động dựa trên Nguyên tắc Paris của Liên hợp quốc. Ban đầu, cơ quan này được
</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">thành lập với tư cách là Trung tâm Nhân quyền Đan Mạch theo quyết định của Quốc hội nước này vào ngày 5/5/1987. Từ tháng 1/2003 đến tháng 1/2013, do có sự thay đổi về chính trị nên nhiệm vụ của Trung tâm bị thu hẹp hơn và đổi tên thành Viện nhân quyền Đan Mạch trực thuộc Trung tâm Nhân quyền và các vấn đề đối ngoại của Đan Mạch (Danish Centre for International Studies and Human Rights). Trung tâm đóng cửa vào cuối năm 2012 và từ đây Viện nhân quyền Đan Mạch bắt đầu hoạt động như một
<b>tổ chức độc lập. </b>
Công việc của Viện Nhân quyền Đan Mạch bao gồm nghiên cứu, phân tích, truyền thơng, giáo dục, … cũng như tổ chức và tham gia một số lượng lớn các hoạt động, chương trình ở trong nước và quốc tế. Đây là một cơ quan vì sự bình đẳng, do đó có nhiệm vụ thúc đẩy việc đối xử bình đẳng bất kể chủng tộc, dân tộc, giới tính và tình trạng khuyết tật.
Trong số khoảng 100 cơ quan nhân quyền quốc gia, viện nhân quyền Đan Mạch là một trong những tổ chức lớn và được quốc tế đánh giá cao nhất. Đây là một trong số ít cơ quan nhân quyền quốc gia đã tham gia tích cực vào việc xác định vai trò của các tổ chức trong việc bảo vệ quyền con người, viện đã phát triển ra công cụ đầu tiên để đánh giá Tác động Nhân quyền và công cụ này hiện được các tổ chức trên thế giới sử dụng một cách thường xuyên.
<i>b) Thanh tra Quốc hội Đan Mạch (Ombudsman) </i>
Mơ hình Thanh tra Quốc hội ở Đan Mạch vẫn mang những đặc trưng phổ biến của thiết chế Ombudmans vốn được hình thành và phát triển mạnh mẽ ở châu Âu, bên cạnh đó, Ombudsman của Đan Mạch cịn có những đặc điểm đáng chú ý về cách thức thành lập như sau.
Thanh tra viên Quốc hội Đan Mạch được Quốc hội bầu ra, có thẩm quyền điều tra các khiếu nại liên quan đến hoạt động quản lý hành chính. Tổng nhiệm kỳ của Thanh tra viên Quốc hội không được vượt quá 10 năm. Sau mỗi cuộc tổng tuyển cử hoặc khi Thanh tra viên hết nhiệm kỳ, Thanh tra viên Quốc hội sẽ vẫn giữ chức vụ cho đến khi Quốc hội bầu được một Thanh tra viên mới. Tuy nhiên, Quốc hội sẽ phải bầu ra Thanh tra Quốc hội trong thời hạn không quá 6 tháng sau cuộc tổng tuyển cử hoặc khi hết nhiệm kỳ của thanh tra viên. Trong trường hợp Thanh tra viên Quốc hội đương nhiệm qua đời, Ủy ban các vấn đề pháp lý của Quốc hội sẽ xác định ai sẽ thực hiện các nhiệm vụ của Thanh tra Quốc hội cho đến khi Quốc hội bầu ra một Thanh tra viên mới.
<b>2.2.2 Cơ cấu tổ chức và thành viên </b>
<i>a) Viện Nhân quyền quốc gia Đan Mạch (DIHR) </i>
Viện nhân quyền Đan Mạch áp dụng cách tiếp cận đa ngành đối với vấn đề nhân quyền và hoạt động với đội ngũ khoảng hơn 100 nhân viên chủ yếu chuyên về các lĩnh vực luật, khoa học chính trị, kinh tế và nghiên cứu xã hội.
Nhìn chung, Viện nhân quyền quốc gia Đan Mạch là một loại hình trong đó có sự kết hợp giữa một cơ quan bình đẳng hàng đầu (do một giám đốc đứng đầu) và một cơ quan đứng đầu trường đại học (do một hội đồng riêng biệt đứng đầu), điều này sẽ được thể hiện rõ trong phần tìm hiểu về cơ cấu thành viên của cơ quan này.
</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">Viện Nhân quyền Đan Mạch được điều hành bởi Hội đồng Nhân quyền và Ban điều hành. Trong đó, Ban điều hành sẽ quyết định tất cả các vấn đề thiết yếu liên quan đến tài chính và tất cả các cơng việc trọng đại, chun môn khác, bao gồm hoạch định chiến lược và thực hiện các nhiệm vụ ở các lĩnh vực theo luật định.
<b>Ban điều hành </b>
Theo Đạo luật số 533 ngày 18/06/2012 về Viện Nhân quyền Đan Mạch<small>23</small>, thành viên Ban điều hành sẽ gồm có 13 người, trong đó có một phần được bổ nhiệm bởi Hội đồng Nhân quyền (với số lượng là 6 thành viên) và một phần bởi các trường đại học lớn ở Đan Mạch (mỗi trường được bổ nhiệm 1 thành viên). Chủ tịch sẽ được lựa chọn bởi các thành viên Ban điều hành.
Trong số các thành viên của Ban điều hành do Hội đồng Nhân quyền chỉ định, phải có ít nhất 1 thành viên làm việc trong tổ chức liên quan đến các lĩnh vực quan trọng đối với các dân tộc thiểu số, ít nhất 1 thành viên làm việc trong tổ chức về bình đẳng giới và ít nhất 1 thành viên phải được bổ nhiệm theo đề xuất của Tổ chức Người khuyết tật Đan Mạch.
