Tải bản đầy đủ (.pdf) (101 trang)

Trạng Và Định Hướng Hoàn Thiện Quy Định Pháp Luật Việt Nam Về Ngân Hàng Xanh.pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (764.77 KB, 101 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

<b>TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH ------ </b>

<b>THUỘC NHĨM NGÀNH: LUẬT THƯƠNG MẠI </b>

Họ tên tác giả, nhóm tác giả: Mã số SV: Năm thứ: 1. Nguyễn Thị Thảo Uyên 2053801011318 3 2. Lê Hạ Phương Uyên 2053801011315 3

Trưởng nhóm: Nguyễn Thị Thảo Uyên

Lớp: 114 - TM45.4 Khóa: 45 Khoa: Luật Thương mại

<b>Mã số cơng trình:……… </b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

<b>TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH ------ </b>

<b>THUỘC NHÓM NGÀNH: LUẬT THƯƠNG MẠI </b>

Họ tên tác giả, nhóm tác giả: Nam/Nữ: Mã số SV: Năm thứ: 1. Nguyễn Thị Thảo Uyên Nữ 2053801011318 3 2. Lê Hạ Phương Uyên Nữ 2053801011315 3

Trưởng nhóm: Nguyễn Thị Thảo Uyên

Lớp: 114 - TM45.4 Khóa: 45 Khoa: Luật Thương mại

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

<b>MỤC LỤC </b>

<b>TĨM TẮT CƠNG TRÌNH ... 1 </b>

<b>LỜI NĨI ĐẦU ... 3 </b>

<b>CHƯƠNG 1 ... 9 </b>

<b>KHÁI QUÁT CHUNG VỀ PHÁP LUẬT NGÂN HÀNG XANH ... 9 </b>

<b>1.1. Khái quát chung về ngân hàng xanh và pháp luật điều chỉnh ngân hàng xanh ở một số quốc gia trên thế giới ... 9 </b>

<b>1.1.1. Khái quát chung về khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của ngân hàng xanh 9 1.1.2. Pháp luật điều chỉnh ngân hàng xanh ở một số quốc gia trên thế giới. 14 1.2. Thực trạng và pháp luật Việt Nam về ngân hàng xanh ... 32 </b>

<b>1.2.1. Thực tiễn ứng dụng mơ hình ngân hàng xanh tại một số ngân hàng ở Việt Nam ... 32 </b>

<b>1.2.2. Thực trạng quy định pháp luật về Ngân hàng xanh tại Việt Nam ... 37 </b>

<b>1.2.3. Những khó khăn của các tổ chức tín dụng khi thực hiện ngân hàng xanh ... 43 </b>

<b>2.1.2. Nhận thức của lãnh đạo ngân hàng về phát triển ngân hàng xanh ... 53 </b>

<b>2.1.3. Năng lực cán bộ, nhân viên trong việc thực hiện ngân hàng xanh ... 56 </b>

<b>2.1.4. Sự quan tâm đến môi trường của người dân ... 59 </b>

<b>2.1.5. Năng lực lập pháp của Quốc hội ... 62 </b>

<b>2.2. Một số kiến nghị nhằm xây dựng pháp luật điều chỉnh Ngân hàng xanh một cách hiệu quả ... 64 </b>

<b>2.2.1. Kiến nghị về hệ thống pháp luật ... 64 </b>

<b>2.2.2. Kiến nghị về phía hệ thống ngành Ngân hàng ... 71 </b>

<b>Kết luận Chương 2 ... 83 </b>

<b>KẾT LUẬN CHUNG ... 84 </b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

<b>PHỤ LỤC ... 86 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ... 88</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

<b>TĨM TẮT CƠNG TRÌNH </b>

Trong những năm gần đây, Việt Nam là một trong những quốc gia chịu ảnh hưởng lớn do biến đổi khí hậu. Với vai trị là trung gian của kinh tế - tài chính, ngàng Ngân hàng đã góp phần trong việc tạo sự cân bằng giữa kinh tế và môi trường thông qua việc thực hiện “ngân hàng xanh”.

Chương I nhóm tác giả đã đem đến cái nhìn khái quát chung nhất về ngân hàng xanh từ định nghĩa, đặc điểm và ý nghĩa. Như vậy, chúng ta có thể hiểu ngân hàng xanh là ngân hàng có cân nhắc đến yếu tố môi trường, xã hội thông qua các chiến lược kinh doanh bền vững, đáp ứng được yêu cầu về trách nhiệm xã hội, bảo vệ môi trường, đảm bảo sự hài hịa giữa mơi trường và kinh tế thơng qua việc cấp tín dụng xanh; giảm phát thải carbon trong hoạt động nội bộ ngân hàng và phát triển các sản phẩm và dịch vụ xanh.

Tiếp đến, nhóm tác giả đã tổng hợp cái nhìn bao quát về thực trạng ngân hàng xanh ở các nước trên thế giới và đặc biệt là một số quốc gia đã và đang áp dụng thành cơng mơ hình này như Bangladesh, Mỹ, Trung Quốc. Ngân hàng Bangladesh đã đưa ra sáng kiến ngân hàng xanh toàn diện để hỗ trợ và thúc đẩy ngành tài chính có trách nhiệm với mơi trường; ban hành hướng dẫn liên quan đến đánh giá rủi ro môi trường đối với các đề xuất vay vốn và xanh hóa các quy trình trong nội bộ ngân hàng. Chính phủ Trung Quốc cũng có những hỗ trợ trong lĩnh vực tài chính xanh – ngân hàng xanh với bước đầu là các chính sách khuyến khích sơ bộ về tín dụng xanh, chứng khốn xanh và bảo hiểm xanh. Tiếp đến là các văn bản hướng dẫn về tín dụng xanh và khuyến khích việc thực hiện thí điểm bảo hiểm trách nhiệm về ơ nhiễm môi trường<small>.</small> Đến nay, hành lang pháp lý của Trung Quốc về lĩnh vực tài chính xanh – ngân hàng xanh đã được xây dựng và phát triển một cách đáng kể gồm một loạt các văn bản. Sau khi nhận thấy tầm quan của ngân hàng xanh và những đóng góp khơng nhỏ của lĩnh vực này đối với tăng trưởng xanh, Quốc hội Hoa Kỳ đã thông qua Đạo luật Ngân hàng Khí hậu Quốc gia vào năm 2021. Từ những bài học của những quốc gia trên, Việt Nam có thêm một góc nhìn mới trong việc tham khảo áp dụng mơ hình này.

Cuối cùng, từ góc nhìn đa chiều ở trên thế giới, nhóm tác giả đã đánh giá thực trạng và pháp luật điều chỉnh về ngân hàng xanh ở Việt Nam qua việc tìm hiểu cách ứng dụng ngân hàng xanh tại một số ngân hàng ở Việt Nam dưới ba góc nhìn: thực trạng về khí thải carbon trong hoạt động nội bộ ngân hàng; thực trạng về phát triển sản phẩm

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

dịch vụ xanh; thực trạng về tín dụng xanh. Nhìn chung, mặc dù các ngân hàng thương mại đã có nhiều nỗ lực điều chỉnh để phù hợp với xu thế “xanh” của thế giới nhưng hiệu quả vẫn cịn chưa cao. Bên cạnh đó, từ việc tổng hợp những quy định pháp luật về ngân hàng xanh tại Việt Nam nhóm tác giả nhận thấy việc áp dụng quy định pháp luật vẫn còn nhiều hạn chế. Từ những quy định đó, nhóm tác giả cũng làm rõ những khó khăn của các ngân hàng khi áp dụng ngân hành xanh vào ngân hàng của mình như việc khó tiếp cận nguồn vốn cho các dự án xanh; năng lực thẩm định của các ngân hàng thương mại… và đặc biệt là hành lang pháp lý về ngân hàng xanh chưa thật sự được hồn thiện. Với Chương II, nhóm tác giả tiến hành nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến việc thiết lập các giải pháp pháp lý nhằm thực hiện ngân hàng xanh gồm 5 nhân tố: nhân tố vĩ mô; nhận thức của lãnh đạo ngân hàng; năng lực cán bộ, nhân viên; sự quan tâm của người dân đến môi trường và năng lực lập pháp của Quốc hội. Tiếp đến là các kiến nghị về điều chỉnh pháp luật ngân hàng xanh để thực thi được hiệu quả hơn, được chia thành 2 phần: phần thứ nhất là kiến nghị về hệ thống pháp luật gồm bổ sung Luật Bảo vệ Mơi trường và Bộ luật Hình sự, các chính sách khuyến khích phát triển của nhà nước; phần thứ hai là kiến nghị cho hệ thống ngành ngân hàng gồm tăng cường hợp tác quốc tế, nhận thức trọng nội bộ, tăng cường ứng dụng khoa học công nghệ nhằm thực hiện nội bộ xanh và tập trung xây dựng các chính sách riêng, hệ thống hỗ trợ thực hiện ngân hàng xanh.

Trong quá trình nghiên cứu, vì nhiều lý do mà đề tài cịn tồn tại hạn chế sau: chưa tiến hành được các cuộc khảo sát diện rộng về ngân hàng xanh và pháp luật ngân hàng xanh ở mọi đối tượng mà chỉ mới tiến hành phỏng vấn, lấy ý kiến một số chuyên gia trong lĩnh vực ngân hàng. Hạn chế này thể hiện được đề tài chỉ tập trung đến góc nhìn vĩ mơ chứ chưa thực sự nêu lên tồn diện góc nhìn của người dân – góc nhìn vi mô về ngân hàng xanh và pháp luật ngân hàng xanh.

Tóm lại, đề tài về ngân hàng xanh và pháp luật ngân hàng xanh ở Việt Nam còn khá mới mẻ và có nhiều “mảnh đất màu mỡ” có thể tiến hành khai thác, nghiên cứu. Hy vọng với đề tài “Thực trạng và định hướng hoàn thiện quy định pháp luật về Ngân hàng xanh” sẽ là một góc nhìn mới, phục vụ cho cơng tác xây dựng, phát triển và hoàn thiện hệ thống pháp luật về ngân hàng xanh nói riêng và hệ thống pháp luật Việt Nam nói chung.

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

<b>LỜI NĨI ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài </b>

Năm 2021 qua đi, cả thế giới đã phải căng mình chống lại đại dịch Covid-19. Cịn đó những “cuộc chiến” mà con người phải đối mặt đó là các vấn đề môi trường. Thực trạng ô nhiễm môi trường hiện nay đang được sự quan tâm của toàn thể cộng đồng. Vấn đề ô nhiễm môi trường đã và đang là một vấn đề nan giải toàn cầu. Ở Việt Nam, những năm qua đã đạt được những thành tựu to lớn trên mọi lĩnh vực, nhất là nền kinh tế tăng trưởng nhanh, đời sống vật chất và tinh thần của người dân không ngừng được nâng cao. Tuy nhiên, quá trình phát triển kinh tế - xã hội đã bộc lộ nhiều bất cập và tạo ra nhiều áp lực lớn lên môi trường, các hệ sinh thái và đa dạng sinh học của đất nước. Tình trạng ơ nhiễm môi trường tiếp tục diễn biến phức tạp, với nhiều điểm nóng, chất lượng mơi

<i>trường nhiều nơi suy giảm mạnh. Đại hội Đảng lần thứ XIII đã khẳng định “Lấy bảo vệ </i>

<i>môi trường sống và sức khỏe của Nhân dân là mục tiêu hàng đầu; kiên quyết loại bỏ những dự án gây ô nhiễm môi trường, bảo đảm chất lượng môi trường sống, bảo vệ đa dạng sinh học và hệ sinh thái; xây dựng nền kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, thân thiện với môi trường”. Ngày 3/11/2022, lần đầu tiên Việt Nam tổ chức kỷ niệm Ngày Quốc tế </i>

về Khu dự trữ sinh quyển cho thấy càng ngày việc đẩy mạnh thực hiện các mục tiêu về phát triển bền vững ở được ta càng được quan tâm. Bên cạnh sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, vai trò của hệ thống tài chính ngân hàng trong việc thúc đẩy kinh tế, ổn định xã hội và bảo vệ môi trường là khơng thể thiếu vì đây là mắt xích quan trọng trong việc quyết định nguồn vốn đầu tư cho các dự án phát triển kinh tế-xã hội và công tác bảo vệ môi trường.

Sau cuộc khủng hoảng tài chính tồn cầu năm 2008, tất cả các quốc gia trên thế giới đều phải nhìn nhận lại cách thức tổ chức và các mơ hình hoạt động trong hệ thống tài chính của mình, bao gồm các ngân hàng. Các vấn đề về phát triển bền vững, trách nhiệm kinh doanh và trách nhiệm xã hội, đạo đức, môi trường đều được xem xét ở tầm cao hơn. Tại đây, Ngân hàng xanh nổi lên như hình mẫu cho ngân hàng trong tương lai, là nền tảng cho việc hướng đến một nền kinh tế xanh phát triển bền vững. Trên thế giới, ngân hàng xanh phát triển và phổ biến rộng ở một số quốc gia như Hoa Kỳ, Thụy Sĩ, Hàn Quốc, Hà Lan,… và đưa lại được nhiều kết quả tích cực.

