Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (795.7 KB, 101 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">
<b>TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH</b>
5. Huỳnh Dương Mai Châm - 2153801013042 – Năm 2 Trưởng nhóm: Nguyễn Hà My
<i>Lớp : 133-CLC46(B) Khố: 46 Khoa: Các chương trình đào tạo đặc biệt </i>
<b><small>Mã số cơng trình :………. </small></b>
<i><b><small>( Phần này do Phòng QL NCKH & HTQT đánh số vào ) </small></b></i>
</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2"><b>TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH</b>
5. Huỳnh Dương Mai Châm - 2153801013042 – Năm 2 Trưởng nhóm: Nguyễn Hà My
<i>Lớp : 133-CLC46(B) Khố: 46 Khoa: Các chương trình đào tạo đặc biệt </i>
</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">1.1 Khái quát về vi phạm hành chính và xử phạt vi phạm hành chính đối với vi phạm trách nhiệm sử dụng dịch vụ mạng xã hội. ... 12
1.1.1 Một số vấn đề lý luận đối với vi phạm trách nhiệm sử dụng dịch vụ mạng xã hội. ... 12
1.1.2 Phân biệt vi phạm hành chính đối với trách nhiệm sử dụng dịch vụ mạng xã hội với tội phạm vi phạm trách nhiệm sử dụng dịch vụ mạng xã hội. ... 20
1.1.3 Xử phạt vi phạm hành chính đối với vi phạm trách nhiệm sử dụng dịch vụ mạng xã hội. ... 22
1.2 Pháp luật Việt Nam về xử phạt vi phạm hành chính đối với vi phạm trách nhiệm sử dụng dịch vụ mạng xã hội. ... 26
1.2.1 Khái quát pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính đối với vi phạm trách nhiệm sử dụng mạng xã hội ở Việt Nam. ... 26
1.2.2 Các hình thức xử phạt vi phạm hành chính đối với vi phạm trách nhiệm sử dụng dịch vụ mạng xã hội. ... 33
1.2.3 Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính đối với vi phạm trách nhiệm sử dụng dịch vụ mạng xã hội. ... 35
1.3 Pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính đối với vi phạm trách nhiệm sử dụng dịch vụ mạng xã hội ở một số quốc gia trên thế giới. ... 36
1.3.1 Pháp luật của Trung Quốc. ... 36
1.3.2 Pháp luật của Hàn Quốc. ... 40
1.3.3 Pháp luật của Mỹ. ... 44
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1. ... 51
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VỀ XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH ĐỐI VỚI VI PHẠM TRÁCH NHIỆM SỬ DỤNG DỊCH VỤ MẠNG XÃ HỘI VÀ 1 SỐ KIẾN NGHỊ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN. ... 53
2.1 Thực trạng Việt Nam về xử phạt vi phạm hành chính đối với vi phạm trách nhiệm sử dụng dịch vụ mạng xã hội. ... 53
</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">2.1.1. Một số bất cập của pháp luật và thực trạng về xử phạt vi phạm hành chính đối
với vi phạm trách nhiệm sử dụng dịch vụ mạng xã hội. ... 53
2.1.2.Thực tiễn xử phạt vi phạm hành chính đối với vi phạm trách nhiệm sử dụng dịch vụ mạng xã hội. ... 57
2.2 Thực trạng về xử phạt vi phạm hành chính đối với vi phạm trách nhiệm sử dụng dịch vụ mạng xã hội ở một số quốc gia trên thế giới. ... 61
2.2.1 Pháp luật của Trung Quốc. ... 61
2.2.2 Pháp luật của Hàn Quốc. ... 67
2.2.3 Pháp luật của Mỹ. ... 72
2.3 Giải pháp hồn thiện, bảo đảm cơng tác về xử phạt vi phạm hành chính đối với vi phạm trách nhiệm sử dụng dịch vụ mạng xã hội. ... 76
2.3.1 Giải pháp về hoàn thiện 1 số quy định pháp luật. ... 76
2.3.2 Giải pháp nâng cao ý thức cho người sử dụng mạng xã hội. ... 79
2.3.3 Giải pháp nâng cao nguồn nhân lực quản lý nội dung trên mạng xã hội. ... 84
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2. ... 90
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO. ... 92
</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5"><b>DANH MỤC BẢNG </b>
Bảng 1: Bảng thống kê số liệu tổng quan về lượng truy cập internet tại Việt Nam tính đến tháng 1 năm 2022 ... 58 Bảng 2: Bảng thống kê số liệu tổng quan về lượng truy cập mạng xã hội tại Việt Nam tính đến tháng 1 năm 2022 ... 58 Bảng 3: Báo cáo về bảo vệ thông tin cá nhân vào năm 2021 do Ủy ban Thông tin Cá nhân và Cơ quan An ninh & Internet Hàn Quốc ... 67
<b>DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT </b>
</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6"><b>MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài. </b>
Trong bối cảnh xã hội hiện nay, với sự phát triển không ngừng của khoa học công nghệ, Internet nói chung và mạng xã hội nói riêng đang từng bước khẳng định tầm quan trọng của mình. Ngày một nhiều các trang mạng xã hội tạo điều kiện để cá nhân, tổ chức có cơ hội được kết nối, giao lưu và chia sẻ thông tin đến với mọi người. Các nền tảng mạng xã hội như Facebook, ZaLo, Youtube... đã khơng cịn q xa lạ cũng như đã trở thành một phần quan trọng không thể thiếu của nhiều người. Đặt trong thời đại công nghệ phát triển như hiện nay thì mạng xã hội (MXH) lại càng có một vai trị quan trọng và ảnh hưởng lớn đối với con người và chúng ta cũng không thể phủ nhận lợi ích mà MXH mang lại.
Tuy nhiên, bên cạnh những giá trị tốt đẹp như thông tin nhanh, khối lượng thông tin phong phú được cập nhật nhanh chóng, liên tục… thì vẫn cịn tồn đọng những mặt tiêu cực trong việc sử dụng mạng xã hội hiện nay. Trong đó, có thể kể đến những hành vi vi phạm đến trách nhiệm sử dụng mạng xã hội của một số cá nhân, tổ chức đến với người khác và cộng đồng và việc này đã trở nên phổ biến hơn bao giờ hết. Tiêu biểu trong số đó có thể kể đến vụ việc của bà Nguyễn Phương Hằng có những phát ngơn cơng khai xúc phạm uy tín, danh dự, nhân phẩm của một số cá nhân và nghệ sĩ thông qua tài các tài khoản mạng xã hội. Theo đó, tùy vào mức độ vi phạm mà những hành vi trên sẽ có chế tài phù hợp để xử phạt. Pháp luật Việt Nam đã có những quy định cụ thể về việc xử phạt vi phạm hành chính hành khi sử dụng mạng xã hội thông qua Nghị định số 15/2020/NĐ-CP ban hành ngày 03 tháng 02 năm 2020. Tuy nhiên, với không gian mạng xã hội rộng lớn như vậy, việc xử phạt hành chính đối với vấn đề này vẫn còn nhiều bất cập, còn nhiều vấn đề liên quan cần phải làm rõ như, xử phạt đúng người, đúng mức độ của hành vi vi phạm nhằm có những chế tài đối với những hành vi đó. Đây chính là điều vô cùng cấp thiết để xử phạt hành chính hành vi vi phạm trách nhiệm sử dụng mạng xã hội hiện nay.
Mặc dù dịch vụ mạng xã hội đem tới những lợi ích cho con người trong đời sống thường ngày, cũng như trong công việc, đặc biệt là trong truyền thơng chính trị Việt Nam. Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích đó, dịch vụ mạng xã hội cũng nảy sinh khơng ít vấn đề, nhiều cá nhân lợi dụng mạng xã hội để đăng thông tin sai sự thật, hoặc có ứng
</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">xử thiếu văn hóa; địi hỏi cần có những giải pháp nhằm chấn chỉnh. Điển hình nhất là vụ việc xảy ra gần đây với hành vi đưa thông tin sai sự thật về Ngân hàng SCB và cá nhân đó bị xử phạt 7,5 triệu đồng. Cụ thể, khoảng 15 giờ ngày 8/10/2022, sau khi thấy người dân đứng chờ rút tiền tại các ngân hàng và bản thân xem được các nội dung trên Facebook kêu gọi người dân rút tiền khỏi Ngân hàng SCB, Q. đã sử dụng tài khoản Facebook cá nhân đăng tải nội dung thông tin chưa được kiểm chứng, sai sự thật, gây ảnh hưởng đến tình hình an ninh trật tự. Làm việc với cơ quan Công an, Q. thừa nhận hành vi đăng tải thơng tin có nội dung sai sự thật liên quan đến ngân hàng nêu trên và đã gỡ bỏ bài viết, đồng thời cam kết không tái phạm. <small>1</small>
Khơng những vậy, ta có thể bắt gặp những hình ảnh khiêu khích, trêu ghẹo, xúc phạm, lăng mạ, bôi nhọ danh dự, nhân phẩm của người khác thơng qua hình thức bình luận, đăng tải video trên nền tảng xã hội. Gần đây, trên ứng dụng giải trí Tiktok, Sở Thơng tin và Truyền thơng TP.HCM phạt TikToker Nờ Ơ Nơ 7,5 triệu đồng vì đăng tải loạt video có nội dung phản cảm khơng tơn trọng người già neo đơn, gây ảnh hưởng đến danh dự, nhân phẩm người khác, không phù hợp với thuần phong, mỹ tục của dân tộc". Cụ thể, trong video clip, người này dùng từ ngữ "khó nghe" khi đi làm từ thiện như: "Hello bà già nghèo khổ giữa trời đơng cơ đơn"; "Nghèo mà cịn chê đồ ăn nữa, vậy thôi khỏi ăn"; "Chúc bà nhiều sức khỏe, vượt qua mùa đông cô đơn nghèo khổ, bớt nghèo lại đi nha, khơng ai giúp hồi đâu"... Đoạn clip hơn 4,6 triệu lượt xem đã bị xóa khỏi nền tảng TikTok nhưng những ngày qua dư luận, cộng đồng mạng vẫn lên án gay gắt và kêu gọi "tẩy chay" nam TikToker này. <small>2</small>
Mặt khác, Đảng và Nhà nước cũng đã khẳng định và đề cao những lợi ích to lớn
<i>mà khơng gian mạng đem lại đó chính là cầu nối để các quốc gia trên thế giới, các dân tộc, xích lại gần nhau hơn, tăng cường hợp tác, chia sẻ để cùng phát triển. Tuy nhiên, </i>
Đảng cũng nêu rõ,cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại, cách mạng công nghiệp 4.0 phát triển hết sức mạnh mẽ đã phản ánh sâu sắc tính chất mới đầy phức tạp của thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội không chỉ ở trong nước mà còn cả
<small> </small>
<small>1 Đài Tiếng nói Việt Nam, “Đưa tin sai sự thật về Ngân hàng SCB, một cá nhân bị xử phạt 7,5 triệu đồng”, </small>
<i><small>VOVVN, [</small></i><small>dtnew-445349] (truy cập ngày 05/03/2023). </small>
<small> Đan Thuần, “Phạt TikToker Nờ Ô Nô 7,5 triệu đồng”, Tuổi trẻ Online, [no-7-5-trieu-dong-20221129174646455.htm] (truy cập ngày 05/03/2023). </small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">toàn thế giới. Đồng thời, những q trình ấy cũng cịn tồn tại rất nhiều những tiêu cực đến nền tảng tư tưởng, hoạt động bảo vệ nền tảng ấy của Đảng trên tất cả mọi lĩnh vực, đặc biệt là mạng xã hội ở Việt Nam hiện nay. Điển hình là sự phát triển của mạng xã hội, sự lợi dụng không gian mạng chống phá cách mạng Việt Nam của các thế lực thù địch chính là yếu tố trực tiếp và tác động mạnh mẽ đến hoạt động bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh ngăn ngừa các quan điểm sai trái, thù địch trên mạng xã hội và hoạt động cung cấp thông tin, quản lý mạng xã hội ở Việt Nam hiện nay. Vì thế, dựa theo thực tiễn hoạt động mạng xã hội và sự phát triển của lĩnh vực này ở nước ta
<i>hiện nay, Đảng đã có có chủ trương: “Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; đấu tranh ngăn chặn các quan điểm sai trái, thù địch trên mạng xã hội ở Việt Nam là nhiệm vụ cấp bách hiện nay của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta. Yêu cầu bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; đấu tranh ngăn chặn các quan điểm sai trái, thù địch trên mạng xã hội ở Việt Nam là phải kết hợp chặt chẽ giữa "xây" và "chống", lấy xây dựng là chính, tích cực chủ động phòng, chống là quan trọng; kết hợp chặt chẽ giữa chủ động ngăn chặn, phòng ngừa với chủ động tiến công làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn "diễn biến hồ bình" của các thế lực thù địch”</i><small>3</small> nhằm bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh ngăn chặn các âm mưu thủ đoạn, quan điểm sai trái, thù địch trên mạng xã hội ở Việt Nam hiện nay.
Từ những yếu tố trên, ta có thể thấy mức độ đáng báo động trong việc sử dụng dịch vụ mạng xã hội đã gây ra không ít ảnh hưởng đối với của con người Việt Nam ngày nay và việc ngăn chặn, hạn chế những hành vi vi sai lệch là nhiệm vụ vô cùng cấp
<b>bách. Vì thế, nhóm tác giả lựa chọn nghiên cứu đề tài: “Xử phạt vi phạm hành chính </b>
<b>đối với vi phạm trách nhiệm sử dụng dịch vụ mạng xã hội” là cần thiết về mặt lý </b>
luận lẫn thực tiễn nhằm mục đích đề cao vai trị, đưa ra các giải pháp hoàn thiện và nâng cao hiệu quả vận hành của các hoạt động thực hiện xử phạt vi phạm hành chính đối với vi phạm trách nhiệm sử dụng dịch vụ mạng xã hội hiện nay.