Các thành viên của hội đồng được bổ nhiệm với nhiệm kỳ 4 năm và có thể được bổ nhiệm lại trong nhiệm kỳ tiếp theo. Sau đó, họ chỉ có thể được bầu hoặc bổ nhiệm lại sau ít nhất 4 năm.
<b>Hội đồng Nhân quyền </b>
Sau khi tham khảo ý kiến cộng đồng, Ban điều hành sẽ chỉ định thành viên Hội đồng Nhân quyền bằng cách căn cứ vào những đề cử của các tổ chức xã hội hoạt động về nhân quyền. Các cơ quan công quyền có ảnh hưởng đặc biệt trong xã hội cũng có thể được kết nạp làm thành viên của Hội đồng. Thành viên của hội đồng đại diện cho các tổ chức xã hội có quyền biểu quyết. Đại diện của các cơ quan công quyền và đại diện của hội đồng tham gia các cuộc họp của hội đồng không có quyền biểu quyết.
Hội đồng sẽ có trách nhiệm đưa ra các quy định chi tiết về tư cách thành viên của Hội đồng dựa trên Nguyên tắc Paris của Liên hợp quốc đối với các cơ quan nhân quyền quốc gia.
Hội đồng Nhân quyền có vai trò hướng dẫn tổng thể cho các hoạt động của tổ chức và giám sát các hoạt động của tổ chức nhằm thúc đẩy các mục tiêu được đặt ra. Hội đồng có thể đưa ra các đề xuất với Ban điều hành về các hoạt động mới và đánh giá tiến độ của các hoạt động trước đó.
<i>b) Thanh tra Quốc hội Đan Mạch (Ombudsman) </i>
Thanh tra viên không được là thành viên của Quốc hội, Hội đồng thành phố hay Hội đồng khu vực. Trong cơ chế tuyển dụng, họ phải là người tốt nghiệp ngành luật.
Thanh tra Quốc hội sẽ gồm chánh thanh tra và một số thanh tra viên theo từng lĩnh vực do Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề cử và Quốc hội phê chuẩn với nhiệm kỳ 5 năm hoặc dài hơn. Ứng cử viên cho các chức danh này phải là những thẩm phán, kiểm sát
<small>23 Kapitel 2, LOV nr 553 af 18/06/2012, Lov om Institut for Menneskerettigheder – Danmarks Nationale Menneskerettighedsinstitution, class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">
viên, thanh tra viên dày dặn kinh nghiệm và có uy tín cao. Giúp việc thanh tra Quốc hội là một bộ máy khoảng trên dưới 100 người.
Thanh tra viên sẽ có thẩm quyền tuyển chọn cũng như sa thải nhân viên của chính mình. Số tiền lương và lương hưu của nhân viên của họ sẽ được ấn định theo quy tắc về thủ tục của Quốc hội. Các sự cố về chi tiêu trong văn phòng này sẽ được tính vào ngân sách của Quốc hội.<small>24</small>
<b>2.2.3 Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn </b>
<i>a) Viện Nhân quyền Quốc gia Đan Mạch (DIHR) </i>
Viện Nhân quyền Quốc gia Đan Mạch có nhiệm vụ thúc đẩy và bảo vệ nhân quyền trong thời bình và trong các cuộc xung đột vũ trang, thông qua các công việc cụ thể như: theo dõi và báo cáo về tình hình nhân quyền ở Đan Mạch; tiến hành phân tích và nghiên cứu trong lĩnh vực nhân quyền; tư vấn cho Quốc hội, Chính phủ, các cơ quan cơng quyền khác và các tổ chức tư nhân về nhân quyền; thúc đẩy sự phối hợp và hỗ trợ công việc của các tổ chức xã hội về nhân quyền; thực hiện và thúc đẩy giáo dục về quyền con người; cung cấp thông tin về nhân quyền; xây dựng cơ sở vật chất, thư viện an toàn liên quan đến quyền con người; góp phần thực hiện nhân quyền trong và ngồi nước.
Bên cạnh đó, Viện Nhân quyền Quốc gia Đan Mạch phải thúc đẩy việc đối xử bình đẳng với mọi người mà không phân biệt đối xử vì lý do giới tính, chủng tộc hoặc nguồn gốc dân tộc, bằng cách: hỗ trợ các nạn nhân bị phân biệt đối xử trong việc giải quyết khiếu nại về sự phân biệt đối xử, có tính đến quyền của nạn nhân, hiệp hội, tổ chức và các thực thể pháp lý khác; tiến hành điều tra độc lập về phân biệt đối xử; xuất bản báo cáo và đưa ra khuyến nghị về các vấn đề liên quan đến phân biệt đối xử.
Viện Nhân quyền Quốc gia Đan Mạch phải đệ trình báo cáo hàng năm lên Quốc hội Đan Mạch về các hoạt động của viện và sự phát triển của tình hình nhân quyền ở Đan Mạch. Báo cáo được xuất bản bởi các tổ chức.<small>25</small>
Các nhiệm vụ cụ thể của Viện Nhân quyền Quốc gia Đan Mạch gồm:
<i>Ở phương diện quốc tế </i>
Là một trong những cơ quan nhân quyền quốc gia độc lập hoạt động lâu dài nhất, Viện nhân quyền Đan Mạch có kinh nghiệm và nguồn kiến thức sâu rộng, đầy giá trị để chia sẻ với những tổ chức và cá nhân khác. Đồng thời với đó, họ cũng có các đặc quyền để tiếp cận và hợp tác với các chủ thể và tổ chức nhà nước nước ngồi mà thơng thường sẽ khó có thể tiếp cận. Do vậy, Viện đã hợp tác với các bộ, hệ thống tư pháp, lực lượng cảnh sát, tổ chức xã hội, công ty, trường đại học, v.v. ở các quốc gia khác. Mục đích là để hỗ trợ cho sự phát triển của các hệ thống nhân quyền được mạnh mẽ và chặt chẽ hơn,
<small>24</small><i><small> “Chapter I: Election, dismissal, etc.”, The Ombudsman Act, </small></i><small> Kapitel 1, LOV nr 553 af 18/06/2012, Lov om Institut for Menneskerettigheder – Danmarks Nationale Menneskerettighedsinstitution, class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">
trong đó mọi bên thực hiện nhiệm vụ của mình và đóng góp vào việc bảo vệ và thúc đẩy quyền con người.