Trong bối cảnh Việt Nam đang phải đối mặt với nhiều vấn đề về mơi trường như biến đổi khí hậu, thiên tai, hạn hán, lũ lụt, ô nhiễm môi trường cùng với mục tiêu tăng

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

trưởng của Việt Nam trong vịng hai thập kỉ tới khơng chỉ là tăng trưởng nhanh như các giai đoạn trước đây mà phải là tăng trưởng xanh và bền vững thì việc hướng tới xây dựng và phát triển ngân hàng xanh là vấn đề quan trọng và cấp thiết. Trong kế hoạch hành động của Chính phủ, các tổ chức tín dụng được xem là những mắt xích quan trọng nên Chính phủ đã có những bước đầu trong việc xây dựng, triển khai chính sách phát triển ngân hàng xanh tiêu biểu là việc thông qua Ngân hàng Nhà nước Việt Nam để hợp tác với Tập đồn Tài chính Quốc tế nhằm xây dựng Bộ hướng dẫn quản lí rủi ro môi trường xã hội cho các tổ cức tín dụng và chi nhánh ngân hàng nước ngồi. Bên cạnh đó, Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách, văn bản nhằm đạt được mục tiêu tăng trưởng kinh tế bền vững nói chung và phát triển ngân hàng xanh nói riêng như Chiến lược Phát triển ngành Ngân hàng đến năm 2025, định hướng đến năm 2030; Quyết định 1604/QĐ-NHNN ngày 7/8/2018 của Ngân hàng Nhà nước về phê duyệt đề án phát triển ngân hàng xanh tại Việt Nam; Chỉ thị số 03/CT-NHNN ngày 24/3/2015 của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) về thúc đẩy tăng trưởng tín dụng xanh và quản lý rủi ro môi trường và xã hội trong hoạt động cấp tín dụng, hoạt động cấp tín dụng của ngành Ngân hàng…

Hiện nay, theo quả nghiên cứu của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, 19/35 ngân hàng đã phát triển các chiến lược để quản lý rủi ro môi trường và xã hội; 19/35 ngân hàng đã tích hợp nội dung quản lý rủi ro mơi trường và xã hội trong q trình đánh giá tín dụng xanh; 10/35 ngân hàng đã xây dựng các sản phẩm tín dụng, dịch vụ ngân hàng cho lĩnh vực xanh và quan tâm cấp tín dụng, chủ yếu trong trung và dài hạn với lãi suất ưu đãi cho các dự án xanh. Tham chiếu trên 5 cấp độ của mơ hình Ngân hàng xanh Kaeufer (2010), Việt Nam đang ở cấp độ 3 về phát triển ngân hàng xanh: Hoạt động kinh doanh có hệ thống. Việt Nam cần có nhiều nỗ lực đáng kể hơn nữa để “nâng hạng” lên cấp độ 4 “Sáng kiến cho hệ sinh thái chiến lược” và cấp độ 5 “Sáng kiến cho hệ sinh thái chủ động” trong mô hình này<small>1</small>. Ngân hàng Thương mại cổ phần Bắc Á (BacABank), Ngân hàng Thương mại cổ phần Phát triển Thành phố Hồ Chí Minh (HDBank), Ngân hàng Thương mại cổ phần Nam Á (NamABank) là 3 ngân hàng thương mại đã nhận được Giải thưởng Ngân hàng tiêu biểu về Tín dụng xanh năm 2019 do Tập đồn Dữ liệu quốc tế (IDG) Việt Nam phối hợp với Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam tổ chức. Trong đó, NamABank là ngân hàng không vốn Nhà nước đầu tiên ký kết hợp tác với GCPF - Quỹ

<small> </small>

<small>1 Trần Thị Thanh Tú, “Phát triển Ngân hàng xanh ở Việt Nam”, xanh-o-viet-nam-nd346.html, truy cập ngày 6/11/2022. </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

tác khí hậu tồn cầu triển khai chương trình “Tín dụng xanh”, cho vay vốn thực hiện các dự án liên quan đến bảo vệ môi trường, tiết kiệm năng lượng<small>2</small>. Ngày 19/10/2022, trong khn khổ hội thảo “Hợp tác phát triển tín dụng bền vững”, NamABank đã ký kết biên bản ghi nhớ hợp tác với Công ty quản lý quỹ ResponsAbility (Thụy Sĩ) nhằm thúc đẩy phát triển bền vững và tín dụng xanh tại Việt Nam.

Tuy nhiên, mặc dù đã ban hành một số văn bản hướng dẫn về định hướng chiến lược phát triển ngân hàng xanh tại Việt Nam như đã nêu ở trên nhưng trong hệ thống văn bản pháp luật về tài chính ngân hàng chưa có văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn cụ thể về ngân hàng xanh. Cụ thể là chưa có một văn bản luật nào quy định về ngân hàng xanh, các văn bản dưới luật cũng chỉ quy định chung chung, chưa rõ ràng, cụ thể. Khái niệm ngân hàng xanh đến tại thời điểm hiện tại vẫn là một khái niệm khá mơ hồ, chưa được quy định rõ tại văn bản pháp luật nào. Tại Quyết định số 986/QĐ-TTg về việc phê duyệt Chiến lược Phát triển ngành Ngân hàng đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 chỉ mới nêu được quan điểm, mục tiêu là thúc đẩy phát triển “tín dụng xanh”, “ngân hàng xanh” nhưng chưa thật sự có một giải pháp rõ ràng để thực hiện. Bên cạnh đó, khung pháp lí hỗ trợ thực hiện tín dụng xanh, ngân hàng xanh cịn thiếu và chưa đồng bộ, các nhà làm luật chưa có một quy định thống nhất để khuyến khích hay ràng buộc các ngân hàng thực hiện khiến cho nhiều ngân hàng không thật sự quan tâm tới việc phát triển ngân hàng xanh. Đây được xem là thách thức lớn nhất trong chiến lược xây dựng và phát triển ngân hàng xanh tại Việt Nam. Do vậy, Chính phủ cần thiết kế khung pháp lí chặt chẽ về trách nhiệm môi trường và xã hội của hệ thống ngân hàng trong việc cấp phát tín dụng để từ đó tạo nên nền móng phát triển vững chắc cho ngân hàng xanh tại Việt Nam nói riêng cũng như phát triển bền vững nói chung.

Như vậy, xuất phát từ những lí do trên mà nhóm tác giả cho rằng việc chọn đề tài “Thực trạng và định hướng hoàn thiện quy định pháp luật Việt Nam về ngân hàng xanh”

<b>làm đề tài nghiên cứu khoa học là phù hợp và cần thiết. 2. Tình hình nghiên cứu </b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

Việt Nam” của tác giả Trần Linh Huân – giảng viên Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh, được đăng trên Tạp chí Luật học số 7/2019 là một bài viết cho thấy được cái nhìn tổng quan về ngân hàng xanh, mối quan hệ hỗ trợ lẫn nhau giữa ngân hàng xanh và vấn đề bảo vệ mơi trường trong việc tác động tích cực đến nền kinh tế lẫn môi trường. Bên cạnh đó bài viết cũng chỉ ra những hạn chế về lĩnh vực này trong pháp luật Việt Nam, từ đó đưa ra một số định hướng và giải pháp cho việc hoàn thiện khung pháp lý. Tuy nhiên, với thời lượng của một bài tạp chí, bài viết chỉ cung cấp kiến thức cơ bản về những vấn đề trên mà chưa thực sự đi sâu vào vấn đề, các định hướng cịn mang tính khái qt và hàn lâm. Nhìn chung, ngân hàng xanh vẫn cịn là một đề tài khá mới mẻ ở Việt Nam, nên vẫn chưa có những nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề này. Do đó, nghiên cứu của nhóm tác giả ngồi khái quát chung, thực trạng xây dựng và phát triển ngân hàng xanh ở Việt Nam kết hợp tham khảo pháp luật một số quốc gia như Bangladesh, Hoa Kỳ, Trung Quốc,… thì sẽ tập trung vào việc đưa ra các giải pháp pháp lý mang tính thực tế cao nhằm thực hiện hoạt động ngân hàng xanh tại Việt Nam hiệu quả hơn.

Có thể kể đến bài viết “Tài chính xanh – Ngân hàng xanh trong hợp tác APEC và thực tiễn ở Việt Nam” của tác giả Lê Thị Thùy Vân, được đăng trên Tạp chí Ngân hàng số 12, tháng 06/2016. Bài viết làm rõ được quá trình phát triển của ngân hàng xanh trong hợp tác APEC và các chính sách mà Nhà nước đã triển khai để phát triển ngân hàng xanh trong nhiều năm qua như Chỉ thị số 03/CT-NHNN ngày 24/3/2015 của Ngân hàng Nhà nước về thúc đẩy tăng trưởng tín dụng xanh và quản lý rủi ro môi trường và xã hội trong hoạt động cấp tín dụng,… Tuy nhiên, bài viết chỉ mới dừng ở mức độ thông tin chứ chưa đào sâu về các giải pháp pháp lý nhằm thực hiện ngân hàng xanh, cũng như chưa đưa ra phân tích và kiến nghị của tác giả về vấn đề này. Tương tự, bài viết “Ứng dụng dịch vụ ngân hàng xanh tại một số ngân hàng thương mại ở Việt Nam” của các tác giả Nguyễn Thị Thủy, Đinh Thị Minh Tâm, Nguyễn Hồng Nhung được đăng tải ngày 05/07/2019 trên trang web Tạp chí tài chính tuy đã đưa ra kiến nghị riêng nhưng phần lớn các kiến nghị đó tập trung vào giải pháp kinh tế, cịn giải pháp pháp lý chỉ có tác dụng bổ trợ chứ chưa được tập trung chuyên sâu.

<i>*Tình hình ngồi nước </i>

Hiện tại trên thế giới, phần lớn các nghiên cứu về ngân hàng xanh đều ở dạng tạp chí, bài viết. Các sách nghiên cứu tồn diện về ngân hàng xanh chưa thực sự phong phú, và sách pháp lý về ngân hàng xanh càng hiếm hoi hơn. Cuốn sách “Green Banking and

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

Green Central Banking”<small>3</small> được biên tập bởi Andreas Dombret và Patrick S. Kenadjian chủ yếu giải quyết các câu hỏi nặng tính kinh tế: thị trường vốn đối với tài chính xanh, vai trị thích hợp của các ngân hàng trung ương,… Còn về các giải pháp pháp lý để thực hiện, phát triển “ngân hàng xanh” vẫn còn là câu bỏ ngỏ trong cuốn sách này.

Thông qua những tài liệu mà nhóm tác giả đã đề cập ở trên, nhóm tác giả thấy mặc dù các bài nghiên cứu đều có nội dung cụ thể, nhưng nhìn chung chỉ tập trung chủ yếu ở cấp độ thông tin về ngân hàng xanh. Có bài viết đã tập trung được vào các giải pháp pháp lý nhưng với thời lượng khá ngắn của bài viết nên còn nhiều vấn đề chưa được đào sâu và khai thác cụ thể. Đây là một sự thiếu sót khá lớn, do đó cần có một sự nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề các giải pháp pháp lý nhằm hoàn thiện các chính sách về ngân hàng xanh ở Việt Nam.

<b>3. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu </b>

Đối tượng nghiên cứu: Dựa trên những cơ sở có trước kết hợp với sự nghiên cứu, nhóm tác giả tiến hành tìm hiểu khái quát chung về ngân hàng xanh ở trên thế giới, từ đó đánh giá thực trạng xây dựng và phát triển ngân hàng xanh tại Việt Nam. Bên cạnh đó, nhóm tác giả cịn đưa ra kiến nghị một số giải pháp pháp lý nhằm định hướng hoàn thiện cho pháp luật về ngân hàng xanh ở Việt Nam. Cùng với đó đề xuất hướng tham khảo cho pháp luật Việt Nam với mong muốn ngân hàng xanh sẽ phát triển mạnh mẽ trong tương lai và đóng góp vào nền kinh tế bền vững với mơi trường.

Phạm vi nghiên cứu:

<i>- Phạm vi về nội dung, đề tài chỉ nghiên cứu trong phạm vi luật học, tức không bao </i>

gồm phạm vi về kinh tế tài chính - ngân hàng. Cụ thể nhóm tác giả tập trung nghiên cứu những lý luận cơ bản về Ngân hàng xanh ở trong nước cũng như pháp luật nước ngoài và hướng tham khảo cho pháp luật Việt Nam để từ đó đưa ra một số kiến nghị pháp lý nhằm thực hiện Ngân hàng xanh.

<i>- Phạm vi về thời gian, đề tài nghiên cứu thực trạng về ngân hàng xanh ở Việt Nam </i>

đặc biệt là giai đoạn từ năm 2003, khi mà thuật ngữ “ngân hàng xanh” lần đầu xuất hiện ở các quốc gia phương Tây đến thời điểm hiện tại – năm 2022.

<small> </small>

<small>3 Andreas Dombret, Patrick S. Kenadjian, “Green Banking and Green Central Banking”, truy cập ngày 12/12/2022. </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

<i>- Phạm vi về không gian, đề tài nghiên cứu về ngân hàng xanh trong phạm vi lãnh </i>

thổ nước Việt Nam, có liên hệ với pháp luật của các quốc gia khác cụ thể là Bangladesh, Trung Quốc và Hoa Kỳ.

<b>4. Phương pháp nghiên cứu 5. Kết cấu của đề tài </b>

Bài nghiên cứu được chia thành 2 chương:

<i>Chương 1: Khái quát chung về pháp luật ngân hàng xanh. </i>

<i>Chương 2: Kiến nghị một số giải pháp pháp lý nhằm định hướng hoàn thiện pháp </i>

luật Việt Nam về ngân hàng xanh.

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

<b>CHƯƠNG 1 </b>

<b>KHÁI QUÁT CHUNG VỀ PHÁP LUẬT NGÂN HÀNG XANH </b>

<b>1.1. Khái quát chung về ngân hàng xanh và pháp luật điều chỉnh ngân hàng xanh ở một số quốc gia trên thế giới </b>

<b>1.1.1. Khái quát chung về khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của ngân hàng xanh </b>

Những năm trở lại đây, ngân hàng xanh là một khái niệm mới nổi lên ở Việt Nam. Dù là một khái niệm mới nhưng Chính phủ, Ngân hàng nhà nước và các ngân hàng thương mại đã tiến hành tích cực, chủ động áp dụng ngân hàng xanh vào trong hoạt động ngân hàng ở các ngân hàng thương mại. Tuy nhiên, việc chưa có cách hiểu đồng nhất về khái niệm, đặc điểm hay ý nghĩa của ngân hàng xanh đã phần nào khiến việc áp dụng ngân hàng xanh trở nên khó khăn hơn. Những nghiên cứu dưới đây của nhóm sẽ góp phần đưa lại cách hiểu chung nhất về khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của ngân hàng xanh. Trong gần nửa thế kỉ qua năm qua, cùng với sự tăng trưởng vượt bậc của nền kinh tế toàn cầu, nhân loại phải đối mặt với số hạn chế cấp bách về sự phát triển và các xu hướng tiêu cực kéo theo, như chênh lệch kinh tế và nghèo đói, tiêu thụ quá mức tài nguyên và suy thoái môi trường. Những vấn đề xã hội và môi trường này đã đánh thức nhân loại suy nghĩ cẩn thận hơn về cách bảo vệ hành tinh của chúng ta, điều này đã dẫn đến Hội nghị năm 1972 của Liên hợp quốc về môi trường con người ở Stockholm, cũng như sau đó là việc thành lập Chương trình Môi trường Liên hợp quốc (UNEP). Kể từ những năm 1980, phát triển bền vững, với tư cách là một khái niệm mới về phát triển con người, đã là một trong những thuật ngữ phổ biến nhất được sử dụng do nhận thức ngày càng cao về các vấn đề xã hội và môi trường<small>4</small>. Phát triển bền vững là mối quan tâm trên phạm vi toàn cầu. Trong tiến trình phát triển của thế giới, mỗi khu vực và quốc gia xuất hiện nhiều vấn đề bức xúc mang tính phổ biến. Kinh tế càng tăng trưởng thì tình trạng khan hiếm các loại nguyên nhiên liệu, năng lượng do sự cạn kiệt các nguồn tài nguyên không tái tạo được càng tăng thêm, môi trường thiên nhiên càng bị hủy hoại, cân bằng sinh thái bị phá vỡ, thiên nhiên gây ra những thiên tai vô cùng thảm khốc.