<b>2. </b><small> </small><b>Tổng quan tình hình nghiên cứu. </b>
<small> </small>
<small>3TS. Nguyễn Công Dũng</small><i><small>, “Đấu tranh làm thất bại quan điểm sai trái trên mạng xã hội hiện nay”, Báo Điện tử Đảng Cộng </small></i>
<i><small>sản Việt Nam, [</small></i><small>mang-xa-hoi-hien-nay-597653.html</small><i><small>] (truy cập ngày 05/03/2023) </small></i>
</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">Giáo trình, sách chuyên khảo, sách tham khảo:
TS. Cao Vũ Minh, Tố cáo nặc danh, Tố cáo mạo danh trong pháp luật Hành chính Việt Nam, Nxb. Chính trị Quốc gia sự thật. Đấy là sách chuyên khảo nghiên cứu nhằm mục đích làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn, đồng thời chỉ ra những giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật điều chỉnh vấn đề tố cáo nặc danh, tố cáo mạo danh ở Việt Nam. Tuy nhiên, nội dung cơng trình chưa phân tích chun sâu về vấn đề trong việc giải quyết rõ ràng khi người này mạo danh một người khác trên mạng xã hội.
(ii) Các bài viết trên tạp chí chuyên ngành: (iii) Luận án, luận văn:
Bùi Thị Như Hằng (2020), Xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi cung cấp, chia sẻ thông tin sai sự thật trên mạng xã hội, Khóa luận tốt nghiệp. Khóa luận tìm hiểu về: cơ sở lý luận và pháp ly về xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi cung cấp, chia sẻ thông tin sai sự thật trên mạng xã hội; Thực trạng và một số kiến nghị hồn thiện xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi cung cấp, chia sẻ thông tin sai sự thật trên mạng xã hội tuy nhiên chỉ mới nghiên cứu về hành vi cung cấp, chia sẻ thông tin sai sự thật trên mạng xã hội chứ không nghiên cứu về các hành vi còn lại.
Nguyễn Hoàng Việt (2020), Hoàn thiện quy định về xử phạt vi phạm hành chính, Thanh tra, Thanh tra Chính phủ, 2019, Số 2, tr. 33-35. Đây là bài viết nghiên cứu về khái niệm xử phạt vi phạm hành chính và các quy định trực tiếp liên quan đến khái niệm này; những đặc điểm cơ bản của xử phạt vi phạm hành chính và đề xuất, kiến nghị hướng hoàn thiện những quy định này trong Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật xử lý vi phạm hành chính. Cơng trình này vẫn chưa được khai thác hiểu sâu trong việc áp dụng các hình thức xử phạt hành chính trong Luật xử lý vi phạm hành chính.
Nguyễn Thành Bá Đại (2018), Xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi xúc phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân, Luận văn thạc sỹ. Nội dung luận văn nghiên cứu: cơ sở lý luận và pháp lý về xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi xúc phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân, thực trạng pháp luật và thực tiễn hoạt động xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi xúc phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân và một số kiến nghị. Tuy nhiên đề tài này chỉ mới nghiên cứu về hành vi
</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">xúc phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân chứ không nghiên cứu về các hành vi còn lại và nghiên cứu trên các dịch vụ mạng xã hội.
Trịnh Thị Huỳnh Nga (2017), Xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi xâm phạm bí mật đời tư trên các phương tiện truyền thơng và mạng xã hội, Khóa luận tốt nghiệp. Luận văn này tập trung nghiên cứu về những quy định xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi xâm phạm bí mật đời tư trên các phương tiện truyền thông và mạng xã hội tuy nhiên chỉ mới nghiên cứu về hành vi xâm phạm bí mật đời tư chứ khơng nghiên cứu về các hành vi cịn lại.
Trương Tư Phước (2021), Hoàn thiện pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi cung cấp, chia sẻ thông tin sai sự thật trên mạng xã hội, Nhà nước và Pháp luật, số 4 (396), tr.3-9. Tạp chí này tập trung phân tích về những hạn chế, những bất cập trong quy định pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi cung cấp, chia sẻ và đăng tải thông tin khơng đúng sự thật để từ đó mà đưa ra một số giải pháp hồn thiện. Trong tạp chí, cơng trình này chưa phân tích sâu về việc áp dụng hình phạt đối với những hành vi trái pháp luật trên mạng xã hội ngày nay.
Có rất nhiều đề tài nhưng thực chất chưa có một bài nghiên cứu khoa học nào nghiên cứu về vấn đề xử phạt vi phạm hành chính đối với vi phạm trách nhiệm sử dụng dịch vụ mạng xã hội. Những đề tài được kể trên đã nêu lên và giải quyết những vấn đề ở từng phạm trù khác nhau về mạng xã hội với một số nội dung như sau: Cơ sở lý luận và pháp lý về xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi cung cấp, chia sẻ thông tin sai sự thật trên mạng xã hội; đối với hành vi xúc phạm, danh dự, nhân phẩm uy tín của cá nhân; đối với hành vi xâm phạm bí mật đời tư trên các phương tiện truyền thông và mạng xã hội; Thực tiễn triển khai thi hành và kiến nghị hoàn thiện về xử phạt vi phạm hành chính đối với các hành vi trên. Những vấn đề cơ bản về xử phạt vi phạm hành chính đối với các hành vi xúc phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín trên các phương tiện truyền thông và mạng xã hội. Thực trạng pháp luật và những kiến nghị hoàn thiện về xử phạt vi phạm hành chính đối với các hành vi xúc phạm, cung cấp thơng tin sai sự thật, xâm phạm bí mật đời tư trên các phương tiện truyền thông và mạng xã hội.
Trong lịch sử nghiên cứu đề tài, nhóm tác giả nhận thấy chưa có đề tài nghiên cứu nào tương tự đối tượng và phạm vi nghiên cứu của mình. Do đó với một góc nhìn mới, nghiên cứu về các quy định về xử phạt vi phạm hành chính đối với vi phạm trách nhiệm
</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">sử dụng dịch vụ mạng xã hội, nhóm tác giả hy vọng có thể bảo đảm về trách nhiệm sử dụng dịch vụ mạng xã hội, bảo đảm được các hành vi sai trái khi sử dụng dịch vụ mạng xã hội sẽ bị xử phạt hành chính.
<b>3. Phương pháp nghiên cứu </b>
Để thực hiện tốt việc nghiên cứu và tìm hiểu sâu về đề tài, đồng thời đạt được mục tiêu đã đặt ra, nhóm tác giả sử dụng những phương pháp như sau:
Phương pháp luận: Nghiên cứu hệ thống lý thuyết về vi phạm trách nhiệm sử dụng dịch vụ mạng xã hội và việc xử phạt hành chính đối với những vi phạm ấy. Ngồi ra, nhóm tác giả cũng nghiên cứu những văn bản pháp luật, tìm ra được những điều luật có quan hệ trực tiếp hoặc có liên quan tới việc xử phạt vi phạm hành chính đối với vi phạm trách nhiệm sử dụng dịch vụ mạng xã hội.
Phương pháp này là một trong những phương pháp chính mà nhóm tác giả sẽ dùng để áp dụng để nghiên cứu về vấn đề vi phạm hành chính và xử phạt vi phạm hành chính đối với vi phạm trách nhiệm sử dụng dịch vụ mạng xã hội, phương pháp này sẽ được thể hiện qua từng chương như sau.
Chương I nhóm sẽ nghiên cứu về những điều luật và những văn bản có liên quan đến đề tài từ đó nêu ra được khái niệm về trách nhiệm sử dụng mạng xã hội, xử phạt những hành vi vi phạm hành chính đối với vi phạm trách nhiệm sử dụng dịch vụ mạng xã hội, khái quát pháp luật, thẩm quyền giải quyết và hình thức giải quyết.
Chương II nhóm sẽ tiếp tục nghiên cứu các văn bản trong và ngoài nước để tìm ra những thực trạng mà các nước đang phải đối mặt nói chung và Việt Nam nói riêng từ đó đưa ra những giải pháp hợp lý tại Chương III.
Phương pháp phân tích: Tồn bộ nội dung của đề tài được chia thành các mục nhỏ gọi là luận điểm, trong các mục có thể có nhiều luận điểm nhỏ hơn. Mỗi luận điểm được thể hiện hồn chỉnh dưới dạng một đoạn văn, mục đích chia nhỏ những vấn đề để phân tích rõ những khía cạnh của thực trạng pháp luật, điều khoản mà pháp luật ban hành để làm tiền đề xử phạt những hành vi vi phạm nói chung và vi phạm hành chính đối với vi phạm trách nhiệm sử dụng dịch vụ mạng xã hội nói riêng.
Phương pháp so sánh và tổng hợp: so sánh và tìm ra điều giống và khác nhau của các nước đối chiếu với Việt Nam về những phương pháp xử phạt quản lý những thông tin trên hệ thống mạng xã hội, và từ đó có thể tổng hợp đưa ra được những bài học kinh
</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">nghiệm cũng như đề xuất những quy định pháp luật để thuận tiện hơn cho sự quản lý việc sử dụng mạng xã hội.
Cụ thể hơn tại phần giải pháp nhóm tác giả sẽ so sánh và tổng hợp những quy định của các nước khác như Mỹ, Trung Quốc, Hàn quốc với Việt Nam nhằm đưa ra những ưu điểm mà nước chúng ta đã làm tốt nhằm phát triển mạnh hơn ưu điểm đó, tìm ra những nhược điểm mà có thể từ đó đưa ra hướng giải quyết cho vấn đề trong tương lai
<b>4. Tính mới và đóng góp của đề tài. </b>
Kết quả nghiên cứu của đề tài đem lại những tính mới và tính đóng góp cao về mặt lý luận và thực tiễn:
-Về mặt lý luận:
Đề tài là sản phẩm của quá trình nghiên cứu dựa trên các số liệu, lí thuyết đã được kiểm định về độ tin cậy, có khả năng bổ sung và phát triển phương pháp luận cho các nghiên cứu về sau cũng như đóng góp, đề xuất các giải pháp mang tính thực tiễn nhằm cải thiện tình hình.
Nhóm tác giả kỳ vọng kết quả nghiên cứu sẽ trở thành một nguồn tham khảo cho các nhà hoạch định chính sách, chính phủ và người dân nói chung trong cơng tác xử phạt vi phạm hành chính đối với vi phạm trách nhiệm sử dụng dịch vụ mạng xã hội.
-Về mặt thực tiễn:
Nghiên cứu vấn đề xử phạt vi phạm hành chính đối với vi phạm trách nhiệm sử dụng dịch vụ mạng xã hội có ý nghĩa rất quan trọng. Cơng trình nghiên cứu có thể trở thành tài liệu tham khảo khá hữu ích cho mọi người muốn tìm hiểu và đi sâu hơn về vấn đề tìm hiểu xử phạt vi phạm hành chính đối với vi phạm trách nhiệm sử dụng dịch vụ mạng xã hội trong tương lai.
</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13"><b>CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH ĐỐI VỚI VI PHẠM TRÁCH NHIỆM SỬ DỤNG DỊCH VỤ MẠNG XÃ HỘI. </b>
<b>1.1 Khái quát về vi phạm hành chính và xử phạt vi phạm hành chính đối với vi phạm trách nhiệm sử dụng dịch vụ mạng xã hội. </b>
<i><b>1.1.1 Một số vấn đề lý luận đối với vi phạm trách nhiệm sử dụng dịch vụ mạng xã hội.</b></i>
a. Khái niệm trách nhiệm sử dụng dịch vụ mạng xã hội.
Mạng xã hội (social network) là hệ thống thông tin cung cấp cho cộng đồng người sử dụng mạng các dịch vụ lưu trữ, cung cấp, sử dụng, tìm kiếm, chia sẻ và trao đổi thông tin với nhau, bao gồm dịch vụ tạo trang thông tin điện tử cá nhân, diễn đàn (forum), trò chuyện (chat) trực tuyến, chia sẻ âm thanh, hình ảnh và các hình thức dịch vụ tương tự khác. <small>4</small>Đặc biệt, trong bối cảnh nền công nghiệp 4.0 đang phát triển mạnh mẽ như hiện nay, đã có rất nhiều nền tảng mạng xã hội (MXH) ra đời, trong đó có thể kể đến Facebook - trang mạng xã hội phổ biến nhất hiện nay, Instagram, Zalo, Linkedin,....tất cả đều phục vụ cho nhu cầu được kết nối, tìm kiếm, chia sẻ thông tin và tương tác với mọi người của mỗi cá nhân, tổ chức.Dưới góc độ ngơn ngữ:
Trách nhiệm chính là một hay nhiều những nghĩa vụ mà chúng ta cần hoặc bắt buộc phải thực hiện để hồn thành nghĩa vụ. Trách nhiệm của cá nhân khơng phải chỉ hướng đến bản thân mà cịn với cơng việc, gia đình, xã hội nơi mình sinh sống làm việc hoặc hoạt động. Trách nhiệm mang một ý nghĩa rất lớn là một điều kiện thiết yếu mà ai cũng phải có. Một người sống có trách nhiệm là một người ln có tính chủ động trong nghĩa vụ của mình dù hồn cảnh có diễn ra như thế nào mà không đùn đẩy công việc cho người khác và khơng mắc sai lầm cho cơng việc mình làm.<small>5</small>
Dưới góc độ pháp lý:
<small> </small>
<small>4khoản 22 Điều 3, Nghị định số 72/2013/NĐ-CP về Quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet</small>
<small>5Trần Điệp, “Trách nhiệm pháp lý là gì? 5 loại trách nhiệm pháp lý là gì?”,[luat/trach-nhiem-phap-ly-la-gi-2707-45538-article.html</small><i><small>], hieuluat.vn, (truy cập ngày 1/08/2023) </small></i>
</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">nhiệm được hiểu dưới góc độ pháp lý chính là những hậu quả bất lợi mà nhà nước buộc các chủ thể phải gánh chịu về hành vi vi phạm.
