Tải bản đầy đủ (.pdf) (75 trang)

Xử Phạt Vi Phạm Hành Chính Về An Toàn Thực Phẩm Từ Thực Tiễn Tại Thành Phố Hồ Chí Minh.pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (788.46 KB, 75 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

<b>THUỘC NHĨM NGÀNH: LUẬT HÀNH CHÍNH – NHÀ NƯỚC </b>

<b>Họ tên tác giả, nhóm tác giả Mã số SV Năm thứ 1. Huỳnh Thị Thanh Hiền 2153801014073 02 2. Nguyễn Thị Hồng Hạnh 2153801014068 02 3. Phạm Hồng Kim Liên 2153801014118 02 Trưởng nhóm: Trần Thị Thu Hiếu 2153801014078 02 Lớp: 130-HC46A Khóa: 46 Khoa: Hành chính – Nhà nước Giáo viên hướng dẫn: Thạc sĩ Vũ Thị Ngọc Dung </b>

<b>Mã số công trình: ……….. </b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

<b>THUỘC NHĨM NGÀNH: LUẬT HÀNH CHÍNH – NHÀ NƯỚC </b>

<b>Họ tên tác giả, nhóm tác giả Mã số SV Năm thứ 1. Huỳnh Thị Thanh Hiền 2153801014073 02 2. Nguyễn Thị Hồng Hạnh 2153801014068 02 3. Phạm Hồng Kim Liên 2153801014118 02 Trưởng nhóm: Trần Thị Thu Hiếu 2153801014078 02 Lớp: 130-HC46A Khóa: 46 Khoa: Hành chính – Nhà nước Giáo viên hướng dẫn: Thạc sĩ Vũ Thị Ngọc Dung </b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

<b>LỜI CAM ĐOAN </b>

Chúng tôi xin cam đoan những nội dung trong đề tài nghiên cứu khoa học tên “Xử phạt vi phạm hành chính về an toàn thực phẩm từ thực tiễn tại Thành phố Hồ Chí Minh” là kết quả nghiên cứu của riêng của chúng tôi dưới sự hướng dẫn của Thạc sĩ Vũ Thị Dung. Những nội dung và số liệu trong đề tài nghiên cứu khoa học này được chúng tơi tìm kiếm đều đảm bảo tính trung thực và chính xác. Chúng tơi xin chịu hồn tồn trách nhiệm về lời cam đoan này.

Sinh viên ký tên

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn Bộ NN&PTNT

Nghị định 115/2018/NĐ-CP ngày 04 tháng 9 năm 2018 của Chính phủ quy định về Quy định xử phạt vi phạm hành chính về an tồn thực phẩm (đã được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định 124/2021/NĐ-CP ngày 28 tháng 12 năm 2021 và nghị định số 117/2020/NĐ-CP ngày 28 tháng 9 năm 2020 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế).

Nghị định 115 (đã được sửa đổi, bổ sung)

Nghị định 124/2021/NĐ-CP ngày 28 tháng 12 năm 2021 về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 115/2018/NĐ-CP ngày 04 tháng 9 năm 2018 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính về an tồn thực phẩm và nghị định số 117/2020/NĐ-CP ngày 28 tháng 9 năm 2020 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế.

Nghị định 124

Nghị định 178/2013/NĐ-CP ngày 14 tháng 11 năm 2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính về an tồn thực phẩm.

Nghị định 178

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

<b>MỤC LỤC </b>

<b>LỜI MỞ ĐẦU ... 1</b>

<b>CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ CỦA XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH VỀ AN TOÀN THỰC PHẨM ... 8</b>

<b>1.1. Cơ sở lý luận của xử phạt vi phạm hành chính về an toàn thực phẩm ... 8</b>

1.1.1. Khái quát về an toàn thực phẩm ... 8

1.1.2. Khái niệm vi phạm hành chính và các hành vi vi phạm hành chính về an toàn thực phẩm ... 11

<b>1.2. Quy định pháp luật xử phạt vi phạm hành chính về an tồn thực phẩm ... 13</b>

1.2.1. Khái niệm, đặc điểm xử phạt vi phạm hành chính về an tồn thực phẩm .... 13

1.3.1. Kinh nghiệm của Singapore ... 24

1.3.2. Kinh nghiệm của Nhật Bản ... 25

1.3.3. Nhận xét chung ... 27

<b>KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ... 29</b>

<b>CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN ... 30</b>

<b>PHÁP LUẬT XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH VỀ AN TỒN THỰC PHẨM TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH VÀ GIẢI PHÁP HỒN THIỆN ... 30</b>

<b>2.1. Thực trạng pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính về an tồn thực phẩm tại Thành phố Hồ Chí Minh và giải pháp hoàn thiện ... 30</b>

2.1.1. Về thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính ... 30

2.1.2. Về hành vi và mức xử phạt vi phạm hành chính ... 32

2.1.3. Về thời hiệu, thời hạn để xử phạt vi phạm hành chính ... 33

2.1.4. Về việc lập biên bản xử phạt vi phạm hành chính ... 36

2.1.5. Về các biện pháp khắc phục hậu quả ... 38

2.1.6. Những quy định đặc thù của Thành phố Hồ Chí Minh về xử phạt vi phạm hành chính về an tồn thực phẩm ... 39

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

2.1.7. Sự thiếu thống nhất, đồng bộ trong quy định của các văn bản pháp luật khác

có liên quan ... 41

<b>2.2. Thực trạng tổ chức thực hiện pháp luật xử phạt vi phạm hành chính về an tồn thực phẩm tại Thành phố Hồ Chí Minh và giải pháp hồn thiện... 45</b>

2.2.1. Về hoạt động của Ban quản lý An toàn thực phẩm ... 45

2.2.2. Về công tác thông tin, giáo dục, truyền thông ... 48

2.2.3. Về công tác nhân sự và kinh phí ... 51

2.2.4. Khó xử phạt đối với đối tượng vi phạm hành chính về an tồn thực phẩm trên môi trường mạng ... 55

<b>KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ... 57</b>

<b>KẾT LUẬN CHUNG ... 59PHỤ LỤC 1 </b>

<b>PHỤ LỤC 2 </b>

<b>DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO </b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

<b>LỜI MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài </b>

An tồn thực phẩm có ý nghĩa rất quan trọng đối với sức khỏe của người dân và sự phát triển kinh tế, xã hội của đất nước. ATTP là đảm bảo để thực phẩm không gây hại đến sức khỏe, tính mạng con người.<small>1</small> Nhận thức được tầm quan trọng của việc đảm bảo ATTP mà Nhà nước đã ban hành các văn bản pháp luật quy định về quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân trong bảo đảm an toàn thực phẩm; điều kiện bảo đảm an toàn đối với thực phẩm, sản xuất, kinh doanh thực phẩm,... cũng như các biện pháp chế tài đối với các cá nhân, tổ chức có hành vi vi phạm các quy định về ATTP.

Tuy nhiên, các vụ việc trên thực tế cho thấy thực phẩm không rõ nguồn gốc vẫn được bán tràn lan trên khắp thị trường. Khi con người ăn phải những loại thực phẩm này sẽ có dấu hiệu ngộ độc thực phẩm từ nhẹ cho đến nặng như đau bụng, nôn mửa và tiêu chảy. Không những thế, chất độc có xu hướng tích tụ dần trong cơ thể theo thời gian và gây ra một số bệnh mãn tính, nhất là bệnh ung thư - căn bệnh nguy hiểm nhất, có thể ảnh hưởng trực tiếp đến tính mạng con người.

Năm 2021, tồn quốc đã ghi nhận 81 vụ ngộ độc thực phẩm với 1.942 người mắc và 18 trường hợp tử vong. Năm 2022, toàn quốc đã ghi nhận 36 vụ ngộ độc thực phẩm, 11 người tử vong trong 8 tháng năm 2022. Riêng trong tháng 7 và tháng 8, tại tỉnh Cà Mau và TP. HCM đã ghi nhận liên tiếp các trường hợp nhập viện do ngộ độc methanol (cồn công nghiệp) sau khi uống rượu không rõ nguồn gốc, trong đó đã có nhiều trường hợp tử vong.

Các cơ quan điều tra đã thực thi đúng vai trị và nhiệm vụ của mình, điều tra và thu giữ được nhiều nguồn thực phẩm khơng an tồn bằng cơng tác xử phạt, trình tự, thủ tục và chế tài XPVPHC về ATTP nhưng trong nhiều trường hợp vẫn chưa thực sự đem lại hiệu quả cao. Công tác xử phạt cịn chậm trễ, chưa có tính răn đe, chưa có sự thống nhất giữa các VBQPPL, chưa đảm bảo sự cơng bằng, thiếu tính thuyết phục, chưa đủ phòng ngừa vi phạm,… Các VBQPPL như Luật XLVPHC 2012 (sửa đổi, bổ sung năm 2020) và các văn bản hướng dẫn thi hành đã đạt được những hiệu quả nhất định trong cơng tác ngăn chặn, phịng ngừa và XPVPHC về an toàn thực phẩm. Thế nhưng bên cạnh những kết quả đạt được, việc áp dụng các văn bản này trên thực tế vẫn nảy sinh nhiều bất cập như thẩm quyền xử phạt, thời hiệu, thời hạn, biện pháp khắc phục hậu quả, công tác nhân sự và kinh phí, giáo dục, truyền thơng,... trong XPVPHC về ATTP.

Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề mà một số tác giả cũng nghiên cứu về vấn đề này như Luận văn tốt nghiệp cử nhân luật (2012) về Xử phạt vi phạm hành chính

<small>1 Khoản 1 Điều 2 Luật ATTP 2010 (sửa đổi, bổ sung 2018). </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

trong lĩnh vực vệ sinh an toàn thực phẩm của Trần Phát Tài, Luận văn thạc sĩ luật học (2012) về Xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực vệ sinh an toàn thực phẩm (Từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh) của Nguyễn Thị Thanh Thúy... Tuy nhiên, đến thời điểm hiện nay chưa có cơng trình nào nghiên cứu về xử phạt vi phạm hành chính về an tồn thực phẩm từ thực tiễn TP. HCM đặt trong bối cảnh TP. HCM đang áp dụng những cơ chế, chính sách đặc thù theo Nghị quyết số 98/2023/QH15 của Quốc hội ngày 01 tháng 08 năm 2023 về thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển Thành phố Hồ Chí Minh. Chính vì vậy, nhóm tác giả lựa chọn đề tài “Xử phạt vi phạm hành chính về an tồn thực phẩm từ thực tiễn tại thành phố Hồ Chí Minh” để nghiên cứu. Thông qua việc nghiên cứu những bất cập trong quy định pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật XPVPHC về an toàn toàn thực phẩm, nhóm tác giả sẽ tìm hiểu, đánh giá và đưa ra những đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả của việc XPVPHC về an toàn thực phẩm cụ thể từ địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh.

<b>2. Mục tiêu của đề tài </b>

Đề tài nhằm tìm hiểu quy định pháp luật về việc XPVPHC về an tồn thực phẩm của nước ta. Nhóm tác giả sẽ tiến hành nghiên cứu, đánh giá và phân tích những hạn chế, bất cập trong các quy định pháp luật và thực trạng thực hiện pháp luật về XPVPHC trong an tồn thực phẩm tại TP. HCM từ đó đề xuất một số giải pháp cũng như bài học kinh nghiệm từ các quốc gia khác để nâng cao hiệu quả trong xử phạt vi phạm hành chính về an tồn thực phẩm.

<b>3. Tổng quan tình hình nghiên cứu thuộc lĩnh vực của đề tài trong và ngoài nước 3.1. Trong trường </b>

<i> Nguyễn Thị Thu Thảo (2014), “Vai trò của các tiêu chuẩn quốc tế khi ban hành các quy định đảm bảo an toàn thực phẩm nhập khẩu”, Tạp chí Khoa học pháp lý, Số 05 </i>

(84), trang 57-63. Tạp chí sẽ tập trung phân tích định nghĩa tiêu chuẩn quốc tế; điều kiện áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế; ý nghĩa của việc áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế khi ban hành các quy định an toàn thực phẩm, các quy định kỹ thuật nhằm đảm bảo chất lượng thực phẩm.

<i> Lê Thị Hồng Minh (2015), Hiệu quả áp dụng chế tài hành chính trong lĩnh vực an tồn thực phẩm, Luận văn Thạc sĩ luật học. Luận văn phân tích tổng quan về hiệu </i>

quả áp dụng chế tài hành chính trong lĩnh vực an tồn thực phẩm và thực tiễn áp dụng chế tài hành chính trong lĩnh vực này. Từ đó, tác giả đề xuất các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng chế tài hành chính trong lĩnh vực an tồn thực phẩm ở nước ta.

<i>Trần Thị Thùy Dương (2016), “Đi tìm điểm cân bằng giữa tuân thủ luật WTO và bảo đảm an toàn thực phẩm: Đáp án nào cho Việt Nam?”, Tạp chí Khoa học pháp lý, </i>

Số 09 (103), trang 3-11. Chính phủ Việt Nam phải đối diện nhiều khó khăn khi dung

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

hòa giữa một bên là nghĩa vụ thực hiện các cam kết trong WTO và bên kia là trách nhiệm bảo đảm sức khỏe, cuộc sống của người dân thông qua việc quản lý chất lượng của thực phẩm nhập khẩu. Tạp chí trình bày đôi nét về những quy tắc mà Việt Nam cần tuân thủ khi xây dựng, áp dụng các biện pháp nhằm kiểm sốt độ an tồn của thực phẩm nhập khẩu và đánh giá mức tuân thủ của Việt Nam đối với luật của WTO, cũng như hiệu quả của việc kiểm sốt độ an tồn của thực phẩm nhập khẩu.