Khái niệm “ngân hàng xanh” lần đầu xuất hiện trên thế giới lần đầu vào năm 2003, nơi đầu tiên biết đến khái niệm này là ở các quốc gia phương Tây. Ban đầu, thuật ngữ này được dùng để chỉ các dự án kinh doanh với mục đích bảo vệ mơi trường trong nghiên

<small> </small>

<small>4 Được sử dụng lần đầu tiên vào năm 1980, trong Chiến lược bảo tồn thế giới do Hiệp hội bảo tồn thiên nhiên và tài nguyên thiên nhiên quốc tế, Quỹ động vật hoang dã thế giới và Chương trình Mơi trường Liên hiệp quốc đề xuất, cùng với sự trợ giúp của UNESCO và FAO. </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">

cứu khoa học. Sau đó các nhà kinh tế ở phương Tây đã sử dụng thuật ngữ này để dùng trong các nghiên cứu của mình và kể từ đó thuật ngữ này đã được sử dụng một cách rộng rãi hơn<small>5</small>. Hiện nay có rất nhiều cách định nghĩa khi nhắc đến ngân hàng xanh mà khơng có một định nghĩa thống nhất về thuật ngữ này.

Theo Công ty Sogesid Spa, một công ty cổ phần kỹ thuật cung cấp nội bộ của Bộ Môi trường và Bảo vệ lãnh thổ và biển; Bộ Cơ sở hạ tầng và giao thông thuộc sở hữu của Nhà nước Ý<small>6</small> thì ngân hàng xanh là kiểu ngân hàng một mặt vẫn hoạt động như ngân hàng truyền thống như cung cấp các dịch vụ cho khách hàng .Một mặt thực hiện các chương trình giúp cho cộng đồng và môi trường phát triển. Đây không phải là một loại hình doanh nghiệp hoạt động thuần túy vì trách nhiệm xã hội như các doanh nghiệp xã hội, cũng khơng hồn tồn là doanh nghiệp thuần túy chỉ có một mục tiêu lợi nhuận mà có sự kết hợp đảm bảo sự hài hòa và bền vững về kinh tế - môi trường – xã hội<small>7</small>. Theo Lalon, khái niệm ngân hàng xanh có thể được hiểu theo hai khía cạnh: (i) Ngân hàng thực hiện các hoạt động trực tiếp nhằm giảm thiểu tác động đến môi trường như sử dụng tiết kiệm năng lượng, nước, xử lý rác thải,…; (ii) Ngân hàng tác động gián tiếp đến môi trường thông qua việc tăng cường hỗ trợ các dự án thân thiện với môi trường như: Nhà máy sử dụng khí đốt từ chất thải, nhà máy cung cấp năng lượng tái tạo và năng lượng mặt trời, nhà máy chế tạo phân sinh học,…<small>8</small>

Theo Bahl, ngân hàng xanh bao gồm các hoạt động ngân hàng trực tuyến, thực hiện các giao dịch qua mạng thay vì mở rộng chuỗi chi nhánh của ngân hàng. Trong nghiên cứu của Millat và các cộng sự, ngân hàng xanh có thể tiếp cận theo hai hướng, bao gồm: (1) tập trung xanh hóa hoạt động nội bộ của ngân hàng và (2) tài trợ cho các dự án thân thiện với môi trường, chú trọng yếu tố mơi trường xã hội trong q trình thẩm định cho vay<small>9</small>. Nghiên cứu năm 2014 của Singal và Arya cho rằng ngân hàng xanh

<small> </small>

<small>5 Trần Linh Huân (2019), “Phát triển ngân hàng xanh – Thực trạng và định hướng hồn thiện chính sách, pháp luật </small>

<i><small>Việt Nam”, Tạp chí luật học số 7/2019, tr.43. </small></i>

<small>6 Sogesid Spa được thành lập vào năm 1994 tại Roma với tư cách là công ty quản lý các nhà máy nước, theo thời gian công ty này đã mở rộng và bén rễ trong các lĩnh vực mơi trường. Hiện nay, các ngành chính của cơng ty này bao gồm xử lý nước, nước thải và các hệ thơng khác; xây dựng hệ thống tiện ích, cấp nước, đường nước, cống rãnh và tiện ích. Địa chỉ trụ sở chính của cơng ty nằm tại VIA NOMENTANA 41 ROMA, ROMA, 00161 Ý. </small>

<small>7 SOGESID Spa, “The evolution of the Sustainable Development concept”, _site/Sustainable_Development.html, truy cập ngày 16/7/2023. </small>

<small>8 Hồ Ngọc Tú, Nguyễn Mai Hảo, “Phát triển ngân hàng xanh tại Việt Nam: Kinh nghiệm quốc tế và một số gợi ý”, truy cập ngày 16/7/2023. </small>

<small>9 “Green Banking: Going Green”, </small>

<small>https:/www.researchgate.net/publication/281618047_Green_Banking_Going_Green, truy cập ngày 9/8/2023. </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">

nghiêng về hoạt động kinh tế xã hội và chú trọng yếu tố môi trường thơng qua giảm lượng carbon cả trong và ngồi ngân hàng. Cụ thể, ngân hàng giảm lượng carbon trong ngân hàng bằng cách thực hiện các hoạt động trực tuyến, sử dụng hệ thống ATM, mobile banking, các loại thẻ, trao đổi qua thư điện tử… nhằm giảm thiểu các hoạt động liên quan đến giấy tờ, văn phòng phẩm, máy điều hòa… Đối với mục tiêu giảm lượng khí thải ngồi ngân hàng, các ngân hàng thực hiện tín dụng xanh hay là tài trợ cho các dự án thân thiện với môi trường, giảm thải ô nhiễm, ưu tiên đối với những ngành cơng nghiệp xanh<small>10</small>.

Hiểu theo góc nhìn rộng thi ngân hàng xanh là “ngân hàng bền vững”. Còn theo góc nhìn hẹp, ngân hàng xanh dùng để chỉ các hoạt động khuyến khích các hoạt động bảo vệ mơi trường và giảm lượng khí thải carbon như khuyến khích sử dụng các sản phẩm và dịch vụ xanh; áp dụng các tiêu chuẩn môi trường để phê duyệt các khoản vay hoặc cung cấp các khoản tín dụng ưu đãi cho các dự án giảm CO<small>2 11</small>.

Có thể hiểu các khái niệm về ngân hàng xanh đều có một điểm chung đó là việc hướng đến các vấn đề chính như: (i) giảm phát thải carbon trong hoạt động nội bộ ngân hàng; (ii) phát triển các sản phẩm, dịch vụ xanh và (iii) thúc đẩy hoạt động vì mơi trường thơng qua tín dụng xanh. Các ngân hàng đã tiến hành giảm thải carbon thông qua việc giảm thiểu tác động của những hoạt động trong ngân hàng ảnh hưởng đến môi trường như việc sử dụng điện, nước, giấy, vật dụng văn phịng,… Do đó các ngân hàng hướng tới giảm số lượng các chi nhánh, văn phòng, xây dựng các cơ sở hạ tầng “xanh”, sử dụng những trang thiết bị ít gây ảnh hưởng đến môi trường, sử dụng tiết kiệm các nguồn năng lượng,… Đồng thời, họ cũng phát triển các sản phẩm, dịch vụ xanh là phát triển các sản phẩm dịch vụ có thể giảm lượng carbon, như các dịch vụ ngân hàng điện tử (phone banking, internet banking, mobile banking,…), dịch vụ thanh toán tự động, thanh toán khơng dùng tiền mặt, chủ yếu là thanh tốn qua thẻ. Bên cạnh đó, các ngân hàng cũng khuyến khích khách hàng quan tâm môi trường bằng việc áp dụng chính sách tín dụng xanh - chính sách có những ưu đãi đối với các dự án thân thiện môi trường, dự án bảo

</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">

môi trường, thực hiện thẩm định rủi ro môi trường - xã hội trong hoạt động cấp tín dụng,…<small>12</small>

Như vậy, ngân hàng xanh cũng giống các ngân hàng truyền thống khác như có các hoạt động về huy động vốn, cấp tín dụng, dịch vụ thanh tốn,… nhưng có cân nhắc đến yếu tố môi trường, xã hội thông qua các chiến lược kinh doanh bền vững, đáp ứng được yêu cầu về trách nhiệm xã hội, bảo vệ môi trường, đảm bảo sự hài hịa giữa mơi trường và kinh tế. Ngân hàng xanh giảm thiểu lượng carbon theo hướng khuyến khích hoạt động tín dụng xanh và xanh hóa các hoạt động điều hành tổ chức công việc nội bộ của ngân hàng.

Ngân hàng xanh là ngân hàng có những đặc điểm giống các ngân hàng hoạt động theo kiểu truyền thống, hoạt động ngân hàng của ngân hàng xanh là việc kinh doanh, cung ứng thường xuyên một hoặc một số các nghiệp vụ như nhận tiền gửi, cấp tín dụng, cung ứng dịch vụ thanh tốn qua tài khoản,… Tuy nhiên, ngoài những đặc điểm trên thì ngân hàng xanh cịn có những đặc điểm chính như: Triển khai các dịch vụ điện tử và tự động hóa; ưu tiên cho vay hoặc đầu tư vào dự án có đánh giá các rủi ro liên quan đến môi trường; quan tâm đến các mục tiêu xã hội, mục tiêu phát triển bền vững và phát triển xanh, giám sát, hướng dẫn các dự án của khách hàng để giảm thiểu ô nhiễm môi trường; thay đổi năng lực đánh giá của cán bộ ngân hàng và khách hàng về các hoạt động thân thiện với môi trường.

Việc thúc đẩy phát triển ngân hàng xanh sẽ chủ động tạo ra những tác động đến môi trường theo hướng tích cực, ảnh hưởng rộng rãi đến nhiều lĩnh vực trong cuộc sống, đảm bảo phát triển bền vững cả ba yếu tố kinh tế - môi trường - xã hội.

Thông qua việc tăng cường quản lý rủi ro môi trường trong đánh giá hoạt động cho vay của ngân hàng sẽ thúc đẩy các doanh nghiệp phát triển kinh doanh theo hướng xanh hóa, góp phần nâng cao nhận thức của các chủ thể trong nền kinh tế, thúc đẩy họ thực hiện các hoạt động kinh doanh thân thiện với môi trường, hỗ trợ cộng đồng.

Đồng thời, ngân hàng xanh giúp hỗ trợ các dự án đem lại lợi ích cho cộng đồng, đây khơng chỉ là cho vay vì lợi nhuận mà còn hướng đến sự phát triển bền vững trong tương lai. Ngân hàng xanh sẽ là nguồn hỗ trợ to lớn cho các sáng kiến xanh tại địa phương về xã hội, giáo dục, nhà ở, mơi trường... Từ đó, các doanh nghiệp này có đủ tài

<small> </small>

<small>12 Nguyễn Thị Đoan Trang (2018), “Phát triển ngân hàng xanh ở Việt Nam – trách nhiệm xã hội trong việc bảo vệ </small>

<i><small>mơi trường”, Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng số 190 – Tháng 3/2018, tr.18. </small></i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">

chính để thực hiện dự án kinh doanh của mình, giúp ích cho xã hội, đời sống của nhân dân, đất nước ngày một tốt lên.

Bên cạnh đó, việc triển khai các dịch vụ trên nền công nghệ như internet banking, SMS banking,… giúp khách hàng tiết kiệm thời gian, chi phí, hạn chế được rủi ro trong quá trình sử dụng tiền mặt. Ngân hàng trực tuyến đã giúp tiết kiệm năng lượng và tài ngun. Thanh tốn hóa đơn trực tuyến, chuyển khoản trực tuyến, quản lý tài khoản trực tuyến, nhận các báo cáo về tài khoản qua Internet, mua bán các chứng chỉ tiền gửi,… chỉ là một trong những cách mà một ngân hàng trực tuyến có thể giúp giảm thiểu việc sử dụng giấy tờ, giảm thời gian và công sức đi lại, tiết kiệm các nguồn lực tự nhiên bị tiêu tốn qua các hoạt động ngân hàng. Khách hàng có thể tiết kiệm tiền bạc từ việc sử dụng các dịch vụ ngân hàng thông qua email, tin nhắn hoặc các trang điện tử. Thậm chí khách hàng có thể chuyển tiền trực tiếp từ cá nhân - đến cá nhân. Các ngân hàng có thể tiết kiệm chi phí từ việc giảm giấy tờ, giảm văn phòng và chi nhánh, xây dựng các tòa nhà tiết kiệm năng lượng hơn; giảm các thủ tục phức tạp và tập trung nhân lực cho các phần quan trọng hơn<small>13</small>. Một khi ngân hàng xanh trở thành mơ hình phổ biến, các chuẩn mực trong kinh doanh cũng như trách nhiệm cộng đồng của các ngân hàng, các tổ chức và doanh nghiệp sẽ cao hơn và phát huy được hiệu quả. Cộng đồng sẽ được hưởng nhiều lợi ích hơn từ những hoạt động kinh doanh có đạo đức.

Về phía các ngân hàng, việc áp dụng ngân hàng xanh, xem xét đến tiêu chí mơi trường trong việc đưa ra các quyết định cho vay sẽ giúp ngân hàng hạn chế được rủi ro danh tiếng của ngân hàng khi cho vay vì phần nào đó có thể giúp các ngân hàng thương mại tránh được những dự án gây tác động xấu đến môi trường. Đồng thời, việc triển khai và phát triển không ngừng các hoạt động của ngân hàng điện tử trong thời đại 4.0 khơng những chỉ góp phần hạn chế sử dụng nguồn tài nguyên, nhân lực mà còn đáp ứng nhu cầu của khách hàng ngày càng cao của khách hàng, từ đó tăng khả năng thu hút khách hàng, tạo ra nhiều nguồn thu cao cho ngân hàng. Khi việc sử dụng dịch vụ ngân

<small> </small>

<small>13 Trần Thị Thanh Tú, Trần Thị Hoàng Yến, “Đánh giá thực tiễn ngân hàng xanh ở Việt Nam theo thông lệ quốc tế”, </small>

<small>state=k5a0irxjf_4&_afrLoop=26283304899826466#%40%3F_afrLoop%3D26283304899826466%26centerWidth%3D80%2525%26dDocName%3DSBV244244%26leftWidth%3D20%2525%26rightWidth%3D0%2525%26showFooter%3Dfalse%26showHeader%3Dfalse%26_adf.ctrl-state%3D1a1v4uq6d8_4, truy cập ngày 17/7/2023. </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">

hàng trở nên thuận tiện hơn, nhanh chóng, đỡ tốn kém và nhiều ưu đãi hơn thơng qua ngân hàng trực tuyến thì người tiêu dùng sẽ có xu hướng sử dụng dịch vụ ngân hàng ngày càng nhiều. Điều này sẽ tạo ra ý thức xã hội trong việc sử dụng dịch vụ ngân hàng và trong tương lai sẽ tạo ra một xã hội nơi mà các dịch vụ tài chính - ngân hàng trở thành một phần quen thuộc của cuộc sống thường nhật<small>14</small>.