Vì vẫn chưa có một khái niệm cụ thể nào cho thuật ngữ “Trách nhiệm sử dụng dịch vụ mạng xã hội”, nhưng chúng ta có thể suy ra được khái niệm cho thuật ngữ này thông qua những khái niệm có ở trên. Sử dụng mạng xã hội chính là tham gia truy cập và thực hiện thao tác trên mạng lưới internet cộng đồng trong và ngồi nước. Trách nhiệm sử dụng mạng xã hội chính là khi tham gia truy cập và thao tác trên mạng lưới internet mỗi người phải có trách nhiệm chấp hành theo những nguyên tắc ứng xử như: “Tuân thủ pháp luật, không trái với thuần phong mỹ tục và đạo đức xã hội, an tồn và bảo mật thơng tin, trách nhiệm về hành vi và cách ứng xử trên mạng xã hội” và nếu khi tham gia sử dụng dịch vụ mạng xã hội mà người sử dụng vi phạm những quy định của pháp luật thì có thể bị xử phạt theo những chế tài pháp luật đưa ra.
b. Khái niệm vi phạm hành chính đối với trách nhiệm sử dụng dịch vụ mạng xã hội
Hoạt động quản lý nhà nước là một hình thức quản lý xã hội mới và phức tạp, có tầm quan trọng lớn đối với xã hội mà nhà nước tiến hành. Khi thực thi nhiệm vụ này, mọi hoạt động cần phải tiến hành căn cứ vào các quy định pháp luật. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, xã hội vẫn tồn tại tình trạng vi phạm pháp luật diễn ra ở hầu hết mọi lĩnh vực. Trong thực tế, vi phạm hành chính là một trong các vi phạm xảy ra nhiều nhất ở xã hội.
<b>Khoản 1, Điều 2 Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012 sửa đổi bổ sung </b>
<i><b>2020 đã quy định về vi phạm hành chính như sau: “là hành vi có lỗi do cá nhân, tổ chức </b></i>
<i>thực hiện, vi phạm quy định của pháp luật về quản lý nhà nước mà không phải là tội phạm và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt vi phạm hành chính”.</i><small>6</small>
Định nghĩa trên đã phần nào cho thấy các dấu hiệu cơ bản của vi phạm hành chính cũng như làm căn cứ để phân biệt vi phạm hành chính với vi phạm pháp luật trong các lĩnh vực khác như sau:
Thứ nhất, hành vi của con người hoặc hoạt động của tổ chức là yếu tố tiên quyết để xác định vi phạm hành chính vì hành vi là sự biểu hiện khách quan ra bên ngồi và thơng qua đó, con người mới nhận biết cũng đánh giá hành vi có vi phạm hay khơng.
<small> </small>
<small>6 khoản 1 Điều 2, Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012 sửa đổi bổ sung năm 2020 </small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">Mặt khác, nếu một cá nhân, tổ chức chỉ tồn tại suy nghĩ, tư tưởng nhưng không biểu hiện bên ngồi, khơng có hành vi cụ thể, thì khơng có vi phạm.
Thứ hai, hành vi đó phải là hành vi trái pháp luật hành chính, có thể ở dạng hành động hoặc khơng hành động. Điều này có nghĩa là cá nhân hoặc tổ chức đã không thực hiện, hoặc thực hiện không với quy định của pháp luật hành chính, hoặc vượt q u cầu, nói cách khác, nếu hành vi trên xâm phạm đến quan hệ pháp luật hành chính thì đó là hành vi trái pháp luật hành chính. Ví dụ như, khoản 3 Điều 30 Luật Giao thơng đường
<b>bộ năm 2008 có quy định về việc buông cả hai tay hoặc đi xe bằng một bánh đối với xe </b>
hai bánh, bằng hai bánh đối với xe ba bánh là hành vi người điều khiển xe mô tô hai bánh, xe mô tô ba bánh, xe gắn máy khơng được thực hiện.<small>7</small> Theo đó, nếu đối tượng trên không tuân thủ mà lại thực hiện hành vi trên thì đó là hành vi trái pháp luật và trở thành hành vi vi phạm hành chính nếu làm ảnh hưởng đến quan hệ pháp luật hành chính. Như thế, tính trái pháp luật hành chính của hành vi vi phạm hành chính cũng là một yếu tố quan trọng trong việc xác định vi phạm hành chính.
Thứ ba, cũng giống như các loại vi phạm pháp luật khác, vi phạm hành chính cần bao gồm yếu tố lỗi, lỗi ở đây có thể là lỗi cố ý hoặc vơ ý xảy ra. Nếu tính chất trái pháp luật là yếu tố khách quan của hành vi, thì lỗi là mặt chủ quan của hành vi vì nó xuất phát từ suy nghĩ, nhận thức chủ thể đối với hành vi trái pháp luật hành chính đó. Ở đây, ta cần xác định cả hai mặt khác quan và chủ quan của hành vi vi phạm hành chính, có nghĩa là cần xem xét cá nhân thực hiện hành vi đó có trái pháp luật hay khơng trước khi xác định tính chất lỗi của hành vi. Tuy nhiên, nếu chủ thể thực hiện hành vi trái pháp luật chính nhưng bị tác động bởi các yếu tố khách quan khiến cho hành vi đó được thực hiện không theo chủ ý và nhận thức của chủ thể, không theo yêu cầu của cả pháp luật hành chính thì chủ thể đó khơng có lỗi và hành vi đó khơng vi phạm pháp luật hành chính. Vì thế, chỉ khi chủ thể có thể nhận thức được việc thực hiện hành vi trái pháp luật một cách vơ ý hoặc cố ý và có lỗi, hành vi ấy mới được xem là vi phạm pháp luật hành chính.
Thứ tư, hành vi vi phạm hành chính được thực hiện bởi chủ thể có năng lực trách nhiệm pháp lý hành chính thực hiện. Năng lực trách nhiệm pháp lý nói chung và năng lực pháp lý hành chính nói riêng là khả năng gánh chịu hậu quả, biện pháp cưỡng chế <small> </small>
<small>7 khoản 3 Điều 30, Luật Giao thông đường bộ năm 2008 </small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">theo quy định của Nhà nước, đó có thể là hậu quả bất lợi về vật chất, tinh thần do hành vi của mình gây ra. Đối với cá nhân, năng lực trách nhiệm pháp lý hành chính được Nhà nước quy định theo độ tuổi và khả năng nhận thức. Đó là cá nhân đến một độ tuổi nhất định, không mắc bệnh tâm thâm và các bệnh khác làm mất khả năng nhận thức và điều khiển hành vi.<small>8</small> Vì thế, khi thực hiện hành vi vi phạm, chủ thể mất khả năng nhận thức hoặc bị ép buộc, không thể điều khiển hành vi của mình thì chủ thể đó khơng có năng lực trách nhiệm pháp lý hành chính đối với hành vi đó. Cịn đối với tổ chức, tổ chức sẽ có năng lực trách nhiệm pháp lý khi có quyết định thành lập và năng lực này sẽ chấm dứt khi tổ chức giải thể.
Thứ năm, hành vi trái pháp luật nhưng không được xem là tội phạm. Tuy vi phạm hành chính sẽ gây nguy hiểm đến xã hội nhưng vẫn chưa cấu thành tội phạm, vì vậy, cần lưu ý nhận biết các dấu hiệu phân biệt hành vi đó là vi phạm hành chính hay tội phạm hình sự. Thực tế, rất khó xác định liệu đâu là tội phạm hình sự, đâu là vi phạm hành chính, vì vậy, việc xác định rõ dấu hiệu này rất quan trọng để tránh tùy tiện khi truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc truy cứu trách nhiệm hành chính. <small>9</small>Mức độ nguy hiểm của hành vi trái pháp luật đối với xã hội là dấu hiệu cơ bản để phân biệt vi phạm hành chính và tội phạm hình sự. Xét theo yếu tố này thì so với tội phạm hình sự, vi phạm hành chính mức độ đe dọa đối với xã hội hơn thấp hơn. Chẳng hạn như, vi phạm quy tắc giao thông đường thông thường sẽ được xem là vi phạm hành chính và tùy theo mức độ mà chịu mức hình phạt nhất định. Tuy nhiên nếu hành vi vi phạm trên gây ra hậu quả nghiêm trọng hoặc làm người khác thiệt mạng thì phải truy cứu trách nhiệm hình sự. Vì thế, cần nắm vững dấu hiệu trên để việc xử phạt hành chính diễn ra đúng pháp luật, “không để lọt vi phạm nhưng cũng không xử phạt oan sai, không xử phạt nhầm sang tội phạm hình sự hoặc ngược lại”.<small>10</small>
Từ những dấu hiệu trên kết hợp với khái niệm trách nhiệm sử dụng dịch vụ mạng
<i>xã hội, ta có thể hiểu vi phạm hành chính trách nhiệm sử dụng dịch vụ mạng xã hội là </i>
<small> </small>
<small>8 Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh (2021), Giáo trình Luật Hành chính Việt Nam, NXB Hồng Đức, tr.559. </small>
<small>9 Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh (2015), Chủ biên: PGS.TS Nguyễn Cảnh Hợp và các tác giả khác, </small>
<i><small>Bình luận khoa học Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012, NXB Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh, tr. 41 - </small></i>
<small>56 </small>
<small>10 Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh (2021), Giáo trình Luật Hành chính Việt Nam, Nxb. Hồng Đức, tr.561 </small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17"><i>hành vi sử dụng dịch vụ mạng xã hội nhưng không tuân thủ theo những quy tắc xử sự chung do Nhà nước ban hành, xâm phạm đến danh dự, quyền và lợi ích hợp pháp của quốc gia, tổ chức, , cá nhân, có lỗi cố ý hoặc vô ý do cá nhân hoặc tổ chức gây ra, vi phạm các quy định của pháp luật về lĩnh vực quản lý trách nhiệm sử dụng dịch vụ mạng xã hội và về quy tắc ứng xử trên mạng xã hội nhưng không phải là tội phạm và được quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật hành chính.</i>
c. Cấu thành vi phạm hành chính đối với trách nhiệm sử dụng dịch vụ mạng xã hội Khi xem xét và xác định liệu hành vi đó có vi phạm hành chính trách nhiệm sử dụng mạng xã hội hay không, ta phải làm rõ những biểu hiện của hành vi vi phạm, nếu thiếu đi một trong những yếu tố đó, thì khơng có vi phạm hành chính xảy ra. Với ý nghĩa đó, cũng giống như vi phạm pháp luật nói chung, vi phạm hành chính trách nhiệm sử dụng mạng xã hội gồm bốn yếu tố cấu thành: <small>11</small>Mặt khách quan; mặt chủ quan; chủ thể và khách thể vi phạm hành chính trách nhiệm sử dụng mạng xã hội.
Một là, mặt khách quan của hành vi vi phạm. Mặt khách quan là yếu tố được biểu hiện ra bên ngồi mà con người có thể nhìn thấy hoặc nhận thức. Hành vi trái pháp luật, đây là dấu hiệu quan trọng khi nói đến mặt khách quan của vi phạm hành chính. Đó có thể là việc chủ thể hành động hoặc không hành việc mà pháp luật cấm hoặc không đúng pháp luật quy định (không đủ hoặc quá mức cho phép), vi phạm trách nhiệm sử dụng mạng xã hội, làm ảnh hưởng đến quyền lợi và lợi ích hợp pháp của người khác. Ngồi ra, việc vi phạm đó cịn xâm phạm đến sự quản lý hành chính nhà nước về quản lý trách nhiệm sử dụng dịch vụ mạng xã hội. Tuy nhiên, hành vi đó phải được biểu hiện ra bên ngồi và cụ thể. Trường hợp chủ thể chỉ vừa có ý nghĩ, tư tưởng hay ý chí nhưng chưa được thể hiện ra thế giới khách quan thì khơng thể bị coi là vi phạm pháp luật và hành vi đó khơng phải hành vi trái pháp luật. Từ đó, ta có thể thấy rằng, để xác định một hành vi là vi phạm hành chính trách nhiệm sử dụng dịch vụ mạng xã hội và cấu thành vi phạm hành chính hay khơng cần có những căn cứ thỏa mãn các yếu tố trên về mọi mặt.
Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và hậu quả do hành vi đó gây ra: so với dấu hiệu hành vi trái pháp luật nói trên thì hai yếu tố này nhìn chung khơng bắt buộc phải có trong vi phạm hành chính. Hành vi trái pháp luật xảy ra trước hậu quả <small> </small>
<small>11 Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh (2019), Tập bài giảng Lý luận về pháp luật (tái bản lần 1, sửa đổi và </small>
<i><small>bổ sung), NXB Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam, tr.235. </small></i>
</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">xâm hại các quan hệ xã hội. Nói cách khác, hành vi trái pháp luật là tiền đề làm xuất hiện hậu quả.<small>12</small>
Ví dụ: anh Q sử dụng tài khoản Facebook cá nhân để đăng tải bài viết với tiêu đề: "Chưa có biên bản nào mà đã tịch thu tài sản của công dân, Công an huyện Đ làm việc ngồi trên pháp luật " và chia sẻ vào nhiều hội nhóm nhằm mục đích xúc phạm uy tín và hình ảnh lực lượng cơng an huyện Đ. Trong trường hợp này, hành vi của Q là hành vi trái pháp luật khi đã vi phạm đến trách nhiệm sử dụng dịch vụ mạng xã hội
<b>được quy định ở khoản 4 khoản 6 Điều 4 Quyết định số 874/QĐ-BTTTT và điểm a khoản 1 Điều 101 Nghị định số 15/2020/NĐ-CP ngày 03-02-2020 của Chính phủ quy </b>
định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bưu chính, viễn thơng, tần số vơ tuyến điện, công nghệ thông tin và giao dịch điện tử. Hành vi nói trên đãxâm phạm đến danh dự nhân phẩm, uy tín của cơ quan tổ chức, cá nhân mà cụ thể ở đây là công an huyện Đ. Hậu quả để lại là hình ảnh của lực lượng công an huyện Đ đã bị bôi nhọ, ảnh hướng đến uy tín và danh dự của tổ cơng tác khi tham gia quản lý xã hội. Như vậy, hành vi trái pháp luật của anh Q đã xảy ra trước và dẫn đến hậu quả như trên.<small>13</small>
Ngoài hai dấu hiệu trên, công cụ và phương tiện vi phạm cũng là một yếu tố cấu thành nên vi phạm hành chính trách nhiệm sử dụng dịch vụ mạng xã hội. Chủ thể có hành vi vi phạm khi sử dụng dịch vụ mạng xã hội, với mục đích riêng hoặc của người khác mà trực tiếp hay gián tiếp vi phạm đến trách nhiệm sử dụng mạng xã hội của mình, xâm phạm đến các quy tắc xử sự mà pháp luật hành chính quy định. Chủ thể có thể thực hiện hành vi đó thơng qua việc truy cập các trang mạng xã hội, chẳng hạn như Facebook bằng các thiết bị như điện thoại, máy tính và đặc biệt, trong thời đại 4.0 hiện nay thì điều này diễn ra ngày càng phổ biến hơn bao giờ hết. Ngồi ra, các ấn phẩm, phương tiện truyền thơng đăng tải trên mạng xã hội như bài viết; banner; poster; hình ảnh cũng là cơng cụ để cá nhân hay tổ chức đó thực hiện hành vi vi phạm.
</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">chủ thể thực hiện hành vi vi phạm đối với hành vi đó và hậu quả mà hành vi đó gây nên. Một người bị xem là có lỗi trong trường hợp hành vi đó được thực hiện bởi chủ thể có đầy đủ khả năng nhận thức, khả năng quyết định đối với hành vi của mình nhưng lại lựa chọn việc xử sự trái pháp luật và mang lại hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Nếu chủ thể thực hiện hành vi vi phạm nhưng sau khi chứng minh được chủ thể đó khơng thể nhận thức được hoặc không thể tự điều khiển hành vi của mình (khơng có quyền tự do lựa chọn cách xử sự) thì khơng thể xảy ra hành vi vi phạm hành chính. Cũng giống với các vi phạm pháp luật, lỗi trong vi phạm hành chính trách nhiệm sử dụng mạng xã hội thể hiện dưới hai dạng: lỗi cố ý và lỗi vô ý.
Lỗi cố ý xảy ra khi chủ thể nhận biết rõ ràng hành vi của mình sẽ gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội nhưng vẫn lựa chọn thực hiện hành vi ấy, vi phạm trách nhiệm sử dụng mạng xã hội của mình và làm xâm phạm đến các quyền cũng như lợi ích của người khác. Chủ thể đã thấy trước hậu quả của hành vi mà có thể đã mong muốn hậu quả xảy ra hoặc để nó xảy ra một cách khơng mong muốn. Chẳng hạn như một người cắt ghép và chỉnh sửa ảnh của cá nhân khác sau đó đăng tải lên tài khoản mạng xã hội của mình với mục đích giả mạo danh tính của người để phục vụ cho mục đích. Trong trường hợp này, chủ thể đã biết rõ hành vi của mình là vi phạm nhưng vẫn thực hiện hành vi đó một cách cố ý để phục vụ ý đồ vi phạm của mình.
Lỗi vơ ý xuất hiện kể từ khi hành vi mà chủ thể thực hiện gây ra nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến các quan hệ, quy tắc xử sự mà Luật Hành chính trong lĩnh vực quản lý trách nhiệm sử dụng mạng xã hội điều chỉnh. Thế nhưng, khi thực hiện hành vi đó, chủ khơng lường trước được hậu quả sẽ xảy ra hoặc khơng mong muốn hậu quả đó xảy ra. Ví dụ điển hình trong trường hợp này là vụ việc một đoạn clip của nữ sinh của trường Đại học Ngoại ngữ - Tin học Thành phố Hồ Chí Minh (HUFLIT) được cho là bị tấn cơng tình dục tập thể khi đang trong quá trình học quân sự. Trong khoảng thời gian đó, đã có rất nhiều trang mạng xã hội cũng như các tài khoản cá nhân lan truyền thông tin này dù chưa được kiểm chứng. Họ đã vội vàng chia sẻ, phát tán thông tin thất thiệt, chưa qua kiểm định này mà khơng lường trước được hậu quả vì khơng phải tất cả mọi người sử dụng mạng xã hội đều được biết đến mức độ nghiêm trọng của việc lan truyền thông tin sai sự thật và chỉ đơn giản nghĩ rằng, đó là “thơng tin trên mạng, nhanh đến
</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">nhanh đi”. <small>14</small>Như vậy, hành vi của các chủ thể nói trên là vi phạm pháp luật, thế nhưng, họ lại không biết được hành vi của mình là vi phạm cũng như mức độ lan truyền chóng mặt của internet sẽ làm ảnh hưởng đến các cá nhân, tổ chức liên quan.
Yếu tố thứ hai cần đề cập trong mặt chủ quan đó là động cơ thực hiện hành vi vi phạm đó. Động cơ chính là sự thúc đẩy và duy trì một hành động hay hành vi của chủ thể. Có thể kể đến các loại động cơ như tư thù cá nhân, vụ lợi....
Dấu hiệu cuối cùng chính là mục đích mà chủ thể thực hiện hành vi vi phạm. Mục đích vi phạm của chủ thể thông thường sẽ thể hiện được mức độ nguy hiểm của hành vi đó, vì vậy, cần xác định rõ liệu hành vi của chủ thể có hội tụ đầy đủ và thỏa mãn dấu hiệu này hay không trong việc xử phạt vi phạm hành chính trách nhiệm sử dụng mạng xã hội.
Ba là, về mặt chủ thể, <small>15</small>chủ thể của hành vi vi phạm trách nhiệm sử dụng mạng xã hội có thể là cá nhân hoặc tổ chức mà có năng lực trách nhiệm pháp lý hành chính đối với hành vi vi phạm hành chính về trách nhiệm sử dụng dịch vụ mạng xã hội của mình, nói cách khác, họ phải mọi trách nhiệm hành chính khi thực hiện hành vi vi phạm đó.
<b>Xét về chủ thể là cá nhân, điểm a khoản 1 Điều 5 Luật xử lý vi phạm hành </b>
<i><b>chính 2012 sửa đổi bổ sung 2020 quy định: “Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi bị </b></i>
<i>xử phạt vi phạm hành chính về vi phạm hành chính do cố ý; người từ đủ 16 tuổi trở lên bị xử phạt vi phạm hành chính về mọi vi phạm hành chính”. Theo đó, ta có thể chia chủ </i>
thể là cá nhân theo 2 nhóm tuổi sau:<small>16</small>
Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi: là chủ thể của hành vi vi phạm hành chính do lỗi cố ý, không bị mất khả năng nhận thức và làm chủ hành vi.
Người từ đủ 16 tuổi trở lên: chủ thể chịu trách nhiệm đối với mọi vi phạm hành chính, có thế do lỗi cố ý hoặc vô ý.
<small> </small>
<small>14 Huy Phạm, “Vụ tung tin sai sự thật về nữ sinh trường HUFLIT: Cần xử nghiêm để răn đe”, Báo Điện tử </small>
<i><small>Chính phủ, </small></i>
<small>[102230113171257014.htm] (truy cập ngày 10/12/2022) </small>
<small> khoản 1 Điều 5, Văn bản hợp nhất 31/VBHN-VPQH 2020 Luật Xử lý vi phạm hành chính 16 Điểm a khoản 1 Điều 5, Văn bản hợp nhất 31/VBHN-VPQH 2020 Luật Xử lý vi phạm hành chính </small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">Mặt khác, nếu hành vi vi phạm xảy ra ở cá nhân mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình thì cá nhân ấy không được xem là chủ thể của vi phạm trách nhiệm sử dụng mạng xã hội.
Xét về chủ thể là tổ chức: tổ chức là chủ thể vi phạm hành chính có thể là cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang nhân dân…..
Bốn là, về mặt khách thể, khách thể của vi phạm hành chính đối với trách nhiệm sử dụng dịch vụ mạng xã hội là trật tự quản lý của nhà nước đối với trách nhiệm sử dụng dịch vụ mạng xã hội của mỗi cá nhân, tổ chức. Trách nhiệm sử dụng dịch vụ mạng xã hội là quy tắc xử sự và trách nhiệm được pháp luật ghi nhận mà mỗi người khi tham gia sử dụng mạng xã hội cần thực hiện theo. Theo đó, nhà nước cần quản lý và đảm bảo điều đó diễn ra một cách đúng đắn thông qua việc thực hiện pháp luật hành chính đối với trách nhiệm sử dụng dịch vụ mạng xã hội.
<i><b>1.1.2 Phân biệt vi phạm hành chính đối với trách nhiệm sử dụng dịch vụ mạng xã hội với tội phạm vi phạm trách nhiệm sử dụng dịch vụ mạng xã hội.</b></i>
Việc phân biệt rõ đâu là hành vi vi phạm hành chính, đâu là tội phạm hình sự cũng là một trong những vấn đề đặc biệt cần lưu ý khi xử phạt vi phạm hành chính đối với trách nhiệm sử dụng dịch vụ mạng xã hội. Trong nhiều trường hợp trên thực tế, vi phạm hành chính và tội phạm hình sự có ranh giới rất mong manh và nếu như không phân định rõ vấn đề này rất dễ xảy ra tình trạng xử phạt sai hành vi vi phạm và “để lọt tội phạm”.
Thứ nhất, xét về khái niệm:
Vi phạm hành chính trách nhiệm sử dụng dịch vụ mạng xã hội là hành vi sử dụng dịch vụ mạng xã hội nhưng không tuân thủ theo những quy tắc xử sự chung do Nhà nước ban hành, xâm phạm đến danh dự, quyền và lợi ích hợp pháp của quốc gia, tổ chức, cá nhân, có lỗi cố ý hoặc vô ý do cá nhân hoặc tổ chức gây ra, vi phạm các quy định của pháp luật về lĩnh vực quản lý trách nhiệm sử dụng dịch vụ mạng xã hội và về quy tắc ứng xử trên mạng xã hội của nhà nước nhưng không phải là tội phạm và được quy định chế tài trong các văn bản quy phạm pháp luật.
Tội phạm hình sự đối với trách nhiệm sử dụng dịch vụ mạng xã hội là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật Hình sự do cá nhân có năng lực trách
</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm trực tiếp hoặc gián tiếp đến trật tự quản lý nhà nước đối với trách nhiệm sử dụng dịch vụ mạng xã hội và phải xử lý hình sự theo quy định của luật này.
Thứ hai, về cơ sở pháp lý, vi phạm hành chính đối với trách nhiệm sử dụng dịch vụ mạng xã hội được quy định cả trong luật, các văn bản hướng dẫn như nghị định, thông tư về xử phạt vi phạm hành chính. Cịn tội phạm hình sự về trách nhiệm sử dụng dịch vụ mạng xã hội chỉ được quy định trong Bộ luật Hình sự do Quốc hội ban hành. Điều này có nghĩa, nếu hành vi đó khơng quy định tại Bộ luật Hình sự thì đó khơng phải tội phạm.
Thứ ba, xét theo mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi - dấu hiệu cơ bản nhất khi phân biệt vi phạm hành chính và tội phạm thì vi phạm hành chính mức độ nguy hiểm thấp hơn. Hành vi vi phạm trách nhiệm sử dụng mạng xã hội thường chỉ xảy ra hậu quả về trật tự quản lý nhà nước đối với trách nhiệm sử dụng dịch vụ mạng xã hội, cịn đối với tội phạm hình sự, khơng những trật tự quản lý nhà nước nói trên bị xâm phạm mà các cá nhân, tổ chức cũng sử dụng mạng xã hội cịn có thể bị ảnh hưởng. Chẳng hạn như với cùng hành vi đăng tải, chia sẻ thông tin giả mạo trên mạng xã hội, theo điểm a khoản 1 Điều 101 Nghị định 15/2020/NĐ-CP, chủ thể vi phạm sẽ bị xử phạt hành chính từ 10 đến 20 triệu đồng. <small>17</small>Trong khi nếu hậu quả để lại là danh dự, nhân phẩm của người khác bị bơi nhọ thì hành vi trên cấu thành tội phạm quy định tại Điều 155 và 156 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, theo đó người phạm tội sẽ bị phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù tùy theo mức độ nguy hiểm.