Nhà nước có nghĩa vụ pháp lý để bảo vệ và thúc đẩy nhân quyền nhưng chính nó cũng là ngun nhân cho những vi phạm nhân quyền tồi tệ nhất. Viện nhân quyền Đan Mạch thường phối hợp với các đối tác ở các quốc gia được biết là vi phạm quyền con người, nếu họ sẵn sàng và cam kết cải thiện tình hình nhân quyền trong nước. Do đó, cơng việc của Viện thường đòi hỏi sự kết hợp giữa đối thoại ngoại giao và phản biện.
Để thực hiện được những nhiệm vụ quốc tế nêu trên, Viện nhân quyền Đan Mạch đã tận dụng những lợi thế mà mình có, bao gồm:
Thứ nhất, tính hợp pháp: với tư cách là cơ quan Nhân quyền Quốc gia của Đan Mạch, họ được quốc tế tôn trọng và cho phép làm việc với các Nhà nước, đặc biệt là trong việc thúc đẩy nhân quyền.
Thứ hai, cách tiếp cận là tiếp cận đến từng địa phương: họ biết rằng các địa phương là chìa khóa để tạo ra những thay đổi bền vững. Viện Nhân quyền Đan Mạch không hoạt động từ theo kiểu “cào bằng, bình quân”, do đó họ hợp tác một cách bình đẳng bình đẳng với các tổ chức, cá nhân ở địa địa phương để đạt được hiệu quả.
Thứ ba, năng lực nghiên cứu: bộ phận nghiên cứu của Viện cho phép họ kết hợp nghiên cứu học thuật với kinh nghiệm thực tế để rút ra các bài học và lý thuyết từ cơ sở đến các hệ thống quốc tế và ngược lại.
Thứ tư, những thành tích đã được chứng minh: họ luôn cam kết mang lại sự thay đổi bền vững, thúc đẩy nhân quyền trong mọi việc họ làm, đó khơng phải nói sng mà thực tế là họ có hồ sơ theo dõi để chứng minh rằng cách tiếp cận hợp tác của Viện cùng với năng lực nghiên cứu đã thật sự mang lại kết quả như mong muốn.<small>26</small>
<i>Ở phương diện quốc gia </i>
Ở Đan Mạch, Viện Nhân quyền Đan Mạch tư vấn cho chính phủ, quốc hội, các bộ và cơ quan cơng quyền về quyền con người và một số những vấn đề khác, khi luật mới được ban hành. Cùng với đó, họ đưa ra các phân tích và nghiên cứu về nhân quyền, chẳng hạn như về trẻ em có cha mẹ bị cầm tù, luật chống khủng bố, quyền của người khơng quốc tịch và trả lương bình đẳng.
Viện đã thực hiện các dự án cụ thể để thúc đẩy đối xử bình đẳng và tư vấn cho những người đã hoặc có thể đã bị phân biệt đối xử. Họ vạch ra những thách thức nhân quyền lớn nhất ở Đan Mạch cũng như chỉ ra những điểm cải thiện so với năm cũ.
Viện Nhân quyền Đan Mạch giám sát luật pháp của Đan Mạch và đảm bảo rằng luật pháp đó phù hợp với quyền con người. Họ thực hiện nhiệm vụ này bằng cách quan sát cách Đan Mạch thực hiện các công ước quốc tế và luật pháp EU. Liên quan đến vấn đề này, họ hoạt động với tư cách là cố vấn cho chính phủ và quốc hội. Một nhiệm vụ quan trọng trong lĩnh vực giám sát là viết các bản tóm tắt pháp lý. Trong bản tóm tắt pháp lý, họ sẽ ước tính liệu một đề xuất cụ thể có phù hợp với các quyền con người hay khơng. Nếu nó thật sự không phù hợp, họ sẽ đưa ra các đề xuất về cách nó có thể được
<small>26</small><i><small> “About us”, The Danish Institution for Human Rights, class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">
thay đổi cho phù hợp cùng với các đề xuất khác. Mỗi năm họ đưa ra khoảng 150 bản tóm tắt pháp lý.<small>27</small>
Về quyền hạn, Viện nhân quyền Đan Mạch và các cán bộ khoa học trong viện được tự do nghiên cứu và trong khuôn khổ chiến lược nghiên cứu của cơ sở trong thời gian không được giao nhiệm vụ khác.
<i>b) Thanh tra Quốc hội Đan Mạch (Ombudsman) </i>
Về ngun tắc, Ombudsman khơng có thẩm quyền ra phán quyết mà chỉ có thể đưa ra các đề nghị, khuyến nghị, hoặc những lời phê bình đối với các cơ quan nhà nước
Mỗi năm, trung bình Ombudsman nhận được khoảng 4.000 đến 5.000 khiếu nại từ công dân. Cạnh đó, cơ quan này cịn có thể chủ động lựa chọn các vụ việc, chẳng hạn như được nêu trên báo chí, để xem xét.