<b>1.1.2. Pháp luật điều chỉnh ngân hàng xanh ở một số quốc gia trên thế giới. </b>

Thế giới ngày càng phát triển, nếu như ở thế kỉ trước, sự cường thịnh của mỗi quốc gia gắn liền với sức mạnh về quân sự của quốc gia đó thì ngày nay việc tập trung phát triển kinh tế của mỗi quốc gia lại được đặt lên hàng đầu. Những nhà máy, cụm cơng nghiệp, khu xí nghiệp, các tòa nhà cao tầng lần lượt mọc ra; các dự án phát triển với quy mô lớn như phát triển dầu mỏ, khí đốt, khai thác mỏ, nhà máy điện…, thường đi kèm với các tác động tiêu cực đối với môi trường tự nhiên và cộng đồng dân cư ở khu vực địa phương đó. Vào những năm 1980, dự án Sardar Sarovar liên quan đến việc xây dựng đập trên sông Narmada ở Ấn Độ đã bị chỉ trích nặng nề trên tồn thế giới vì những tác động tiêu cực đến môi trường và xã hội trong quá trình xây dựng<small>15</small>. Những mối quan tâm đối với vấn đề môi trường ngày càng tăng nên vào những năm 1990, các tổ chức tài chính phát triển đa phương như Ngân hàng thế giới và các Cơ quan Tín dụng Xuất khẩu của các nước thành viên trong Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) đã đưa ra các hướng dẫn về môi trường và xã hội để quản lý một cách thích hợp các rủi ro môi trường và xã hội liên quan đối với những dự án có quy mơ, tác động lớn đến môi trường. Tuy nhiên tại thời điểm này thì chỉ có một số ít tổ chức kinh tế thực hiện đánh giá về môi trường và xã hội đối với dự án của mình.

Năm 2003, Tổ chức Tài chính quốc tế (International Finance Corporation - IFC) cùng 9 ngân hàng quốc tế đã họp ở London và quyết định xây dựng bộ tiêu chuẩn thực hiện trách nhiệm của hệ thống ngân hàng đối với môi trường, xã hội dựa trên các bộ tiêu chuẩn đã có của IFC. Từ đây ngun tắc Xích đạo (The Equator Principles Financial Institutions - EPFIs) về tài trợ dự án được chính thức ra đời và đến nay đã có hơn 138 tổ chức tài chính tại 38 quốc gia trên thế giới tham gia cam kết<small>16</small>. Bộ tiêu chuẩn này đóng vai trị quan trọng trong việc phân loại và xếp hạng các ngân hàng xanh hiện nay.

<small> </small>

<small>14</small><i><small> Nguyễn Thị Đoan Trang (2018), Tlđd (12), tr.18. </small></i>

<small>15“What are the Equator Principles?”, activities/investment/equator/about, truy cập ngày 17/7/2023. </small>

<small> “Tracking the Equator Principles”, truy cập ngày 17/7/2023. </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">

Một ngân hàng được coi là ngân hàng xanh khi thoả mãn các tiêu chuẩn trong bộ tiêu chuẩn về trách nhiệm xã hội (23 tiêu chuẩn) và trách nhiệm môi trường (47 tiêu chuẩn). EPFIs tin rằng việc tuân thủ và tôn trọng những nguyên tắc này sẽ mang lại lợi ích đáng kể khơng chỉ cho chính bản thân họ, mà cho cả những đơn vị nhận tài trợ và các bên liên quan thông qua những cam kết giữa đơn vị được tài trợ với các cộng đồng chịu ảnh hưởng.

Hiện nay, nhiều nước trên thế giới đã triển khai tín dụng ngân hàng xanh như Đức, Thụy Sỹ, Anh, Pháp, Trung Quốc,… Tín dụng xanh được thực hiện thơng qua ngân hàng xanh ở các nước hoặc các quỹ phát triển xanh, hướng đến hai đối tượng khách hàng là khách hàng cá nhân và khách hàng doanh nghiệp. Tín dụng xanh thường trọng tâm hướng vào các dự án tiết kiệm năng lượng, năng lượng tái tạo và công nghệ sạch. Các lĩnh vực ưu tiên tùy thuộc vào chính sách tín dụng xanh ở từng quốc gia và khu vực. Tại Châu Âu, tín dụng ngân hàng xanh cho khách hàng cá nhân và doanh nghiệp đều tập trung vào việc tài trợ cho lĩnh vực xây dựng như xây dựng ngôi nhà tiết kiệm điện (Đức, Ba Lan); nâng cấp, mua mới các thiết bị tiết kiệm năng lượng trong gia đình (Đức, Italy, Ba Lan, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha) và sản xuất năng lượng sạch (Đức),… Ngân hàng Trung ̣̣̣̣ươngChâu Âu (ECB) cũng đã thành lập Mạng lưới xanh hóa hệ thống tài chính năm 2017 (NGFS), với thành viên gồm tất cả các ngân hàng trung ương lớn. ECB hiện đang thành lập một Trung tâm Biến đổi khí hậu mới để tập hợp hiệu quả hơn các chuyên gia và các lĩnh vực cơng việc khác nhau về khí hậu trong tồn ngân hàng và các chương trình tín dụng xanh. Đồng thời, ECB cũng xây dựng các tiêu chuẩn tối thiểu liên quan đến rủi ro biến đổi khí hậu trong xếp hạng tín dụng đối với tài sản thế chấp và mua tài sản<small>17</small>.

<i>a. Pháp luật điều chỉnh ngân hàng xanh ở Bangladesh </i>

Bangladesh là một quốc gia ở Nam Á, trong những năm gần đây quốc gia này đã chứng kiến mức tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ cũng như sự bùng nổ dân số. Đây là quốc gia đông dân thứ 8 trên thế giới<small>18</small>. Quốc gia này chịu ảnh hưởng nặng nề bởi các vấn đề ơ nhiễm mơi trường như: Ơ nhiễm khơng khí, ơ nhiễm nguồn nước; sự khan hiếm, sự

<small> </small>

<small>17 Vũ Mai Chi, “Tín dụng ngân hàng xanh: Thực tiễn tại một số quốc gia và khuyến nghị đối với Việt Nam”, truy cập ngày 17/7/2023. </small>

<small>18“Population of Bangladesh (2023 and historical)”, population/bangladesh-</small>

<small>o/world-population/#:~:text=Bangladesh%202023%20population%20is%20estimated,of%20the%20total%20world%20population., truy cập ngày 18/7/2023. </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">

xâm lấn của các dịng sơng; xử lý khơng đúng các chất thải cơng nghiệp, y tế, nạn phá rừng và mất đa dạng sinh học,… Trong đó, đặc biệt là vấn đề phơi nhiễm khơng khí ở mức độ cao làm tăng nguy cơ khó thở và mắc các bệnh về đường hơ hấp như ho, viêm đường hô hấp dưới, trầm cảm và các vấn đề sức khỏe khác. Quyền Giám đốc của Ngân hàng thế giới (WB) tại Bangladesh và Bhutan, bà Dandan Chen cho biết ơ nhiễm khơng khí là mối đe dọa đối với sức khỏe của cả trẻ nhỏ và người già ở quốc gia này. Trong năm 2019, ơ nhiễm khơng khí là ngun nhân gây chết người và tàn tật đứng thứ 2 ở Bangladesh, khiến nước này thiệt hại từ 3,9 đến 4,4% tổng sản phẩm quốc nội (GDP). Ơ nhiễm khơng khí đã cướp đi sinh mạng của khoảng 78.000 đến 88.300 người ở Bangladesh trong năm 2019<small>19</small>. Theo Báo cáo Chất lượng Khơng khí Thế giới năm 2021 của IQAir, nồng độ PM2.5 trung bình của Bangladesh là 76,9 µg/m<small>3</small>, cao hơn 15 lần so với hướng dẫn của WHO. Dhaka, với nồng độ PM2.5 trung bình hàng năm là 78,1 µg/m<small>3</small>, bị xếp hạng là thành phố thủ đô khu vực ô nhiễm thứ hai trên thế giới, chỉ sau New Delhi ở nước láng giềng Ấn Độ<small>20</small>.

Đối với các nước đang phát triển như Bangladesh, khả năng phục hồi trước biến đổi khí hậu và tính bền vững về mơi trường là những thành phần chính của phát triển kinh tế xã hội tồn diện. Trong đó, ngành ngân hàng đóng một vai trị quan trọng trong sự phát triển kinh tế của Bangladesh. Trước những thách thức về tốc độ biến đổi khí hậu, các ngân hàng khơng chỉ là trung gian tài chính mà cịn được kết nối với bảo vệ môi trường và quản lý rủi ro toàn diện cho hệ sinh thái rộng hơn. Với thực trạng đó, từ năm 2011, Ngân hàng Trung ương Bangladesh (Ngân hàng Bangladesh) đã chuyển hướng phát triển hoạt động ngân hàng xanh nhằm bảo vệ môi trường và nâng cao sự bền vững tài chính. Ngân hàng Bangladesh đã đưa ra sáng kiến ngân hàng xanh toàn diện để hỗ trợ và thúc đẩy ngành tài chính có trách nhiệm với môi trường như việc đưa ra và thúc đẩy chính sách và hướng dẫn liên quan đến ngân hàng xanh. Chính sách này tập trung vào khuyến khích các ngân hàng thực hiện các hoạt động tài chính bền vững, bao gồm việc cấp tín dụng cho các dự án xanh và quản lý rủi ro môi trường. Bên cạnh đó Ngân hàng Bangladesh cịn khuyến khích các ngân hàng tham gia vào tài trợ và đầu tư

</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">

cho các dự án có tác động tích cực đến mơi trường và xã hội. Điều này có thể bao gồm các dự án năng lượng tái tạo, quản lý nước, xử lý chất thải và các lĩnh vực khác liên quan đến bảo vệ môi trường; khuyến nghị các ngân hàng áp dụng quản lý rủi ro mơi trường trong việc cấp tín dụng. Điều này giúp đảm bảo rằng các dự án được đánh giá về khía cạnh mơi trường và nguy cơ biến đổi khí hậu. Ngân hàng Bangladesh cũng khuyến khích việc sử dụng các sản phẩm tài chính bền vững như vay vốn xanh và thẻ tín dụng xanh. Điều này thúc đẩy việc sử dụng tài chính để hỗ trợ các mục tiêu môi trường và xã hội. Để làm được những điều đó, Ngân hàng Bangladesh đã ban hành hướng dẫn liên quan đến đánh giá rủi ro môi trường đối với các đề xuất vay vốn và xanh hóa các quy trình trong nội bộ ngân hàng. Cho tới nay ngân hàng xanh đã trở thành một vấn đề quan trọng trong ngành ngân hàng Bangladesh những năm qua<small>21</small>.

Ngân hàng Bangladesh là Ngân hàng Trung ương đầu tiên trên thế giới có chính sách và triển khai hình thành ngân hàng xanh. Ngân hàng Bangladesh đã đảm nhận vai trị đóng góp cho sự phát triển bền vững thơng qua việc thực hiện các chính sách tài chính và ngân hàng xanh. Các ngân hàng thương mại và tổ chức tài chính tham gia nhất định phải tuân theo các hướng dẫn của Ngân hàng Bangladesh. Ngân hàng Trung ương Bangladesh đã ban hành các thông tư hướng dẫn để các Ngân hàng thương mại xây dựng các sổ tay hướng dẫn và chính sách riêng áp dụng đối với từng ngân hàng để thực hiện các chiến lược phát triển ngân hàng xanh<small>22</small>. Với tư cách là ngân hàng trung ương, Ngân hàng Bangladesh giám sát mọi hoạt động của các ngân hàng thương mại và áp đặt các hình phạt nếu ngân hàng thương mại không tuân thủ các hướng dẫn của ngân hàng. Vì vậy, các ngân hàng thương mại và tổ chức tài chính đang thực hiện các hoạt động ngân hàng xanh như một phần trong hoạt động hàng ngày của họ. Vì các ngân hàng thương mại đang làm việc theo hướng dẫn của Ngân hàng Bangladesh, nên họ được yêu cầu kết hợp các hoạt động tài chính xanh vào cả hoạt động nội bộ và bên ngoài. Ngân hàng Bangladesh cam kết cung cấp hỗ trợ và hướng dẫn liên tục cho tất cả các ngân hàng thương mại để đảm bảo thực hiện các chính sách thân thiện với mơi trường.

<small> </small>

<small>21</small><i><small> Khondkar Morshed Millat, Rubayat Chowdhury, Edward Apurba Singha (2021), Green banking in Bangladesh </small></i>

<i><small>– Fostering environmantally sustainable inclusive growth process, Bangladesh Bank, tr.33. </small></i>

<small>22 Trần Thị Lương Bình, Nguyễn Thị Hương (2022), “Phát triển ngân hàng xanh tại một số quốc gia và bài học </small>

<i><small>cho các ngân hàng thương mại Việt Nam”, Tạp chí Tài chính, kỳ 2 tháng 9/2022,</small></i><small>trien-ngan-hang-xanh-tai-mot-so-quoc-gia-va-bai-hoc-cho-cac-ngan-hang-thuong-mai-viet-nam.html, truy cập ngày 18/7/2023. </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">

nhiên, theo nghiên cứu của Maruf (2010) cho thấy ở Bangladesh hầu hết chỉ có ngân hàng đại chúng và ngân hàng nước ngồi là có hướng dẫn hoạt động đối với ngân hàng xanh và tài trợ các dự án có tác động thân thiện với môi trường<small>23</small>. Viện Quản lý Ngân hàng Bangladesh (BIBM) đã tiến hành hai nghiên cứu về tiến độ thực hành ngân hàng xanh ở Bangladesh. Nghiên cứu đầu tiên được thực hiện vào năm 2011 và lựa chọn 25 ngân hàng thương mại. Nghiên cứu này tiết lộ rằng chỉ có 80 đến 85% ngân hàng thương mại đang trong giai đoạn lập kế hoạch thực hành xanh. Trong khi 75% ngân hàng thương mại thông qua kế hoạch thiết lập tài chính xanh, nhiều ngân hàng khác đã không chủ động hành động. Nghiên cứu thứ hai (2012), với sự tham gia của 20 ngân hàng thương mại, cho thấy phần lớn (92%) các ngân hàng đã tận dụng cơ hội để sử dụng các quỹ dành cho tài chính xanh, nhưng hiệu suất sử dụng quỹ rủi ro khí hậu rất thấp. Nhiều ngân hàng thương mại ở Bangladesh đã áp dụng các chính sách và hướng dẫn về ngân hàng xanh nhưng tỷ lệ thực hiện các chính sách này trong các hoạt động kinh doanh hàng ngày của họ rất thấp. Có 75% ngân hàng thương mại chỉ thực hiện một hoặc hai trong số các hướng dẫn trong khi chỉ có 11% ngân hàng thương mại thực hiện các quỹ tiếp thị xanh. Tiếp thị xanh của ngân hàng tập trung vào tiếp thị có đạo đức đối với các sản phẩm ngân hàng, khuyến khích khách hàng, đặc biệt là những khách hàng trong lĩnh vực sản xuất, sử dụng ngân quỹ cho các sản phẩm thân thiện với môi trường<small>24</small>.