<small>18</small>Cuối cùng nhưng không kém phần quan trọng, để phân biệt giữa vi phạm hành chính và xử phạt vi phạm luật Hình sự đó là về thẩm quyền xử phạt, định tội. Có thể thấy thẩm <small> </small>
<small>17 Điểm a khoản 1 Điều 101, Nghị định 15/2020/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bưu chính, viễn thông, công nghệ thông tin và tần số vô tuyến điện ( sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 14/2022/NĐ-CP năm 2022 ) </small>
<small>18 khoản 1 khoản 2 Điều 155, Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017: </small>
<i><small>“1. Người nào xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người khác, thì bị phạt cảnh cáo, phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm. </small></i>
<i><small>2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm: a) Phạm tội 02 lần trở lên; </small></i>
<i><small>b) Đối với 02 người trở lên; c) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn; d) Đối với người đang thi hành công vụ; </small></i>
<i><small>đ) Đối với người dạy dỗ, ni dưỡng, chăm sóc, chữa bệnh cho mình; </small></i>
<i><small>e) Sử dụng mạng máy tính hoặc mạng viễn thông, phương tiện điện tử để phạm tội; g) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân từ 11% đến 45%.” </small></i>
</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">quyền là khác nhau rất nhiều, trong đó thẩm quyền phán quyết hành vi vi phạm là có tội hay khơng có tội chỉ thuộc quyền của Tịa án, cịn thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính thì được trao cho nhiều chủ thể khác nhau như: Chủ tịch Ủy ban nhân dân, lực lượng công an nhân dân, Bộ đội biên phòng, Cảnh sát biển… <small>19</small>
<i><b>1.1.3 Xử phạt vi phạm hành chính đối với vi phạm trách nhiệm sử dụng dịch vụ mạng xã hội. </b></i>
a. Khái niệm xử phạt vi phạm hành chính đối với vi phạm trách nhiệm sử dụng dịch vụ mạng xã hội.
<b>Trước hết, khái niệm xử phạt hành chính theo quy định tại khoản 2 Điều 2 Luật </b>
<i><b>xử lý vi phạm hành chính 2012 sửa đổi bổ sung 2020 cụ thể như sau :”Xử phạt vi </b></i>
<i>phạm hành chính là việc người có thẩm quyền xử phạt áp dụng hình thức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả đối với cá nhân, tổ chức thực hiện hành vi vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính.” Theo điều trên có thể thấy </i>
rằng xử phạt hành chính có những đặc điểm cơ bản sau:
Đầu tiên, xử phạt vi phạm hành chính được áp dụng đối với cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật. Có thể thấy, chỉ có những cá nhân, tổ chức thực hiện hành vi vi phạm hành chính thì bị xử phạt hành chính theo quy định của pháp luật, hay nói cách khác, vi phạm hành chính là cơ sở để tiến hành hoạt động xử phạt hành chính.
Kế đến, xử phạt hành chính được tiến hành bởi chủ thể có thẩm quyền theo quy định pháp luật. Luật xử lý vi phạm hành chính và các văn bản pháp luật khác quy định về xử phạt hành chính sẽ giành một chương để quy định về thẩm quyền xử phạt với từng hành vi dựa trên tính chất nặng nhẹ, quyền hạn, nghĩa vụ, mức tiền áp dụng mà xác định được người có thẩm quyền. Mỗi lĩnh vực vi phạm khác nhau thì người có thẩm quyền xử lý khác nhau<small>20</small>.
Tiếp theo, xử phạt vi phạm hành chính được tiến hành theo những nguyên tắc, trình tự, thủ tục nhất định. Những nguyên tắc trình tự, thủ tục ấy sẽ do các cơ quan nhà <small> </small>
<small>19 Điều 38- Điều 51, Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012 (sửa đổi, bổ sung năm 2020) </small>
<small>20Luật Hồng Anh</small><i><small>, “</small></i><small>Xử phạt hành chính là gì? Đặc điểm của xử phạt hành chính”, </small><i><small>luathoanganh.vn, </small></i>
<small>lha1894.html](truy cập ngày 10/05/2023) </small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">[ có thẩm quyền ban hành và được quy định trong các văn bản pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính. Đây cũng chính là căn cứ để xác định tính đúng sai của hành vi vi phạm, xác định căn cứ xử phạt cũng như tính khách quan của quyết định nhằm đảm bảo việc áp dụng pháp luật hiệu quả trong hoạt động xử phạt hành chính.
Cuối cùng, kết quả của hoạt động xử phạt vi phạm hành chính thể hiện ở quyết định xử phạt hành chính. Quyết định xử phạt hành chính là văn bản ghi nhận các hình thức, biện pháp xử phạt nhằm khắc phục hậu quả áp dụng với tổ chức, cá nhân vi phạm hành chính. Bên cạnh đó, mỗi vi phạm hành chính được quy định một hình thức xử phạt chính, có thể quy định một hoặc nhiều hình thức xử phạt bổ sung kèm theo<small>21</small>.
<i><b>Căn cứ từ những điều trên, có thể hiểu, xử phạt vi phạm hành chính đối với vi </b></i>
<i><b>phạm trách nhiệm sử dụng dịch vụ mạng xã hội là khi chủ thể, cơ quan có thẩm quyền </b></i>
<i>xử phạt áp dụng những biện pháp xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả theo trình tự thủ tục và đi dến ban hành quyết định xử phạt đối với những cá nhân tổ chức vi phạm hành chính trong lĩnh vực mạng xã hội cụ thể là vi phạm đến trách nhiệm sử dụng mạng xã hội của mình theo quy định của pháp luật xử lý vi phạm hành chính. </i>
b. Nguyên tắc xử phạt vi phạm hành chính đối với vi phạm trách nhiệm sử dụng mạng xã hội
Khi thực hiện việc xử phạt hành chính nói chung và xử phạt vi phạm hành chính đối với vi phạm trách nhiệm sử dụng mạng xã hội nói riêng, người có thẩm quyền xử phạt cần tiến hành hoạt động xử phạt hành chính theo một cách có ngun tắc, nghĩa là cần tuân theo những nguyên tắc xử phạt đã được pháp luật hành chính quy định. Cụ thể,
<b>Điều 3 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 sửa đổi bổ sung năm 2020 quy </b>
định những nguyên tắc sau:
Thứ nhất, nguyên tắc mọi vi phạm hành chính phải được phát hiện, ngăn chặn kịp thời và phải bị xử lý nghiêm minh, mọi hậu quả do VPHC gây ra phải được khắc phục theo đúng quy định của pháp luật. Khi chủ thể thực hiện hành vi vi phạm hành chính thì hành vi đó gây ra nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến các quyền và lợi ích hợp pháp của cá, tổ chức và Nhà nước, thế nên việc Nhà nước kịp thời phát hiện và xử phạt những <small> </small>
<small>21 khoản 3 Điều 21, Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012 sửa đổi bổ sung 2020 </small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">vi phạm hành chính rất cần thiết để giúp cho công tác xử phạt diễn ra dễ dàng hơn và góp phần ngăn chặn tác động tiêu cực của hành vi đó. Từ đây, có thể thấy, khi xử lý vi phạm, các cơ quan có thẩm quyền cần chủ động trong việc kiểm tra cũng như xác minh hành vi vi phạm nhằm bảo đảm trật tự pháp luật, nâng cao ý thức người dân trong việc tôn trọng pháp luật và ổn định trật tự quản lý nhà nước trong xã hội.
Thứ hai, nguyên tắc xử phạt hành chính được tiến hành nhanh chóng, cơng khai, khách quan, đúng thẩm quyền, bảo đảm công bằng, đúng quy định của pháp luật. Thông thường việc xử phạt hành chính khơng tốn nhiều thời gian do mức độ nguy hiểm của loại vi phạm này thấp hơn so với tội phạm. Vì thế, việc xử phạt cần được thực hiện nhanh chóng nhưng vẫn đảm bảo tính chính xác, tuân theo pháp luật để có thể ngăn chặn kịp thời hậu quả tiêu cực của hành vi vi phạm.
Về tính cơng khai, khách quan của việc xử phạt, đây là nguyên tắc chung trong hoạt động Nhà nước, trừ trường hợp liên quan đến bí mật nhà nước<small>22</small>. Điều này có nghĩa, trừ trường hợp được quy định trên thì khi xử phạt cần công khai các văn bản xử lý vi phạm, cơng khai việc xử phạt hành chính nếu cần thiết, các thủ tục hỗ trợ cho việc xác minh hành vi vi phạm hành chính, những điều này giúp cho việc xử lý vi phạm trở nên dễ dàng hơn, hạn chế được sai phạm trong xử phạt hành chính và đảm bảo xử lý đúng người, đúng vi phạm.
Về việc tính đúng thẩm quyền, cơng bằng, đúng quy định của pháp luật, xử phạt vi phạm hành chính là việc người có thẩm quyền xử phạt áp dụng hình thức xử phạt đối hành vi vi phạm hành chính và việc xử phạt đúng thẩm quyền sẽ tránh được tình trạng chồng chéo, bỏ sót vi phạm, góp tạo sự thuận lợi, chính xác hơn khi xử phạt. Xử phạt cịn cần có tính cơng bằng để khi có hành vi vi phạm, chủ thể nào có vi phạm giống nhau thì xử phạt giống nhau theo điều kiện, mức độ nguy hiểm của hành vi.
Thứ ba, việc xử phạt phải căn cứ vào tính chất, mức độ, hậu quả vi phạm, đối tượng vi phạm và tình tiết giảm nhẹ, tình tiết tăng nặng. Nguyên tắc này cho thấy, đối với mỗi hành vi vi phạm hành chính, các cơ quan có thẩm quyền xử phạt cần phải xác <small> </small>
<small>22 PGS. TS. Bùi Thị Đào, THS. Hoàng Thị Lan Phương, (2019), “Nguyên tắc xử phạt vi phạm hành chính theo </small>
<i><small>pháp luật hiện hành”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 23, (399), tr.34-35. </small></i>
</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">định rõ mức độ, tính chất, các tình tiết tăng nặng hay giảm nhẹ để quyết định hình thức và mức xử phạt.
Thứ tư, nguyên tắc chỉ xử phạt vi phạm hành chính khi có hành vi vi phạm hành chính do pháp luật quy định; một hành vi vi phạm chỉ bị xử phạt một lần; nhiều người cùng thực hiện một hành vi vi phạm hành chính thì mỗi người vi phạm đều bị xử phạt về hành vi VPHC đó; một người thực hiện nhiều hành vi vi phạm hành chính hoặc vi phạm hành chính nhiều lần thì bị xử phạt về từng hành vi vi phạm. Nguyên tắc này đã chỉ ra rằng chỉ cơ quan có thẩm quyền mới có quyền xác định hành vi trái pháp luật là hành vi vi phạm hành chính và trong trường hợp có hành vi nguy hiểm cho xã hội nhưng pháp luật chưa quy định đó là hành vi vi phạm hành chính thì cá nhân, tổ chức khơng phải chịu trách nhiệm hành chính về hành vi đó. Trong trường hợp có quy định hành vi đó là vi phạm hành chính thì cá nhân, tổ chức mỗi khi thực hiện hành vi sẽ bị xử phạt một lần về hành vi đã thực hiện.
Cuối cùng là nguyên tắc đối với cùng một hành vi vi phạm hành chính thì mức phạt tiền đối với tổ chức bằng 02 lần mức phạt tiền đối với cá nhân. Đây cũng là nguyên tắc mới được đưa vào trong Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012. Theo đó, khi thực hiện hành vi vi phạm có tất cả mọi tình tiết giống nhau thì tổ chức vi phạm sẽ bị phạt tiền với mức tiền phạt cao gấp đôi so với mức tiền phạt đối với cá nhân đã thành niên. Nguyên tắc này đã được cụ thể hóa trong tất cả các nghị định quy định về vi phạm hành chính và xử phạt vi phạm hành chính trong các lĩnh vực cụ thể<small>23</small>.
Căn cứ từ những phân tích trên, có thể kết luận như sau: Trong lĩnh vực xử phạt hành chính đối dịch vụ mạng xã hội, khi thực hiện xử phạt, các cơ quan có thẩm quyền xử phạt cũng cần tuân theo những nguyên tắc nêu trên để kiểm soát, hỗ trợ việc xác định hành vi vi phạm và mức xử phạt, từ đó thực hiện các biện pháp khắc phục hậu quả giúp ngăn ngừa, phịng chống vi phạm hành chính đối với trách nhiệm sử dụng mạng xã hội và đảm bảo trật tự quản lý của nhà nước trong lĩnh vực này.
<small> </small>
<small>23 PGS. TS. Bùi Thị Đào, THS. Hoàng Thị Lan Phương, (2019), “Nguyên tắc xử phạt vi phạm hành chính theo </small>
<i><small>pháp luật hiện hành”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 23, (399), </small></i><small>tr. 37. </small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">c. Ý nghĩa của xử phạt vi phạm hành chính đối với vi phạm trách nhiệm sử dụng dịch vụ mạng xã hội.