Hàng năm, Ban Thanh tra của Ombudsman đến thăm, kiểm tra nhiều địa điểm khác nhau như nhà tù, trung tâm điều trị tâm lý, cơ sở chăm sóc xã hội. Ban Trẻ em của Ombudsman thì đến thăm các cơ sở chăm sóc trẻ em, cũng như giải quyết các khiếu nại của trẻ em và người lớn liên quan đến các quyền của trẻ em.
Nếu Ombudsman nhận thấy bất kỳ thiếu sót nào trong các luật hoặc quy định hành chính hiện hành trong các trường hợp cụ thể, thì Ombudsman sẽ thông báo cho Quốc hội và các Bộ trưởng có liên quan. Trong trường hợp thiếu sót đó thuộc về các quy định do Hội đồng thành phố hoặc Hội đồng khu vực đặt ra, Ombudsman sẽ thông báo cho Hội đồng thành phố hoặc khu vực liên quan. Trong quá trình hoạt động của mình, Ombudsman sẽ giám sát để đảm bảo luật pháp hoặc quy định hành chính hiện hành nhất quán với các điều ước quốc tế, cụ thể như nghĩa vụ quốc tế của Đan Mạch nhằm đảm bảo quyền trẻ em, bao gồm Công ước Liên Hợp Quốc về Quyền Trẻ em. <small>28</small>
Có thể thấy, dù khơng hồn toàn giống nhau về cách thức thành lập và cấu trúc tổ chức so với các mơ hình Thanh tra Quốc hội trên toàn thế giới nhưng ở Ombudsman Đan Mạch vẫn tồn tại những tương đồng về chức năng, nhiệm vụ, thủ tục hoạt động. Cụ thể, đây vẫn là cơ quan với chức năng, nhiệm vụ chính là: giám sát hoạt động của cơ quan hành chính và tòa án trong việc tuân thủ hiến pháp, pháp luật, bảo đảm tính khách quan, cơng bằng, bảo đảm quyền của công dân không bị xâm phạm bởi hoạt động của cơ quan nhà nước. Ngồi ra họ cịn giám sát sự công bằng và hợp pháp của bộ máy hành chính cơng với vai trị thường trực là trung gian hịa giải giữa cá nhân có quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm hại với chính quyền. Ở Đan Mạch, Thanh tra Quốc hội có thẩm quyền chủ động tiến hành điều tra những vi phạm quyền con người nổi cộm và thu hút sự quan tâm của công chúng trong thẩm quyền của họ.
<b>2.2.4 Nhận xét về các cơ quan nhân quyền quốc gia ở Đan Mạch </b>
<i>a) Một số nhận xét chung về cơ quan nhân quyền quốc gia ở Đan Mạch </i>
Đối với Viện Nhân quyền quốc gia Đan Mạch, đây là một thiết chế tương đối đặc biệt vì nó khơng thuộc về một trong ba mơ hình Cơ quan Nhân quyền quốc gia phổ biến
<small>27</small><i><small> “Our work in Denmark”, The Danish Institution for Human Rights, work/our-work-denmark</small></i>
<small> “Chapter III: The relationship with the Folketing”, The Ombudsman Act, </small></i>
<small> </small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">bao gồm Ủy ban Nhân quyền quốc gia, Thanh tra Quốc hội (Ombudsman) và Cơ quan chuyên trách về một vấn đề nhân quyền cụ thể. Tuy nhiên, nó có nhiều đặc điểm tương đồng với một Ủy ban Nhân quyền quốc gia và tồn tại dưới dạng một Viện nghiên cứu, do đó ngồi các chức năng cơ bản như một Ủy ban thì cơ quan này cịn đảm nhiệm một cách chuyên sâu các công việc về nghiên cứu, giáo dục, tuyên truyền các vấn đề về nhân quyền trong xã hội. Đây là một cơ quan hình thành từ lâu đời, trên một vùng lãnh thổ có bề dày lịch sử trong cơng cuộc đấu tranh vì sự tự do, bình đẳng và những quyền chính đáng của con người, vì vậy nên có sức ảnh hưởng to lớn đối với khu vực và quốc tế. Đồng thời điều đó cũng tạo cho cơ quan này cơ hội để củng cố hệ thống pháp luật của quốc gia mình về cơ quan nhân quyền nói riêng và các vấn đề liên quan đến nhân quyền nói chung.
Cịn với mơ hình Thanh tra Quốc Hội Đan Mạch hay Ombudsman Đan Mạch thì lại tương đối khác cơ chế Viện Nhân quyền nói trên ở chỗ đây là một Cơ quan Nhân quyền mang đậm đặc trưng của khu vực Bắc Âu, xét về mặt địa lý thì Đan Mạch và Thụy Điển – nơi sản sinh ra thiết chế Ombudsman ở trên cùng một lãnh thổ, do đó có cùng một nguồn gốc hình thành. Đây là một cơ quan được giao cho thẩm quyền rộng lớn và có tính độc lập cao, được quy định rõ ràng trong các văn bản quy phạm pháp luật của nước này. Xuất phát từ chức năng, nhiệm vụ của cơ quan này thì có thể thấy Ombudsman ở Đan Mạch là một thiết chế nhân quyền gần gũi với người dân đến từ nhiều thành phần trong xã hội do thường xuyên tiếp nhận những khiếu nại, thực hiện các cuộc điều tra, …
Nhìn chung, cách hoạt động của Viện Nhân quyền quốc gia Đan Mạch theo hướng ơn hịa và có xu hướng xây dựng nhiều sự liên kết, phối hợp, giúp đỡ với quốc tế song song với việc thực hiện các nhiệm vụ trong nước; trong khi đó Ombudsman Đan Mạch thì thường tiến hành những nhiệm vụ mang tính chất cứng rắn hơn do liên quan đến cơng việc điều tra, giám sát, … và vì vậy cơ quan này có phạm vi hoạt động chủ yếu ở quốc nội. Dù giữa chúng tồn tại nhiều điểm khác biệt, song, các thiết chế này đều hướng đến một sứ mệnh chung đó là bảo vệ và thúc đẩy quyền con người.