<i>Thái Thị Tuyết Dung (2016), “Cần thí điểm thành lập Ban quản lý an toàn thực phẩm tại các thành phố trực thuộc trung ương”, Tạp chí Khoa học pháp lý, Số 09 (103), </i>

trang 19-26. Bài viết đưa ra những lý do cần thí điểm thành lập cơ quan quản lý về An toàn thực phẩm ở các thành phố trực thuộc trung ương cũng như cơ sở pháp lý và mơ hình của cơ quan này.

<i>Cao Vũ Minh (2016), “Những bất cập về thời hiệu và thời hạn xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an tồn thực phẩm”, Tạp chí Khoa học pháp lý, Số 09 (103), </i>

trang 27-34. Bài viết phân tích những bất cập trong các quy định của pháp luật về thời hiệu và thời hạn xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an tồn thực phẩm và đề xuất một một số kiến nghị về vấn đề này.

<i>Nguyễn Huỳnh Bảo Khánh (2016), “Thực trạng phòng ngừa các hành vi vi phạm pháp luật về an tồn thực phẩm và một số kiến nghị”, Tạp chí Khoa học pháp lý, Số 09 </i>

(103), trang 35-42. Tạp chí tập trung phản ánh thực trạng phịng ngừa các hành vi vi phạm an toàn thực phẩm tại Việt Nam hiện nay, từ đó đề xuất một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả phòng ngừa các hành vi vi phạm này trong thời gian sắp tới.

<i>Lê Thị Hồng Vân (2016), “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngồi hợp đồng do thực phẩm khơng an tồn gây ra cho người tiêu dùng”, Tạp chí Khoa học pháp lý, Số </i>

09 (103), trang 43-50. An toàn thực phẩm đang là vấn đề quan trọng của Việt Nam hiện nay. Mỗi ngày, những thực phẩm khơng an tồn đang gây hại đến sức khỏe, tính mạng của người tiêu dùng. Vì vậy, quyền lợi của người tiêu dùng được nhiều ngành luật khác nhau bảo vệ. Dưới khía cạnh pháp luật dân sự, chủ thể gây thiệt hại phải chịu trách nhiệm bồi thường. Tạp chí phân tích các quy định của pháp luật và những vướng mắc trong thực tiễn áp dụng pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do thực phẩm khơng an tồn gây ra cho người tiêu dùng. Từ đó, tác giả đưa ra những kiến nghị hồn thiện pháp luật và khắc phục những vướng mắc trong thực tiễn.

<i>Nguyễn Thị Ngọc Lan (2016), “Sử dụng phụ gia thực phẩm tại Việt Nam - Thực trạng và giải pháp kiểm sốt”, Tạp chí Khoa học pháp lý, Số 09 (103), trang 51-59. Tạp </i>

chí nghiên cứu về tác dụng, tác hại của phụ gia thực phẩm đối với sức khỏe con người, thực trạng sử dụng phụ gia thực phẩm tại Việt Nam và các quy định pháp luật hiện hành kiểm soát việc sử dụng phụ gia thực phẩm. Qua thực trạng vi phạm pháp luật về sử dụng

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

phụ gia thực phẩm tại Việt Nam, tạp chí phân tích các nguyên nhân dẫn đến vi phạm và đề xuất một số giải pháp kiểm soát hành vi sử dụng phụ gia thực phẩm.

<i>Nguyễn Tuấn Vũ (2016), “Giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện an toàn thực phẩm: nhìn từ khía cạnh quản lý nhà nước và quyền lợi người tiêu dùng”, Tạp chí Khoa </i>

học pháp lý, Số 09 (103), trang 60-65. Tạp chí trình bày khái quát về giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện an toàn thực phẩm, một số nội dung cơ bản và bàn luận liên quan đến giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện an toàn thực phẩm.

<i>Nguyễn Văn Sang (2016), Quản lý nhà nước của Uỷ ban nhân dân tỉnh về an toàn thực phẩm, Luận văn Thạc sĩ. Luận văn phân tích thực trạng quản lý nhà nước về </i>

an toàn thực phẩm của Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long. Trên cơ sở đó, tác giả đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm của Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long nói riêng và Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh nói chung.

<i>Võ Trung Tín (2016), “Thực tiễn áp dụng pháp luật về đảm bảo an toàn thực phẩm tại các chợ đầu mối thành phố Hồ Chí Minh và các kiến nghị”, Nghiên cứu Lập </i>

pháp, Viện Nghiên cứu Lập pháp, Số 19 (323), trang 36-43. An toàn thực phẩm đang là vấn đề nóng trong xã hội. đặc biệt là TP. HCM, với việc hình thành và phát triển hệ thống các chợ đầu mối lớn trong khu vực và cả nước, vấn đề an toàn thực phẩm càng trở nên bức thiết. Để người dân được cung cấp “thực phẩm sạch” nguồn, pháp luật cầm bảo đảm được sơ chế quản lý và chế tài xử phạt thống nhất, hiệu quả. Tạp chí tập trung làm rõ hai vấn đề: thực trạng tình hình an tồn thực phẩm và thực trạng áp dụng pháp luật về an toàn thực phẩm tại các chợ đầu mối TP. HCM, từ đó chỉ ra các bất cập và đưa ra một số kiến nghị.

<i>Võ Trung Tín (2017), “Những vấn đề pháp lý và thực tiễn trong quy định về an toàn thực phẩm, kiểm dịch động, thực vật trong cộng đồng kinh tế ASEAN”, Nghiên cứu </i>

lập pháp, Viện nghiên cứu lập pháp, Số 05(333), trang 26-34. Bài viết phân tích các quy định về an tồn thực phẩm và kiểm dịch động, thực vật trong khuôn khổ Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC); đánh giá tình hình thực thi các cam kết của Việt Nam khi áp dụng các biện pháp an toàn thực phẩm, kiểm dịch động, thực vật đối với Việt Nam và kiến nghị một số giải pháp để Việt Nam thực hiện tốt các cam kết của mình.

<i> Nguyễn Duy Khang (2022), Tổ chức và hoạt động của Ban quản lý an toàn thực phẩm trực thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh (từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh), Luận </i>

văn thạc sĩ. Luận văn làm sáng tỏ những vấn đề lý luận, pháp lý và thực tiễn về tổ chức và hoạt động của Ban quản lý an toàn thực phẩm. Từ đó đưa ra những giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Ban quản lý an toàn thực phẩm trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng và trên cả nước nói chung.

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

<i>Trần Thu Hà ( 2023), Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an toàn thực phẩm (Từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh), Luận văn tốt nghiệp. Luận văn tập trung </i>

vào nghiên cứu các vấn đề lý luận về XPVPHC trong lĩnh vực ATTP và thực trạng XPVPHC trong lĩnh vực này tại địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM). Từ đó, đưa ra những giải pháp phù hợp để nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật về XPVPHC trong lĩnh vực ATTP cũng như áp dụng quy định pháp luật vào thực tế.

<i>Bùi Thị Hồng Nương (2017), “Hồn thiện cơng tác quản lý bằng pháp luật đối với lĩnh vực an toàn thực phẩm”, Quản lý nhà nước, Học viện Hành chính Quốc gia, Số </i>

258, trang 85 - 89. An toàn thực phẩm là một trong những nội dung luôn được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm và coi đây là vấn đề có ý nghĩa to lớn về mặt kinh tế - xã hội, sức khỏe cộng đồng về môi trường cũng như ảnh hưởng lớn đến tiến trình hội nhập của đất nước. Để đảm bảo cho sức khỏe của người dân thì việc quản lý nhà nước đối với lĩnh vực an toàn thực phẩm có vai trị vơ cùng quan trọng, nhất là việc sử dụng hệ thống công cụ pháp luật để kiểm sốt vấn đề an tồn thực phẩm. Bài viết đã phân tích thực trạng cơng tác quản lý bằng pháp luật đối với lĩnh vực an toàn thực phẩm. Từ đó, đưa ra một số kiến nghị nhằm hồn thiện cơng tác quản lý bằng pháp luật đối với lĩnh vực an tồn thực phẩm.

<i>Ngơ Huy Cương (2018), “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do thực phẩm khơng an tồn gây ra theo quy định của pháp luật”, Nghiên cứu lập pháp, Viện Nghiên cứu </i>

lập pháp, Số 12 (364), trang 10 - 17. Chưa bao giờ người dân lại đối diện với “cái chết”

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

cận kề từ bản ăn như bây giờ. Liên tiếp hàng loạt vụ thực phẩm bẩn bị phanh phui như lợn nuôi bằng chất tạo nạc, chuối dấm thuốc diệt cỏ…đã khiến người tiêu dùng hoang mang, lo ngại. Một trong những nguyên nhân của tình trạng an toàn thực phẩm tràn lan như hiện nay là do hệ thống pháp luật chưa đủ sức răn đe, việc thực thi pháp luật về an toàn thực phẩm chưa nghiêm minh, và đặc biệt quy định của pháp luật Việt Nam về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do thực phẩm khơng an tồn gây ra cịn nhiều hạn chế. Bài viết phân tích, so sánh để đưa ra những hạn chế, bất cập, mâu thuẫn của pháp luật Việt Nam từ đó đưa ra những kiến nghị.

<b>4. Cách tiếp cận, phương pháp nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu </b>

<b>- Cách tiếp cận: Bắt đầu nghiên cứu từ các vấn đề đã có của các VBQPPL về </b>

XPVPHC về ATTP, tìm hiểu việc áp dụng và thi hành trong thực tiễn đồng thời tham khảo, tiếp cận những đề tài nghiên cứu khoa học, khóa luận liên quan đã có.

<b>- Phương pháp nghiên cứu: Liệt kê; Phân tích; So sánh; Đánh giá,… Trong đó </b>

phương pháp đánh giá, so sánh đóng vai trị quan trọng. Nhóm tác giả sẽ tiến hành đánh giá, so sánh giữa các cơ sở lý luận qua các văn bản quy định đã có; giữa việc áp dụng, thi hành trong thực tế, thực tiễn so với các yêu cầu, quy định đã được đề ra trên văn bản; giữa các quy định của các quốc gia khác với pháp luật, điều luật quy định của Việt Nam. Từ đó, nhóm tác giả sẽ đề ra những biện pháp, kinh nghiệm để nâng cao hiệu quả trong việc XPVPHC về an toàn thực phẩm cho nước ta.

<b>- Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu các quy định pháp luật về XPVPHC về an </b>

toàn thực phẩm đã được quy định tại Việt Nam và tham khảo, học hỏi những quy định pháp luật của một số quốc gia trên thế giới nhằm nâng cao hiệu quả XPVPHC về an toàn thực phẩm của Việt Nam từ thực tiễn thực hiện pháp luật tại tại TP. HCM.

<b>5. Ý nghĩa khoa học và khả năng ứng dụng của đề tài </b>

<b>- Ý nghĩa khoa học: Đánh giá được tình hình thực tế việc XPVPHC về ATTP ở </b>

Việt Nam và các văn bản quy định liên quan, từ đó đưa ra những đề xuất, góp ý phương hướng hồn thiện cho hệ thống pháp luật Việt Nam về vấn đề XPVPHC về ATTP đồng thời tham khảo và học hỏi một số biện pháp xử phạt của nước ngoài cho nước ta .

<b>- Khả năng ứng dụng: Có khả năng ứng dụng vào thực tiễn vì vấn đề này hiện </b>

nay ở Việt Nam vẫn còn một số hạn chế nhất định và việc áp dụng, thi hành chưa đạt hiệu quả cao; đề tài này giúp đề xuất những biện pháp mang tính định hướng để giải quyết, khắc phục những hạn chế đó.

<b>6. Cơ cấu của đề tài </b>

Đề tài gồm: Phần mở đầu, 02 chương, kết luận, phụ lục, danh mục tài liệu tham khảo.

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

<b>Chương 1: Cơ sở lý luận và pháp lý của xử phạt vi phạm hành chính về an tồn </b>

thực phẩm

<b>Chương 2: Thực trạng pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật xử phạt vi phạm </b>

hành chính về an tồn thực phẩm tại Thành phố Hồ Chí Minh và giải pháp hồn thiện

</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">

<b>CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ CỦA XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH VỀ AN TỒN THỰC PHẨM </b>

<b>1.1. Cơ sở lý luận của xử phạt vi phạm hành chính về an toàn thực phẩm 1.1.1. Khái quát về an toàn thực phẩm </b>

<i>1.1.1.1.Khái niệm thực phẩm </i>

Dưới góc độ thực tiễn, “thực phẩm” được hiểu là những sản phẩm mà con người ăn, uống ở dạng tươi, sống hoặc đã qua chế biến, bảo quản. Thực phẩm không bao gồm mỹ phẩm, thuốc lá và các chất sử dụng như dược phẩm. Thực phẩm được chia thành ba nhóm chính là tinh bột (carbohydrat), chất béo (lipit), chất đạm (protein); đây là những dưỡng chất nhằm để duy trì hoạt động của cơ thể con người. Chúng ta có thể phân loại thực phẩm theo hai nguồn gốc: nguồn gốc từ động vật ví dụ như heo, bị, gà, vịt, cừu, cá,.... và nguồn gốc từ thực vật ví dụ như ngơ, đậu, khoai tây, khoai lang, mì,.... Ngồi ra, thực phẩm còn được chia ra thành các loại thực phẩm: đông lạnh, tươi sống, chế biến sẵn, cắm trại, ăn kiêng và bổ dưỡng. Chúng ta có được thực phẩm thơng qua q trình trồng trọt, chăn ni, đánh bắt, chế biến và nhiều phương pháp tiên tiến khác.