Ý nghĩa của xử phạt hành chính chính là đem lại sự nhanh chóng, kịp thời và thể hiện được tính nghiêm minh của pháp luật vi những vi phạm hành chính diễn ra phổ biến và ít nghiêm trọng hơn tội phạm nên việc xử phạt nhanh chóng kịp thời là để là khơng tốn nhiều thời gian mà vẫn đảm bảo chính xác và nghiêm minh, với những vi phạm khi sử dụng dịch vụ mạng xã hội phải có chế tài phù hợp và giải quyết một cách công khai là để cho thấy về tính nghiêm minh của pháp luật từ đó mang tính răn đe với những đối tượng chuẩn bị thực hiện vì khi biết những bất lợi khi đăng tải thông tin sai sự thật sự e dè sẽ khiến những đối tượng suy nghĩ về những hành động tiếp theo.
Ngoài ý nghĩa răn đe, việc xử phạt cịn mang ý nghĩa cho những người có thẩm quyền xử lý nhận biết vi phạm, sau khi ban hành những văn bản quy phạm pháp luật về xử phạt hành chính những người có thẩm quyền xử lý có thể nhận biết hoặc đề phòng những hành vi vi phạm, phân biệt được rằng hành vi nào khi sử dụng mạng xã hội là hành vi vi phạm luật hành chính hành vi nào khơng hoặc hành vi nào là do những quy định của luật khác điều chỉnh từ đó đưa ra những quyết định phù hợp.
Cuối cùng là ý nghĩa tuyên truyền, tuyên truyền về những vi phạm khi biết được những hành vi vi phạm, có thể tuyên truyền cho người dân về mức độ nguy hại, từ đó vận động người dân khơng làm theo và cần phải phối hợp với các cơ quan có thẩm quyền tìm ra tố giác những đối tượng vi phạm để có thể dễ quản lý hơn vì khơng gian mạng là khơng gian mà ở đó thơng tin dường như là vơ hạn nên việc kiểm sốt coi như là khơng thể nên cần phải có những cuộc vận động tuyên truyền.
<b>1.2 Pháp luật Việt Nam về xử phạt vi phạm hành chính đối với vi phạm trách nhiệm sử dụng dịch vụ mạng xã hội. </b>
<i><b>1.2.1 Khái quát pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính đối với vi phạm trách nhiệm sử dụng mạng xã hội ở Việt Nam. </b></i>
Văn bản luật có vai trị là cơ sở tác động, đưa ra phương hướng thi hành, xác định ra cơ sở những hành vi vi phạm đối với xử phạt vi phạm hành chính đối với vi phạm trách nhiệm sử dụng dịch vụ mạng xã hội. Từ đó, làm nền tảng để các văn bản pháp luật
</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">khác có liên quan đặt cụ thể ra các hành vi và xử phạt vi phạm, tùy theo mức độ vi phạm hành chính hay vi phạm hình sự.
Điều 8 Luật An ninh mạng 2018<small>24</small> đã quy định rõ những hành vi bị nghiêm cấm mang tính xâm phạm như quyền tự do và an ninh cá nhân; xâm hại đến danh dự hay uy tín cá nhân, can thiệp đến đời tư gia đình, chỗ ở hoặc thư tín, xâm hại đến quyền tự do, tín ngưỡng và tơn giáo của cơng nhân… mang nghĩa chung là quyền con người.
Không như các nước Mỹ cấm sử dụng Tik Tok, Trung Quốc chặn các ip Trung Quốc tải các ứng dụng, dịch vụ mạng xã hội nước ngoài, luật An ninh mạng những quy định mang tính cấm đốn, Bên cạnh đó, Luật An ninh mạng không cấm các nhà cung cấp dịch vụ nước ngồi, như: Facebook, Google...; khơng cấm cơng dân tham gia hoạt động trên không gian mạng hoặc lấy, sử dụng thông tin trên không gian mạng...Tuy nhiên, việc sử dụng khơng gian mạng của cá nhân, tổ chức ai có hành vi vi phạm pháp luật sẽ bị truy cứu trách nhiệm theo pháp luật.
Điều 9 của Luật an ninh mạng 2018<small>25</small> đã được thiết lập để đảm bảo rằng những người sử dụng dịch vụ mạng xã hội hoàn thành trách nhiệm của họ và tuân thủ các quy định liên quan đến an ninh mạng. Điều này nhằm bảo vệ thông tin cá nhân, quyền riêng tư và sự an toàn của người dùng khi sử dụng các dịch vụ này. Theo Điều 9, những người vi phạm các quy định liên quan đến an ninh mạng có thể bị xử phạt theo hình thức xử phạt hành chính. Các biện pháp xử phạt có thể áp dụng bao gồm việc cảnh cáo, phạt tiền và tước quyền sử dụng các dịch vụ mạng xã hội trong một khoảng thời gian nhất định. Điều này nhằm đánh giá và trừng phạt những hành vi vi phạm an ninh mạng để duy trì trật tự và an tồn trong không gian mạng. Điều 9 của Luật an ninh mạng 2018 tập trung vào quản lý và bảo vệ thông tin cá nhân trên môi trường số. Theo Điều 9, các tổ chức cung cấp dịch vụ mạng phải tuân thủ các quy định và quy trình liên quan đến việc thu thập, sử dụng, lưu trữ và bảo vệ thông tin cá nhân. Mục tiêu là đảm bảo an toàn và bảo vệ quyền riêng tư của người dùng trong không gian số. Quy định này yêu cầu các tổ chức phải có chính sách rõ ràng về quản lý thông tin cá nhân, cung cấp cho người dùng biết được loại thông tin nào được thu thập, mục đích sử dụng và phương thức bảo
<small> </small>
<small>24Điều 8 Luật An ninh mạng 2018 25Điều 9 Luật an ninh mạng 2018 </small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">vệ. Ngồi ra, tổ chức phải có biện pháp an ninh công nghệ để ngăn chặn truy cập trái phép hoặc sử dụng sai mục đích vào thông tin cá nhân của người khác. Để tuân thủ Luật an ninh mạng 2018 và Điều 9 này, các tổ chức cần thiết lập hệ thống kiểm soát nội bộ để đảm bảo tuân thủ quy định, cung cấp thông tin cho người dùng và xử phạt các khiếu nại liên quan đến việc xử lý thông tin cá nhân. Ngồi ra, họ cũng phải có chính sách về bảo mật dữ liệu và huấn luyện nhân viên để tăng cường nhận thức về an ninh mạng.
Xét về quyền con người, quyền của cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp, Luật An ninh mạng 2018 không hạn chế, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể này. Ngược lại, Luật An ninh mạng là công cụ pháp lý hữu hiệu để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp và giải phóng người dân, doanh nghiệp khỏi “ơ nhiễm” thơng tin, như đảm bảo an tồn khơng khí, nước uống, an tồn thơng tin sản phẩm, cung cấp thực phẩm sạch cho sức khỏe con người. Có thể nói, chưa có luật nào quy định nhiều về bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân trên không gian mạng như Luật An ninh mạng.
Mặc dù lợi ích và sự cấp thiết của việc áp dụng Luật An ninh mạng tại Việt Nam là điều không thể chối cãi được. Tuy nhiên, thực tế sự ra đời và chế tài áp dụng của Luật An ninh mạng cũng đang là rào cản cho hoạt động lợi dụng không gian mạng chống Đảng, Nhà nước của các đối tượng gây rối. Bọn chúng xuyên tạc và cho rằng hoạt động phát tán tin thất thiệt, thông tin sai sự thật, thông tin xấu độc là xâm phạm quyền con người, quyền tự do báo chí. Vì vậy, chúng bày ra các chiêu thức tinh vi, thâm độc nhằm tuyên truyền, xuyên tạc tính ưu việt của Luật An ninh mạng, lơi kéo, kích động người dân xuống đường tuần hành yêu cầu Quốc hội thông qua Luật An ninh mạng với những nội dung bịa đặt như: Luật An ninh mạng đang "chống lại loài người", "bịt miệng dân chủ", "đàn áp bất đồng chính kiến", "tạo rào cản kinh doanh", "tăng chi phí cho doanh nghiệp", "thêm giấy phép con", "lạm quyền", "cấm dùng Facebook và Google...
Vì vậy áp dụng Luật An ninh mạng nước ta đối với hành vi vi phạm trên nhằm làm cơ sở xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi vi phạm pháp luật trên khơng gian mạng, trong đó bao quanh các phương tiện thông tin đại chúng và mạng xã hội được con người dùng để sử dụng dịch vụ mạng xã hội. Luật An ninh mạng năm 2018 đã chỉ rõ tương đối đầy đủ và chi tiết hơn các hành vi vi xâm hại đến cá nhân, tổ chức
</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">khi sử dụng dịch vụ mạng xã hội. Đây là một cơ sở pháp lý quan trọng để xác định những hành vị vi phạm cụ thể để truy cứu, xử phạt vi phạm hành chính.
Luật Quảng cáo là một hệ thống quy định và hướng dẫn sử dụng các phương pháp truyền thông và quảng cáo để đảm bảo sự cơng bằng và chính xác trong việc tiếp cận thông tin đến người tiêu dùng. Điều 11 của Luật Quảng cáo năm 2012<b><small>26</small></b> tập trung vào việc xử phạt vi phạm hành chính liên quan đến trách nhiệm sử dụng dịch vụ mạng xã hội trong lĩnh vực quảng cáo. Một trong những lợi ích quan trọng của Điều 11 này là tạo điều kiện thuận lợi để xử phạt các vi phạm liên quan đến quảng cáo trên các nền tảng mạng xã hội. Với sự phổ biến ngày càng tăng của mạng xã hội và vai trị quan trọng của nó trong việc tiếp cận thông tin, điều này rất cần thiết để đảm bảo tính minh bạch và trung thực trong các hoạt động quảng cáo trên mạng xã hội. Điều 11 đề cập đến trách nhiệm sử dụng dịch vụ mạng xã hội, giới hạn việc sử dụng các thông tin, hình ảnh, bài viết và các hình thức quảng cáo khác trên các nền tảng mạng xã hội. Nó yêu cầu các cá nhân, tổ chức, và doanh nghiệp đảm bảo tính chính xác và khơng để lừa dối người tiêu dùng thông qua các thông tin quảng cáo sai lệch, không đúng sự thật, hoặc gây hiểu lầm.
Việc thi hành Điều 11 Luật Quảng cáo 2012 là cần thiết để bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng và đảm bảo sự cạnh tranh lành mạnh trong lĩnh vực quảng cáo. Khi các vi phạm hành chính đối vi phạm trách nhiệm sử dụng dịch vụ mạng xã hội xảy ra, các tổ chức liên quan có quyền kỷ luật, xử phạt vi phạm và áp dụng các biện pháp khắc phục nhằm ngăn chặn những hoạt động quảng cáo trái phép và gian lận. Ngoài ra, quy định này cũng nhằm đảm bảo rằng mọi người đều có thơng tin chính xác và đáng tin cậy trong quá trình ra quyết định mua sắm hoặc sử dụng sản phẩm và dịch vụ. Điều này mang lại lợi ích cho người tiêu dùng, doanh nghiệp và cả xã hội nói chung, giúp tạo lịng tin và đáng tin cậy trong hoạt động kinh doanh và xây dựng môi trường lành mạnh.
Pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính đối với vi phạm trách nhiệm sử dụng dịch vụ mạng xã hội là một chủ đề quan trọng và cần được hiểu rõ để đảm bảo tuân thủ quy định của pháp luật. Khoản 2 Điều 2 Luật xử lý vi phạm hành chính 2012 sửa đổi
<small> </small>
<small>26 Điều 11 Luật Quảng cáo năm 2012 </small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">bổ sung 2020<small>27</small> cung cấp các quy định chi tiết về việc xử phạt các hành vi vi phạm trong lĩnh vực này. Pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực sử dụng dịch vụ mạng xã hội là một phần quan trọng của quyền và trách nhiệm của người dùng. Để đảm bảo tuân thủ quy định của pháp luật, việc hiểu rõ các quy định và điều khoản liên quan là cực kỳ cần thiết. Theo khoản 2 Điều 2 Luật xử lý vi phạm hành chính 2012 sửa đổi bổ sung 2020, các quy định chi tiết đã được cung cấp để xác định các hành vi vi phạm và áp dụng biện pháp xử phạt tương ứng. Các biện pháp này nhằm bảo vệ người dùng khỏi những hoạt động không tuân thủ và giúp duy trì mơi trường an tồn, lành mạnh cho tất cả mọi người. Việc sử dụng dịch vụ mạng xã hội có nhiều lợi ích, tuy nhiên, nếu không tuân thủ các quy tắc và điều khoản đã được uỷ ban quản lý đề ra, người dùng có thể phải đối mặt với xử phạt hành chính. Trách nhiệm sử dụng dịch vụ mạng xã hội là điều cần thiết để duy trì an tồn và nhân văn trong không gian trực tuyến.
Với sự phát triển mạnh mẽ của mạng xã hội và việc sử dụng rộng rãi của nó, việc có các luật quy định rõ ràng về vi phạm hành chính giúp ngăn chặn và xử phạt những hành vi vi phạm trên mạng xã hội. Việc xử phạt vi phạm hành chính đối với vi phạm trách nhiệm sử dụng dịch vụ mạng xã hội được quy định tại Điều 101 Nghị định 15/2020/NĐ-CP giúp tăng cường trách nhiệm và ý thức của người dùng. Đồng thời, nó cũng đảm bảo an tồn, trật tự và sự chính xác thơng tin trên mạng xã hội và bảo vệ quyền lợi của người dùng, xây dựng một môi trường mạng xã hội lành mạnh.