<i>b) Phân tích ưu và nhược điểm của cơ quan nhân quyền quốc gia ở Đan Mạch </i>
<b> Ưu điểm </b>
Đầu tiên, việc tồn tại cùng lúc hai mơ hình cơ quan nhân quyền quốc gia sẽ giúp Đan Mạch thực hiện tối ưu nhiệm vụ bảo vệ và phát triển quyền con người của mình vì hai cơ quan này có thể bổ sung, hỗ trợ lẫn nhau, mỗi thiết chế lại hoạt động thường xuyên trên các mảng khác nhau nhưng đều nằm trong lĩnh vực nhân quyền. Biết rằng, tạo ra một đất nước mà mọi người đều bình đẳng, khơng có sự vi phạm về nhân quyền là một cơng cuộc khó khăn và đầy phức tạp, thế nên so với các nước chỉ có một Cơ quan Nhân quyền quốc gia trên cả nước để thực hiện sứ mệnh cao cả đó thì Đan Mạch đã có nhiều lợi thế hơn.
Quan điểm trên được chứng minh bằng ưu điểm thứ hai, đó là Viện Nhân quyền quốc gia ở nước này có những hoạt động đáng kể ở cả trong nước và quốc tế, tức là họ không chỉ đang thực hiện tương đối ổn định các nhiệm vụ ở tầm quốc gia mà còn tạo ra sự ảnh hưởng ở tầm quốc tế. Chẳng hạn, năm 2005-2006, cơ quan này đã hợp tác với các nhà nghiên cứu châu Phi để thực hiện dự án nghiên cứu Tây Phi về các vấn đề liên
</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">quan đến quyền gia đình và nhân quyền . Bên cạnh đó, nhờ đặc trưng về bề dày lịch sử và thành quả của các hoạt động trong suốt hàng thế kỳ mà các Cơ quan Nhân quyền Đan Mạch ln nhận được sự tín nhiệm cao từ cộng đồng quốc tế.
Ưu thế của Thanh tra Quốc Hội ở Đan Mạnh là có được thẩm quyền bao trùm toàn bộ hệ thống cơ quan hành pháp, từ trung ương đến địa phương, song vẫn đảm bảo tính độc lập và tự chủ nhất định với các cơ quan Nhà nước. Do đó, cơ quan này có thể được tin tưởng để trở thành chiếc cầu nối giữa nhà nước với người dân và các tổ chức xã hội, một mặt giúp người dân và các tổ chức xã hội được thể hiện quan điểm, thái độ của mình với nhà nước, mặt khác giúp nhà nước giải quyết những bất đồng và nguyện vọng của người dân liên quan đến hoạt động của nhà nước thông qua việc tiếp nhận và xử lý những khiếu nại, tố cáo.
<b>Nhược điểm </b>
Cách tổ chức các thiết chế nhân quyền như ở Đan Mạch ngoài những lợi thế nổi bật nêu trên thì cịn tồn tại một số bất cập tiềm ẩn, đặc biệt là khi đặt nó trong bối cảnh của những nước đang phát triển có nhu cầu xây dựng một Cơ quan Nhân quyền quốc gia cho riêng mình. Như đã nhấn mạnh nhiều lần, các Cơ quan Nhân quyền ở Đan Mạch có một điểm mạnh là sức ảnh hưởng với quốc tế rất lớn, nhiều nước có mơ hình nhân quyền quốc gia chưa phát triển thường xem đây là một trong các “hình mẫu” để noi theo. Tuy nhiên, cách xây dựng hai Cơ quan Nhân quyền hoạt động độc lập trong cùng một lĩnh vực sẽ tồn tại những nguy cơ gây khó khăn trong việc phân định quyền hạn và trách nhiệm, có thể dẫn đến sự chồng chéo, trùng lặp trên nhiều khía cạnh và xa hơn là những mâu thuẫn, tranh chấp về quyền và nghĩa vụ cũng như gây khó khăn trong việc quản lý. Thực tế cho thấy cách tổ chức này chỉ phù hợp với các nước phát triển, có nguồn lực và sức mạnh vững chắc như Đan Mạch, Na Uy, Thụy Điển, … còn với nhiều nước đang phát triển như Việt Nam thì việc lựa chọn cách tổ chức này sẽ dễ gặp phải những hệ lụy nêu trên. Thêm nữa, đối với các nước mà nguồn lực còn chưa vững mạnh thì thiết chế Ombudsman sẽ là một sự lựa chọn tối ưu hơn so với mơ hình Viện Nhân quyền, vì dựa trên những phân tích đã tiến hành ở Đan Mạch, cách hoạt động của Viện Nghiên cứu hầu như khơng đủ tính răn đe để hạn chế và trừng phạt các vi phạm về nhân quyền mà chỉ thiên hướng giáo dục và tuyên truyền, do đó sẽ tồn tại nhiều yếu thế trong công cuộc bảo vệ các quyền con người trong những xã hội còn ẩn chứa nhiều sự bất ổn định.
