Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

Phòng Chống Tội Phạm Giết Người Tại Việt Nam.pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (813.34 KB, 84 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

<b>TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH </b>

<small>Trưởng nhóm: Lê Tuấn Minh </small>

<i><small>Lớp : 129-HS46A2 </small></i> <small> Khoá: 46 Khoa: Luật Hình sự </small>

<b><small>Mã số cơng trình :……….</small></b>

<i><small>( Phần này do Phịng QL NCKH & HTQT đánh số vào ) </small></i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

<b>TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH </b>

<small>Trưởng nhóm: Lê Tuấn Minh </small>

<i><small>Lớp : 129-HS46A2 </small></i> <small> Khoá: 46 Khoa: Luật Hình sự </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

<b>LỜI CAM ĐOAN </b>

Nhóm nghiên cứu khoa học chúng em bao gồm 4 thành viên: Trần Minh Trúc Mai, Lý Mỹ Hương, Lê Tuấn Minh, Nguyễn Thế Trí thực hiện đề tài nghiên cứu về

<i><b>“Phòng, chống tội phạm giết người tại Việt Nam”. Chúng em xin cam đoan đây là </b></i>

cơng trình nghiên cứu do nhóm tìm hiểu và dựa trên kiến thức đã học, tự mình thực hiện dưới sự hướng dẫn của TS. Nguyễn Huỳnh Bảo Khánh. Các số liệu, kết quả nêu trong bài nghiên cứu là trung thực và có nguồn gốc rõ ràng trên cơ sở khoa học chính thống. Danh mục tài liệu tham khảo được nhóm báo cáo và trình bày ở cuối bài nghiên cứu.

Chúng em xin chịu trách nhiệm về bài nghiên cứu này.

TP Hồ Chí Minh, ngày 20 tháng 8 năm 2023

<i> Đại diện nhóm tác giả </i>

<b> Lê Tuấn Minh</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

<b>MỤC LỤC </b>

<b>LỜI MỞ ĐẦU ... 1</b>

<b>Chương 1<small>. </small>TỘI PHẠM GIẾT NGƯỜI TẠI VIỆT NAM: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ - TÌNH HÌNH TỘI PHẠM VÀ NHÂN THÂN CỦA NGƯỜI PHẠM TỘI ... 6</b>

1.1. Tội giết người theo quy định tại Điều 123 BLHS năm 2015 ... 6

1.1.1. Khái quát Tội giết người trong pháp luật Việt Nam ... 6

1.1.2. Các dấu hiệu pháp lý của Tội giết người ... 6

1.2. Tình hình tội phạm giết người tại Việt Nam từ năm 2018 – 2022. ... 8

1.2.1. Thực trạng của tội phạm giết người ... 8

1.2.2. Cơ cấu của tội phạm giết người... 9

1.2.3. Diễn biến của tội phạm giết người (Xem Bảng 1.1 – Phần phụ lục) .... 10

1.2.4. Tính chất nguy hiểm của tội phạm giết người ... 11

<b>Chương 2<small>. </small>NGUYÊN NHÂN, ĐIỀU KIỆN CỦA TỘI PHẠM GIẾT NGƯỜI VÀ THỰC TRẠNG CƠNG TÁC ĐẤU TRANH PHỊNG, CHỐNG TỘI PHẠM GIẾT NGƯỜI TẠI VIỆT NAM HIỆN NAY ... 28</b>

2.1. Nguyên nhân và điều kiện của tội phạm giết người tại Việt Nam trong thời gian qua ... 28

2.1.1. Nguyên nhân từ phía người phạm tội ... 28

2.1.2. Điều kiện khách quan bên ngồi ... 40

2.2. Thực trạng đấu tranh phịng chống tội phạm giết người trong giai đoạn 2018 – 2022 ... 42

<b>Chương 3<small>. </small>DỰ BÁO, GIẢI PHÁP PHÒNG, CHỐNG TỘI PHẠM GIẾT NGƯỜI TRÊN CƠ SỞ THAM KHẢO KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ QUỐC GIA ... 47</b>