Là ngân hàng trung ương, Ngân hàng Bangladesh vẫn là cơng cụ hỗ trợ chính và nguồn tài chính xanh ở Bangladesh. Ngân hàng Bangladesh đã phát triển một khung chính sách đặc biệt phác thảo ba giai đoạn của ngân hàng xanh. Khởi động sáng kiến ngân hàng xanh, tài liệu đầu tiên được xuất bản vào tháng 01 năm 2011 và bao gồm các hướng dẫn về quản lý rủi ro môi trường (ERM) cho tất cả các ngân hàng và tổ chức tài chính phi ngân hàng (NBFI) ở Bangladesh. Tài liệu này bao gồm các chính sách và quy tắc dành cho ngân hàng xanh và được thực hiện như một biện pháp giúp bảo vệ môi trường. Vào tháng 02 năm 2011, Ngân hàng Bangladesh đã cung cấp hướng dẫn chính sách đầy đủ cho các ngân hàng thương mại liên quan đến hoạt động ngân hàng thông thường. Vào năm 2013, một hướng dẫn về ngân hàng xanh đã được trao cho các NBFI cho các hoạt động của họ.

<small> </small>

<small>23 truy cập ngày 18/7/2023. </small>

<small>24 Nilufa Khatun, Md Nazirul Islam Sarker, and Sandip Mitra (2021), “Green Banking and Sustainable </small>

<i><small>Development in Bangladesh”, Sustainability and Climate Change, Volume: 14 Issue 5, October 12, 2021, </small></i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">

Ngân hàng Bangladesh đã ban hành các hướng dẫn ngân hàng xanh cho các ngân hàng và tổ chức tài chính để thúc đẩy tài chính xanh trong thời kỳ đầu khi bắt đầu hoạt động ngân hàng xanh. Điển hình như vào ngày 27 tháng 2 năm 2011, Ngân hàng Bangladesh đã ban hành Thông tư số 2 BRPD<small>25</small> yêu cầu các ngân hàng thương mại áp dụng chính sách ngân hàng xanh để bảo tồn và kiến tạo môi trường. Trong Thông tư này, một lần nữa chính sách về ngân hàng xanh được phác họa rõ hơn. Chính sách Ngân hàng xanh được Ngân hàng Bangladesh tiếp tục chia thành ba giai đoạn. Trong Giai đoạn I, các Ngân hàng được yêu cầu áp dụng các chính sách ngân hàng xanh để thể hiện cam kết chung đối với môi trường thông qua hoạt động nội bộ. Giai đoạn II giải quyết các chính sách môi trường cụ thể của ngành, lập kế hoạch chiến lược xanh, thiết lập các chi nhánh xanh và cải thiện quản lý môi trường nội bộ. Việc các ngân hàng phát triển hệ thống Quản lý Môi trường là điều kiện tiên quyết cho giai đoạn III, theo đó các ngân hàng được hướng dẫn áp dụng tồn bộ hệ thống sinh thái bằng các biện pháp thân thiện với môi trường và giới thiệu các sản phẩm sáng tạo. Hệ thống báo cáo môi trường tiêu chuẩn là một phần của giai đoạn này với sự xác minh bên ngoài.

Giai đoạn 01: Hạn chót 31 tháng 12 năm 2011

Giai đoạn 02: Hạn chót 31 tháng 12 năm 2012

Giai đoạn 03: Hạn chót tháng 12 năm 2013. 1.1 Xây dựng chính

sách và quản trị

1.2 Kết hợp rủi ro môi trường trong quản lý rủi ro tín dụng (CRM)

1.3 Khởi xướng quản lý môi trường nội bộ

1.4 Giới thiệu tài chính hiệu ứng nhà kính

1.5 Thành lập quỹ rủi ro khí hậu

2.1 Chính sách môi trường cụ thể của ngành

2.2 Lập kế hoạch chiến lược xanh

2.3 Thành lập chi nhánh xanh

2.4 Cải thiện quản lý môi trường nội bộ

2.5 Xây dựng kế hoạch và hướng dẫn quản lý rủi ro môi trường cụ thể của ngân hàng

3.1 Thiết kế và giới thiệu sản phẩm sáng tạo

3.2 Báo cáo ở định dạng tiêu chuẩn với xác minh bên ngoài

<small> </small>

<small>25 Thơng tư số 02 Hướng dẫn Chính sách cho Ngân hàng Xanh của Phịng Quy chế và Chính sách Ngân hàng Bangladesh, truy cập ngày 18/7/2023. </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">

1.6 Giới thiệu tiếp thị xanh

1.7 Ngân hàng trực tuyến

1.8 Hỗ trợ đào tạo nhân viên, nâng cao nhận thức của người tiêu dùng và sự kiện xanh

1.9 Công bố thông tin và báo cáo về hoạt động ngân hàng xanh

2.6 Các chương trình nghiêm ngặt để giáo dục khách hàng

2.7 Công bố và báo cáo về các hoạt động ngân hàng xanh

Ngày 22 tháng 7 năm 2012, Ngân hàng Bangladesh ban hành tiếp Thông tư số 07 BRPD<small>27</small> nhằm báo cáo hoạt động Ngân hàng xanh giai đoạn 02 và hướng dẫn các ngân hàng về triển khai hoạt động ngân hàng xanh. Cuối cùng, vào ngày 11 tháng 9 năm 2013, Ngân hàng Bangladesh đã ban hành Thông tư số 05 GBCSRD - “Nguyên tắc chính sách Ngân hàng xanh” - hướng dẫn chi tiết việc thực hiện các chính sách cùng triển khai báo cáo về hoạt động ngân hàng xanh. Hướng dẫn bao gồm việc kết hợp quản lý rủi ro mơi trường trong quản lý tín dụng, quản lý mơi trường nội bộ, tài chính xanh, quỹ rủi ro khí hậu, tiếp thị xanh, ngân hàng trực tuyến, đào tạo, nghiên cứu và phát triển trong ngân hàng xanh, chính sách mơi trường cụ thể theo ngành, lập kế hoạch chiến lược xanh, chi nhánh ngân hàng xanh, kế hoạch quản lý tài nguyên môi trường (ERM) dành riêng cho ngân hàng, sản phẩm bền vững đổi mới và báo cáo bền vững<small>28</small>.

Bên cạnh đó, Ngân hàng Bangladesh còn thống nhất định dạng báo cáo để các ngân hàng báo cáo các hoạt động ngân hàng xanh, hạn mức tín dụng bắt buộc là 5%<small>29</small>tổng số tiền giải ngân cho các ngân hàng và cơ sở hạ tầng ngân hàng xanh bao gồm quản

<small> </small>

<small>26a_tbl1_355234940, truy cập ngày 19/7/2023. </small>

<small> Công văn số 07, Báo cáo hoạt động Ngân hàng xanh giai đoạn II của Phịng Chính sách và Quy định Ngân hàng trụ sở chính Ngân hàng Bangladesh, truy cập ngày 19/7/2023. </small>

<small>28 “Bangladesh's Policy Guidelines on Green Banking”,regulations/bangladeshs-policy-guidelines-green-banking, truy cập ngày 19/7/2023. </small>

<small> Quang Bảo, “Xu hướng phát triển tín dụng xanh tại các nước trên thế giới”, truy cập ngày 19/7/2023. </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">

lý chất thải rắn, thu hoạch nước mưa và việc lắp đặt các tấm pin mặt trời trên đỉnh. Ngân hàng trung ương đã bắt buộc các tổ chức tài chính phải giải ngân ít nhất 15% ngân sách cho vay của họ cho các dự án bền vững và 5% trở lên cho các sáng kiến xanh<small>30</small>. Vào tháng 1 năm 2016, Ngân hàng Bangladesh đã đặt ra hạn mức tín dụng 5% bắt buộc đối với tài chính xanh trực tiếp trong tổng số tiền giải ngân của tất cả các ngân hàng và định chế tài chính. Tổng tài chính xanh tính đến năm 2016 là 0,03 tỷ, với 38 ngân hàng và 9 định chế tài chính đã giải ngân, trong đó các ngân hàng thương mại tư nhân (PCB) đóng góp phần lớn (80,4%). Số tiền tài chính xanh gián tiếp (469,9 tỷ đồng) đã vượt quá tổng số tài chính xanh trực tiếp (33,4 tỷ) trong năm 2016<small>31</small>. Nhìn chung, ngân hàng thương mại tư nhân và các tổ chức tài chính phi ngân hàng đóng vai trị chính trong việc tài trợ cho các dự án xanh như năng lượng tái tạo (16%), gạch nung (21%), sản phẩm tái chế và tài chế (15%), thiết lập các ngành công nghiệp xanh (15%) và quản lý chất thải lỏng (14%). Các ngân hàng thương mại tư nhân đã cung cấp nhiều dịch vụ về tài chính xanh hơn thơng qua các sản phẩm khác nhau so với các loại hình ngân hàng và các tổ chức tài chính phi ngân hàng khác. Ngân hàng thương mại tư nhân là ngân hàng duy nhất có số tiền đầu tư lớn hơn các loại hình ngân hàng và các tổ chức tài chính phi ngân hàng khác trong giai đoạn 2014 đến 2019<small>32</small>.

Hướng dẫn Văn phịng Xanh cũng được truyền thơng đến tồn bộ người lao động nhằm sử dụng có hiệu quả điện, nước, giấy... Các phương thức giao tiếp trực tuyến được sử dụng thay cho việc in ấn gây tốn kém giấy, mực. Trong quản lý văn phòng, các máy in được đặt ở chế độ in hai mặt để tiết kiệm giấy, phông chữ Ecofont được sử dụng để tiết kiệm mực, sử dụng các bóng đèn led để tiết kiệm điện. Các hoạt động ngân hàng trực tuyến cũng được triển khai phát triển mạnh mẽ, giảm chi phí in ấn, bưu cục...<small>33</small> Các ngân hàng đã đưa thương mại điện tử vào phạm vi hoạt động của mình nhằm cung cấp cho khách hàng các tiện ích ngân hàng trực tuyến bao gồm các khoản thanh tốn hóa đơn tiện ích, chuyển tiền và giao dịch vào bằng nội tệ thông qua internet. Các ngân hàng đã được khuyến khích nên tạo điều kiện tối đa cho khách hàng trong việc mở thư tín dụng (L/C) để lắp đặt nhà máy xử lý nước thải trong các đơn vị công nghiệp. Đồng thời,

<small> </small>

<small>30 Mosabber Hossain, Thomson Reuters Foundation, “FEATURE-Bangladesh banks on green loans to help fight climate change”, truy cập ngày 19/7/2023. </small>

<small>31</small><i><small> Quang Bảo, Tlđd (29). </small></i>

<small>32</small><i><small> Quang Bảo, Tlđd (29). </small></i>

<small>33 truy cập ngày 19/7/2023. </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">

các ngân hàng được yêu cầu nên tài trợ cho các dự án về Năng lượng mặt trời, khí sinh học, ETP…

Ngân hàng Bangladesh đã thúc đẩy tài chính xanh thơng qua các chương trình tái cấp vốn ưu đãi và hạn ngạch tín dụng cho các tổ chức tài chính cũng như xây dựng các hướng dẫn cho các dự án chuyển đổi đặc thù của ngân hàng và nhà tài trợ. Vào năm 2009, Ngân hàng Bangladesh đã thiết lập một chương trình tái cấp vốn quay vòng trị giá 2,0 tỷ BDT (khoảng 23 triệu USD) từ quỹ của mình<small>34</small>. Ban đầu, chỉ sáu sản phẩm (ETP, nhà máy khí sinh học, nhà máy năng lượng mặt trời/năng lượng tái tạo, nhà máy phân bón sinh học, Lị nung Hoffman Hoffman (HHK) và các dự án có ETP) đã được xác nhận nằm trong kế hoạch tài trợ tái cấp vốn. Kể từ khi thành lập đến ngày 31 tháng 12 năm 2019, tổng số tiền 4.488,99 triệu BDT đã được giải ngân dưới dạng cơ sở tái cấp vốn. Tuy nhiên, do chính phủ tập trung vào lĩnh vực nông nghiệp, hệ thống bơm tưới tiêu bằng năng lượng mặt trời được ưu tiên hơn so với bơm điện cho nhiên liệu diesel và nước (hình 1). Tháng 9 năm 2016, bốn ngân hàng và một tổ chức tài chính đã ký thỏa thuận để tham gia quỹ này. Từ năm 2012 đến 2016, tổng số tiền tái cấp vốn theo chương trình này là 2678,9 triệu BDT. Tuy nhiên, tổng số tiền giải ngân theo chương trình tái cấp vốn cho các sản phẩm xanh đã rất chậm mặc dù có tăng trong những năm gần đây.

<small> </small>

<small>34 Đào Thị Thanh Tú, Vũ Thị Anh Thư (2019), “Nguồn vốn cho đầu tư xanh: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị </small>

<i><small>cho Việt Nam”, Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng, số 215 – tháng 4, 2020, tr.66. </small></i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">

<i>Hình 1: Giải ngân của các dự án được đưa vào tái cấp vốn, từ năm tài chính 2014 </i>

Dưới sự hướng dẫn của Ngân hàng Bangladesh, các ngân hàng ở quốc gia này có sự tác động qua lại và hỗ trợ với nhau giống như từng thành viên trong cùng một ngôi nhà. Hoạt động ngân hàng xanh ở Bangladesh không chỉ là việc xây dựng các chính sách tín dụng xanh theo hướng thân thiện với môi trường, mà còn là việc các ngân hàng thương mại thực hiện cách mạng xanh trong chính các hoạt động nội bộ của ngân hàng, sử dụng các nguồn năng lượng mới, số hóa và các biện pháp khác nhằm giảm phát thải carbon của chính các ngân hàng.