<b>2.3 Cơ quan nhân quyền quốc gia ở Thụy Điển </b>
Ở Thụy Điển, một thiết chế “đại diện người dân” hay “bảo vệ người dân”, gọi là Ombudsman. Ombudsman xuất hiện chính thức ở Thụy Điển từ đầu thế kỷ 19, theo Luật tổ chức chính quyền năm 1809. Đạo luật này ra đời trong bối cảnh các nhà lập pháp khơng muốn lặp lại sự cai trị độc đốn của vị vua trước đó (Vua Gustav III, cai trị 1771 - 1792). Phần nào dựa trên lý thuyết phân chia quyền lực của Montesquieu, Luật tổ chức chính quyền đã thiết lập ra một số cơ chế để Quốc hội có thể giám sát quyền hành pháp. Thực ra, cơ chế này ít nhiều kế thừa chức vụ Ombudsman Tối cao của Hoàng đế His Majesty’s Supreme Ombudsman), được lập ra từ năm 1712 bởi Vua Karl XII, nhằm giúp nhà vua giám sát sự tuân thủ pháp luật khi ơng ra nước ngồi. Vị trí này được đổi tên thành chức vụ Pháp quan (Chancellor of Justice -Justitiekanslern) vào năm 1719, và ngày nay vẫn tồn tại như là Ombudsman, với chức năng giám sát các cơ quan hành
<b>chính thơng qua tiếp nhận và giải quyết khiếu nại của người dân. </b>
</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32"><i>Một điều đặc biệt khác là hệ thống các thanh tra viên (ombudsman). Những người </i>
này bảo vệ quyền lợi của cá nhân trong khi họ tiếp xúc với chính quyền và theo dõi việc thi hành các luật lệ quan trọng. Người công dân khi cho rằng bị đối xử không cơng bằng có thể tìm đến thanh tra viên, những người sẽ điều tra trường hợp này và có thể mang vụ việc ra trước tòa án với tư cách là nguyên cáo đặc biệt. Đồng thời họ cũng có nhiệm vụ cộng tác với các cơ quan nhà nước để nắm bắt tình hình trong phạm vi của họ, thi hành các cơng tác giải thích và đưa ra những đề nghị thay đổi luật lệ. Bên cạnh những thanh tra viên về luật pháp cịn có thanh tra viên của người tiêu dùng, thanh tra viên về trẻ em, thanh tra viên về quyền bình đẳng và các thanh tra viên về phân biệt đối xử chủng tộc và phân biệt đối xử vì các khuynh hướng tình dục.
Trong một thời gian dài, Thụy Điển đã được xem như là một nước dân chủ xã hội điển hình và nhiều người theo cánh tả ở châu Âu đã xem Thụy Điển như là một thí dụ điển hình cho một "con đường thứ ba", kết hợp giữa chủ nghĩa xã hội và kinh tế thị trường.<small>29</small>
Sau cái chết của Vua Charles XII vào năm 1718, Thụy Điển có một vài thập niên khá dân chủ với tiếng nói quan trọng của Quốc hội (the Riksdag) (được gọi là “thời kỳ Tự do”). Năm 1766, lần đầu tiên Quốc hội bầu ra Pháp quan. Tuy nhiên trong giai đoạn về sau đó, quyền bổ nhiệm lại thuộc về hoàng gia. Đến năm 1809 mới quy định lại thẩm quyền bầu Pháp quan/ Ombudsman cho Quốc hội.<small>30</small>
<b>2.3.1 Cách thức thành lập </b>
Ở Thụy Điển, quyền con người được bảo vệ chủ yếu thông qua Văn kiện Chính phủ, Đạo luật Tự do Báo chí và Luật Cơ bản về Tự do Ngơn luận.<small>31</small> Quyền lực công phải được thực thi trên cơ sở tơn trọng sự bình đẳng của mọi người, tự do và phẩm giá của cá nhân.
Ngày nay, Thụy Điển có đến ba cơ quan Ombudsman, có thẩm quyền giám sát một lĩnh vực hành chính, và chịu trách nhiệm cá nhân trước Quốc hội về hành động của mình. Ba cơ quan này bao gồm cơ quan Thanh tra Quốc hội, Thanh tra về trẻ em và Thanh tra Bình đẳng.
<i>a) Thanh tra Quốc hội (Riksdagens Ombudsman/Parliamentary Ombudsman) </i>
Thụy Điển là quốc gia được biết đến như là “cái nơi” của mơ hình Thanh tra Quốc hội. Theo lịch sử, vào năm 1697, khi Charles Đại đế XII trở thành Quốc vương của Thụy Điển, mơ hình Thanh tra Ombudsman lần đầu tiên được hình thành. Từ đó, cơ sở pháp lý cho việc thành lập và hoạt động của mơ hình Thanh tra Quốc hội của Thụy Điển được ghi nhận tại nhiều văn bản pháp lý, trước hết tại Hiến pháp Thụy Điển. Theo đó, Quốc hội có quyền thiết lập một hoặc nhiều Thanh tra Quốc hội và quy định thẩm quyền cho thiết chế này<small>32</small>. Để cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp, mơ hình Thanh tra Quốc hội cịn được điều chỉnh trong một đạo luật chuyên biệt: Đạo luật về Quốc hội (The Riksdag Act). Trong đạo luật riêng biệt này, thẩm quyền của Thanh tra Quốc hội đã
</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">được đề cập khá chi tiết<small>33</small>. Đạo luật đã làm rõ thêm các nhiệm vụ, cách thức hoạt động, phương thức tổ chức và nghĩa vụ báo cáo cũng như một loạt các hướng dẫn quan trọng khác cho Thanh tra Quốc hội Thụy Điển.