3.1. Dự báo tình hình tội phạm giết người tại Việt Nam trong thời gian tới ... 47

3.1.1. Một số phương pháp dự báo được sử dụng ... 47

3.1.2. Một số kết quả dự báo cụ thể ... 48

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

3.2. Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả trong công tác phòng, chống tội phạm giết người tại Việt Nam và một số kiến nghị phòng ngừa từ kinh nghiệm của một số

quốc gia. ... 50

3.2.1. Giải pháp ngăn ngừa trước không cho tội phạm xảy ra ... 50

3.2.2. Giải pháp phát hiện, xử lý kịp thời sau khi tội phạm xảy ra ... 57

<b>KẾT LUẬN ... 60</b>

<b>DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ... 61</b>

<b>PHỤ LỤC ... 64</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

- VKSND: <b>Viện kiểm sát nhân dân </b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

<b>LỜI MỞ ĐẦU </b>

<b>1. Lý do chọn đề tài và tính cấp thiết của đề tài </b>

Trong những năm gần đây, tình hình tội phạm ở nước ta diễn biến khá phức tạp và có chiều hướng tăng cao, đặc biệt là tội phạm giết người. Vốn chiếm tỉ lệ không nhỏ, tội phạm giết người là một trong những tội phạm nghiêm trọng nhất. Một khu vực với tỉ lệ giết người càng ít thì người dân sẽ càng yên tâm lao động, học tập, từ đó kéo theo những lợi ích liên quan khác. Quyền sống (hay quyền được sống) là quyền cơ bản và quan trọng nhất của con người, đây cũng là một trong những nội dung quan trọng của Nhân quyền. Điều 19 Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội chủ

<i>nghĩa Việt Nam năm 2013 quy định: "Mọi người có quyền sống. Tính mạng con người được pháp luật bảo hộ. Không ai bị tước đoạt tính mạng trái luật". Nhận </i>

thấy được điều đó, Bộ luật Hình sự năm 2015 đã quy định tại Điều 123 về hành vi giết người. Nhưng vì quy tắc chung, nên Điều 123 vẫn chưa thể khắc phục hoàn toàn vấn nạn giết người xảy ra.

Việt Nam – đất nước đang trong giai đoạn tăng trưởng về mọi mặt, song không thể phủ nhận một hiện thực là tình hình tội phạm cũng đang diễn biến ngày càng nghiêm trọng, đặc biệt là tội phạm giết người. Tội phạm giết người có chiều hướng khơng giảm ở nhiều địa bàn khác nhau trong nước, với những thủ đoạn tinh vi xảo quyệt, làm cho tính chất phạm tội của chúng tàn bạo và manh động hơn, gây ảnh hưởng đến tình hình an ninh trật tự. Hàng năm các vụ án giết người xảy ra với nhiều nguyên nhân khác nhau, đó có thể là mâu thuẫn cá nhân, sự ảnh hưởng từ lối sống bạo lực, ích kỷ, bộc phát do sử dụng chất kích thích, thiếu tiền tiêu xài, mê tín dị đoan… Thực tế cho thấy, tình hình tội phạm giết người đã và đang ở mức báo động đỏ.

Nhận thức một cách rõ ràng, đầy đủ tính chất nguy hiểm của tội phạm giết người, nhà nước và các cơ quan chức năng đã áp dụng có hiệu quả các biện pháp phòng, chống và răn đe đối với loại tội phạm này. Nhưng bên cạnh đó vẫn có những hạn chế, bất cập trong các quy định của Bộ luật Hình sự hay việc nhận thức pháp luật của một bộ phận người dân chưa cao.

Thế nên có những nghiên cứu liên quan đến vấn nạn giết người trong và ngoài Đại học, qua đó đã phần nào làm sáng tỏ các nguyên nhân dẫn đến tình hình giết người trong nước vẫn chưa được thun giảm. Tuy nhiên có rất ít đề tài nghiên cứu, luận văn nào nghiên cứu trực tiếp về tình hình giết người ở Việt Nam. Do đó, việc nghiên cứu đề tài “Phòng, chống tội phạm giết người tại Việt Nam” sẽ tập trung đưa

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

ra những giải pháp phòng chống tội phạm giết người trong phạm vi toàn lãnh thổ Việt Nam, phù hợp với thời điểm hiện tại và sau này.