Dưới góc độ pháp luật, tại khoản 1 Điều 3 Quy định về chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm ban hành kèm theo Quyết định số 4196/1999/QĐ-BYT ngày 29 tháng 12 năm

<i>1999 của Bộ trưởng Bộ Y tế, “thực phẩm” được xác định“là những đồ ăn, uống của con người ở dạng tươi, sống hoặc đã qua sơ chế, chế biến bao gồm cả đồ uống, nhai, ngậm và các chất được sử dụng trong sản xuất, chế biến thực phẩm”. Sau đó, khái niệm này tiếp tục được Uỷ ban Thường vụ Quốc hội khóa XI điều chỉnh thành: “Thực phẩm là những sản phẩm mà con người ăn, uống ở dạng tươi, sống hoặc đã qua chế biến, bảo quản” (khoản 1 Điều 3 Pháp lệnh Vệ sinh an toàn thực phẩm năm 2003 của Uỷ ban </i>

thường vụ Quốc hội). Như vậy, khái niệm “thực phẩm” đã được hiểu một cách ngắn gọn, mang tính khái quát hơn so với trước đây. Tuy nhiên, cũng chính vì vậy mà trên thực tế khái niệm này đôi lúc lại gây ra sự nhầm lẫn giữa thực phẩm với dược phẩm, mỹ phẩm. Đánh giá 6 năm thực hiện Pháp lệnh Vệ sinh An toàn thực phẩm năm 2003 cho thấy bất cập này tạo ra nhiều vướng mắc trong q trình áp dụng luật, gây khó khăn trong việc phân định chức năng quản lý giữa các bộ, ngành<small>2</small>.

<i>Chính vì vậy, Luật ATTP 2010 đã có quy định mới, theo đó:“Thực phẩm là sản phẩm mà con người ăn, uống ở dạng tươi sống hoặc đã qua sơ chế, chế biến, bảo quản. Thực phẩm không bao gồm mỹ phẩm, thuốc lá và các chất sử dụng như dược phẩm” </i>

(khoản 20 Điều 2). So với các văn bản trước đây, khái niệm này đã thể hiện sự khác biệt

<small>2“Đề cương giới thiệu Luật ATTP”, tr. 3, truy cập ngày 04/03/2023. </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">

giữa thực phẩm với mỹ phẩm, thuốc lá và các chất sử dụng như dược phẩm, điều này giúp cho các cơ quan chức năng dễ dàng hơn trong việc xác định phạm vi quản lý, khắc phục được những bất cập trước đó.

<i>1.1.1.2. Khái niệm an tồn thực phẩm </i>

Dưới góc độ khoa học, ATTP được hiểu là khả năng không gây ngộ độc của thực phẩm đối với con người khi được chế biến và đem đi sử dụng đúng mục đích dự kiến. ATTP bảo đảm cho thực phẩm không bị hỏng, không chứa các tác nhân vật lý, hóa học, sinh học hoặc tạp chất quá giới hạn cho phép theo quy định của pháp luật.

<i>Dưới góc độ pháp luật, trước Luật ATTP năm 2010, khái niệm “an toàn thực phẩm” </i>

chưa được sử dụng mà thay vào đó các văn bản quy phạm pháp luật sử dụng chủ yếu là

<i>khái niệm “vệ sinh an toàn thực phẩm”. </i>

Quyết định số 4196/1999/QĐ-BYT ngày 29 tháng 12 năm 1999 của Bộ trưởng Bộ Y tế về việc ban hành “Quy định về chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm”, tại khoản

<i>10 Điều 3 giải thích cụ thể khái niệm: “Vệ sinh an tồn thực phẩm” là việc thực phẩm khơng gây hại cho sức khỏe, tính mạng người sử dụng; khơng bị hỏng, biến chất, bị giảm chất lượng hoặc chất lượng kém; khơng chứa các tác nhân hóa học, sinh học hoặc vật lý quá giới hạn cho phép; không phải là sản phẩm của động vật bị bệnh có thể gây hại cho người sử dụng. </i>

Tương tự, Pháp lệnh Vệ sinh ATTP 2003 tại khoản 2 Điều 3 quy định có phần ngắn

<i>gọn hơn nhưng vẫn đầy đủ: “Vệ sinh an toàn thực phẩm là các điều kiện và biện pháp cần thiết để bảo đảm thực phẩm khơng gây hại cho sức khỏe, tính mạng của con người”. </i>

Đến văn bản pháp luật hiện hành, Luật ATTP 2010 (sửa đổi, bổ sung năm 2018) đã sử

<i>dụng thuật ngữ “an toàn thực phẩm” và quy định cụ thể tại khoản 1 Điều 2 Luật này như sau: “An toàn thực phẩm là việc bảo đảm để thực phẩm khơng gây hại đến sức khỏe, tính mạng con người”. </i>

<i>Việc các nhà làm luật đã lược bỏ bớt từ “vệ sinh” trong “vệ sinh an toàn thực phẩm”, theo nhóm tác giả việc làm trên khá hợp lý vì “vệ sinh” đóng vai trị là một khâu </i>

xun suốt trong chuỗi các biện pháp đảm bảo cho thực phẩm được an toàn, sạch sẽ đến tay người tiêu dùng; thực phẩm khơng thể coi là an tồn nếu không đảm bảo vệ sinh. Vệ sinh thực phẩm là giữ cho thực phẩm không bị nhiễm khuẩn, nhiễm độc, ngộ độc thực phẩm. Thực phẩm được coi là vệ sinh là những thực phẩm được xử lý và bảo quản sạch sẽ trong quá trình sản xuất, chế biến, đóng gói, và bảo quản. Vì vậy vấn đề vệ sinh đã được bao hàm, ẩn chứa trong việc đảm bảo an toàn thực phẩm, việc sử dụng thuật ngữ “vệ sinh an tồn thực phẩm” là dư thừa.

<i>Tóm lại, “an tồn thực phẩm” khơng chỉ là một khái niệm trừu tượng, nó là một chuỗi các biện pháp cần thiết đi liền với nhau từ khâu sản xuất, chế biến, phân phối, vận </i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">

<i>chuyển, bảo quản cũng như là sử dụng nhằm đảm bảo giữ cho thực phẩm được sạch sẽ, </i>

<i><b>an tồn, khơng gây hại đến tay người tiêu dùng. </b></i>

<i>1.1.1.3. Tầm quan trọng của an toàn thực phẩm </i>

<b>Một là, an toàn thực phẩm giữ vai trò quyết định trong việc đảm bảo sức khỏe, tính mạng con người. </b>

Thực phẩm là nguồn sống thiết yếu của con người, mỗi bữa ăn hằng ngày đều trở thành một phần quan trọng đối với sức khỏe mỗi chúng ta. Đây là nguồn cung cấp chính các chất dinh dưỡng cho sự phát triển của cơ thể, giúp con người khỏe mạnh, chống lại được các yếu tố gây bệnh trong môi trường sống. Tuy nhiên, nếu như con người sử dụng thực phẩm khơng đảm bảo chất lượng thì ngược lại nó sẽ chính là nguyên nhân gây bệnh, đe doạ sức khoẻ và tính mạng của con người. Những thiệt hại khi khơng đảm bảo vệ sinh an tồn thực phẩm gây nên nhiều hậu quả khác nhau, từ bệnh cấp tính, mãn tính thậm chí khiến con người tử vong. Ví dụ: Theo báo cáo của Bộ Y tế tháng 1/2023 có 30 người bị ngộ độc thực phẩm và 1 người tử vong do ngộ độc methanol (cồn công nghiệp) vì sử dụng rượu khơng đảm bảo an tồn, khơng rõ nguồn gốc, có hàm lượng methanol cao nên Cục ATTP đã đề nghị Sở y tế các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, BQL An toàn thực phẩm TP. HCM, thành phố Đà Nẵng, tỉnh Bắc Ninh chỉ đạo các đơn vị chức năng tăng cường giám sát, phát hiện sớm các trường hợp nghi ngờ ngộ độc rượu, ngộ độc methanol, đặc biệt là với các đối tượng có tiền sử nghiện rượu; đồng thời cấp cứu, điều trị kịp thời để tránh các diễn biến xấu đối với sức khỏe bệnh nhân. Vì vậy một người tiêu dùng thông minh cần sáng suốt trong việc lựa chọn thực phẩm để đảm bảo an tồn cho mình và gia đình.

<b>Hai là, an tồn thực phẩm là điều kiện quan trọng đối với nhà sản xuất. </b>

Người sản xuất, chế biến, kinh doanh thực phẩm phải cập nhật kiến thức về vệ sinh ATTP, được kiểm tra sức khỏe định kỳ và đảm bảo không mắc các bệnh truyền nhiễm liên quan đến chế biến thực phẩm. Giữ vệ sinh cá nhân, vệ sinh trong chế biến, máy móc,... Người thực hiện phải mang khẩu trang, bảo hộ đúng cách; rửa tay bằng xà phòng và nước sạch sau khi đi vệ sinh hay tiếp xúc với vật bẩn, trước và sau khi chế biến thức ăn. Cơ sở sản xuất, chế biến phải đảm bảo môi trường luôn sạch và khô ráo. Rác, thức ăn thừa, nước thải phải được xử lý triệt để, cống rãnh sạch thoáng. Thiết bị, dụng cụ chế biến thường xuyên vệ sinh sạch sẽ, không để ruồi, kiến, gián, bụi tiếp xúc… Nếu có vấn đề gì xảy ra đối với sản phẩm mình sản xuất thì nhà sản xuất phải tự chịu toàn bộ trách nhiệm và thiệt hại.

<b>Ba là, an toàn thực phẩm đối với kinh tế - xã hội. </b>

Thực phẩm là ngành công nghiệp mũi nhọn có tiềm năng to lớn ở nước ta được do Chính phủ lựa chọn, ưu tiên phát triển trong giai đoạn 2025, tầm nhìn 2035; giúp tăng

</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">

lợi thế cạnh tranh trên thị trường quốc tế và cũng là ngành đang dần phục hồi sau đại dịch COVID-19, được Nhà nước ta thúc đẩy và phát triển thông qua các hợp tác quốc tế. Tính đến thời điểm hiện tại, Việt Nam ít chịu áp lực bởi tình trạng lạm phát đang diễn ra trên toàn thế giới. Doanh thu ngành dịch vụ thực phẩm năm 2022 ước tính đạt 21,6 tỷ USD, tăng trưởng 55% so với cùng kỳ năm ngoái. Những hệ quả nghiêm trọng của việc không đảm bảo chất lượng ATTP sẽ gây thiệt hại lớn đến người dân, ảnh hưởng đến kinh tế, có thể kéo nền kinh tế nước ta đi xuống bên cạnh đó cịn có thể làm mất lòng tin của người tiêu dùng trong nước và ngồi nước, làm giảm uy tín của nước ta trên thị trường quốc tế.

<b>1.1.2. Khái niệm vi phạm hành chính và các hành vi vi phạm hành chính về an tồn thực phẩm </b>

<i>1.1.2.1. Khái niệm vi phạm hành chính về an tồn thực phẩm </i>

<i>Năm 2012, Luật XLVPHC năm 2012 (sửa đổi, bổ sung năm 2020) quy định: “Vi phạm hành chính là hành vi có lỗi do cá nhân, tổ chức thực hiện, vi phạm quy định của pháp luật về quản lý nhà nước mà không phải là tội phạm và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt vi phạm hành chính” </i><small>3</small><i>. Định nghĩa này đã bao gồm các dấu hiệu cần </i>

thiết của VPHC, đủ căn cứ để phân biệt VPHC với các vi phạm pháp luật khác<small>4</small>. Luật ATTP 2010 và Nghị định 115 (đã được sửa đổi, bổ sung) không đưa ra được định nghĩa chính thức VPHC về ATTP là gì mà chỉ có thể hiểu thơng qua gián tiếp định nghĩa về ATTP và VPHC. Chính vì vậy từ định nghĩa ATTP<small>5</small> của Luật ATTP 2010 (sửa đổi, bổ sung 2018) và định nghĩa VPHC của Luật XLVPHC năm 2012 (sửa đổi, bổ sung

<i>năm 2020), nhóm tác giả đề xuất định nghĩa VPHC về ATTP là: “Vi phạm hành chính về an tồn thực phẩm là những hành vi do cá nhân, tổ chức vi phạm một cách cố ý hoặc vô ý các quy định của pháp luật về quản lý nhà nước trong lĩnh vực an tồn thực phẩm mà khơng phải là tội phạm và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt hành chính”. </i>

Vì vậy, để xác định một hành vi vi phạm có phải là hành vi vi phạm về ATTP hay không cần xác định được các dấu hiệu pháp lý cơ bản để cấu thành VPHC vì VPHC trong ATTP là một lĩnh vực nhỏ trong VPHC vì thế các dấu hiệu cơ bản sau đây cũng cấu thành nên vi phạm quy định về an toàn thực phẩm:

<i><b>Thứ nhất, chủ thể VPHC: Chủ thể thực hiện là các tổ chức, cá nhân có năng lực </b></i>

chịu trách nhiệm hành chính theo đúng quy định của pháp luật. Về cá nhân được Luật

<i>XLVPHC 2012 (sửa đổi, bổ sung 2020) của Quốc hội, như “người từ đủ 14 tuổi đến </i>

<small>3Tại khoản 1 Điều 2 Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012 (sửa đổi, bổ sung 2020). </small>

<small>4</small><i><small>Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2017), Giáo trình Luật Hành chính Việt Nam, Nxb. Hồng Đức - </small></i>

<small>Hội Luật gia Việt Nam, tr. 556. </small>

<small>5Tại khoản 1 Điều 2 Luật An toàn thực phẩm 2010 (sửa đổi, bổ sung 2018). </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">

<i>dưới 16 tuổi bị xử phạt vi phạm hành chính về vi phạm hành chính do cố ý; người từ đủ 16 tuổi trở lên bị xử phạt vi phạm hành chính về mọi vi phạm hành chính”;…<small>6</small></i> Tương tự, về tổ chức được Luật XLVPHC 2012 (sửa đổi, bổ sung 2020) của Quốc hội<small>7</small> và tại Nghị định 118/2021/NĐ-CP ngày 23 tháng 12 năm 2021 quy định Chi tiết một số điều

<i>và biện pháp thi hành Luật XLVPHC của Chính phủ: “là pháp nhân theo quy định của pháp luật dân sự hoặc các tổ chức khác được thành lập theo quy định của pháp luật”;…<small>8</small></i>

Đối với cá nhân, tổ chức nước ngồi vẫn có thể là chủ thể VPHC trong lĩnh vực này trừ trường hợp điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác.