Các chính sách về ngân hàng xanh đã trực tiếp đem lại tác động tích cực cho sản xuất theo hướng xanh hóa. Nhiều dự án xanh giúp ích cho mơi trường và xã hội đã được ra đời khi có ngân hàng xanh. Trong nhiều năm, Banolata Refractory, một nhà sản xuất gạch ở miền bắc Bangladesh, đã muốn bắt đầu sản xuất gạch thân thiện với mơi trường và cắt giảm lượng khí thải carbon, nhưng lại thiếu kinh phí để xây dựng một lị nung xanh và sạch hơn. Điều đó đã thay đổi vào đầu năm 2020 khi công ty phát hiện ra rằng Ngân hàng Bangladesh, ngân hàng trung ương của đất nước, đang cung cấp các khoản vay lãi suất thấp cho các dự án xanh và bền vững. Banolata đã nhận khoản vay 462.000 USD - với lãi suất 6% thay vì 10% thơng thường - để xây dựng Lị nung Hoffman Hybrid (HHK), sử dụng ít than hơn so với lị truyền thống - dẫn đến ít ơ nhiễm và khí thải làm nóng hành tinh hơn, doanh nghiệp nói<small>36</small>. Năm 2023, ngành dệt may Việt Nam đã bị mất đơn hàng dệt may vào tay Bangladesh, và có thể bị quốc gia này lấy lại vị trí số 2 thế giới, trong đó có nguyên nhân do chậm chuyển đổi xanh. Ngành dệt may Bangladesh đã nhanh chân hơn trong việc xanh hóa chuỗi cung ứng<small>37</small>. Điều này cho thấy Việt Nam cần

<i>phải học hỏi kinh nghiệm và sẵn sàng đổi mới để không bị tụt hậu lại phía sau. </i>

<i>b. Pháp luật điều chỉnh ngân hàng xanh ở Trung Quốc </i>

Trung Quốc được biết đến là nền kinh tế lớn thứ hai trên thế giới hiện nay, với sự chuyển mình ngoạn mục từ một đất nước nghèo khó sau chiến tranh đến “phép màu kinh tế” thế giới. Sự phát triển vượt bậc của Trung Quốc một phần được đóng góp từ các cụm công nghiệp quy mô lớn và siêu lớn ở nhiều tỉnh thành như Tô Châu, Thiên Tân, … Tuy

<small> </small>

<small>35</small><i><small> Nilufa Khatun, Md Nazirul Islam Sarker, and Sandip Mitra (2021), Tlđd (24). </small></i>

<small>36</small><i><small> Mosabber Hossain, Thomson Reuters Foundation, Tlđd (30). </small></i>

<small>37 “Ngành dệt may mất đơn hàng về tay Bangladesh vì chậm chuyển đổi xanh”, mat-don-hang-ve-tay-banglades-vi-cham-chuyen-doi-xanh-20230525164115251.htm, truy cập ngày 20/7/2023. </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">

điều đó cũng gây nên những tác động tiêu cực không nhỏ đến môi trường. Cụ thể, vào tháng 10/2014, lượng bụi mịn PM2.5 đo được tại Bắc Kinh đã vượt mức 400 đến 500 microgram/m<small>3 38</small>, cao gấp 40 đến 50 lần so với tiêu chuẩn của WHO. Tại các tỉnh Sơn Đơng, Liêu Ninh, tầm nhìn xa tại nhiều khu vực không vượt quá 200m, khiến giao thông đi lại bất tiện và gây ảnh hưởng trầm trọng đến đời sống và sức khỏe của người dân<small>39</small>. Để giải quyết vấn đề ô nhiễm môi trường và xây dựng nền kinh tế bền vững, thân thiện, chính phủ Trung Quốc đã chủ trương phát triển ngân hàng xanh – tài chính xanh và đã bước đầu gặt hái những thành công nhất định.

Những năm vừa qua, lĩnh vực ngân hàng xanh – tài chính xanh ở Trung Quốc đã có những bước tiến bộ và tăng trưởng vượt bậc. Mặc dù dịch Covid – 19 rõ ràng là một thách thức lớn với việc xây dựng kinh tế tương lai bền vững nhưng dư nợ xanh của các ngân hàng Trung Quốc từ năm 2019 đến hết năm 2022 có sự tăng vọt đáng kể, biến quốc gia này trở thành quốc gia có dư nợ tín dụng xanh lớn nhất trên thế giới. Cụ thể, từ năm 2019, tăng trưởng dư nợ xanh của Trung Quốc tăng theo cấp số nhân, từ 9,3 nghìn tỷ nhân dân tệ (1,4 nghìn tỷ USD) trong quý đầu tiên của năm 2019 lên 16 nghìn tỷ nhân dân tệ (2,4 nghìn tỷ USD) vào cuối năm 2021 và dự kiến sẽ tiếp tục tăng lên 22 nghìn tỷ nhân dân tệ (3,3 nghìn tỷ USD) vào cuối năm 2022<small>40</small>. Sự tăng trưởng mạnh mẽ này một phần đến từ các ngân hàng lớn của Trung Quốc. Tiêu biểu như Ngân hàng Công thương Trung Quốc sở hữu dư nợ cho vay xanh lớn nhất: 382 tỷ USD, tiếp theo là Ngân hàng Nông nghiệp Trung Quốc với 304 tỷ USD cùng nhiều ngân hàng khác<small>41</small>. Điều đó chứng tỏ rằng, hệ thống các ngân hàng đã nhận ra tiềm năng và tầm quan trọng của tài chính xanh – ngân hàng xanh – cơng cụ thực hiện hóa tham vọng của Chính phủ Trung Quốc: “xây dựng một nền văn minh sinh thái”, hỗ trợ quá trình chuyển đổi môi trường của nền kinh tế và sử dụng hiệu quả các nguồn tài ngun<small>42</small>; thơng qua đó có nhiều sự

<small>40 Anh Lê, “Dư nợ cho vay xanh của Trung Quốc ước đạt 3,3 nghìn tỷ USD vào cuối năm 2022”, truy cập ngày 23/3/2023. </small>

<small>41</small><i><small> Anh Lê, Tlđd (40). </small></i>

<small>42 Wang Yao (2018), “China’s green finance strategy: much achieved, further to go”, truy cập ngày 19/7/2023. </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">

mở rộng về mặt tiêu chí xem xét cho vay để hỗ trợ các doanh nghiệp chuyển đổi hoạt động kinh tế thơng thường sang hoạt động kinh tế “xanh”.

Ngồi sự tiến bộ của hệ thống ngân hàng thì khơng thể khơng kể đến các chính sách khuyến khích, hỗ trợ của Chính phủ Trung Quốc trong lĩnh vực tài chính xanh – ngân hàng xanh với bước đầu là các chính sách khuyến khích sơ bộ về tín dụng xanh, chứng khoán xanh và bảo hiểm xanh. Tiếp đến là các văn bản hướng dẫn về tín dụng xanh và khuyến khích việc thực hiện thí điểm bảo hiểm trách nhiệm về ô nhiễm môi trường<small>43</small>. Đến nay, hành lang pháp lý của Trung Quốc về lĩnh vực tài chính xanh – ngân hàng xanh đã được xây dựng và phát triển một cách đáng kể gồm một loạt các văn bản, có thể kể đến như Kế hoạch Cải cách tích hợp để thúc đẩy tiến bộ sinh thái được ban hành bởi Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc vào năm 2015, hoặc Thông báo số 39 năm 2015 của Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc liên quan đến việc phát hành trái phiếu tài chính xanh trên thị trường trái phiếu liên ngân hàng,v.v… Đây là một bước tiến lớn về mặt pháp lý, giúp các doanh nghiệp định hướng rõ ràng hơn và mạnh dạn trong việc chuyển đổi, thực hiện các hoạt động kinh doanh “xanh”.

Vào ngày 21/09/2015, Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc và Hội đồng Nhà nước Trung Quốc đã công bố Kế hoạch Cải cách tích hợp nhằm thúc đẩy tiến bộ sinh thái<small>44</small> với mục tiêu cải thiện hệ sinh thái và đạt được tiến bộ sinh thái nhanh hơn, đồng thời thực hiện các cải cách nhằm tiến bộ một cách hệ thống và tồn diện. Đây có thể được coi là định hướng chiến lược toàn diện nhằm xây dựng hệ thống tài chính xanh cho Trung Quốc. Kế hoạch được đưa ra dựa trên ý tưởng tôn trọng, bảo vệ và hịa hợp với thiên nhiên; cần có sự kết hợp và cân bằng hợp lý giữa phát triển kinh tế và bảo tồn thiên nhiên, môi trường. Ở Điều 3 của Kế hoạch cải cách đã nêu lên một trong các nguyên tắc của cuộc cải cách này là cần phải xây dựng các cơ chế liên quan đến lợi ích để thúc đẩy phát triển xanh, phát triển tuần hồn và ít carbon<small>45</small>. Với Điều 45 về thiết lập hệ thống tài chính xanh, định hướng của Kế hoạch Cải cách về vấn đề này có thể tóm gọn thành các ý chính như sau<small>46</small>:

<small> </small>

<small>43 Trần Thị Vân Anh (2020), “Kinh nghiệm xây dựng hệ thống tài chính xanh tại Trung Quốc”, truy cập ngày 24/03/2023. </small>

<small>44 Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc (2015), “Tồn văn: Kế hoạch Cải cách tích hợp nhằm thúc đẩy tiến bộ sinh thái”, </small>

<small> truy cập ngày 24/03/2023. </small>

<small>45</small><i><small> Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc (2015), Tlđd (44). </small></i>

<small>46</small><i><small> Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc (2015), Tlđd (44). </small></i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">

(1) Thúc đẩy tín dụng xanh cùng với việc nghiên cứu đang được tiến hành để áp dụng các phương pháp như trợ cấp lãi suất của Chính phủ để tăng mức hỗ trợ; bên cạnh đó khuyến khích các tổ chức tài chính tăng cường tài trợ các khoản vay xanh. Các nỗ lực sẽ được tăng cường để phát triển hơn nữa các hệ thống liên quan đến thị trường vốn.

(2) Các nghiên cứu sẽ được thực hiện để thăm dò, khảo sát việc thiết lập chỉ số chứng khoán xanh và phát triển các sản phẩm đầu tư có liên quan, và các nghiên cứu sẽ được thực hiện để khám phá việc phát hành trái phiếu xanh của các ngân hàng và doanh nghiệp, khuyến khích chứng khốn hóa tài sản tín dụng xanh.

(3) Hỗ trợ sẽ được đưa ra để thành lập nhiều loại quỹ phát triển xanh, hoạt động của các quỹ này sẽ dựa trên thị trường.

(4) Một cơ chế sẽ được thiết lập để bắt buộc công bố thông tin bảo vệ mơi trường của các cơng ty niêm yết. Hồn thiện cơ chế bảo lãnh đối với các dự án tiết kiệm năng lượng, ít phát thải carbon, thân thiện với môi trường, tăng mức bồi thường rủi ro.

(5) Xây dựng hệ thống bảo hiểm trách nhiệm bắt buộc đối với ô nhiễm môi trường đối với các lĩnh vực có rủi ro cao về mơi trường. Một hệ thống xếp hạng xanh cũng như một hệ thống phi lợi nhuận để tính tốn chi phí mơi trường và đánh giá tác động môi trường sẽ được thiết lập.

(6) Hợp tác dưới mọi hình thức với các quốc gia khác sẽ được thúc đẩy trong lĩnh vực tài chính xanh.

Với định hướng thúc đẩy tín dụng xanh cùng với việc đẩy nhanh việc xây dựng nền văn minh sinh thái và hướng dẫn các tổ chức tài chính chuyển đổi cơ cấu kinh tế, phương thức phát triển tài chính, Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc đã ban hành Thông báo số 39 vào ngày 22/12/2015 quy định các vấn đề liên quan đến việc phát hành trái phiếu xanh trên thị trường trái phiếu liên ngân hàng<small>47</small> (Thông báo số 39 năm 2015). Cụ thể: văn bản gồm các nội dung: (1) định nghĩa về thuật ngữ “trái phiếu tài chính xanh”<small>48</small>, (2) danh mục dự án được hỗ trợ bởi trái phiếu xanh, (3) chủ thể được phép phát hành trái phiếu xanh<small>49</small>, (4) điều kiện và thủ tục đăng ký phát hành trái phiếu xanh<small>50</small>, (5) cơ chế và nguyên tắc phát hành trái phiếu xanh cũng như nguyên tắc của quá trình phát

<small> </small>

<small>47 Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc (2015), “Thông báo số 39 năm 2015 về các vấn đề liên quan đến việc phát hành trái phiếu tài chính xanh trên thị trường trái phiếu liên ngân hàng”, truy cập ngày 24/03/2023. </small>

<small>48 Điều 1 Thông báo số 39 năm 2015. </small>

<small>49 Điều 2 Thông báo số 39 năm 2015. </small>

<small>50 Điều 3, 4, 5, 6 Thông báo số 39 năm 2015. </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">

hành và quản lý nguồn thu từ việc phát hành này<small>51</small> và (6) các biện pháp hỗ trợ từ các chính quyền trung ương và địa phương về việc phát triển trái phiếu xanh cũng như khuyến khích các tổ chức xã hội đầu tư vào trái phiếu xanh<small>52</small>. Đây được xem là văn bản hướng dẫn cụ thể đầu tiên về phát triển trái phiếu xanh ở Trung Quốc, tiếp đó là thêm nhiều văn bản định hướng về vấn đề này được ban hành: Thơng báo về Chương trình thí điểm trái phiếu xanh của Trung tâm chứng khốn Thượng Hải vào tháng 3/2016, Hướng dẫn xây dựng hệ thống tài chính xanh vào tháng 8/2016<small>53</small>, … Và khơng thể phủ nhận sự đóng góp hiệu quả của những chính sách phát triển trái phiếu xanh: kể từ năm 2016 tới nay, giao dịch trái phiếu xanh của Trung Quốc luôn ở mức cao nhất thế giới với giá trị phát hành đạt 36,2 tỷ USD<small>54</small>; trong đó, Ngân hàng Công thương Trung Quốc đã phát hành gần 10 tỷ USD trái phiếu xanh ra nước ngoài<small>55</small> - một con số thực sự khổng lồ.

Về định hướng đối với bảo hiểm xanh, theo quy định của Trung Quốc, hình thức bảo hiểm xanh chủ yếu đề cập đến bảo hiểm trách nhiệm ô nhiễm môi trường, cụ thể là việc kinh doanh bảo hiểm chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do bên thứ ba gây ra do tai nạn ô nhiễm<small>56</small>. Từ việc tiến hành một số dự án thí điểm về vấn đề này, sau đó rút ra những kinh nghiệm và sửa đổi các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến pháp luật bảo hiểm, pháp luật về bảo vệ môi trường hay các quy định quản lý hành chính về bảo hiểm trách nhiệm ô nhiễm môi trường cho phù hợp.

Ngồi những định hướng cụ thể như trên, Chính phủ Trung Quốc còn đề ra hàng loạt biện pháp hỗ trợ xây dựng tài chính xanh, có thể ví dụ như xây dựng khuôn khổ luật pháp tạo điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư tư nhân và thị trường tài chính có thể cấp vốn cho các khu vực xanh của nền kinh tế như các chính sách thuế, phí mơi trường; thuế, phí tài ngun; các khoản hỗ trợ, miễn, giảm, ưu đãi thuế, phí khuyến khích hoạt động xanh của doanh nghiệp. Ngồi ra cịn khuyến khích xây dựng ngân hàng xanh dưới dạng ngân hàng chính sách nhằm thu hút nguồn vốn đầu tư vào các dự án xanh, cung cấp các khoản vay xanh là hình thức vay ưu đãi cho các doanh nghiệp hay dự án xanh<small>57</small>. Hay là

<small> </small>

<small>51 Điều 7, 8, 9, 10, 11, 12, 13, 14, 15 Thông báo số 39 năm 2015. </small>

<small>52 Điều 16 Thông báo 39 năm 2015. </small>

<small>53 Bộ Tài chính, “Phát triển trái phiếu xanh”, chinh?dDocName=MOFUCM149098, truy cập ngày 27/03/2023. </small>

<small> Bộ Tài chính, Tlđd (53). </small></i>

<small>55 Trần Thị Lương Bình, Nguyễn Thị Hương, “Phát triển ngân hàng xanh tại một số quốc gia và bài học cho các ngân hàng thương mại Việt Nam”, truy cập ngày 27/03/2023. </small>

<small>56</small><i><small> Trần Thị Vân Anh, Tlđd (43). </small></i>

<small>57</small><i><small> Trần Thị Vân Anh, Tlđd (43). </small></i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32">

việc thành lập riêng một Quỹ quốc gia về phát triển xanh nhằm mục đích tài trợ cho các sáng kiến xanh tại Trung Quốc cũng là một trong những ý tưởng được giới chức Trung Quốc hướng tới.