<b>2. Mục tiêu và nhiệm vụ của đề tài nghiên cứu </b>

<i><b>2.1. Mục tiêu </b></i>

Đề tài nghiên cứu nêu lên thực trạng của tội phạm giết người trên địa bàn cả nước, đưa ra những dự báo và kiến nghị các giải pháp trong cơng tác phịng chống, góp phần nâng cao hiệu quả phòng, chống tội phạm giết người tại Việt Nam.

<i><b>2.2. Nhiệm vụ </b></i>

- Phân tích (phân tích số liệu các mặt liên quan đến tội phạm giết người và tình hình phịng chống tội phạm giết người tại Việt Nam,…) và tham khảo phương thức phòng chống tội phạm giết người ở một số quốc gia khác.

- Đánh giá thực tiễn xã hội (về nguyên nhân, điều kiện của tội phạm, thực trạng cơng tác phịng chống tội phạm giết người,...) và đánh giá tính ứng dụng của phương thức, cách thức của một số quốc gia khác đối với Việt Nam.

- Chỉ ra cách thức phòng chống tội phạm tại Việt Nam.

- Dự báo tình hình phạm tội và đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả phòng chống tội phạm giết người tại Việt Nam.

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

lượng cảnh sát nhân dân ở cả nước. Đồng thời tác giả đề xuất giải pháp góp phần

<i><b>nâng cao hiệu quả hoạt động phòng, chống tội phạm giết người trong thời gian tới. </b></i>

Nguyễn Đức Dũng (2007), “Nguyễn Cơng, Đồn Minh Hợp phạm Tội giết

<i><b>người”, Tạp chí Tịa án nhân dân, số 11, tr.34,35. </b></i>

<i>Triệu Quốc Kế (1998), Điều tra các vụ án giết người chưa rõ thủ phạm ở Việt Nam hiện nay, NXB Công an nhân dân, Hà Nội. Trong bài viết, tác giả nêu lên thực </i>

trạng về tội phạm giết người và công tác điều tra án giết người ở Việt Nam và đề ra các phương pháp cơ bản để nâng cao hiệu quả trong công tác điều tra và phòng

<i><b>ngừa đối với loại tội phạm này. </b></i>

<i>Trần Thị Cẩm Tú (2009), Đấu tranh phòng chống tội phạm giết người trên địa bàn tỉnh Bình Dương, luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ </i>

Chí Minh. Hầu hết các phân tích của tác giả đều xoay quanh các mặt pháp luật, chính trị, xã hội, kinh tế, giáo dục như các tác giả khác.

Hiện nay, chưa có nhiều cơng trình nghiên cứu về phòng chống tội phạm trên địa bàn cả nước. Trong khi đó, trong những năm gần đây (tính từ năm 2018 cho đến năm 2022) tình hình tội phạm giết người trên địa bàn cả nước có xu hướng gia tăng, gây ra những hậu quả đặc biệt nghiêm trọng. Do đó, địi hỏi phải có sự nghiên cứu cụ thể, đầy đủ, rõ ràng để có những luận cứ khoa học, đồng thời đưa ra những yêu cầu, giải pháp bảo đảm định tội danh và quyết định hình phạt đúng đối với Tội giết người, góp phần vào cơng tác áp dụng pháp luật và đấu tranh phòng chống tội phạm giết người trên địa bàn cả nước.

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

<b>4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu </b>

<i><b>4.1. Đối tượng nghiên cứu </b></i>

Đề tài nghiên cứu về tình hình của tội phạm giết người trong 5 năm gần đây, cụ thể là 2018 – 2022 và thực tiễn của hoạt động phòng chống loại tội phạm này.

<i><b>4.2. Phạm vi nghiên cứu </b></i>

- Về khơng gian: Tồn lãnh thổ Việt Nam.

- Về độ tuổi: Người phạm tội từ đủ 14 tuổi trở lên.

- Về thời gian: Nghiên cứu các số liệu, bản án trong giai đoạn từ năm 2018 – 2022, thông tin từ các bài viết, báo và tạp chí.

<b>5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu cụ thể </b>

<i><b>5.1. Phương pháp luận </b></i>

Đề tài nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước về công tác phịng chống tội phạm nói chung và tội phạm giết người nói riêng.