Ngồi ra, thiết chế Thanh tra Quốc hội cịn được quy định tại một số văn bản khác như Hướng dẫn hành chính dành cho Thanh tra Quốc hội; Đạo luật về truy cập công đối với các thông tin và bí mật, v.v. Có thể nhận thấy, cơ sở pháp lý cho sự tồn tại và hoạt động của mơ hình Thanh tra Quốc hội Thụy Điển tương đối toàn diện và đồng bộ, giúp cho thiết chế Thanh tra Quốc hội làm việc đúng đắn, hiệu quả, tránh được những sai sót, lạm quyền hay các vi phạm khơng đáng có trong q trình hoạt động.
<i>b) Thanh tra Trẻ em (Ombudsman for Children, OC/ Barnombudsmannen, BO) </i>
Cơ quan Thanh tra Trẻ em ở Thụy Điển được thành lập vào năm 1993 và được lãnh đạo bởi Fredrik Malmberg.
Đây là một cơ quan của chính phủ được tổ chức trực thuộc Bộ Y tế và các Vấn đề Xã hội tại Thụy Điển. Thanh tra Trẻ em của Thụy Điển nhận ngân sách nhà nước hàng năm và có khoảng 20 nhân viên làm việc trong tổ chức.
Năm 1990, Riksdag phê chuẩn Công ước về Quyền trẻ em (CRC). Do đó, Thụy Điển đã cam kết thực hiện Công ước theo luật pháp quốc tế và cũng trong khoảng thời gian đó, Chính phủ đã xem xét vấn đề bổ nhiệm Thanh tra viên về Trẻ em. Năm 1993, Riksdag cuối cùng đã phê chuẩn việc bổ nhiệm Thanh tra viên và Đạo luật Thanh tra viên về Trẻ em 1933.335.
<i>c) Thanh tra Bình đẳng (Equality Ombudsman,DO) </i>
Nhằm bảo vệ tốt hơn quyền phụ nữ và thúc đẩy bình đẳng giới, năm 2008, Quốc hội Thụy Điển đã thông qua đạo luật về phân biệt đối xử. Đạo luật này thay thế cho các đạo luật trước đó bao gồm đạo luật về các cơ hội bình đẳng và 6 luật có liên quan khác về chống phân biệt đối xử. Đạo luật này nhằm đấu tranh chống lại sự phân biệt, đồng thời thúc đẩy các quyền và cơ hội bình đẳng của mọi cá nhân; xác định những hình thức bị coi là phân biệt đối xử và hành vi quấy rối tình dục cũng được xem là sự xâm phạm nghiêm trọng đối với phẩm giá con người; xác lập các nguyên tắc và chuẩn mực nghiêm cấm sự phân biệt đối xử dưới tất cả các hình thức,… Luật này còn quy định xác lập cơ chế giám sát việc thực thi, nhấn mạnh đến nghĩa vụ của Thanh tra Quốc hội về bình đẳng (Equality Ombudsman). Thanh tra Bình đẳng là một cơ quan Chính phủ độc lập được thành lập vào ngày 1 tháng 1 năm 2009.
Thanh tra Bình đẳng là một cơ quan chính phủ hoạt động thay mặt cho quốc hội và chính phủ Thụy Điển để thúc đẩy các quyền và cơ hội bình đẳng cũng như chống lại sự phân biệt đối xử. Tại đây bạn có thể tìm hiểu thêm về Ombudsman, phân biệt đối xử và cách khiếu nại.
<b>2.3.2 Cơ cấu tổ chức, thành viên </b>
<i>a) Thanh tra Quốc hội (Riksdagens Ombudsman/Parliamentary Ombudsman) </i>
Thanh tra Quốc hội sẽ do Quốc hội bầu ra với nhiệm kỳ bốn năm và có thể được bầu lại. Mặc dù khơng có quy định chính thức rằng thành viên Thanh tra Quốc hội phải
<small>33 Chương 8 Điều 11, Chương 9 Điều 8 của Đạo luật về Nghị viện </small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34">là một luật gia nhưng trên thực tế, các Thanh tra Quốc hội là những người đã được đào tạo bài bản về pháp luật.
Trước những năm 1940, luật pháp Thụy Điển quy định chỉ có đàn ơng mới có thể được bầu làm Thanh tra Quốc hội. Tuy nhiên, cho đến năm 1941, quy định này chính thức được bãi bỏ và phụ nữ có thể trở thành Thanh tra Quốc hội. Hiện nay, Văn phòng Thanh tra Quốc hội của Thụy Điển có bốn người, hai Thanh tra viên là nam và hai Thanh tra viên là nữ <small>34</small>. Mỗi Thanh tra viên phụ trách riêng từng mảng lĩnh vực của mình và một trong bốn Thanh tra viên sẽ có một người giữ chức vụ Trưởng Thanh tra. Trưởng Thanh tra chịu trách nhiệm quản lý, đưa ra quyết định và phân bố các lĩnh vực hoạt động cho các Thanh tra viên khác. Tuy vậy, Trưởng Thanh tra cũng không thể can thiệp vào hoạt động trong lĩnh vực cụ thể của một Thanh tra viên khác. Thêm vào đó, mỗi Thanh tra viên hoạt động tương đối độc lập và chịu trách nhiệm cá nhân trực tiếp trước Quốc hội về hành vi của mình. Mỗi năm, các Thanh tra viên sẽ phải đệ trình báo cáo thường niên lên Quốc hội cũng như Ủy ban thường trực về Hiến pháp. Sau đó, các Thanh tra viên cũng có thể phải đưa ra những báo cáo bằng văn bản riêng của mình nếu như Quốc hội có u cầu trong từng trường hợp cụ thể <small>35</small>.Năm 1941, quy định chỉ nam giới mới được bầu làm thanh tra viên đã bị bãi bỏ; kể từ đó, năm phụ nữ đã được bầu vào văn phòng.