Điều 101 Nghị định 15/2020/NĐ-CP<b><small>28</small></b> đã được ban hành nhằm tăng cường quản lý và kiểm soát hoạt động sử dụng dịch vụ mạng xã hội. Theo quy định này, các cá nhân, tổ chức có trách nhiệm tuân thủ các quy định của Luật An ninh mạng và Luật
<b>Quảng cáo khi sử dụng dịch vụ mạng xã hội. Qua Điều 101 Nghị định 15/2020/NĐ-CP </b>
đã chỉ rõ các hành vi vi phạm trong lĩnh vực này và áp dụng các biện pháp kỷ luật như cảnh cáo, buộc thôi công việc, thu hồi giấy phép hoạt động và xử phạt vi phạm hành chính. Điều này nhằm đảm bảo sự tuân thủ quy định của pháp luật và tạo ra một môi trường an toàn và lành mạnh trong việc sử dụng dịch vụ mạng xã hội.
<small> </small>
<small>27 khoản 2 Điều 2, Luật xử lý vi phạm hành chính 2012 sửa đổi bổ sung 2020 </small>
<small>28 Điều 101, Nghị định 15/2020/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bưu chính, viễn thông, tần số vô tuyến điện, công nghệ thông tin và giao dịch điện tử ( sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 14/2022/NĐ-CP năm 2022 ) </small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32">Trên cơ sở Điều 101 Nghị định 15/2020/NĐ-CP, chúng ta có cơ sở để hiểu rõ hơn về quy trình xử phạt vi phạm và trách nhiệm của các cá nhân, tổ chức khi sử dụng dịch vụ mạng xã hội. Việc tuân thủ các quy định này không chỉ giúp bảo vệ quyền lợi của người dùng mà cịn góp phần vào việc duy trì an ninh, trật tự và chuẩn mực trong không gian mạng xã hội. Theo Điều 101, những hành vi vi phạm trách nhiệm sử dụng dịch vụ mạng xã hội có thể bao gồm: tạo, sao chép, tải lên hoặc chia sẻ thông tin không tuân thủ các quy định của pháp luật; tung tin giả mạo, thông tin sai sự thật gây hoang mang công chúng; hoặc tiết lộ thông tin cá nhân của người khác mà khơng có sự cho phép. Việc tiết lộ thông tin cá nhân của người khác như số điện thoại, địa chỉ email, tài khoản ngân hàng hay hình ảnh riêng tư mà khơng có sự đồng ý của họ là vi phạm quyền riêng tư và có thể gây hại đến người bị lộ thông tin. Những hành vi trên không chỉ vi phạm các quy định pháp luật mà còn gây tổn hại cho cá nhân và cộng đồng. Vì vậy, chúng ta cần tập trung vào việc tạo ra một môi trường mạng trong sáng và an toàn cho cả cá nhân và xã hội. Hành vi vi phạm không chỉ ảnh hưởng đến cá nhân bị tổn thương, mà còn có thể lan rộng và gây hại cho cộng đồng xung quanh.
Việc không tuân thủ các quy định trong Nghị định này có thể bị áp dụng biện pháp kỷ luật từ cảnh cáo, buộc thôi công tác cho tới thu hồi giấy tờ, phương tiện, công cụ liên quan đến vi phạm. Đồng thời, người vi phạm cũng có thể bị xử phạt tiền từ 10 triệu đến 20 triệu đồng. Để tránh vi phạm và tuân thủ quy định của pháp luật, người dùng dịch vụ mạng xã hội nên tìm hiểu và nắm rõ các quy định trong Nghị định 15/2020/NĐ-CP. Ngoài ra, các doanh nghiệp hoặc tổ chức sử dụng dịch vụ mạng xã hội cũng cần áp dụng các biện pháp kiểm soát và giám sát để đảm bảo tuân thủ quy định của pháp luật và tránh những hậu quả không mong muốn.
Thêm vào đó, Điều 101 Nghị định 15/2020/NĐ-CP cũng đã điều chỉnh và bổ sung những quy định liên quan tới xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực sử dụng dịch vụ mạng xã hội. Điều này nhằm đảm bảo tính cơng bằng, minh bạch và hiệu quả trong việc giải quyết các vi phạm liên quan đến trách nhiệm sử dụng dịch vụ mạng xã hội. Chính phủ đã đưa ra quy định mới về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực sử dụng dịch vụ mạng xã hội thông qua Nghị định 15/2020/NĐ-CP. Điều này nhằm tăng cường tính cơng bằng, minh bạch và hiệu quả trong việc giải quyết các vi phạm liên
</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">quan đến trách nhiệm sử dụng dịch vụ mạng xã hội. Qua Nghị định này, chúng ta có thể nhìn thấy cam kết của Chính phủ để bảo vệ quyền và lợi ích của người dùng mạng xã hội. Quy định này giúp tạo ra một mơi trường an tồn và lành mạnh cho người sử dụng, đồng thời cũng khuyến khích các doanh nghiệp có trách nhiệm hoạt động trên các nền tảng mạng xã hội. Theo Nghị định 15/2020/NĐ-CP, qui trình xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực mạng xã hội được đặt ra một cách rõ ràng và minh bạch. Điều này sẽ giúp người dùng mạng xã hội cảm thấy yên tâm và an tâm khi sử dụng các dịch vụ trên internet. Nghị định này cũng có vai trị quan trọng trong việc khuyến khích các doanh nghiệp hoạt động trên nền tảng mạng xã hội có trách nhiệm trong việc quản lý và kiểm sốt thơng tin, sản phẩm, dịch vụ mà họ cung cấp. Bằng việc áp dụng quy định này, Chính phủ hy vọng rằng các doanh nghiệp sẽ chấp nhận và thực hiện những biện pháp nhất định để bảo vệ người dùng khỏi những rủi ro và lợi ích khơng rõ ràng trong q trình giao dịch. Chính sách này cũng nhằm tăng cường sự minh bạch và tin tưởng giữa doanh nghiệp và người dùng, từ đó thúc đẩy sự phát triển bền vững của nền kinh tế. Bằng việc tuân thủ qui định này, các doanh nghiệp không chỉ xác định được mục tiêu kinh doanh của mình mà cịn mang lại lợi ích lâu dài cho người tiêu dùng. Điều quan trọng là chúng ta phải hành động có trách nhiệm và công bằng để xây dựng một cộng đồng kinh doanh lành mạnh và bền vững. Các doanh nghiệp nên thực hiện các biện pháp như tăng cường chất lượng sản phẩm và dịch vụ, đảm bảo an toàn và tuân thủ các quy định pháp luật, tạo ra công việc ổn định cho người lao động, hỗ trợ phát triển cộng đồng xung quanh. Ngoài ra, việc tuân thủ qui định này cũng giúp tăng tính minh bạch trong hoạt động kinh doanh. Người tiêu dùng sẽ tin tưởng vào sự công bằng và chất lượng của sản phẩm hoặc dịch vụ mà doanh nghiệp cung cấp. Điều này có thể làm gia tăng niềm tin và sự hỗ trợ từ khách hàng hiện có, cũng như thu hút được khách hàng mới. Cuối cùng, việc tuân thủ qui định này khơng chỉ mang lại lợi ích cho người tiêu dùng mà cịn giúp xây dựng uy tín và danh tiếng của doanh nghiệp. Tin tức về việc hành xử có trách nhiệm và cơng bằn
Việc hiểu rõ các quy định và pháp luật liên quan đến xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực này là cần thiết để người dùng có thể tự giữ gìn trật tự, an tồn và tơn trọng quyền của người khác khi sử dụng các dịch vụ mạng xã hội.
</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34"><i><b>1.2.2 Các hình thức xử phạt vi phạm hành chính đối với vi phạm trách nhiệm sử dụng dịch vụ mạng xã hội. </b></i>
Hình thức xử phạt vi phạm hành chính là mặt biểu hiện khách quan của trách nhiệm hành chính. Ngồi ra, hình thức xử phạt cịn là biện pháp chế tài hành chính được pháp luật quy định đối với chủ thể vi phạm hành chính trách nhiệm sử dụng dịch vụ mạng xã hội, thể hiện sự đánh giá của Nhà nước về mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi và chủ thể vi phạm<small>29</small>.
Căn cứ theo quy định tại Điều 21 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 ( sửa đổi, bổ sung năm 2020) thì các hình thức xử phạt vi phạm hành chính gồm có: cảnh cáo; phạt tiền; tước quyền sử dụng giấy phép; chứng chỉ hành nghề hoặc đình chỉ hoạt động; tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính; trục xuất<small>30</small>.
<b>Xử phạt vi phạm hành chính đối với trách nhiệm sử dụng mạng xã hội tại Điều </b>
<b>101 Nghị định 15/2020/NĐ-CP có quy định về Vi phạm các quy định về trách nhiệm </b>
sử dụng dịch vụ mạng xã hội; trang thông tin điện tử được thiết lập thông qua mạng xã hội như sau:
<i>"1. Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với hành vi lợi dụng mạng xã hội để thực hiện một trong các hành vi sau: </i>
<i>a) Cung cấp, chia sẻ thông tin giả mạo, thông tin sai sự thật, xuyên tạc, vu khống, xúc phạm uy tín của cơ quan, tổ chức, danh dự, nhân phẩm của cá nhân; </i>
<i>b) Cung cấp, chia sẻ thơng tin cổ súy các hủ tục, mê tín, dị đoan, dâm ô, đồi trụy, không phù hợp với thuần phong, mỹ tục của dân tộc; </i>
<i>c) Cung cấp, chia sẻ thông tin miêu tả tỉ mỉ hành động chém, giết, tai nạn, kinh dị, rùng rợn; </i>
<i>d) Cung cấp, chia sẻ thông tin bịa đặt, gây hoang mang trong Nhân dân, kích động bạo lực, tội ác, tệ nạn xã hội, đánh bạc hoặc phục vụ đánh bạc; </i>
</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35"><i>đ) Cung cấp, chia sẻ các tác phẩm báo chí, văn học, nghệ thuật, xuất bản phẩm mà không được sự đồng ý của chủ thể quyền sở hữu trí tuệ hoặc chưa được phép lưu hành hoặc đã có quyết định cấm lưu hành hoặc tịch thu; </i>
<i>e) Quảng cáo, tuyên truyền, chia sẻ thông tin về hàng hóa, dịch vụ bị cấm; </i>
<i>g) Cung cấp, chia sẻ hình ảnh bản đồ Việt Nam nhưng khơng thể hiện hoặc thể hiện không đúng chủ quyền quốc gia; </i>
<i>h) Cung cấp, chia sẻ đường dẫn đến thông tin trên mạng có nội dung bị cấm. 2. Phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng đối với hành vi tiết lộ thơng tin thuộc danh mục bí mật nhà nước, bí mật đời tư của cá nhân và bí mật khác mà chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự. </i>
<i>3. Biện pháp khắc phục hậu quả: </i>
<i>Buộc gỡ bỏ thông tin sai sự thật hoặc gây nhầm lẫn hoặc thông tin vi phạm pháp luật do thực hiện hành vi vi phạm quy định tại các khoản 1 và 2 Điều này.”</i><small>31</small>
<b>Vi phạm trách nhiệm sử dụng dịch vụ mạng xã hội tại Điều 101 của Nghị định </b>
<b>15/2020/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 14/2022/NĐ-CP năm 2022) là </b>
những hành động và số tiền phạt cụ thể cũng tại điều luật này được quy định cùng với số tiền và hành vi vi phạm, từ đó ta có thể hiểu được nếu những hành vi này mang một mức độ nhất định và nếu vượt quá sẽ có thể dẫn tới truy cứu trách nhiệm khác, có thể
<i>thấy rõ nhất tại khoản 2 điều này “Phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng đối với hành vi tiết lộ thông tin thuộc danh mục bí mật nhà nước, bí mật đời tư của cá nhân và bí mật khác mà chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự.” khi đã xử lý xong </i>
những hành vi vi phạm cần phải có những hành động khắc phục hậu quả đó là buộc gỡ bỏ thơng tin đó. Có thể lấy ví dụ về những thông tin sai sự thật trong mùa covid, sau khi các đối tượng bị xử phạt hành chính các thơng tin trước đó mà đối tượng đã đăng tải đều phải được gỡ bỏ.
<small> </small>
<small>31 Điều 101 Nghị định 15/2020/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bưu chính, viễn thơng, cơng nghệ thơng tin và tần số vô tuyến điện ( sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 14/2022/NĐ-CP năm 2022 ) </small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36"><i><b>1.2.3 Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính đối với vi phạm trách nhiệm sử dụng dịch vụ mạng xã hội. </b></i>
Thẩm quyền xử phạt của luật hành chính thuộc người trong những cơ quan tổ chức nhà nước có quyền áp dụng những hình thức xử phạt với cá nhân hoặc tổ chức gây nguy hiểm cho xã hội và được điều chỉnh trong luật xử lý vi phạm hành chính.