<i><b>5.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể </b></i>

- Phương pháp thu thập dữ liệu: Dữ liệu về tội phạm giết người trên địa bàn cả nước thông qua tra cứu thông tin trong sách liên quan, tìm kiếm trên internet, tham khảo kết quả của các nghiên cứu khoa học khác,….

- Phương pháp nghiên cứu bản án của Tòa án từ năm 2018 – 2022: Tìm ra các đặc điểm về nhân thân của người phạm tội qua các bản án mà Tịa án đã cơng bố.

- Phương pháp thống kê: Thống kê các đặc điểm về nhân thân người phạm tội, qua đó nêu lên được diễn biến của tình hình tội phạm và đưa ra các dự báo cụ thể.

- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Tiến hành phân tích các kết quả, luận cứ về tội phạm giết người trong địa bàn cả nước đã thu được trong q trình nghiên cứu và sau đó tổng hợp lại và đưa ra luận điểm chính.

<b>6. Cấu trúc của bài nghiên cứu khoa học </b>

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, cơng trình nghiên cứu gồm 3 chương:

- Chương 1: Tội phạm giết người tại Việt Nam: Quy định của pháp luật hình sự - Tình hình tội phạm và nhân thân của người phạm tội.

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

- Chương 2: Nguyên nhân, điều kiện của tội phạm giết người và thực trạng cơng tác đấu tranh phịng, chống tội phạm giết người hiện nay.

<b>- Chương 3: Dự báo, giải pháp phòng, chống tội phạm giết người trên cơ sở </b>

tham khảo kinh nghiệm của một số quốc gia.

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

<b>Chương 1 </b>

<b>TỘI PHẠM GIẾT NGƯỜI TẠI VIỆT NAM: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ - TÌNH HÌNH TỘI PHẠM VÀ NHÂN THÂN CỦA NGƯỜI PHẠM </b>

<b>TỘI </b>

<b>1.1. Tội giết người theo quy định tại Điều 123 BLHS năm 2015 </b>

<i><b>1.1.1. Khái quát Tội giết người trong pháp luật Việt Nam </b></i>

Ngay từ trước khi Bộ luật Hình sự đầu tiên ra đời, Tội giết người đã được quy định trong một số văn bản như Sắc lệnh số 26-SL ngày 25/02/1946 trừng trị tội phá hoại công sản; Sắc lệnh số 27-SL ngày 28/02/1946 trừng trị các tội bắt cóc, tống tiền và ám sát; Sắc lệnh số 133-SL ngày 20/01/1953 trừng trị những tội xâm phạm an ninh đối nội và an toàn đối ngoại của Nhà nước; Sắc lệnh số 151-SL ngày 12/4/1953 trừng trị địa chủ chống pháp luật; Thông tư số 442-TTg ngày 19/01/1955 tổng kết án lệ về một số tội phạm thông thường. Sau đó Tội giết người được quy định tại Điều 101 BLHS năm 1985, Điều 93 BLHS năm 1999 và hiện nay tội phạm này được quy định tại Điều 123 BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Theo như Điều 123 BLHS hiện hành, Tội giết người không được định nghĩa một cách cụ thể nhưng có thể hiểu, đây là hành vi cố ý tước bỏ tính mạng trái phép cho người khác bằng hành vi trái pháp luật, có thể gây ra cái chết đối với nạn nhân. Với “chết” là cái chết sinh học, nghĩa là sự kết thúc sinh mạng, sự dừng lại vĩnh viễn không thể đảo ngược của các quá trình sinh học<small>1</small>.

So với Tội giết người ở Bộ luật Hình sự cũ gần nhất, Điều 93 BLHS năm 1999, Điều 123 giữ nguyên cơ cấu khung hình phạt giảm dần với khung tăng nặng được đặt ở khoản 1, gồm 16 tình tiết định khung tăng nặng, khung hình phạt từ 12 đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình.

<i><b>1.1.2. Các dấu hiệu pháp lý của Tội giết người </b></i>

Theo BLHS Tội giết người có những dấu hiệu sau:

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

vệ nên sẽ không bị coi là phạm vào tội này. Ngoài ra đối tượng của Tội giết người phải là con người và còn sống, nếu sai về đối tượng thì hành vi đó sẽ không phạm vào Tội giết người.