<i><b>Thứ hai, khách thể VPHC: là những quan hệ xã hội được các quy phạm luật hành </b></i>

chính bảo vệ bị hành vi VPHC xâm phạm<small>9</small><i>. Khách thể của VPHC về ATTP là xâm phạm </i>

đến trật tự quản lý của Nhà nước về vệ sinh an toàn thực phẩm.

<i>Thứ ba, mặt khách quan của VPHC: là những biểu hiện ra bên ngoài của VPHC </i>

mà bằng trực quan sinh động con người có thể nhận thức được. Bao gồm các dấu hiệu: hành vi trái pháp luật; hậu quả, thiệt hại gây ra cho xã hội; mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và hậu quả thiệt hại do hành vi đó gây ra cho xã hội; ngồi ra, cịn có thời gian, địa điểm, cơng cụ…<small> 10 </small>Bên cạnh đó, mặt khách quan của VPHC về ATTP ngồi hành vi, hậu quả... cịn có tiêu chuẩn do Chính phủ, Bộ Y tế ban hành (tiêu chuẩn HACCP, GMP, BRC, ISO, FSSC 22000<small>11</small>), vì vậy để xác định hành vi đã vi phạm các quy định của Nhà nước về ATTP cần phải căn cứ vào tiêu chuẩn vệ sinh an toàn đối với

<i>từng loại thực phẩm do Nhà nước quy định. </i>

<i><b>Cuối cùng, mặt chủ quan của VPHC: là những dấu hiệu bên trong thể hiện thái độ, </b></i>

trạng thái tâm lý của người vi phạm đối với hành vi trái pháp luật cũng như đối với hậu quả do hành vi đó gây ra<small>12</small>; gồm yếu tố lỗi, mục đích, động cơ. Lỗi là trạng thái tâm lý hay thái độ của chủ thể đối với hành vi vi phạm của mình và hậu quả do hành vi đó gây

<small>6Tại khoản 1 Điều 5 Luật XLVPHC 2012 (sửa đổi, bổ sung 2020). </small>

<small>7Tại khoản 10 Điều 2 Luật XLVPHC 2012 (sửa đổi, bổ sung 2020). </small>

<small>8Tại điểm a khoản 2 Điều 3 Nghị định 118/2021/NĐ-CP ngày 23 tháng 12 năm 2021 quy định Chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật XLVPHC của Chính phủ. </small>

<small>9</small><i><small>Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2017), Giáo trình Luật Hành chính Việt Nam, Nxb. Hồng Đức - </small></i>

<small>Hội Luật gia Việt Nam, tr. 566. </small>

<small>10</small><i><small>Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2017), Giáo trình Luật Hành chính Việt Nam, Nxb. Hồng Đức - </small></i>

<small>Hội Luật gia Việt Nam, tr. 563. </small>

<small>11“Các tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm trong ngành ẩm thực”, truy cập 07/03/2023 </small>

<small>12</small><i><small>Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2017), Giáo trình Luật Hành chính Việt Nam, Nxb. Hồng Đức - </small></i>

<small>Hội Luật gia Việt Nam, tr. 564. </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">

<i>ra, thể hiện dưới hai hình thức là cố ý hoặc vơ ý. Về mục đích là kết quả cuối cùng mà </i>

chủ thể đó mong muốn khi thực hiện hành vi trái pháp luật của mình và động cơ là động lực thúc đẩy chủ thể thực hiện hành vi trái pháp luật. Lỗi là dấu hiệu bắt buộc phải có; yếu tố mục đích, động cơ có thể có hoặc có thể không, tùy thuộc vào từng loại vi phạm hành chính.

<i>1.1.2.2 Các hành vi vi phạm hành chính về an toàn thực phẩm. </i>

Tại khoản 2 Điều 1 của Nghị định 115 (đã được sửa đổi, bổ sung) bao gồm<small>13</small>: vi phạm về điều kiện bảo đảm an toàn đối với sản phẩm, thực phẩm; thứ hai về điều kiện bảo đảm ATTP trong sản xuất, kinh doanh, cung cấp thực phẩm; thứ ba về điều kiện bảo đảm ATTP đối với thực phẩm nhập khẩu, xuất khẩu và vi phạm quy định khác về điều kiện bảo đảm ATTP trong sản xuất, kinh doanh, cung cấp thực phẩm; cuối cùng là về quảng cáo, thông tin, giáo dục, truyền thông về ATTP; kiểm nghiệm thực phẩm; phân tích nguy cơ, phịng ngừa, ngăn chặn và khắc phục sự cố về ATTP; truy xuất nguồn gốc, thu hồi và xử lý đối với thực phẩm khơng an tồn.

So với Nghị định 91/2012/NĐ-CP ngày 08 tháng 11 năm 2012 quy định XPVPHC về ATTP của Chính phủ (cũng như các nghị định khác quy định về XPVPHC đến thời điểm năm 2012), thì Nghị định 115/2018/NĐ-CP (đã được sửa đổi, bổ sung), đã giảm từ năm nhóm thành bốn nhóm hành vi chính trong XPVPHC về ATTP (từ 27 Điều còn 23 Điều của Luật hiện hành) đồng thời những thay đổi, bổ sung về thẩm quyền xử phạt của một số cơ quan chức năng có thẩm quyền trong XPVPHC về ATTP. Những việc này nhằm khắc phục những khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn thi hành pháp luật XLVPHC về ATTP, vừa tạo điều kiện thuận lợi nhất cho người có thẩm quyền trong XLVPHC, vừa bảo đảm quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của người dân, nâng cao hiệu quả trong quá trình thực hiện nhiệm vụ của Nhà nước đồng thời làm cho các VBQPPL liên quan đến lĩnh vực này có sự gần nhất với cuộc sống của người dân ở thời điểm hiện tại.

<b>1.2. Quy định pháp luật xử phạt vi phạm hành chính về an tồn thực phẩm 1.2.1. Khái niệm, đặc điểm xử phạt vi phạm hành chính về an toàn thực phẩm </b>

<i>1.2.1.1. Khái niệm xử phạt vi phạm hành chính về an tồn thực phẩm </i>

<i>Theo khoản 2 Điều 2 Luật XLVPHC 2012 (sửa đổi, bổ sung 2020): “Xử phạt vi phạm hành chính là việc người có thẩm quyền xử phạt áp dụng hình thức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả đối với cá nhân, tổ chức thực hiện hành vi vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính”. </i>

<i>Theo Từ điển Luật học thì xử phạt hành chính là “hoạt động cưỡng chế hành chính cụ thể mang tính quyền lực nhà nước phát sinh khi có vi phạm hành chính, biểu hiện ở </i>

<small>13Tại khoản 2 Điều 1 Nghị định 115 (đã được sửa đổi bổ sung). </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">

<i>việc áp dụng các chế tài hành chính do các chủ thể có thẩm quyền thực hiện theo quy định của pháp luật”<small>14</small> . </i>

Các VBQPPL quy định về xử phạt vi phạm hành chính về ATTP gồm: Nghị định số 178 và văn bản hiện nay đang có hiệu lực là Nghị định 115 (đã được sửa đổi, bổ sung). Tuy nhiên, các văn bản trên đều không quy định rõ ràng, cụ thể khái niệm như thế nào là XPVPHC về ATTP. Từ khái niệm XPVPHC nêu trên, nhóm tác giả đưa ra cách hiểu

<i>XPVPHC về ATTP như sau: “Xử phạt vi phạm hành chính về an tồn thực phẩm là việc người có thẩm quyền xử phạt áp dụng các hình thức xử phạt hoặc các biện pháp khắc phục hậu quả đối với cá nhân, tổ chức có hành vi vi phạm các quy tắc quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm theo quy định của pháp luật”. </i>

<i>1.2.1.2. Đặc điểm xử phạt vi phạm hành chính về an tồn thực phẩm </i>

Xử phạt vi phạm hành chính về an tồn thực phẩm có những đặc điểm như sau:

<i>+ Thứ nhất, xử phạt vi phạm hành chính về an toàn thực phẩm được áp dụng đối với cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật. Có nghĩa là vi </i>

phạm hành chính về an tồn thực phẩm là cơ sở để tiến hành hoạt động xử phạt vi phạm hành chính, nếu khơng có hành vi vi phạm về an tồn thực phẩm thì khơng đặt ra vấn đề xử phạt, điều này được thể hiện thông qua quy định tại điểm d khoản 1 Điều 3 Luật Xử

<i>lý vi phạm hành chính 2012 (sửa đổi, bổ sung 2020): “Chỉ xử phạt vi phạm hành chính khi có hành vi vi phạm hành chính do pháp luật quy định”. </i>

<i>+ Thứ hai, xử phạt hành chính được tiến hành bởi chủ thể có thẩm quyền theo quy định pháp luật xử phạt vi phạm hành chính nói chung và xử phạt vi phạm hành chính về an tồn thực phẩm nói riêng. Theo pháp luật hiện nay, những chủ thể có thẩm quyền </i>

XPVPHC về ATTP được quy định rất mở, tùy thuộc vào từng chủ thể khác nhau sẽ có những thẩm quyền nhất định trong việc áp dụng các hình thức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả đối với các hành vi vi phạm. Những chủ thể có thẩm quyền bao gồm: Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các cấp, Thanh tra chuyên ngành, Cảnh sát nhân dân, Cảnh sát biển và các chủ thể khác theo quy định của luật.<small>15</small> Việc quy định mở các chủ thể có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính về ATTP này là do các hành vi vi phạm hành chính về ATTP thường diễn ra với quy mô lớn, phạm vi rộng, nên yêu cầu cần phải có lực lượng chủ thể có thẩm quyền lớn có khả năng xử lý, ngăn chặn kịp thời các hành vi vi phạm trên phạm vi cả nước.

<i>+ Thứ ba, xử phạt vi phạm hành chính được tiến hành theo những nguyên tắc, trình tự, thủ tục nhất định. Những nguyên tắc, trình tự, thủ tục được quy định trong Luật Xử </i>

lý vi phạm hành chính 2012 (sửa đổi, bổ sung 2020) và các văn bản hướng dẫn thi hành.

<small>14</small><i><small>Bộ Tư pháp - Viện Khoa học pháp lý (2006), Từ điển Luật học, Nxb. Từ điển Bách khoa, Nxb. Tư pháp, tr. 875. </small></i>

<small>15Điều 35 Nghị định số 115 (đã được sửa đổi, bổ sung). </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">

Đây là căn cứ để xác định các cá nhân, tổ chức có hành vi vi phạm ở điều khoản nào, hình thức xử lý vi phạm ra sao, chủ thể nào có thẩm quyền ra quyết định xử phạt và quyết định xử phạt được đưa ra có thực hiện đúng theo trình tự, thủ tục luật định hay chưa; dựa vào các trình tự, thủ tục đã được quy định thống nhất làm căn cứ thực thi vừa tạo tính đồng bộ từ cơ quan cấp trên xuống cơ quan cấp dưới, vừa đảm bảo tính hiệu quả trong công tác thực thi xử phạt các hành vi VPHC về an toàn thực phẩm.

<i>+ Thứ tư, kết quả của hoạt động xử phạt vi phạm hành chính thể hiện ở quyết định xử phạt hành chính. Các quyết định xử phạt hành chính đều được thể hiện dưới hình </i>

thức bằng văn bản, các văn bản này ghi nhận các hình thức, biện pháp xử phạt được áp dụng đối với các cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính nói chung, vi phạm hành chính về

<b>an tồn thực phẩm nói riêng. </b>

<b>1.2.2. Ngun tắc xử phạt vi phạm hành chính về an tồn thực phẩm </b>

Hiện nay, các Nghị định về XPVPHC về ATTP không quy định cụ thể về nguyên tắc XPVPHC về an tồn thực phẩm. Do đó, việc XPVPHC về ATTP được căn cứ nguyên tắc xử phạt quy định tại khoản 1 Điều 3 Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012 (sửa đổi, bổ sung 2020), cụ thể:

<i>Thứ nhất, mọi VPHC phải được phát hiện, ngăn chặn kịp thời và phải bị xử lý nghiêm minh, mọi hậu quả do VPHC gây ra phải được khắc phục theo đúng quy định của pháp luật. Nguyên tắc này có ý nghĩa nhằm đảm bảo đạt hiệu quả trong các hoạt </i>

động đấu tranh phòng chống hành vi VPHC về ATTP. Khi xảy ra vi phạm yêu cầu các cơ quan chức năng có thẩm quyền phải nhanh chóng phát hiện, ngăn chặn kịp thời và xử lý nghiêm minh, triệt để. Ngoài ra, việc khắc phục hậu quả từ hành vi vi phạm cần được đảm bảo, tránh tình trạng đùn đẩy, thiếu trách nhiệm từ các đối tượng có trách nhiệm phải sửa chữa, khắc phục sai phạm đã gây ra.

<i>Thứ hai, việc XPVPHC được tiến hành nhanh chóng, cơng khai, khách quan, đúng thẩm quyền, bảo đảm công bằng, đúng quy định của pháp luật. Nguyên tắc đảm bảo cho </i>

hoạt động xử phạt hành chính về ATTP diễn ra xun suốt nhanh chóng, kịp thời, không mất quá nhiều thời gian mà vẫn đảm bảo về độ chính xác, đúng pháp luật, đảm bảo quyền lợi của người bị hại, xử đúng người, đúng vi phạm cũng như thể hiện được vai trò của pháp luật, của Nhà nước trong việc đối xử công bằng, bình đẳng giữa mọi người với nhau. Bên cạnh đó, việc xử phạt cơng khai, khách quan sẽ nâng cao trách nhiệm của cơ quan quản lý hành chính Nhà nước, tránh sự lạm quyền, xâm phạm lợi ích của người khác và là căn cứ để tiến hành tố cáo, khiếu nại cơ quan hành chính nếu vượt quá thẩm quyền. Ngoài ra, xử phạt phải đúng thẩm quyền bảo đảm công bằng, đúng quy định của pháp luật. Việc này sẽ tạo nên sự hài hòa, tránh tình trạng chồng chéo đồng thời hạn chế

</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">

việc bỏ sót hành vi vi phạm về ATTP đảm bảo các đối tượng vi phạm đều bị xử phạt thích đáng theo đúng với quy định của pháp luật.