Vì vi phạm hành chính diễn ra ở vơ cùng nhiều lĩnh vực khác nhau nên thẩm quyền sử phạt cũng phải đa dạng và phân hố ở nhiều ngành nghề từ đó những người có thẩm quyền đã được quy định hết sức cụ thể tại những quy định từ Điều 38 tới điều 51 ( Điều 50 bị bãi bỏ trong lần sửa đổi năm 2020) để giải quyết nhanh chóng và kịp thời những là những người mang chức vụ và làm việc trong bộ máy nhà nước những chức danh được quy định cụ thể như sau: Chủ tịch uỷ ban nhân dân (Điều 38), công an nhân dân (Điều 39), Bộ đội biên phòng (Điều 40), Cảnh sát biển (Điều 41), Hải quan (Điều 42), Kiểm lâm (Điều 43), Cơ quan thuế (Điều 44), Quản lý thị trường (Điều 45), Thanh tra (Điều 46) Cảng vụ hàng hải, Cảng vụ hàng không, Cảng vụ đường thuỷ nội địa (Điều 47), Toà án nhân dân (Điều 48), cơ quan thi hành án dân sự (Điều 49),cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự, cơ quan khác được ủy quyền thực hiện chức năng lãnh sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài (Điều 51)<small>32</small>.Cần phải lưu ý rằng từ điều 38 đến điều 51 (trừ điều 50), đều là những cá nhân độc lập làm việc trong cơ quan nhà nước chứ khơng phải tồn bộ tổ chức vì danh sách trong Luật xử lý vi phạm hành chính mang tính liệt kê cụ thể và chỉ có những chủ thể này mới mang thẩm quyền xử phạt hành chính. Vi phạm hành chính đối với trách nhiệm sử dụng mạng xã hội cũng là một loại vi phạm hành chính nên các chủ thể có thẩm quyền xử phạt cũng chính là những chủ thể quy định trong Luật xử lý vi phạm hành chính, nếu những đối tượng trong khi sử dụng dịch vụ mạng xã hội mà vi phạm đến những lĩnh vực nhất định sẽ do người phụ trách của lĩnh vực đó có thẩm quyền giải quyết, vì mạng xã hội cũng là một dịch vụ bao hàm nhiều khía cạnh khác nhau và ảnh hưởng tới nhiều lĩnh vực nên cần phải dựa vào thông tin vi phạm để giải quyết.
<small> </small>
<small>32 Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh (2021), Giáo trình Luật Hành chính Việt Nam, NXB. Hồng Đức, tr.594. </small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37"><b>1.3 Pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính đối với vi phạm trách nhiệm sử dụng dịch vụ mạng xã hội ở một số quốc gia trên thế giới. </b>
<i><b>1.3.1 Pháp luật của Trung Quốc. </b></i>
Từ những năm 90, Internet bắt đầu du nhập và dần dần phổ biến, từng bước phát triển mạnh mẽ và có vai trị vơ cùng thiết yếu đối với sự phát triển của Trung Quốc hiện nay. Sau hơn hai thập kỷ trôi qua, Internet đã khẳng định được vị thế của mình khi trở thành nền tảng truyền thơng và là công cụ trao đổi thông tin phổ biến nhất trong cộng đồng người dân Trung Hoa. Bằng chứng cụ thể cho Trung Quốc là đất nước có số người truy cập vào Internet và sử dụng mạng xã hội lớn nhất trên toàn thế giới là khi vào năm 2021 Trung Quốc đã trở thành quốc gia đầu tiên trên thế giới có lượng người dùng trực tuyến vượt mốc 1 tỷ. Theo Trung tâm thông tin mạng Internet Trung Quốc cho biết, tính đến hết tháng 6 năm 2021, lượng người dùng internet tại nước này đã đạt đến 1,01 tỷ, tăng 8% so với cùng kỳ năm ngoái, trong khi tỷ lệ sử dụng Internet cũng tăng lên 71,6%. Theo đó, sự tăng trưởng nhanh chóng này được đánh giá phần lớn đến từ sự tác động của đại dịch Covid19. Việc phải ở nhà thường xuyên từ vài tháng đến hơn một năm do giãn cách xã hội đã khiến cho nhiều người ngày càng phụ thuộc hơn vào thương mại điện tử, thanh toán di động và các dịch vụ trực tuyến khác như dịch vụ giao hàng trực tuyến, dịch vụ gọi xe hay dịch vụ mua sắm trực tuyến. Hơn nữa các dịch vụ giải trí trực tuyến cũng đang được ghi nhận tăng 6% so với năm 2020. Tuy nhiên dưới sự phát triển nhanh chóng, mạnh mẽ và vượt bậc của Internet đã gây nên sức ép cho chính quyền Trung Quốc cần thiết lập một khuôn khổ pháp lý nghiêm ngặt và tiến bộ để quản lý thông tin trực tuyến cũng như đảm bảo an tồn thơng tin mạng nói chung
Từ lúc Internet dần phổ biến tại Trung Quốc đến nay, chính phủ Trung Quốc đã ban hành nhiều đạo luật và quy định khác nhau liên quan đến việc quản lý thông tin trên Internet. Và ở thời điểm hiện tại, Trung Quốc có ba đạo luật liên quan đến bảo vệ dữ liệu và thông tin: Luật An tồn khơng gian mạng (Cyber Security Law – CSL) được thực thi vào ngày 01/6/2017; Luật An toàn dữ liệu có hiệu lực từ ngày 01/9/2021 và mới đây nhất là Luật bảo vệ thông tin cá nhân (Personal Information Protection Law –
</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38">PIPL) mới được thơng qua và có hiệu lực vào ngày 01/11/2021. Đây chính là ba trụ cột để tạo nên hành lang pháp lý về quyền riêng tư và bảo vệ dữ liệu của Trung Quốc.
Đầu tiên nói đến chính là “Luật An tồn khơng gian mạng” (Cybersecurity Law of the People’s Republic of China) chính thức có hiệu lực từ ngày 1 tháng 6 năm 2017. Đạo luật này được ban hành nhằm mục đích duy trì an ninh mạng, bảo vệ chủ quyền không gian mạng, an ninh quốc gia và lợi ích cơng cộng, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân, các công ty và các tổ chức khác cũng như thúc đẩy sự phát triển lành mạnh của công nghệ thông tin trong lĩnh vực kinh tế và xã hội<small>33</small>.
Trong pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính đối với vi phạm trách nhiệm sử dụng dịch vụ mạng xã hội ở Trung Quốc, Luật An tồn khơng gian mạng có quy định cho các trường hợp vi phạm cụ thể như sau:
Thứ nhất, các nhà mạng, nhà cung cấp sản phẩm dịch vụ mạng phải giải thích rõ ràng cho người dùng và được sự đồng ý của người dùng trường hợp sản phẩm, dịch vụ mạng có chức năng thu thập thơng tin người dùng, trường hợp liên quan đến thông tin cá nhân của người dùng phải tuân thủ các quy định của Luật này và pháp luật, quy định hành chính có liên quan về việc thu thập thông tin cá nhân của người dùng, bảo vệ thông tin cá nhân<small>34</small> và thực hiện đầy đủ theo quy định từ Điều 41 đến Điều 43 của luật này. Trường hợp xâm phạm quyền thông tin cá nhân được bảo vệ theo pháp luật nếu khơng có thu nhập hợp pháp phạt tiền khơng quá một triệu nhân dân tệ và những người chịu trách nhiệm Giám sát viên và nhân viên chịu trách nhiệm trực tiếp khác sẽ bị phạt không dưới 10.000 nhân dân tệ nhưng không quá 100.000 nhân dân tệ, nếu tình hình nghiêm trọng cũng có thể bị u cầu tạm ngừng kinh doanh để cải chính, đóng cửa trang thông tin điện tử, thu hồi giấy phép kinh doanh<small>35</small>. Trường hợp lấy cắp hoặc lấy bằng các phương thức bất hợp pháp khác, bán trái phép hoặc cung cấp trái phép thông tin cá nhân cho người khác mà không cấu thành tội phạm thì cơ quan cơng an sẽ tịch thu số thu
<small> </small>
<small>33 Điều 1 Luật An tồn khơng gian mạng Trung Quốc 2016. </small>
<small>34 khoản 3 Điều 22 Luật An tồn khơng gian mạng Trung Quốc 2016 35 khoản 1 Điều 64 Luật An tồn khơng gian mạng Trung Quốc 2016 </small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 39</span><div class="page_container" data-page="39">nhập bất hợp pháp và phạt tiền, nếu khơng có thu nhập bất hợp pháp thì phạt tiền không quá một triệu nhân dân tệ.<small>36</small>
Thứ hai, bất kỳ ai thiết lập một trang web hoặc nhóm truyền thông để thực hiện các hoạt động phạm pháp và tội phạm hoặc sử dụng Internet để đăng tải thông tin liên quan đến việc thực hiện các hoạt động phạm pháp và tội phạm. Không cấu thành tội phạm, sẽ bị cơ quan công an giam giữ không quá 5 ngày cũng có thể bị phạt tiền khơng dưới 10.000 nhân dân tệ nhưng không quá 100.000 nhân dân tệ; nếu tình tiết nghiêm trọng hơn, người đó sẽ bị giam giữ từ 5 ngày đến không quá 15 ngày và có thể bị phạt tiền từ 50.000 nhân dân tệ đến 500.000 nhân dân tệ. Đóng các trang web và nhóm liên lạc được sử dụng để thực hiện các hoạt động phạm tội và bất hợp pháp.<small>37</small>Trong trường hợp một đơn vị thực hiện hành vi trên, cơ quan công an sẽ phạt tiền không dưới 100.000 nhân dân tệ nhưng không quá 500.000 nhân dân tệ và người giám sát chịu trách nhiệm trực tiếp và những người chịu trách nhiệm trực tiếp khác sẽ bị trừng phạt theo quy định của khoản 1.<small>38</small>
Sau Covid 19, số lượng người dùng trực tuyến của Trung Quốc ngày càng tăng lên nhiều hơn thì Trung Quốc đã thơng qua "Luật An toàn dữ liệu" vào ngày 10/6/2021 và có hiệu lực từ ngày 01/9/2021. Theo quy định, dữ liệu mà Trung Quốc quản lý sẽ bao gồm tất cả bảng ghi thông tin ở bất kỳ dạng nào. Họ sẽ có thể bị phạt nặng, bị thu hồi giấy phép hoạt động hoặc thậm chí buộc ngừng hoạt động vĩnh viễn nếu các quyết định liên quan đến bảo mật dữ liệu khơng thơng qua cơ quan chính phủ. Theo đó các quy định chi tiết cụ thể các trường hợp:
Thứ nhất, Trong trường hợp tổ chức, cá nhân thực hiện hoạt động xử phạt dữ liệu không thực hiện nghĩa vụ bảo vệ an ninh dữ liệu quy định tại các Điều 27, 29 và 30 của Luật này thì cơ quan có thẩm quyền có thẩm quyền ra lệnh sửa chữa, cảnh cáo có thể bị phạt tiền từ 50.000 nhân dân tệ đến 500.000 nhân dân tệ và phạt tiền từ 10.000 nhân dân tệ đến 100.000 nhân dân tệ đối với người có thẩm quyền trực tiếp và những người chịu trách nhiệm trực tiếp khác; Nếu từ chối sửa chữa hoặc gây ra một số lượng lớn các <small> </small>
<small>36 khoản 2 Điều 64 Luật An tồn khơng gian mạng Trung Quốc 2016 37 khoản 1 Điều 67 Luật An tồn khơng gian mạng Trung Quốc 2016 38 khoản 2 Điều 67 Luật An tồn khơng gian mạng Trung Quốc 2016 </small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 40</span><div class="page_container" data-page="40">hậu quả nghiêm trọng như rò rỉ dữ liệu, phạt tiền từ 500.000 nhân dân tệ đến hai triệu nhân dân tệ, và có thể ra lệnh đình chỉ kinh doanh có liên quan, đình chỉ kinh doanh và sửa chữa, thu hồi giấy phép kinh doanh có liên quan hoặc thu hồi giấy phép kinh doanh, người chịu trách nhiệm trực tiếp và những người chịu trách nhiệm trực tiếp khác bị phạt tiền từ 50.000 nhân dân tệ đến 200.000 nhân dân tệ.<small>39</small>
Trong trường hợp nghiêm trọng hơn, có hành vi vi phạm đến hệ thống quản lý dữ liệu cốt lõi quốc gia, gây nguy hiểm đến chủ quyền quốc gia, an ninh và lợi ích phát triển, cơ quan có thẩm quyền có liên quan sẽ bị phạt tiền từ 2 triệu nhân dân tệ đến 10 triệu nhân dân tệ và theo tình hình ra lệnh đình chỉ kinh doanh có liên quan, đình chỉ kinh doanh và chấn chỉnh, thu hồi giấy phép kinh doanh có liên quan hoặc thu hồi giấy phép kinh doanh; Nếu cấu thành tội phạm thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.
Thứ hai, người nào ăn cắp hoặc thu thập dữ liệu bất hợp pháp khác, thực hiện các hoạt động xử lý dữ liệu để loại trừ, hạn chế cạnh tranh hoặc gây tổn hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức thì bị xử phạt theo quy định của pháp luật có liên quan và các quy định hành chính.
Năm 2021 được coi là năm mở đầu kỷ nguyên an toàn dữ liệu của Trung Quốc khi cùng với hai luật trên và sự ra đời của Luật Bảo vệ thông tin cá nhân đã tạo nên “cỗ xe tam mã”, giúp Trung Quốc quản lý không gian mạng và bảo vệ dữ liệu người dùng trong nước. Trước khi ra mắt Luật này, Trung Quốc khơng có điều luật chun biệt nào nhằm quy phạm cách thức sử dụng thông tin cá nhân, các điều khoản bảo vệ đời tư xuất hiện rải rác tại các quy định và điều luật khác nhau. Chính thức có hiệu lực từ ngày 1/11/2021, Luật Bảo vệ thông tin cá nhân cung cấp cơ sở pháp lý cho hoạt động xử lý thông tin cá nhân, bảo đảm đầy đủ quyền lợi cho người dùng trong việc bảo vệ thông tin cá nhân, cung cấp hướng dẫn giúp doanh nghiệp tuân thủ các quy định có liên quan.
<small> </small>
<small>39 khoản 1 Điều 45 Luật An toàn dữ liệu 2021 </small>
</div>