<i>Thứ hai, mặt khách quan </i>

Hành vi giết người có thể được thực hiện dưới dạng hành động phạm tội hoặc không hành động phạm tội. Ở dạng hành động phạm tội, hành vi tước đoạt tính mạng người khác một cách trái pháp luật như đâm, chém, bắn, bóp cổ, bịt mũi, nhấn nước, đầu độc,... và có thể dùng các công cụ như dao, súng, thuốc độc,... để thực hiện. Ở dạng không hành động phạm tội, hành vi giết người là khi cố ý đưa nạn nhân vào tình trạng nguy hiểm đến tính mạng và mong muốn, bỏ mặc cho hậu quả chết người xảy ra, ví dụ người phạm tội biết nạn nhân khơng biết bơi nên tạo tình huống để nạn nhân ngã xuống nước khiến nạn nhân chết đuối. Nhìn chungtội phạm giết người sẽ gây ra thiệt hại về thể chất mà cụ thể là tính mạng, khiến nạn nhân tử vong, làm biến đổi trạng thái bình thường của thân thể con người.

Tội giết người là tội phạm có cấu thành vật chất vì tội phạm hồn thành ngay sau khi nạn nhân chết. Ngoài ra hậu quả của tội phạm giết người và hành vi giết người phải còn phải có mối quan hệ nhân quả. Và để đảm bảo điều này cần đáp ứng được ba điều kiện sau: Hành vi giết người xảy ra trước hậu quả chết người về mặt thời gian; Trong hành vi có chứa khả năng phát sinh hậu quả làm chết người; Hậu quả làm chết người phản ánh xu thế phát triển của hành vi giết người trước đó. Chính vì Tội giết người có thể bị nhầm lẫn với Tội giết người ở giai đoạn phạm tội chưa đạt và Tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng theo Điều 102 BLHS năm 2015 nên cần phải làm rõ các loại hành vi cũng như hậu quả để xác định đúng tội phạm.

<i>Thứ ba, chủ thể </i>

Trong Tội giết người ở Điều 123, chủ thể là người có năng lực trách nhiệm hình sự (trừ trường hợp tại Điều 21 BLHS năm 2015) và từ đủ 14 tuổi theo Điều 12 của Bộ luật này.

<i>Thứ tư, mặt chủ quan </i>

Mặt chủ quan của một tội phạm gồm các dấu hiệu như lỗi, động cơ, mục đích, trong đó yếu tố lỗi là dấu hiệu bắt buộc. Đối với Tội giết người, đây là trường hợp người thực hiện tội phạm với lỗi cố ý trực hoặc lỗi cố ý gián tiếp theo khoản 1, khoản 2 Điều 10 BLHS năm 2015 vì người phạm tội ý thức được hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước được hậu quả và mong muốn hoặc tuy không mong muốn nhưng có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra. Ngồi dấu hiệu lỗi cịn có

</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">

dấu hiệu động cơ, mục đích phạm tội nhưng đây không là dấu hiệu bắt buộc mà chỉ đặt ra đối với người phạm tội.

<b>1.2. Tình hình tội phạm giết người tại Việt Nam từ năm 2018 – 2022. </b>

Tình hình tội phạm là hiện tượng xã hội, pháp lý - hình sự được thay đổi về mặt lịch sử mang tính giai cấp bao gồm một hệ thống về các tội phạm thực hiện trong một quốc gia nhất định và thời điểm nhất định<small>2</small>.

Tình hình tội phạm được biểu hiện dưới dạng các thông số nguy hiểm. Việc nhận thức các thơng số trên của tình hình tội phạm, việc làm sáng tỏ bản chất, các quy luật phát triển của chúng giúp tìm ra các nguyên nhân, điều kiện và nhân thân người phạm tội từ đó tìm ra các biện pháp đấu tranh phịng, chống tội phạm có hiệu quả nhất<small>3</small>.

<i><b>1.2.1. Thực trạng của tội phạm giết người </b></i>

Các thông số tính chất nguy hiểm của tình hình tội phạm được hiểu là thực trạng, cơ cấu, diễn biến và tính chất nguy hiểm của tình hình tội phạm. Trong đó, thực trạng của tình hình tội phạm là số lượng các tội phạm đã xảy ra trong phạm vi và khoảng thời gian nhất định.