<i>Thứ ba, việc XPVPHC phải căn cứ vào tính chất, mức độ, hậu quả vi phạm, đối tượng vi phạm và tình tiết giảm nhẹ, tình tiết tăng nặng. Việc căn cứ vào tính chất, mức </i>

độ, hậu quả vi phạm, đối tượng vi phạm và tình tiết giảm nhẹ, tình tiết tăng nặng sẽ bảo đảm hình thức, mức xử phạt hoàn toàn tương xứng với mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi vi phạm về ATTP. Đồng thời, việc quy định nguyên tắc này cịn thể hiện được tính linh hoạt, nhân đạo, giáo dục con người trong XPVPHC về ATTP của Nhà nước nếu như chủ thể vi phạm có ý định sửa chữa lỗi lầm cũng như có hồn cảnh đặc biệt, khó khăn.

<i>Thứ tư, chỉ XPVPHC khi có hành vi VPHC do pháp luật quy định. Một hành vi VPHC chỉ bị xử phạt một lần. Nhiều người cùng thực hiện một hành vi VPHC thì mỗi người vi phạm đều bị xử phạt về hành vi VPHC đó. Một người thực hiện nhiều hành vi VPHC hoặc VPHC nhiều lần thì bị xử phạt về từng hành vi vi phạm, trừ trường hợp hành vi VPHC nhiều lần được Chính phủ quy định là tình tiết tăng nặng. Nguyên tắc </i>

này đảm bảo việc cơ quan có thẩm quyền XPVPHC về ATTP xử đúng người, đúng tội, đúng thẩm quyền, công bằng, khách quan. Trong trường hợp pháp luật quy định một hành vi là VPHC thì mỗi lần cá nhân, tổ chức thực hiện hành vi đó sẽ chỉ bị xử phạt một lần về hành vi VPHC đã thực hiện được. Trường hợp người có thẩm quyền phát hiện cá nhân, tổ chức thực hiện nhiều VPHC hay nhiều cá nhân, tổ chức cùng thực hiện một vi phạm thì việc xử phạt mỗi cá nhân, tổ chức về từng hành vi họ vi phạm trong một lần xử phạt cũng vẫn là một VPHC chỉ bị xử phạt một lần.<small>16</small>

<i>Thứ năm, người có thẩm quyền xử phạt có trách nhiệm chứng minh VPHC. Cá nhân, tổ chức bị xử phạt có quyền tự mình hoặc thơng qua người đại diện hợp pháp chứng minh mình khơng VPHC. Để thực hiện ngun tắc này, yêu cầu người có thẩm </i>

quyền phải chứng minh được hành vi VPHC của đối tượng vi phạm để tránh xảy ra sai sót, tránh trường hợp khơng có đủ thông tin cần thiết hoặc thông tin không rõ ràng, chính xác dẫn đến kết luận sai và ra quyết định xử phạt sai. Đồng thời, nguyên tắc cũng bảo đảm được quyền, lợi ích hợp pháp của người bị xử phạt qua quy định về quyền giải trình<small>17</small> của người bị XPVPHC.

<i>Thứ sáu, đối với cùng một hành vi VPHC thì mức phạt tiền đối với tổ chức bằng 02 lần mức phạt tiền đối với cá nhân. Khi thực hiện hành vi vi phạm về ATTP có tất cả </i>

mọi tình tiết giống nhau thì tổ chức vi phạm sẽ bị phạt tiền với mức tiền phạt cao gấp

<small>16Bùi Thị Đào, Hoàng Thị Lan Phương (2020), Nguyên tắc xử phạt vi phạm hành chính theo pháp luật hiện hành, </small>

<i><small>Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 23 (399), tháng 12/2019. </small></i>

<small>17Quy định tại Điều 61 Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012 (sửa đổi, bổ sung 2020). </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">

đôi so với mức tiền phạt đối với cá nhân. Quy định này thể hiện được mục đích răn đe, trừng trị, giáo dục, phịng ngừa đối với cả tổ chức và cá nhân có những hành vi vi phạm

<b>về ATTP. </b>

<b>1.2.3. Hình thức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả trong xử phạt vi phạm hành chính về an tồn thực phẩm </b>

<i>1.2.3.1. Hình thức xử phạt a. Hình thức xử phạt chính </i>

Nghị định 115 (đã được sửa đổi, bổ sung) có quy định về hình thức xử phạt khơng cịn hình thức xử phạt cảnh cáo, thay vào đó hình thức phạt tiền trở thành hình thức xử phạt chính. Quy định này đã khắc phục được những vướng mắc, bất cập ở Nghị định 178 mà hình thức xử phạt cảnh cáo chưa giải quyết được cũng như tạo tính răn đe, mang lại hiệu quả cao hơn trong cơng tác quản lý ATTP. Ngồi ra, việc tăng mức xử phạt một số vi phạm trong XPVPHC về ATTP, sửa đổi, bổ sung một số hành vi mô tả rõ ràng hơn, cập nhật phù hợp với các văn bản quy phạm pháp luật. Chẳng hạn, tại khoản 5 Điều 15<small>18</small>

Nghị định 115 (đã được sửa đổi, bổ sung) đã mô tả rõ ràng hơn về những trường hợp

<i>người mắc bệnh không được trực tiếp chế biến thức ăn, thay thế cụm từ “sử dụng người đang mắc các bệnh mà theo quy định của pháp luật không được tham gia trực tiếp kinh doanh dịch vụ ăn uống” bằng cụm từ “sử dụng người trực tiếp chế biến thức ăn mà đang mắc bệnh:...”. </i>

Hiện nay, theo quy định tại Nghị định 115 (đã được sửa đổi, bổ sung) thì mức phạt tiền tối đa đối với hành vi VPHC về ATTP là 100 triệu đồng đối với cá nhân, 200 triệu đồng đối với tổ chức trừ các trường hợp quy định tại các khoản 1 và 5 Điều 4, khoản 6 Điều 5, khoản 5 Điều 6, khoản 7 Điều 11, các khoản 1 và 9 Điều 22, khoản 6 Điều 26 Nghị định 115 (đã được sửa đổi, bổ sung). Trường hợp hành vi vi phạm quy định tại khoản 1 Điều 4, khoản 1 Điều 22 và khoản 6 Điều 26 Nghị định 115 (đã được sửa đổi, bổ sung) nếu áp dụng mức tiền phạt cao nhất theo quy định tại khoản 1 Điều 23 của Luật XLVPHC 2012 (sửa đổi, bổ sung 2020) mà vẫn còn thấp hơn 07 lần giá trị thực phẩm vi phạm thì mức phạt được áp dụng không quá 07 lần giá trị thực phẩm vi phạm; tiền thu được do vi phạm mà có bị tịch thu theo quy định của pháp luật<small>19</small>.

<i>b. Hình thức xử phạt bổ sung </i>

Ngồi hình thức xử phạt chính, pháp luật cịn quy định thêm hình thức xử phạt bổ sung quy định tại khoản 2 Điều 2 Nghị định 115/2018/NĐ-CP của Chính phủ ngày 04 tháng 9 năm 2018 quy định XPVPHC về ATTP như: Tước quyền sử dụng Giấy chứng

<small>18Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 15.000.000 đồng đối với hành vi sử dụng người trực tiếp chế biến thức ăn mà đang bị mắc bệnh: tả, lỵ, thương hàn, viêm gan A, E, viêm da nhiễm trùng, lao phổi, tiêu chảy cấp. </small>

<small>19Quy định tại khoản 3 Điều 6 Luật An toàn thực phẩm 2010 (sửa đổi, bổ sung 2018). </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">

nhận cơ sở đủ điều kiện an toàn thực phẩm, Giấy tiếp nhận đăng ký bản công bố sản phẩm; đình chỉ hoạt động có thời hạn được thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 25 Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012 (sửa đổi, bổ sung 2020). Sở dĩ có quy định các hình thức xử phạt bổ sung là nhằm xử lý triệt để và ngăn chặn những hậu quả có thể xảy ra do hành vi VPHC về ATTP gây ra. Ngoài ra, Nghị định 124 đã bổ sung thêm khoản 4 tại Điều 2 khi áp dụng hình thức xử phạt bổ sung là đình chỉ hoạt động có thời hạn, người có thẩm quyền ra quyết định XPVPHC có trách nhiệm gửi văn bản thơng báo cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền để phối hợp theo dõi, kiểm tra, tổng hợp báo cáo khi hết thời hạn thi hành quyết định xử phạt. Do đó, khi áp dụng các hình thức xử phạt cần căn cứ vào tính chất, mức độ vi phạm để đảm bảo xử phạt một cách cơng bằng, nhân văn,

<b>đồng thời đảm bảo tính hiệu quả trong việc ngăn chặn hành vi vi phạm về ATTP. </b>

<i>1.2.3.2. Biện pháp khắc phục hậu quả trong xử phạt vi phạm hành chính về an tồn thực phẩm </i>

Bên cạnh việc áp dụng các hình thức xử phạt chính, hình thức xử phạt bổ sung pháp luật còn quy định thêm các biện pháp khắc phục hậu quả trong xử phạt VPHC về ATTP quy định tại khoản 3 Điều 2 Nghị định 115/2018/NĐ-CP của Chính phủ ngày 04 tháng 9 năm 2018 quy định XPVPHC về ATTP như: buộc tái xuất thực phẩm, phụ gia thực phẩm, chất hỗ trợ chế biến thực phẩm, dụng cụ, vật liệu bao gói, chứa đựng tiếp xúc trực tiếp với thực phẩm; buộc tiêu hủy thực phẩm, phụ gia thực phẩm, chất hỗ trợ chế biến thực phẩm, dụng cụ, vật liệu bao gói, chứa đựng tiếp xúc trực tiếp với thực phẩm, nguyên liệu, chất, hóa chất, kháng sinh, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, tài liệu, ấn phẩm thông tin, giáo dục truyền thông về an tồn thực phẩm có nội dung vi phạm; tang vật vi phạm, lô hàng thủy sản không bảo đảm an tồn thực phẩm; buộc cải chính thơng tin sai sự thật hoặc gây nhầm lẫn; buộc thu hồi thực phẩm, phụ gia thực phẩm, chất hỗ trợ chế biến thực phẩm, dụng cụ, vật liệu bao gói, chứa đựng tiếp xúc trực tiếp với thực phẩm vi phạm, tài liệu, ấn phẩm đã phát hành; buộc thay đổi mục đích sử dụng hoặc tái chế thực phẩm, phụ gia thực phẩm, chất hỗ trợ chế biến thực phẩm, dụng cụ, vật liệu bao gói, chứa đựng tiếp xúc trực tiếp với thực phẩm vi phạm; buộc thu hồi bản tự công bố sản phẩm; buộc tháo gỡ, tháo dỡ hoặc xóa quảng cáo vi phạm; buộc chịu mọi chi phí cho việc xử lý ngộ độc thực phẩm, khám, điều trị người bị ngộ độc thực phẩm; buộc ngừng việc sử dụng phương tiện vận chuyển; buộc hủy bỏ kết quả kiểm nghiệm, thông báo kết quả xác nhận thực phẩm đạt yêu cầu nhập khẩu; buộc nộp lại số tiền bằng trị giá tang vật vi phạm trong trường hợp tang vật vi phạm khơng cịn. Ngồi ra, Nghị định 124 đã bổ sung thêm biện pháp buộc nộp lại giấy tờ, tài liệu đã bị sửa chữa, tẩy xóa tại điểm m khoản 3 Điều 2 và khoản 4 Điều 2 khi áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả là buộc nộp lại giấy tờ, tài liệu đã bị sửa chữa, tẩy xóa, người ra quyết định XPVPHC có trách

</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">

nhiệm gửi văn bản thơng báo cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp hoặc tiếp nhận để thu hồi. Với những quy định trên Nghị định quy định XPVPHC về ATTP đã và đang giúp Nhà nước, cơ quan chuyên ngành dễ dàng kiểm sốt tốt hơn về tình trạng xuống

<b>cấp của cơ sở vật chất và việc mất vệ sinh ATTP của nhiều cơ sở hiện nay. </b>

<b>1.2.4. Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính về an toàn thực phẩm </b>

Thẩm quyền XPVPHC được hiểu là phạm vi quyền lực nhà nước được giao cho cá nhân, tổ chức để áp dụng các hình thức xử phạt hành chính<small>20</small>. Thẩm quyền XPVPHC về an tồn thực phẩm được quy định tại chương III của Nghị định 115 (đã được sửa đổi, bổ sung).

<b>Thẩm quyền của Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp<small>21</small>: </b>

<i>Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã: có quyền phạt tiền đến 5.000.000 đồng đối với </i>

cá nhân và phạt tiền đến 10.000.000 đồng đối với tổ chức; tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính có giá trị khơng vượt quá 10.000.000 đồng đối với cá nhân và 20.000.000 đồng đối với tổ chức và áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả quy định tại điểm b khoản 3 Điều 2 Nghị định 115 (đã được sửa đổi, bổ sung).

<i>Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện: có quyền phạt tiền đến 50.000.000 đồng đối </i>

với cá nhân và phạt tiền đến 100.000.000 đồng đối với tổ chức; tước quyền sử dụng Giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện an toàn thực phẩm, Giấy tiếp nhận đăng ký bản cơng bố sản phẩm có thời hạn hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn; tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính và áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả quy định tại khoản 3 Điều 2 Nghị định 115 (đã được sửa đổi, bổ sung) trừ biện pháp khắc phục hậu quả quy định tại điểm a và điểm m khoản 3 Điều này.