Từ lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống pháp luật điều chỉnh ngân hàng xanh – tài chính xanh ở Trung Quốc: từ những chính sách sơ khai đến những kế hoạch, thông báo cụ thể như Kế hoạch Cải cách tích hợp nhằm thúc đẩy tiến bộ sinh thái, Thông báo số 39 năm 2015 quy định các vấn đề liên quan đến việc phát hành trái phiếu xanh trên thị trường trái phiếu liên ngân hàng, Hướng dẫn xây dựng hệ thống tài chính xanh, v.v…, có thể thấy được rằng Trung Quốc rất quyết tâm trong việc chuyển đổi từ nền kinh tế truyền thống sang nền kinh tế xanh thân thiện với mơi trường. Các văn kiện, chính sách phát triển tài chính xanh của Trung Quốc có thể được xem là một trong những khuôn khổ pháp luật ngân hàng xanh – tài chính xanh có hệ thống đầu tiên trên thế giới. Tuy còn tồn tại nhiều bất cập, chưa thực sự đáp ứng hoàn toàn kỳ vọng của Trung Quốc về lĩnh vực ngân hàng xanh, nhưng nhìn chung các văn kiện pháp luật trên đều có ý nghĩa tiên phong mở đường cho sự phát triển của nền kinh tế thân thiện với môi trường, không chỉ với riêng Trung Quốc mà cịn tác động đến tồn cầu.

<i>c. Pháp luật điều chỉnh ngân hàng xanh ở Hoa Kỳ </i>

Một nền kinh tế khác không hề kém cạnh Trung Quốc và đã dẫn đầu thế giới trong nhiều thập kỷ qua - Hoa Kỳ. Trải qua hơn hai trăm năm thành lập và phát triển, Hợp chúng quốc Hoa Kỳ đã sớm vươn lên và trở thành một trong các nền kinh tế lớn nhất thế giới. Với cuộc cách mạng công nghiệp khởi phát ở Châu Âu vào cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX đã nhanh chóng lan sang nước Mỹ, và những nhà máy, xí nghiệp, đồn điền đủ loại quy mơ, đủ loại ngành nghề như luyện kim, đóng tàu, sản xuất thuốc lá, … Sau là đến thời kỳ bùng nổ Cách mạng công nghệ những thập niên 80, 90 của thế kỷ XX.

Tuy nhiên, đi kèm với sự phát triển vượt bậc đó là hậu quả nặng nề do ơ nhiễm mơi trường để lại. Có thể kể đến như sự kiện “dịng sơng cháy” Cuyahoga ở Ohio, Mỹ. Khởi đầu, thành phố Cleveland phát triển mạnh nhờ cơng nghiệp luyện thép, hóa chất và cơ khí vì nằm ở giữa vùng sản xuất than đá phía Đơng và các mỏ sắt từ phía Bắc Minnesota đem xuống, có hải cảng làm xưởng lọc dầu, nhưng vì cơng nghiệp phát triển quá mau và quá mạnh nên các chất phế thải ở các nhà máy trên sông Cuyahoga đổ vào hồ Erie quá nhiều khiến hồ này được coi là bị ô nhiễm nhất nước. Nước uống bị nhiễm

</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">

độc và chính quyền tiểu bang phải tốn rất nhiều công sức mới phục hồi trở lại. Hậu quả tồi tệ nhất của sự ô nhiễm công nghiệp tại đây là vụ cháy sông Cuyahoga xảy ra vào ngày 22 tháng 6 năm 1969 – chỉ kéo dài 30 phút nhưng đã thiêu rụi mọi thứ trên mặt sơng và các cơng trình hai bên bờ sông. Vụ cháy đã gây tác động lớn đến toàn bộ dân chúng và làm cho nước Mỹ phải thức tỉnh trước tai họa của nạn cơng nghiệp hóa quá mức sẽ đưa đến sự hủy diệt môi trường sống<small>58</small>. Hoặc với vấn đề ơ nhiễm khơng khí, theo báo cáo của Hiệp hội Phổi Mỹ, chất lượng không khí ở Mỹ đã được cải thiện từ những năm 1970, nhưng tiến bộ đó có thể bị ảnh hưởng và 43% người Mỹ hiện đang sống ở những nơi họ hít thở khơng khí khơng an tồn. Khi nhiệt độ tăng, cháy rừng ngày càng tồi tệ và tạo ra khói khắp phía Tây nước Mỹ; nhiều khói bụi, ozone đang xuất hiện vào những ngày ấm áp hơn. Trong 3 năm nóng nhất được ghi nhận (2015 – 2017), khoảng 141 triệu người sống tại Hoa Kỳ đã hứng chịu nồng độ ô nhiễm hạt không lành mạnh trong một khoảng thời gian 24 giờ hoặc hơn một năm hoặc mức độ khói bụi khơng lành mạnh<small>59</small>. Mà ngun nhân chính của việc nóng lên tồn cầu là khí thải carbon dioxide cùng các khí thải khác từ các hoạt động sản xuất, sinh hoạt hàng ngày gây nên hiệu ứng nhà kính.

Theo định nghĩa của Cục Bảo vệ Môi trường Hoa Kỳ, ngân hàng xanh là các tổ chức tài chính cơng, bán cơng hoặc phi lợi nhuận tận dụng vốn công và tư nhân để theo đuổi các mục tiêu cho các dự án năng lượng sạch giúp giảm khí thải (nguyên văn: Green banks are public, quasi - public, or nonprofit financing entities that leverage public and private capital to pursue goals for clean energy projects that reduce emissions)<small>60</small>. Đạo luật Ngân hàng xanh Quốc gia năm 2019 của Hoa Kỳ được ban hành với mục đích chính là quy định việc phát hành trái phiếu xanh và thành lập Ngân hàng xanh Hoa Kỳ<small>61</small>. Về vấn đề phát hành trái phiếu xanh, đạo luật bổ sung về vốn hóa, phương thức thanh toán vốn cổ phiếu và phát hành trái phiếu xanh. Trong đó gồm có các quy định về vốn hóa ban đầu, vốn hóa trong tương lai, mệnh giá và kỳ hạn phải thanh toán, lợi tức, sự đảm bảo và quy định đầu tư hợp pháp. Bên cạnh các quy định về trái phiếu xanh cịn có thêm

</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34">

sự sửa đổi, bổ sung về ngân hàng xanh. Với mục tiêu tăng tốc đầu tư vào năng lượng sạch, sử dụng năng lượng hiệu quả và các dự án giảm thiểu và thích ứng với biến đổi khí hậu khác ở cấp Nhà nước và địa phương; giải quyết trở ngại chính đối với đầu tư ở cấp Tiểu bang và địa phương - vốn hạn chế và bảng cân đối kế toán chặt chẽ - bằng cách thành lập Ngân hàng Xanh Quốc gia để huy động vốn cho các Ngân hàng Xanh Khu vực, Bang và Thành phố một cách hợp pháp, ngoài ra còn ban bố thêm định nghĩa về các thuật ngữ “dự án năng lượng sạch”, “dự án giảm thiểu hoặc thích ứng với biến đổi khí hậu”, “tổ chức tài chính năng lượng sạch đủ điều kiện”, “trái phiếu xanh”, … cùng nhiều quy định khác, ví dụ như về Quỹ thành lập Ngân hàng xanh hay thành lập Hội đồng quản trị Ngân hàng, ….

Tính đến năm 2021, Hoa Kỳ đã có 12 ngân hàng xanh ở cấp tiểu bang, quận và thành phố, hỗ trợ sự xuất hiện của các thị trường mới. Cho đến nay, các ngân hàng xanh của Mỹ đã biến mỗi 1 USD vốn hóa cơng thành 3,4 USD đầu tư tư nhân bằng cách cung cấp các khoản vay thúc đẩy các khoản đầu tư mới, tạo ra 3,67 tỉ USD đầu tư vào năng lượng sạch trên toàn quốc cho đến năm 2018. Mỹ có ngân hàng xanh cấp nhà nước đầu tiên tại Connecticut vào năm 2011, và vào tháng 06/2019, Connecticut đã trở thành ngân hàng xanh thứ hai phát hành trái phiếu xanh, theo sau đợt phát hành trái phiếu xanh trị giá 18,3 triệu USD vào tháng 10/2018 của ngân hàng xanh Rhode. Với Đạo luật thành lập cơ quan tài chính xanh của quận, thành phố Washington DC chính thức có ngân hàng xanh đầu tiên do Chính phủ tài trợ ở Mỹ. Khơng chỉ ngân hàng xanh mà các cơng ty tiện ích tại Mỹ như Duke Energy và Xcel Energy cũng đã phát hành hàng tỉ trái phiếu xanh để tài trợ cho việc phát triển năng lượng tái tạo. Trái phiếu xanh đầu tiên của Xcel vào năm 2018 đã tài trợ cho một dự án điện gió ở Colorado và ba dự án khác vào năm 2019 ở Texas, New Mexico và Minnesota<small>62</small>. Những sự kiện trên được xem là những dấu mốc quan trọng, đánh dấu sự phát triển mạnh mẽ của ngân hàng xanh ở “xứ sở cờ hoa”, vì một nền kinh tế chuyển đổi từ thông thường sang thân thiện với môi trường.

Nhận thấy tầm quan trọng của ngân hàng xanh và những đóng góp khơng nhỏ của lĩnh vực này đối với tăng trưởng xanh, Quốc hội Hoa Kỳ đã thông qua Đạo luật Ngân hàng Khí hậu Quốc gia vào năm 2021<small>63</small>. Quốc hội Hoa Kỳ nhận thấy qua báo cáo tháng

<small> </small>

<small>62 Thanh Trần, “Chính sách ‘tài chính xanh’ vì sự phát triển bền vững: Mỹ phát triển mạnh hệ thống ngân hàng xanh”, truy cập ngày 22/7/2023. </small>

<small>63 National Climate Bank Act, truy cập ngày 22/7/2023. </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35">

10 năm 2018 có tựa đề “Báo cáo đặc biệt về sự nóng lên tồn cầu 1,5°C” của Hội đồng Liên Chính phủ về biến đổi khí hậu và báo cáo Đánh giá khí hậu quốc gia lần thứ tư vào tháng 11 năm 2018 cho thấy hoạt động của con người là nguyên nhân chính gây ra biến đổi khí hậu quan sát được trong thế kỷ qua. Khí hậu đang thay đổi theo chiều hướng cực đoan khiến mực nước biển dâng cao và gia tăng cháy rừng, bão nghiêm trọng, hạn hán và các hiện tượng thời tiết khắc nghiệt khác đe dọa cuộc sống con người. Sự nóng lên tồn cầu ở mức 2°C trở lên so với mức trước thời kỳ cơng nghiệp hóa sẽ gây ra rất nhiều hậu quả nặng nề, ảnh hưởng nghiêm trọng đến nền kinh tế của đất nước và đời sống của dân cư. Do đó việc thành lập Ngân hàng Khí hậu Quốc gia là một điều cần thiết. Đạo luật Ngân hàng Khí hậu Quốc gia năm 2019 tạo ra một ngân hàng xanh liên bang mới dưới hình thức Ngân hàng Khí hậu Quốc gia. Ngân hàng Khí hậu do Chính phủ Liên bang thành lập sẽ là một tổ chức độc lập, phi lợi nhuận sử dụng quỹ công và các công cụ dựa trên thị trường để tài trợ cho q trình chuyển đổi năng lượng sạch. Nó sẽ được trao quyền để ưu tiên các khoản đầu tư mang lại lợi ích cho các cộng đồng có thu nhập thấp và chưa được phục vụ đầy đủ, mang lại cho họ việc làm và khoản tiết kiệm liên quan đến năng lượng sạch; ngồi ra cịn được sử dụng các cơng cụ tài chính và chun mơn để thu hút đầu tư tư nhân, nhân lên tác động tổng thể của tổ chức về giảm phát thải khí nhà kính trên mỗi đơ la đầu tư cơng<small>64</small>. Một số quy định phải kể đến ở Đạo luật này là ngân hàng xanh sẽ tạo thuận lợi cho các cộng đồng trong đầu tư và mua sắm trong các lĩnh vực chính:

(1) Năng lượng tái tạo; (2) Dự trữ năng lượng;

(3) Vận chuyển, bao gồm cơ sở hạ tầng phương tiện ít phát thải và khơng phát thải, phát triển theo định hướng quá cảnh và vận chuyển tích cực;

(4) Truyền tải năng lượng sạch; (5) Các biện pháp phục hồi khí hậu;

(6) Hiệu quả sử dụng năng lượng và nước, bao gồm hiệu quả sử dụng trong khu dân cư, thương mại và công nghiệp;

(7) Trồng lại rừng trên đất bạc màu; (8) Dự án nơng nghiệp;

(9) Điện khí hóa và khử cacbon trong các quy trình cơng nghiệp;

<small> </small>

<small>64 Green Banks US, truy cập ngày 22/7/2023. </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36">

(10) Bất kỳ lĩnh vực quan trọng nào khác được Hội đồng xác định là phù hợp với mục đích của Ngân hàng<small>65</small>.

Đạo luật còn quy định về Hội đồng Quản trị Ngân hàng gồm một số nội dung: nhiệm kỳ, bổ nhiệm, tái bổ nhiệm, tuyển dụng; nhiệm vụ của các chức danh trong Hội đồng. Ngoài ra, Ngân hàng sẽ chịu sự giám sát của Cơ quan Kiểm soát tiền tệ Hoa Kỳ (The Office of the Comptroller of the Currency).

Với mục đích đưa Hoa Kỳ trở thành quốc gia dẫn đầu thế giới trong việc chống lại các nguyên nhân, tác động của biến đổi khí hậu và giảm lượng khí thải ở Hoa Kỳ trên mỗi đơ la mà Ngân hàng chi tiêu, có thể thấy được Chính phủ Liên bang và chính quyền các tiểu bang ở Hoa Kỳ đã rất ra sức trong việc xây dựng nên những đạo luật hữu ích và cần thiết trong hoạt động. Xét trên bình diện quốc gia, những Đạo luật này đã phần nào phát huy hiệu quả khi chất lượng mơi trường tại Hoa Kỳ có sự cải thiện tích cực và ổn định nhiều năm qua.