Hiện nay, ở Thụy Điển có có bốn thanh tra viên, 1 Chánh thanh tra và 3 Thanh tra viên (hai phụ nữ và hai nam giới). Mỗi thanh tra viên có khu vực trách nhiệm riêng của mình (khu vực giám sát). Một trong những thanh tra viên có chức danh trưởng quốc hội. Thanh tra Quốc hội Thụy Điển có bộ máy giúp việc khoảng 50 người. Tuy nhiên, đất nước Thụy Điển chỉ có 8,9 triệu dân.
Hoạt động giám sát do các thanh tra quốc hội thực hiện chủ yếu bao gồm việc điều tra các khiếu nại của cơng chúng. Ngồi ra, bốn thanh tra viên tiến hành kiểm tra và bất kỳ cuộc điều tra nào khác mà họ cho là cần thiết. Tuy nhiên, các thanh tra viên – khơng giống như các cơ quan chính thức bình thường – khơng bao giờ bắt buộc phải xem xét hoàn cảnh của mọi trường hợp được đệ trình lên họ. Thay vào đó, các thanh tra viên tự đánh giá khiếu nại nào cần điều tra và khiếu nại nào không cần thực hiện thêm. Tuy nhiên, điều này giả định trước là thái độ không ác ý của các thanh tra viên đối với các khiếu nại mà họ nhận được để tất cả những khiếu nại đưa ra cơ sở để nghi ngờ rằng một số lỗi đã được thực hiện sẽ bị điều tra. <small>36</small>Cũng có thể xảy ra trường hợp mặc dù thanh tra viên khơng thấy có lý do gì để điều tra khiếu nại, nhưng thay vào đó, các khía cạnh khác trong hành động của cơ quan công quyền sẽ được đánh giá.
<i>b) Thanh tra Trẻ em (Ombudsman for Children, OC/ Barnombudsmannen, BO) </i>
Trên thực tế, sự lựa chọn thường đứng giữa việc để Nghị viện hoặc Chính phủ bổ nhiệm OC, vì theo thơng lệ, các quan chức được bổ nhiệm bởi một trong hai tổ chức này. Trong trường hợp đó, Nghị viện là giải pháp thay thế thích hợp hơn. Nghị viện bao gồm một cơ quan chính trị đa ngun và có lẽ khơng nhạy cảm bằng Chính phủ khi nhận phản biện. Nếu
<small>34 Trưởng Thanh tra Quốc hội Elisabet Fura, Thanh tra viên Lars Lindström, Thanh tra viên Cecilia Renfors, Thanh tra viên Stefan Holgersson. </small>
<small> Xem thêm tại “Parliamentary Ombudsman, Sweden” - Legacy, </small></i><small>Wikipedia, the free encyclopedia, </small>
<small> class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35">
Chính phủ bổ nhiệm OC, ít nhất việc bổ nhiệm khơng nên nằm trong tay của một cá nhân bộ trưởng.<small>37</small> Nhìn chung, một nguyên tắc quan trọng là việc bổ nhiệm OC không nên chỉ nằm trong tay một người.
Để thu hút một OC thực sự phù hợp với vị trí, các tổ chức phi chính phủ về quyền trẻ em và các vấn đề tư pháp cho thanh niên, cùng với các quan chức của bộ chính phủ (chỉ trong khả năng tư vấn), và các chuyên gia có trình độ khác nên được tư vấn trong việc lựa chọn OC.
Một câu hỏi thường được tranh luận là liệu OC có nên có một trường đại học bằng cử nhân luật hay không. Khi xem xét nhiệm vụ thường rộng rãi, một luật sư có thể tập trung vào trẻ em liên quan đến pháp luật. Do đó, những người có ngành nghề khác có thể được trang bị tốt hoặc tốt hơn để thúc đẩy lợi ích của trẻ em liên quan đến tất cả các lĩnh vực thuộc về xã hội. <small>38</small>
Trong những năm qua, những người sau đây đã phục vụ với tư cách là thanh tra viên về trẻ em ở Thụy Điển:<small>39</small>
Louise Sylwander, 1993-2001 Lena Nyberg, 2001-2008 Fredrik Malmberg, 2008-2017 Anita Wickström, diễn xuất, 2017
Anna Karin Hildingson Boqvist, diễn xuất, 2018
<i>Elisabeth Dahlin, 2018– </i>
<i>c) Thanh tra Bình đẳng (Equality Ombudsman,DO) </i>
<b>Cách thức tổ chức và cơ cấu thành viên của Thanh tra Bình Đẳng được cụ thể </b>
hóa trong những nội dung sau:
<b>(i) Cơ cấu quản lý </b>
Hệ thống Thanh tra Bình đẳng thuộc loại hình cơ quan Bình đẳng do một người đứng đầu (được dẫn dắt, lãnh đạo bởi Chánh thanh tra);
Chánh thanh tra sẽ là người đại diện cho cơ quan và chịu trách nhiệm hồn tồn về hoạt động của mình.
Căn cứ vào Pháp lệnh có hướng dẫn cho Thanh tra viên Bình đẳng, một Ủy ban cố vấn đã được thành lập. Nhiệm vụ của Ủy ban Tư vấn là cung cấp lời khuyên và hỗ trợ cho cơ quan, ngoài những hoạt động khác từ việc cung cấp chuyên môn về các vấn đề phân biệt đối xử đến các vấn đề khác liên quan đến bình đẳng và lĩnh vực hoạt động của Ombudsman. Các thành viên của Ủy ban Cố vấn là được chỉ định bởi Thanh tra
</div>