<i>Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh: có quyền phạt tiền đến mức tối đa theo quy </i>

định tại Nghị định này; tước quyền sử dụng Giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện an toàn thực phẩm, Giấy tiếp nhận đăng ký bản công bố sản phẩm có thời hạn hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn; tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính và áp dụng tất cả các biện pháp khắc phục hậu quả quy định tại khoản 3 Điều 2 Nghị định 115 (đã được sửa đổi, bổ sung).

<b>Thẩm quyền của Thanh tra<small>22</small>: </b>

Thanh tra viên, người được giao thực hiện nhiệm vụ chuyên ngành về an toàn thực phẩm đang thi hành cơng vụ có quyền: phạt tiền đến 500.000 đồng đối với cá nhân và phạt tiền đến 1.000.000 đồng đối với tổ chức; tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm

<small>20</small><i><small>Trần Thị Hiền, “Hoàn thiện pháp luật về hình thức, thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính”, Tạp chí luật học, số </small></i>

<small>11/2011. </small>

<small>21Điều 28 Nghị định số 115/2018/NĐ-CP (đã được sửa đổi, bổ sung). </small>

<small>22Điều 29 Nghị định số 115/2018/NĐ-CP (đã được sửa đổi, bổ sung). </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">

hành chính có giá trị không vượt quá 1.000.000 đồng đối với cá nhân và 2.000.000 đồng đối với tổ chức; áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả: buộc tiêu hủy thực phẩm, phụ gia thực phẩm, chất hỗ trợ chế biến thực phẩm, dụng cụ, vật liệu bao gói, chứa đựng tiếp xúc trực tiếp với thực phẩm, nguyên liệu, chất, hóa chất, kháng sinh, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật; tài liệu, ấn phẩm thông tin, giáo dục truyền thông về an tồn thực phẩm có nội dung vi phạm; tang vật vi phạm; lô hàng thủy sản không bảo đảm an toàn thực phẩm.

Chánh thanh tra cấp sở, Chi cục trưởng Chi cục, Trưởng đoàn thanh tra chuyên ngành cấp sở, Trưởng đoàn thanh tra chuyên ngành của Tổng cục, Cục có quyền: phạt tiền đến 50.000.000 đồng đối với cá nhân và phạt tiền đến 100.000.000 đồng đối với tổ chức; tước quyền sử dụng Giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện an toàn thực phẩm Giấy tiếp nhận đăng ký bản công bố sản phẩm có thời hạn hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn; tịch thu tang vật, phương tiện VPHC có giá trị không vượt quá 100.000.000 đồng đối với cá nhân và 200.000.000 đồng đối với tổ chức và áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả quy định tại khoản 3 Điều 2 Nghị định 115 (đã được sửa đổi, bổ sung).

Chánh Thanh tra Bộ, Tổng cục trưởng Tổng cục Thủy sản, Cục trưởng cục có quyền: phạt tiền đến mức tối đa theo quy định tại Nghị định này; tước quyền sử dụng Giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện an toàn thực phẩm Giấy tiếp nhận đăng ký bản công bố sản phẩm có thời hạn hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn; tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính; áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả quy định tại khoản 3 Điều 2 Nghị định 115 (đã được sửa đổi, bổ sung).

Trưởng đoàn thanh tra chuyên ngành cấp bộ của Bộ Y tế, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Công Thương, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Bộ Thơng tin và Truyền thơng có quyền: phạt tiền đến 70.000.000 đồng đối với cá nhân và phạt tiền đến 140.000.000 đồng đối với tổ chức; tước quyền sử dụng Giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện an toàn thực phẩm Giấy tiếp nhận đăng ký bản công bố sản phẩm có thời hạn hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn; tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính có giá trị khơng vượt q 140.000.000 đồng đối với cá nhân và 280.000.000 đồng đối với tổ chức; áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả quy định tại khoản 3 Điều 2 của Nghị định 115 (đã được sửa đổi, bổ sung).

<b>Thẩm quyền của Quản lý thị trường<small>23</small></b>

Kiểm sốt viên thị trường đang thi hành cơng vụ có quyền: phạt tiền đến 500.000 đồng đối với cá nhân và 1.000.000 đồng đối với tổ chức. Đội trưởng Đội Quản lý thị trường; Trưởng phòng Nghiệp vụ thuộc Cục Nghiệp vụ Quản lý thị trường có quyền: phạt tiền đến 25.000.000 đồng đối với cá nhân và phạt tiền đến 50.000.000 đồng đối với

<small>23Điều 34 Nghị định số 115/2018/NĐ-CP (đã được sửa đổi, bổ sung). </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">

tổ chức; tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính có giá trị khơng vượt q 50.000.000 đồng đối với cá nhân và 100.000.000 đồng đối với tổ chức; áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả quy định tại các điểm b, c, d, đ, e, g, h, i, k và l khoản 3 Điều 2 của Nghị định 115 (đã được sửa đổi, bổ sung).

Cục trưởng Cục Quản lý thị trường cấp tỉnh, Cục trưởng Cục Nghiệp vụ quản lý thị trường thuộc Tổng cục Quản lý thị trường có quyền: phạt tiền đến 50.000.000 đồng đối với cá nhân và phạt tiền đến 100.000.000 đồng đối với tổ chức; tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính; tước quyền sử dụng Giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện an tồn thực phẩm Giấy tiếp nhận đăng ký bản cơng bố sản phẩm có thời hạn hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn; áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả quy định tại khoản

<i><b>3 Điều 2 Nghị định 115 (đã được sửa đổi, bổ sung). </b></i>

Tổng Cục trưởng Tổng cục Quản lý thị trường có quyền: phạt tiền đến mức tối đa theo quy định tại Nghị định 115 (đã được sửa đổi, bổ sung); tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính; tước quyền sử dụng Giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện an toàn thực phẩm, Giấy tiếp nhận đăng ký bản cơng bố sản phẩm có thời hạn hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn và áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả quy định tại khoản 3 Điều 2 Nghị định này.

Bên cạnh các chủ thể chính trên cịn các chủ thể khác được luật hành chính về an tồn thực phẩm quy định là có thẩm quyền xử phạt như: Công an nhân dân<small>24</small>, Bộ đội biên phòng<small>25</small>, Cảnh sát biển<small>26</small>, Hải quan<small>27</small> trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ được giao mà phát hiện các hành vi vi phạm hành chính về an tồn thực phẩm thuộc lĩnh vực hoặc địa bàn quản lý của mình thì cũng có thẩm quyền xử phạt. Việc bổ sung thêm 86 chức danh có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính (thuộc Thanh tra, Cơng an nhân dân, Bộ đội biên phòng, Cảnh sát biển, Hải quan, Quản lý thị trường) và phân định thẩm quyền XPVPHC trong Nghị định 124 so với Nghị định 115 (đã được sửa đổi, bổ sung) phù hợp với Luật XLVPHC 2012 (sửa đổi, bổ sung 2020) và phạm vi quản lý ATTP đã giúp tăng cường quyền hạn, trách nhiệm và đồng nhất hóa quy trình XLVPHC, đồng thời nâng cao hiệu quả giám sát và kiểm soát vi phạm pháp luật, đảm bảo tính phù hợp với yêu cầu quản lý nhà nước và khắc phục tình trạng tồn đọng cũng như không xử phạt kịp thời các vi phạm. Thực tế cho thấy, việc phát hiện nhiều hành vi vi phạm nhưng khơng có chức danh có thẩm quyền xử phạt gây khó khăn cho chủ thể quản lý trong việc xử lý vi phạm và phải tố cáo hoặc chờ người có thẩm quyền xử lý. Điều này dẫn đến sự

<small>24Điều 30 Nghị định số 115/2018/NĐ-CP (đã được sửa đổi, bổ sung). </small>

<small>25Điều 31 Nghị định số 115/2018/NĐ-CP (đã được sửa đổi, bổ sung). </small>

<small>26Điều 32 Nghị định số 115/2018/NĐ-CP (đã được sửa đổi, bổ sung). </small>

<small>27Điều 33 Nghị định số 115/2018/NĐ-CP (đã được sửa đổi, bổ sung). </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">

trì hỗn trong xử lý vi phạm và tiềm ẩn các hậu quả khác như tăng cường hành vi vi phạm hoặc mất lòng tin của nhân dân với chính quyền. Bằng việc gia tăng số lượng chức danh XPVPHC, việc xử lý các vi phạm sẽ nhanh chóng, kịp thời và tuân thủ theo quy định. Điều này đảm bảo rằng các đối tượng vi phạm khơng có cơ hội trốn tránh trách nhiệm pháp lý. Ngoài ra, việc gia tăng số lượng chức danh này cũng đảm bảo tính cơng bằng và minh bạch trong việc xử lý vi phạm, làm giảm thời gian và sự trì trệ trong quá trình xử lý vi phạm. Góp phần nâng cao niềm tin của cơng dân và tạo điều kiện thuận lợi hơn cho quá trình quản lý và xử lý vi phạm.

<b>1.2.5. Thủ tục xử phạt vi phạm hành chính về an tồn thực phẩm </b>

Để đảm bảo được tính thống nhất, cũng như giúp cho hoạt động xử phạt diễn ra một cách nhanh chóng, chính xác, địi hỏi pháp luật hành chính về an tồn thực phẩm quy định những trình tự, thủ tục một cách rõ ràng.

<b>Thủ tục xử phạt vi phạm hành chính khơng lập biên bản: </b>

Theo Điều 56 Luật XLVPHC 2012 (sửa đổi, bổ sung 2020), thủ tục XPVPHC

<i>không lập biên bản được áp dụng “Trong trường hợp xử phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền đến 250.000 đồng đối với cá nhân, 500.000 đồng đối với tổ chức và người có thẩm quyền xử phạt phải ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính tại chỗ. Trường hợp vi phạm hành chính được phát hiện nhờ sử dụng phương tiện, thiết bị kỹ thuật, nghiệp vụ thì phải lập biên bản”. Với mức phạt đến 250.000 đồng đối với cá nhân, 500.000 đồng đối với </i>

tổ chức thì thơng thường các hành vi VPHC về ATTP áp dụng thủ tục xử phạt vi phạm hành chính khơng lập biên bản là những hành vi vi phạm ở mức độ nhỏ, rõ ràng, khơng có tình tiết phức tạp. Thủ tục này áp dụng giúp cho quá trình xử lý vụ việc diễn ra nhanh chóng hơn. Tuy nhiên, với mức phạt tiền như trên thì phần lớn hành vi VPHC hiện nay sẽ khơng áp dụng được vì thế vơ tình làm mất đi tác dụng của thủ tục xử phạt vi phạm hành chính khơng lập biên bản.

Việc XPVPHC không phải lập biên bản trừ trường hợp VPHC được phát hiện nhờ sử dụng phương tiện, thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ. Quyết định XPVPHC tại chỗ phải ghi rõ ngày, tháng, năm ra quyết định; họ, tên, địa chỉ của cá nhân vi phạm hoặc tên, địa chỉ của tổ chức vi phạm; hành vi vi phạm; địa điểm xảy ra vi phạm; chứng cứ và tình tiết liên quan đến việc giải quyết vi phạm; họ, tên, chức vụ của người ra quyết định xử phạt; điều, khoản của văn bản pháp luật được áp dụng. Trường hợp phạt tiền thì trong quyết định phải ghi rõ mức tiền phạt. Đồng thời, đối với hành vi vi phạm bị áp dụng hình thức phạt tiền, chủ thể vi phạm có thể nộp tiền tại chỗ cho người có thẩm quyền xử phạt và nhận biên lai thu tiền, nếu khơng thì nộp trực tiếp tại cơ quan thu tiền phạt theo quyết định của người có thẩm quyền.

</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">

<b>Thủ tục lập biên bản<small>28 </small></b>

Trường hợp khi phát hiện vi phạm hành chính thuộc lĩnh vực quản lý của mình, người có thẩm quyền đang thi hành công vụ phải kịp thời lập biên bản vi phạm hành chính, trừ trường hợp xử phạt không lập biên bản. Với trường hợp vi phạm hành chính xảy ra trên tàu bay, tàu biển, tàu hỏa thì người chỉ huy tàu bay, thuyền trưởng, trưởng tàu có trách nhiệm tổ chức lập biên bản và chuyển ngay cho người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính khi tàu bay, tàu biển, tàu hỏa về đến sân bay, bến cảng, nhà ga. Biên bản vi phạm hành chính phải được lập tại nơi xảy ra hành vi vi phạm hành chính. Trường hợp biên bản VPHC được lập tại trụ sở cơ quan của người có thẩm quyền lập biên bản hoặc địa điểm khác thì phải ghi rõ lý do vào biên bản.

Biên bản vi phạm hành chính phải ghi rõ ngày, tháng, năm, địa điểm lập biên bản; họ, tên, chức vụ người lập biên bản; họ, tên, địa chỉ, nghề nghiệp của người vi phạm hoặc tên, địa chỉ của tổ chức vi phạm; giờ, ngày, tháng, năm, địa điểm xảy ra vi phạm; hành vi vi phạm; biện pháp ngăn chặn VPHC và bảo đảm việc xử lý; tình trạng tang vật, phương tiện bị tạm giữ; lời khai của người vi phạm hoặc đại diện tổ chức vi phạm; nếu có người chứng kiến, người bị thiệt hại hoặc đại diện tổ chức bị thiệt hại thì phải ghi rõ họ, tên, địa chỉ, lời khai của họ; quyền và thời hạn giải trình về vi phạm hành chính của người vi phạm hoặc đại diện của tổ chức vi phạm; cơ quan tiếp nhận giải trình.

Trường hợp người vi phạm, đại diện tổ chức vi phạm khơng ký vào biên bản thì biên bản phải có chữ ký của đại diện chính quyền cấp xã nơi xảy ra vi phạm hoặc của ít nhất 01 người chứng kiến xác nhận việc cá nhân, tổ chức vi phạm khơng ký vào biên bản; trường hợp khơng có chữ ký của đại diện chính quyền cấp xã hoặc của người chứng kiến thì phải ghi rõ lý do vào biên bản.