<b>1.2. Thực trạng và pháp luật Việt Nam về ngân hàng xanh </b>

<b>1.2.1. Thực tiễn ứng dụng mơ hình ngân hàng xanh tại một số ngân hàng ở Việt Nam </b>

Kaefer đã đề xuất ngân hàng xanh dưới góc độ cung cấp các dịch vụ tài chính ngân hàng xanh. Đồng thời đã đưa ra mơ hình ngân hàng xanh dưới 5 cấp độ cụ thể<small>66</small>:

- Cấp độ 1: Thực hiện các hoạt động phụ, bằng cách tài trợ cho các sự kiện “xanh” và tham gia các hoạt động công cộng (hầu hết các ngân hàng đều đang ở cấp độ này);

- Cấp độ 2: Tách bạch phát triển dự án và hoạt động kinh doanh, trong đó, ngân hàng phát triển thêm các sản phẩm và dịch vụ xanh riêng biệt (chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ) bổ sung vào danh mục các sản phẩm ngân hàng truyền thống;

- Cấp độ 3: Hoạt động kinh doanh có hệ thống, trong đó, hầu hết các quy trình, sản phẩm của ngân hàng đều tuân thủ nguyên tắc “xanh”, cơ cấu tổ chức của ngân hàng được thiết kế để hỗ trợ tác động “xanh” ở trên 4 giác độ: con người, quy trình, nguyên tắc và mục đích;

- Cấp độ 4: Sáng kiến cân bằng hệ sinh thái tầm chiến lược, hoạt động ngân hàng xanh không chỉ giới hạn ở phạm vi các nghiệp vụ đơn lẻ mà được mở rộng thành mạng

</div><span class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37">

lưới, liên minh, đối thoại cộng đồng, hay toàn hệ sinh thái nhằm đạt được tính bền vững của các yếu tố xã hội - mơi trường và tài chính;

- Cấp độ 5: Sáng kiến cân bằng hệ sinh thái chủ động, trong đó, các hoạt động ngân hàng xanh tương tự như cấp độ 4 song được thực hiện một cách chủ động, có mục đích, chứ khơng phải là hoạt động ứng phó sự thay đổi bên ngồi như sáng kiến tầm chiến lược ở cấp độ 4. Như vậy, chỉ ở cấp độ 4 và 5, mơ hình ngân hàng xanh mới được thể hiện ở tầm chiến lược kinh doanh dài hạn của ngân hàng, đáp ứng cả các tiêu chuẩn xã hội và môi trường, đảm bảo phát triển bền vững và có tác động lan tỏa đến các ngành kinh tế khác trong mơ hình tăng trưởng xanh.

Qua điều tra, khảo sát có thể nhìn thấy mức độ thực hiện ngân hàng xanh của các ngân hàng thương mại ở Việt Nam mới đang ở mức trung bình (mức độ 3) trên 5 mức độ. Tức hoạt động kinh doanh có hệ thống, trong đó, hầu hết các quy trình, sản phẩm của ngân hàng đều tuân thủ nguyên tắc “xanh”, cơ cấu tổ chức của ngân hàng được thiết kế để hỗ trợ tác động “xanh” ở trên 4 giác độ: con người, quy trình, ngun tắc và mục đích<small>67</small>.

<i>a. Thực trạng về thải khí carbon trong hoạt động nội bộ ngân hàng </i>

Theo thống kê từ báo cáo của 26 ngân hàng trong nước, tính đến hết ngày 31/3/2019, tổng số chi nhánh, phòng giao dịch đã đạt 10.899 điểm giao dịch bao phủ khắp cả nước<small>68</small>. Dẫn đầu về mạng lưới chi nhánh vẫn thuộc về nhóm ngân hàng thương mại Nhà nước. Trong đó, Agribank ln giữ vị trí ngân hàng có mạng lưới chi nhánh nhiều nhất với 939 chi nhánh (171 chi nhánh loại I, 768 chi nhánh loại II). Xếp theo sau là BIDV (189 chi nhánh), Vietinbank (155 chi nhánh), Vietcombank (121 chi nhánh). Trong nhóm ngân hàng thương mại Nhà nước, BIDV được hưởng lợi về mạng lưới sau khi MHB sáp nhập vào BIDV năm 2015. Trong nhóm ngân hàng thương mại tư nhân, vị trí dẫn đầu thuộc về Sacombank với 109 chi nhánh. Xếp theo sau lần lượt là MB (99 chi nhánh), LienVietPostBank (76 chi nhánh), HDBank (72 chi nhánh), VPBank (66 chi nhánh), MSB (62 chi nhánh),… Sacombank và HDBank nằm trong top ngân hàng thương mại tư nhân dẫn đầu về mạng lưới một phần nhờ vào thương vụ M&A những năm trước đó; Sacombank nhận sáp nhập Ngân hàng Phương Nam, HDBank nhận sáp

<small> </small>

<small>67</small><i><small> Trần Thị Thanh Tú, Ngô Anh Phương, Nguyễn Thị Nhung, Tlđd (66). </small></i>

<small>68 Văn Cập Huy, “Ngân hàng xanh - Bảo vệ môi trường: Sáng kiến cho phát triển bền vững tại Việt Nam”, truy cập ngày 20/7/2023. </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38">

nhập Ngân hàng Đại Á. LienVietPostBank (76 chi nhánh) và TPBank (53 chi nhánh) là hai ngân hàng có số lượng chi nhánh khá ấn tượng mặc dù mới được thành lập năm 2008. Với số lượng quy mô lớn các điểm giao dịch, các ngân hàng đã thải ra mơi trường lượng khí carbon rất lớn thông qua việc sử dụng số lượng lớn các giấy tờ in ấn, máy điều hòa, thiết bị chiếu sáng… cùng với đội ngũ nhân viên đông đảo đã tác động và ảnh hưởng xấu đến môi trường.

<i>b. Thực trạng về phát triển sản phẩm dịch vụ xanh </i>

Thanh toán trên thiết bị di động tăng trưởng mạnh hàng năm (90% về số lượng và 150% về giá trị). Hệ sinh thái số, thanh toán số đã được thiết lập với việc kết nối dịch vụ ngân hàng số với nhiều dịch vụ số khác trong nền kinh tế. Nhiều nghiệp vụ đã được số hóa toàn diện 100%. Trong 8 tháng đầu năm 2022, thanh toán trên thiết bị di động tăng 107% về số lượng và 92% về giá trị<small>69</small>. VIB đặc biệt chú trọng đến 3 khía cạnh chính là (1) ứng dụng My VIB; (2) dữ liệu lớn (Big Data), trí tuệ nhân tạo (AI), học máy (Machine Learning); và (3) ứng dụng các công nghệ mới như Cloud, Open API,… Đây là một trong những ngân hàng đầu tiên triển khai điện toán đa đám mây (Multi-Cloud) tại Việt Nam. Trước đó, từ năm 2020, VIB đã ứng dụng thành cơng AI và Big Data để số hóa 100% quy trình duyệt cấp thẻ tín dụng, cho phép khách hàng đăng ký và nhận ngay thẻ tín dụng chỉ trong 30 phút, hồn tồn trực tuyến. Khơng ít ngân hàng cũng tập trung vào các công nghệ tương tự như Techcombank ra mắt iDO - nền tảng số mới dành cho chi nhánh và PayLink - hệ thống Payment Hub kết nối các mạng lưới thanh toán liên ngân hàng; ACB đã đẩy mạnh đầu tư AI và ứng dụng công nghệ này vào nhận diện khuôn mặt; MB đã kết nối thành công ứng dụng ngân hàng số App MBBank với hệ thống MB SmartBank giúp khách hàng có thể đồng bộ giao dịch O2O (Online to Offline và ngược lại) một cách nhanh chóng và thuận tiện…

<i>c. Thực trạng về tín dụng xanh </i>

Hiện nay, niều ngân hàng thương mại Việt Nam có dịch vụ ngân hàng điện tử (Internet banking, SMS banking, Mobile banking,…) hoạt động song song với các nghiệp vụ ngân hàng truyền thống. Các dịch vụ này là một bộ phận lớn trong việc xây dựng một ngân hàng xanh, tuy nhiên với thực tại ở Việt Nam, các dịch vụ này vẫn chưa

<small> </small>

<small>69 Minh Thành, “Dịch vụ tài chính di động tăng vọt nhờ các giải pháp công nghệ thanh toán mới”, truy cập ngày 20/7/2023. </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 39</span><div class="page_container" data-page="39">

được phát triển rộng rãi và phổ biến, chưa được chiến lược hóa tại các ngân hàng thương mại<small>70</small>.

Theo thống kê từ NHNN Việt Nam, tính đến tháng 12/2021, có khoảng 25 ngân hàng thương mại thực hiện gói tín dụng xanh như Sacombank, BIDV, Vietinbank, Vietcombank, Agribank, SHB, ACB, Viet A Bank, Nam A Bank, OCB, Kien Long Bank, PVCombank, HSBC, HDBank,… Trong đó, khoảng 24% dự án xanh được các ngân hàng xây dựng và triển khai thẩm định tín dụng, 50% xây dựng và triển khai quy trình quản lý rủi ro môi trường, xã hội trong hoạt động cấp tín dụng, xây dựng và ban hành quy trình quản lý rủi ro mơi trường, xã hội bằng văn bản, 68% có kế hoạch mở rộng hoạt động tín dụng xanh trong ngắn và trung hạn. Đến ngày 30/6/2022, dư nợ tín dụng của Việt Nam đối với các dự án xanh đạt hơn 474 nghìn tỷ đồng, tăng 7,08% so với năm 2021, chủ yếu tập trung vào lĩnh vực năng lượng tái tạo, năng lượng sạch (47%)<small>71</small>.

Hoạt động cấp tín dụng xanh đã được các ngân hàng triển khai. BacABank, HDBank, NamABank là 3 ngân hàng thương mại đã nhận được Giải thưởng Ngân hàng tiêu biểu về Tín dụng xanh năm 2019 do Tập đồn Dữ liệu quốc tế IDG Việt Nam phối hợp với Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam tổ chức. Trong đó, NamABank đã ký kết hợp tác với GCPF - Quỹ hợp tác khí hậu tồn cầu triển khai chương trình “Tín dụng xanh”, cho vay vốn thực hiện các dự án liên quan đến bảo vệ môi trường, tiết kiệm năng lượng<small>72</small>. Ngày 19/10/2022, trong khuôn khổ hội thảo “Hợp tác phát triển tín dụng bền vững”, NamABank đã ký kết biên bản ghi nhớ hợp tác với Công ty quản lý quỹ ResponsAbility (Thụy Sĩ) nhằm thúc đẩy phát triển bền vững và tín dụng xanh tại Việt Nam. Bên cạnh đó, giao dịch vay hợp vốn xanh đầu tiên trên thị trường Việt Nam cũng đã được thực hiện bởi VPBank. Ngân hàng này ký kết “Hợp đồng cho vay tín dụng xanh” trị giá 212,5 triệu USD với Tổ chức tài chính quốc tế IFC và các nhà đồng tài trợ quốc tế uy tín. Ngồi việc nhận được khoản tài trợ, VPBank cũng nhận được tư vấn kỹ thuật của các chuyên gia IFC trong việc xây dựng khung chính sách về tín dụng xanh và cơng cụ tài chính bền vững, thiết lập hệ thống theo dõi, quản lý và báo cáo về tình trạng sử dụng

<small> </small>

<small>70</small><i><small> Trần Thị Thanh Tú, Ngô Anh Phương, Nguyễn Thị Nhung, Tlđd (66). </small></i>

<small>71 Mai Thành Công, “Hướng đi phát triển Ngân hàng xanh tại Việt Nam”, di-phat-trien-ngan-hang-xanh-tai-viet-</small>

<small> truy cập ngày 20/7/2023. </small>

<small>72 “Nam A Bank và GCPF ký kết triển khai chương trình Tín dụng Xanh”, a-bank-va-gcpf-ky-ket-trien-khai--chuong-trinh-tin-dung-xanh-1, truy cập ngày 10/2/2023. </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 40</span><div class="page_container" data-page="40">

cho các dự án xanh. Để đáp ứng với những yêu cầu khắt khe của khoản vay, VPBank đã đầu tư để đào tạo một nhóm chun gia tín dụng xanh được cấp chứng chỉ quốc tế nhằm đánh giá việc đáp ứng tiêu chuẩn xanh của từng khoản vay theo từng dự án<small>73</small>.

Tháng 3-2023, Vietcombank và Ngân hàng JBIC (Nhật Bản) đã ký kết hợp tác tài trợ vốn 300 triệu USD để hỗ trợ dự án năng lượng tái tạo. Ông Nguyễn Thanh Tùng, Tổng Giám đốc Vietcombank, cho biết, Vietcombank luôn dành nguồn lực đặc biệt để cho vay tài trợ các dự án xanh. Cụ thể, đã triển khai thành cơng gói tín dụng 200 triệu USD cho lĩnh vực này vào năm 2019. Hỗ trợ nền nông nghiệp Việt Nam ứng phó với biến đổi khí hậu, từ năm 2016 Agribank đã triển khai chương trình tín dụng ưu đãi phục vụ nông nghiệp sạch với quy mô vốn khơng hạn chế, ban đầu là 50.000 tỷ đồng. Tính đến cuối năm 2022, doanh số cho vay đã đạt hơn 30.000 tỷ đồng, dư nợ đạt hơn 5.000 tỷ đồng với gần 4.000 khách hàng được vay. Hiện Agribank vẫn luôn dành vốn cho các lĩnh vực nông nghiệp xanh<small>74</small>.

Ngân hàng Sài Gòn – Hà Nội (SHB) vinh dự là đại diện duy nhất của Việt Nam được Tạp chí Tài chính hàng đầu thế giới Global Finance trao tặng giải thưởng “Ngân hàng có hoạt động Tài trợ Bền vững tốt nhất” năm 2023, qua đó ghi nhận nỗ lực của SHB trong hoạt động cho vay bền vững, đặc biệt là các giao dịch hướng đến phát triển kinh tế xanh. Trước đó vào tháng 6, tạp chí FinanceAsia đã trao tặng SHB giải thưởng “Ngân hàng có tác động ESG tốt nhất Việt Nam" (Best ESG Impact) nhờ kiên định trong các mục tiêu phát triển bền vững. Ngồi ra, SHB cịn được vinh danh là “Ngân hàng Tiêu biểu về Tín dụng xanh năm 2022” và “Ngân hàng đồng hành cùng Doanh nghiệp vừa và nhỏ năm 2022” do Tập đoàn Dữ liệu Quốc tế (IDG) phối hợp cùng Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam (VNBA) tổ chức<small>75</small>.

<small> </small>

<small>73 Ngô Anh Phương, “Ngân hàng xanh tại Việt Nam: Thực trạng và giải pháp phát triển”, truy cập ngày 20/7/2023. </small>

<small>74 “Ngành ngân hàng tham gia thực hiện có hiệu quả Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh 14/06/2023”, </small>

<small> truy cập ngày 20/7/2023. </small>

<small>75 “Global Finance vinh danh SHB là “Ngân hàng có hoạt động Tài trợ Bền vững tốt nhất” Việt Nam 2023”, truy cập ngày 20/7/2023. </small>

</div>

×