Biên bản vi phạm hành chính phải được lập thành ít nhất 02 bản, phải được người lập biên bản và người vi phạm hoặc đại diện tổ chức vi phạm ký, trừ trường hợp biên bản được lập, gửi bằng phương thức điện tử đối với trường hợp cơ quan của người có thẩm quyền xử phạt, cá nhân, tổ chức vi phạm đáp ứng điều kiện về cơ sở hạ tầng, kỹ thuật, thông tin. Biên bản vi phạm hành chính lập xong phải được giao cho cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính 01 bản; trường hợp vi phạm hành chính khơng thuộc thẩm quyền xử phạt của người lập biên bản thì biên bản và các tài liệu khác phải được chuyển cho người có thẩm quyền xử phạt trong thời hạn 24 giờ kể từ khi lập biên bản, trừ trường hợp biên bản vi phạm hành chính được lập trên tàu bay, tàu biển, tàu hỏa.

Biên bản VPHC là văn bản có giá trị pháp lý quan trọng trong giai đoạn này, là căn cứ ra quyết định XPVPHC, là chứng cứ để cho thấy việc vi phạm hành chính xảy ra

<small>28 Điều 57, Điều 58 Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012 (sửa đổi, bổ sung 2020). </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">

để từ đó người có thẩm quyền ra quyết định xử phạt nên biên bản vi phạm hành chính phải được lập đúng nội dung, hình thức, thủ tục theo quy định của Luật.

<b>1.3. Kinh nghiệm về xử phạt vi phạm hành chính về an tồn vệ sinh thực phẩm ở một số quốc gia </b>

<b>1.3.1. Kinh nghiệm của Singapore </b>

Hiện nay, Singapore đã ban hành nhiều văn bản pháp luật quy định chặt chẽ về ATTP, điển hình là Đạo luật Kinh doanh Thực phẩm (Sale of Food Act)<small>29</small>, Quy định về thực phẩm (Food Regulations)<small>30</small>, Quy định về môi trường, sức khỏe cộng đồng (Environmental Public Health Food Hygiene Regulations)<small>31</small>,… đảm bảo cho việc quản lý, giám sát về ATTP và nông sản nhập khẩu. Tất cả thực phẩm nhập khẩu và sản xuất trong nước đều phải tuân thủ các yêu cầu hiện hành trong đạo luật<small>32</small>. Theo Điều 49, Đạo luật Kinh doanh Thực phẩm, việc không tuân thủ bất kỳ quy định nào trong Đạo luật là một hành vi vi phạm pháp luật và người đó sẽ phải chịu mức phạt lên tới $5.000<small>33</small>. Trong trường hợp bị kết án lần thứ hai trở đi, mức phạt lên tới $10.000<small>34</small>, phạt tù đến ba tháng, hoặc cả hai<small>35</small>.

Các hoạt động thương mại liên quan tới thực phẩm tại Singapore đều đặt dưới sự quản lý của cơ quan Thực phẩm Singapore (Singapore Food Agency)<small>36</small> trực thuộc Bộ Bền vững và Môi trường (Ministry of Sustainability and the Environment) đảm bảo các tiêu chuẩn về ATTP được tuân thủ một cách nghiêm ngặt. Chính phủ Singapore đặc biệt mạnh tay trong việc xử phạt các hành vi vi phạm ATTP , không một trường hợp nào được “thông cảm”. Chẳng hạn, vào tháng 9/2022, trong một cuộc kiểm tra, nhân viên của Cơ quan Thực phẩm Singapore đã tìm thấy 1.585 kg (3.500 pound) thịt và hải sản trong một kho lạnh không có giấy phép tại Atlantic Supplies and Trading. Sau đó, Atlantic Supplies and Trading đã bị tòa án phạt $3.500<small>37</small>, giám đốc của công ty cũng bị phạt số tiền tương tự vì khơng ngăn chặn được hành vi vi phạm. Các sản phẩm, bao gồm

<small>29Singapore Statutes Online, Sale of Food Act 1973, quy định chi tiết tại: </small>

<small>30Singapore Statutes Online, Food Regulations, quy định chi tiết tại: RG1?DocDate=20211230&ValidDate=20220731. </small>

<small> Statutes Online, Environmental Public Health Act 1987, quy định chi tiết tại: </small>

<small>32The Global Food Donation Policy Atlas, “Singapore Legal Guide Food Donation Law and Policy (2021)”, tr.5, truy cập ngày 23/7/2023. </small>

<small>33 Quy đổi ra VND ≈ 118.475.000 đồng, cập nhật tiền tệ thị trường 29/7/2023. </small>

<small>34 Quy đổi ra VND ≈ 236.950.000 đồng, cập nhật tiền tệ thị trường 29/7/2023. </small>

<small>35 Sale of Food Act, 1973, Article 49. </small>

<small>36 “What We Do”, truy cập ngày 18/7/2023. </small>

<small>37 Quy đổi ra VND ≈ 82.932.500 đồng, cập nhật tiền tệ thị trường 29/7/2023. </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">

thịt gà và cá đều bị tịch thu<small>38</small>. Ngồi ra, tại Singapore các lớp tìm hiểu các quy định về vệ sinh ATTP được tổ chức thường xuyên tại các địa phương, người bán kể cả là xe bán thực phẩm lưu động hay các cơ sở nhỏ lẻ đều phải học qua lớp này trước khi mở quán. Đối với mặt hàng tươi sống đã qua chế biến thì cần đăng ký với Cục Thú y và nông phẩm Singapore và Hải quan trước khi mở cơ sở kinh doanh. Nếu vi phạm các quy định về ATTP sẽ bị xử phạt<small>39</small>. Đồng thời, Singapore là một nước phụ thuộc nhiều vào các mặt hàng nhập khẩu nên Chính phủ đưa ra một loạt các tiêu chuẩn gắt gao đối với từng loại mặt hàng lương thực thực phẩm nước ngoài được nhập vào thị trường Singapore. Vào tháng 8/2022, một chiếc xe tải chở nông sản đã bị Cơ quan Thực phẩm Singapore và Cơ quan Kiểm soát và Nhập cư chặn lại và đưa đi kiểm tra trong quá trình hoạt động. Cuộc điều tra cho thấy công ty đã nhập khẩu trái phép 176 kg (388 pound) trái cây và rau quả với số lượng vượt mức và không được khai báo. Các sản phẩm từ Malaysia đã bị thu giữ. Công ty đã bị phạt $7000<small>40</small> vì nhập khẩu trái phép trái cây và rau quả tươi từ Malaysia, ông Chin Kang Chwee - Giám đốc công ty cũng bị phạt $5000<small>41</small>.

Với những quy định chặt chẽ về xuất nhập khẩu và các hình thức xử phạt nặng đối với thực phẩm nội địa không đảm bảo ATTP, Singapore liên tục trở thành một trong các quốc gia dẫn đầu về ATTP trên thế giới.

<b>1.3.2. Kinh nghiệm của Nhật Bản </b>

Nhật Bản là quốc gia đặc biệt coi trọng về vấn đề thực phẩm vì “ẩm thực” ở đây thể hiện những truyền thống của đất nước, “món ăn Nhật Bản” được ghi danh là di sản văn hóa phi vật thể UNESCO và được toàn thế giới đánh giá cao là món ăn tốt cho sức khỏe. Nhật Bản có quy định rất chặt chẽ về vệ sinh ATTP trên thế giới, chính vì thế Nhật Bản đã đạt trong top 5<small>42</small> nước có người dân sống thọ nhất thế giới.

Hiện nay bộ máy kiểm sát thực phẩm tại Nhật rất gọn nhẹ, trong Bộ Y tế, Lao động và An sinh (MHLW) của Nhật Bản có Cục ATTP với trách nhiệm nghiên cứu ban hành chính sách, tiêu chuẩn thực phẩm và quy trình đánh giá. Nhật Bản có 7 luật chính về vệ sinh ATTP: Luật Cơ bản về ATTP, Luật Vệ sinh thực phẩm, Luật Khuyến khích bảo vệ

<small>38 Singapore Food Agency, “Media release: Atlantic Supplies and Trading Pte Ltd and its Director fined $3,500 each for operating an unlicensed cold store (2023)”, truy cập ngày 25/7/2023. </small>

<b><small>39</small></b><small> “Singapore coi vệ sinh an toàn thực phẩm là nhiệm vụ toàn dân” sinh-an-toan-thuc-pham-la-nhiem-vu-toan-dan-40993.htm, truy cập ngày 26/7/2023. </small>

<small> Quy đổi ra VND ≈ 165.865.000 đồng,cập nhật tiền tệ thị trường 29/7/2023. </small>

<small>41 News Desk, “New report in Singapore reveals food safety situation in 2022 (2023)”, truy cập ngày 20/07/2023. </small>

<small>42 Top 2 : Hong Kong (85,5), Macau (85,4), cả hai nơi này đều thuộc Trung Quốc; Top 3: Nhật Bản (84,8) và Top 4: Úc (84,5). </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32">

sức khỏe, Luật Tiêu chuẩn nông nghiệp Nhật Bản, Luật Bảo vệ cây trồng, Luật Kiểm soát bệnh truyền nhiễm trên động vật trong nước và Luật Nhãn hiệu thực phẩm. Bộ Luật ATTP thể hiện rất rõ quan điểm cơ bản là: công tác bảo đảm sức khỏe của người dân là quan trọng nhất; xác định rõ trách nhiệm của chính phủ, chính quyền địa phương và tất cả các tổ chức cá nhân liên quan đến thực phẩm, đồng thời vạch ra phương châm cơ bản của các chính sách tiếp theo. Một cửa tiệm bán đồ ăn ở Thủ đô Tokyo cũng phải áp dụng

<i>những tiêu chuẩn của bộ luật này. Theo Japan Times<small>43</small></i>, trong giai đoạn 2017 – 2020 cả Nhật Bản chỉ phải đóng cửa 22 tiệm bán đồ ăn gây ra các vụ ngộ độc thực phẩm.<small>44</small> Tại Điều 16<small>45</small> của “Luật Vệ sinh thực phẩm”<small>46 </small>ban hành tháng 4/2006 được sửa đổi bổ sung từ tháng 4/2006 được sửa đổi bổ sung từ Luật số 48 ngày 23/5/2003 có quy định khơng ai được bán với mục đích bán hoặc sử dụng kinh doanh mà làm người khác bị ngộ độc hoặc gây hại đến sức khỏe con người thì có thể bị phạt khơng quá 2 triệu Yên<small>47</small> và không quá 2 năm tù theo Điều 72<small>48</small> tại Luật này.

Nhật Bản là đất nước cho phép các công ty tự chịu trách nhiệm và tự chủ trong kiểm soát về chất lượng vệ sinh ATTP bán ra thị trường đồng thời các cơ sở này vẫn phải chịu sự giám sát chặt chẽ, chi tiết, đặc biệt phải chịu “mức phạt nặng” nếu có hành vi khơng tn thủ đúng theo quy định<small>49</small>. Theo định kỳ cứ mỗi năm một lần, cơ quan chức năng lại tiến hành thanh tra các công ty thực phẩm theo 5 tiêu chí chất lượng vệ sinh thiết bị sản xuất, chất lượng vệ sinh cơ sở sản xuất, chất lượng nguyên liệu, chất lượng nước và an toàn lao động<small>50</small>. Lực lượng thanh tra năm 2011 đến 2016 đã đạt đạt tới trên 12.000<small>51 </small>người thanh tra ATTP<small>52</small>. Việc Thanh tra ATTP tại Nhật xuất hiện từ làng quê đến thành phố, họ không đi xem xét xem nơi nào cần kiểm tra mà đợi tới khi có sự xuất hiện dấu hiệu ngộ độc thực phẩm hay có dư luận phản ánh thì họ sẽ bắt tay

<small> ≈ 336 triệu VND, cập nhật tiền tệ thị trường 29/7/2023. </small>

<small>48 Food Sanitation Law in Japan, April 2006, Article 72. </small>

<small>49 Hải Âu, “Tại sao thực phẩm bẩn gần như không thể tồn tại ở Nhật Bản?”, song/bon-mua/78808.html, truy cập ngày 25/07/023. </small>

<small>s/contents/doi-50 “Lý do Nhật bản hiếm khi xảy ra ngộ độc thực phẩm”, ngày 21/04/2018, ban-hiem-khi-xay-ra-ngo-doc-thuc-pham-41521.htm, truy cập ngày 29/07/2023. </small>

<small> Nhật bản có trên 12.000 thanh tra viên ATTP, trong khi ở nước ta có khoảng trên 1.000 người được giao nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành ATTP (vẫn phải thực hiện các nhiệm vụ chuyên môn khác). </small>

<small>52 Theo Báo cáo số 211/BC-CP quy định về Tình hình thực thi chính sách, pháp luật về quản lý an toàn thực phẩm giai đoạn 2011- 2016 của Chính phủ ngày 18 tháng 5 năm 2017, tr. 35. </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">

vào hành động ngay. Hiện nay, theo Điều 71<small>53</small> “Luật Vệ sinh thực phẩm” <small>54</small> ban hành tháng 4/2006 được sửa đổi bổ sung từ tháng 4/2006 được sửa đổi bổ sung từ Luật số 48 ngày 23/5/2003, một doanh nhân có thể bị phạt tiền cao nhất là 3 triệu Yên và không quá ba năm tù<small>55</small>. Ngồi ra khơng chỉ những thực phẩm được bán, sản xuất trong nước Nhật Bản còn đưa ra quy chế đối với những thực phẩm (động vật, thực vật) được đem tới nước này. Từ 1/10/2018, Bộ Nơng Lâm Thủy sản Nhật u cầu hành khách có mang thực phẩm đến Nhật Bản phải thực hiện đúng theo quy định, nếu khơng thể xuất trình các giấy tờ nêu trên, toàn bộ thực phẩm sẽ bị tiêu hủy và sẽ bị phạt 1 triệu Yên Nhật (≈ 200 triệu VND) hoặc bị phạt tù tối đa 3 năm<small>56</small>.

Vì vậy, do phải đối mặt với “mức án phạt nghiêm khắc” trong khi mức lương cho lao động tính theo giờ làm từ 1000 – 1200 yên/giờ<small>57</small> nên vấn đề thực phẩm bẩn tại Nhật Bản gần như khơng thể tồn tại, bên cạnh đó nhờ vào ý thức cao của người dân nơi đây nên vấn đề ATTP tại Nhật luôn đứng trong top và giúp nước Nhật tránh được những hạn

<b>chế về thực phẩm mà các quốc gia khác phải đối mặt. </b>

<b>1.3.3. Nhận xét chung </b>

Qua những kinh nghiệm Singapore và Nhật Bản được nhóm tác giả nêu trên, nhằm hướng tới mục đích tăng sức khỏe, tuổi thọ của người dân và cải thiện được nhiều hơn về vấn đề xử phạt về ATTP, nhóm tác giả đề xuất một vài kinh nghiệm cho Việt Nam có thể tham khảo như sau:

<b>Thứ nhất, các sở, ban, ngành cần chủ động phối hợp với các địa phương nhanh </b>

chóng triển khai kế hoạch, bám sát tình hình, tăng cường cơng tác thanh tra, kiểm tra, XLVPHC kết hợp với công tác tuyên truyền để nâng cao ý thức, trách nhiệm của người dân, doanh nghiệp và xã hội về ATTP0.

<b>Thứ hai, cần tập trung xây dựng hoàn thiện và thắt chặt hơn nữa các quy định pháp </b>

luật về xuất nhập khẩu hàng hóa. Đặc biệt là trong vấn đề xuất khẩu, cần thiết phải thông tin kịp thời, hướng dẫn chi tiết đến các doanh nghiệp về quy định ATTP để đáp ứng các yêu cầu nhập khẩu từ các nước khác.

<small>53 Food Sanitation Law in Japan, April 2006, Article 71. </small>

<small>54 Có thể truy cập anh_t221c320n310. </small>

<small> ≈ 504 triệu VND, cập nhật tiền tệ thị trường 29/7/2023. </small>

<small>56 Theo Thông báo số 1196/TCTHK – DVHK quy định thực hiện khuyến cáo của Bộ Nông Lâm Thủy sản Nhật Bản do Bộ giao thông vận tải tổng công ty hàng không Việt nam – CTCP gửi vào ngày 14 tháng 9 năm 2018. </small>

<small>57 Tại Nhật, mức lương cho lao động tính theo giờ làm nhận được từ 1000 – 1200 yên/giờ, làm việc 8 giờ/ngày và mỗi tuần làm việc từ 40 – 44 giờ. Như vậy, mức lương cơ bản của người lao động dao động trung bình trong khoảng 30.000.000 – 37.000.000 VND/tháng. </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34">

<b>Thứ ba, muốn hoàn chỉnh và cải thiện hơn về vấn đề ATTP của Việt Nam, mỗi cá </b>

nhân chúng ta ln phải có ý thức bảo vệ, giữ gìn an tồn thực phẩm và hỗ trợ nhà nước trong vấn đề quản lý về lĩnh vực này. Nên chính vì thế Nhà nước ta cần phát triển tư

<i>tưởng, tuyên truyền quan điểm “Cùng chung tay bảo vệ an tồn thực phẩm chính là bảo vệ bản thân và người thân” để nâng cao ý thức người dân, khơng vì lợi nhuận trước mắt </i>

mà đánh đổi tính mạng, sức khỏe của mọi người. Góp phần tạo nền văn minh liêm khiết, tư tưởng trong sạch về vấn đề an tồn thực phẩm và phát triển tính đồng lịng, đồn kết dân tộc.

<b>Thứ tư, bên cạnh nền tư tưởng quyết tâm đồng lịng vì thực phẩm sạch, để có thể </b>

giúp mục đích ATTP thiết thực hơn cịn địi hỏi hình thức và mức độ xử phạt những người có hành vi vi phạm về ATTP phải thật sự đủ răn đe, nghiêm khắc và công khai, phải đem lại hiệu quả rằng người bị phạt đó sẽ khơng dám tái lặp vi phạm, nếu có thì mức xử phạt đó sẽ tăng 2 đến 3 lần hoặc có thậm chí có thể nặng hơn để có thể lấy những người vi phạm này làm gương cho người khác. Chính vì vậy, cần điều chỉnh và nâng

<b>chế tài XPVPHC về ATTP lên cao hơn. </b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35">

<b>KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 </b>

Từ những kết quả nghiên cứu và cơ sở lý luận về XPVPHC về ATTP tại Chương 1 nhóm tác giả đã đưa ra những kết luận sau:

<i><b>Thứ nhất, đề tài đã đi sâu vào phân tích cơ sở lý luận của XPVPHC. Từ đó, có thể </b></i>

thấy VPHC trong lĩnh vực ATTP là một lĩnh vực nhỏ trong VPHC, để cấu thành VPHC về ATTP cần có đủ các dấu hiệu về chủ thể, khách thể, mặt khách quan, mặt chủ quan của VPHC. Đồng thời, tại khoản 2 Điều 1 của Nghị định 115 (đã được sửa đổi, bổ sung) có quy định bốn nhóm hành vi chính trong XPVPHC về ATTP góp phần khắc phục những khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn thi hành pháp luật XLVPHC trước đó về ATTP, vừa đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của người tiêu dùng cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho công tác quản lý ATTP của Nhà nước.

<i><b>Thứ hai, trong quá trình nghiên cứu Chương 1, đề tài đã đề cập và làm rõ các quy </b></i>

định XPVPHC về ATTP. Trong đó, đề tài đã đi sâu vào phân tích khái niệm, đặc điểm, nguyên tắc, hình thức xử phạt, thẩm quyền và thủ tục XPVPHC góp phần củng cố, nâng cao niềm tin của cơng dân đối với Nhà nước, đảm bảo tính hiệu quả, kịp thời trong hoạt động quản lý Nhà nước về ATTP.

<i><b>Thứ ba, tại Chương 1 đề tài đã có nghiên cứu, liên hệ thực tiễn đối với một số quốc </b></i>

gia có nhiều năm liên tục dẫn đầu về việc đảm bảo ATTP trên thế giới như Singapore, Nhật Bản nhằm rút ra những kinh nghiệm để hoàn thiện hơn nữa pháp luật XPVPHC về ATTP.

<i><b>Tóm lại, các quy định về XPVPHC về ATTP cơ bản đã đáp ứng được yêu cầu về </b></i>

quản lý, XPVPHC về ATTP và góp phần nâng cao hiệu quả trong việc đảm bảo vệ sinh ATTP. Tuy nhiên, các quy định vẫn còn bộc lộ một số hạn chế, bất cập cần được giải quyết mà chúng ta sẽ tiếp tục nghiên cứu tại Chương 2.

</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36">

<b>CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH VỀ AN TỒN THỰC PHẨM TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN </b>

<b>2.1. Thực trạng pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính về an tồn thực phẩm tại Thành phố Hồ Chí Minh và giải pháp hoàn thiện </b>

<b>2.1.1. Về thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính </b>

Cơng tác xử phạt vi phạm hành chính về an tồn thực phẩm ln được Nhà nước quan tâm. Điều này được thể hiện thông qua hệ thống văn bản quy phạm pháp luật được ban hành tương đối toàn diện để đảm bảo ATTP ở Việt Nam nói chung, ở TP. HCM nói riêng. Như đã phân tích ở Chương 1, hiện nay các chủ thể có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính về an tồn thực phẩm đã được pháp luật quy định cụ thể. Tuy nhiên, thực tế áp dụng pháp luật cho thấy vẫn còn tồn tại một vài bất cập trong quy định về thẩm quyền XPVPHC về ATTP như sau:

<b>Thứ nhất, về thẩm quyền phạt tiền của Thanh tra viên, người được giao thực hiện </b>

nhiệm vụ chuyên ngành trong lĩnh vực an toàn thực phẩm đang thi hành cơng vụ hay Kiểm sốt viên thị trường đang thi hành cơng vụ chỉ có quyền phạt tiền đến 500.000 đồng đối với cá nhân và phạt tiền đến 1.000.000 đồng đối với tổ chức. Mức phạt trên là không phù hợp khi mà mức tiền phạt đối với VPHC về ATTP của đa phần các chủ thể khác cao hơn mức phạt thuộc thẩm quyền của các chủ thể nêu trên. Trong khi phần lớn các VPHC về ATTP được các lực lượng này thường xuyên phát hiện, nhất là xảy ra tại Thành phố Hồ Chí Minh - trung tâm kinh tế lớn nhất của Việt Nam. Hiện nay, mức phạt của các hành vi vi phạm này là chưa tương xứng tính chất, mức độ hậu quả vi phạm, chưa đủ sức răn đe so với số lợi nhuận mà hành vi vi phạm này mang lại. Theo Bà Phạm

<i>Khánh Phong Lan, Trưởng Ban quản lý an toàn thực phẩm TP. HCM nhận định: “Chưa kể, khi xảy ra vụ việc, cơ quan chức năng bắt được quả tang thì phải chứng minh thiệt hại với người dân để xác định khung xử phạt hành chính. Nếu xử phạt vài triệu đồng thì chưa có ý nghĩa gì nhiều”</i><small>58</small>. Bên cạnh đó, khi phỏng vấn lấy ý kiến chuyên gia, bà Mai

<i>Thị Lâm (công tác tại Trường Đại học Luật TP. HCM) cũng cho rằng: “Đối với 1 số quy định của pháp luật trong nội dung XPVPHC trong lĩnh vực ATTP có tình tiết tăng nặng hình thức phạt, mức phạt chưa tương xứng với tính chất, mức độ của hành vi vi phạm. Vì vậy, pháp luật cần phải được hoàn thiện hơn, nâng mức phạt đối với một số </i>

<small>58 Sỹ Đông, Thực phẩm độc hại bủa vây người dùng: Nhiều lỗ hổng quản lý, hai-bua-vay-nguoi-dung-nhieu-lo-hong-quan-ly-185230715235520408.htm, truy cập ngày 27/07/2023. </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37">

<i> vi có mức độ nghiêm trọng và bổ sung thêm các biện pháp khắc phục hậu quả cần thiết, phù hợp với hành vi vi phạm nhằm đảm bảo tính răn đe của pháp luật”<small>59</small></i>.

Vì vậy, nhóm tác giả kiến nghị cần tăng thêm mức tiền phạt đối với các hành vi vi phạm về ATTP để đảm bảo tính răn đe; đồng thời hạn chế các hành vi vi phạm tốt hơn, hỗ trợ hoàn thiện hơn trong công tác quản lý Nhà nước về ATTP. Bên cạnh đó, để có thể hồn thiện hơn trong vấn đề xử phạt địi hỏi phải có sự quyết liệt, mạnh tay hơn của các cơ quan chức năng có thẩm quyền xử phạt đối với các hành vi vi phạm quy định pháp luật về ATTP do Nhà nước ban hành. Chặt chẽ, kiên quyết, triệt để, cơng khai trong q trình xử phạt nhằm làm tăng mức độ tin tưởng của người dân đối với cơ quan Nhà nước trong công tác quản lý về ATTP, từ đó có thể làm giảm dần số lượng hành vi trái pháp luật về ATTP trên cả nước.

<b>Thứ hai, hiện khơng ít vi phạm hành chính về ATTP được phát hiện bởi các chủ </b>

thể ở cấp cơ sở như Chiến sĩ Công an nhân dân đang thi hành công vụ; Trưởng trạm, Đội trưởng của Công an nhân dân; Chiến sĩ Bộ đội biên phòng đang thi hành công vụ; Trạm trưởng, Đội trưởng của Chiến sĩ Bộ đội biên phòng; Đội trưởng, Tổ trưởng thuộc Chi cục Hải quan; Kiểm soát viên thị trường đang thi hành cơng vụ,… nhưng chỉ có thẩm quyền áp dụng hình thức xử phạt chính là phạt tiền, cũng vì khơng có thẩm quyền áp dụng các hình thức xử phạt bổ sung nên các chủ thể này không thể tiến hành xử phạt một cách trọn vẹn, dẫn đến tình trạng “lãng phí thẩm quyền” khi xử phạt vi phạm hành chính. Luật nên quy định đồng thời vừa có thẩm quyền áp dụng hình thức xử phạt chính vừa có thẩm quyền trong việc áp dụng hình thức xử phạt bổ sung, cụ thể là tịch thu tang vật, phương tiện VPHC về ATTP. Ngoài ý nghĩa là một hình thức xử phạt, việc tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính cịn nhằm mục đích ngăn chặn khả năng tiếp tục sử dụng tang vật, phương tiện đó để vi phạm hành chính trong tương lai. Vì nếu chỉ xử phạt tiền mà khơng áp dụng hình thức xử phạt bổ sung tịch thu hay tạm giữ tang vật, phương tiện VPHC thì chưa được coi là đã ngăn chặn và việc bổ sung quy định này ngoài ý nghĩa hoàn thiện hơn hệ thống hình thức xử phạt vi phạm hành chính về an tồn thực phẩm cịn nhằm mục đích ngăn chặn khả năng người vi phạm tiếp tục sử dụng tang vật, phương tiện đó để vi phạm hành chính trong tương lai. Nhóm tác giả kiến nghị, tăng thêm thẩm quyền áp dụng hình thức xử phạt bổ sung tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính cho các chủ thể có thẩm quyền xử phạt tiền để tránh lọt lưới những hành vi vi phạm đã được phát hiện và xử phạt nhưng không tịch thu tang vật dẫn đến hành vi ấy tiếp tục tái diễn.

<small>59 Xem thêm Phụ lục 1 (Kết quả phỏng vấn chuyên gia). </small>

</div>

×