Trong 5 năm qua, trên đường lối chiến lược đổi mới của Đảng, các tổ chức và quần chúng nhân dân đã tích cực tham gia vào cơng tác phịng chống tội phạm, thu được những kết quả tích cực trong việc thực hiện Chỉ thị số 48-CT/TW ngày 22/10/2010 của Bộ Chính trị khóa X. Do đó, tội phạm từng bước được kiềm chế, một số loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng có xu hướng giảm. Tuy nhiên, tình hình tội phạm vẫn cịn đang diễn biến phức tạp, tội phạm giết người trung bình cả năm xảy ra hơn 1000 vụ trên cả nước, mặc dù số tội phạm giết người có xu hướng tăng, giảm nhẹ qua từng năm nhưng tính chất và mức độ nghiêm trọng lại ngày càng tăng, thủ đoạn của chúng thì ngày càng tinh vi, xảo quyệt, gây tâm lý hoang mang, lo sợ cho quần chúng nhân dân.

<small>2</small><i><small> Trường ĐH Luật TPHCM, Giáo trình Tội phạm học, NXB Hồng Đức. </small></i>

<small>3</small><i><small> Trịnh Văn Toản (2017), Tội giết người theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Hồ Chí </small></i>

<i><small>Minh, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Học viện khoa học xã hội. </small></i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">

<i>(Biểu đồ 1.1 - Số liệu được tính theo các thống kê của Bộ Cơng an) </i>

<i><b>1.2.2. Cơ cấu của tội phạm giết người </b></i>

Tội giết người được Bộ công an thống kê và xếp vào nhóm tội phạm về trật tự xã hội, bao gồm Tội giết người, Tội cố ý gây thương tích, Tội hiếp dâm, Tội cướp giật tài sản, Tội trộm cắp tài sản, Tội đánh bạc, tổ chức đánh bạc và các Tội phạm khác. Trong giai đoạn từ năm 2018 – 2022, tình hình Tội giết người so với các tội phạm cịn lại trong nhóm tội phạm về trật tự xã hội được nhận xét là dù chiếm tỉ lệ nhỏ nhưng đang có xu hướng tăng dần qua các năm. Tỉ lệ được tính từ số vụ giết người trên tổng số vụ án về trật tự xã hội được phát hiện. Cụ thể trong năm 2018 Tội giết người chiếm khoảng 2%, năm 2019 Tội giết người chiếm 2,13%, năm 2020 chiếm 2,22%, năm 2021 chiếm 2,5% và năm 2022 chiếm 2,3%.

<b>Thực trạng của tội phạm giết người</b>

<small>Số vụ giết người Số người phạm tội</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">

<i>(Biểu đồ 1.2 - Số liệu được tính theo các thống kê của Bộ Công an) </i>

<i><b>1.2.3. Diễn biến của tội phạm giết người (Xem Bảng 1.1 – Phần phụ lục) </b></i>

<i>Sự thay đổi về thực trạng </i>

Tổng quan trong 5 năm từ năm 2018 – 2022, số vụ án giết người khoảng hơn 1000 vụ mỗi năm. Số vụ giết người có xu hướng giảm nhẹ qua từng năm, mặc dù số tội phạm giết người có xu hướng giảm nhưng tính chất và mức độ nghiêm trọng lại ngày càng tăng, thủ đoạn thì ngày càng tinh vi dẫn đến tâm lý hoang mang, lo sợ cho quần chúng nhân dân.

<i>(Biểu đồ 1.3 - Số liệu được tính theo các thống kê của Bộ Cơng an) </i>

<b>Cơ cấu tội phạm giết người 2018 - 2022</b>

<small>20182019202020212022</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">

<i>Sự thay đổi về cơ cấu </i>

Qua việc phân tích thơng số cơ cấu tình hình tội phạm giết người ở trên, ta thấy dù số vụ án giết người có xu hướng giảm, nhưng tỉ lệ của tội phạm này trong tình hình tội phạm về trật tự xã hội lại có xu hướng tăng. Từ năm 2018 đến năm 2022 đã tăng từ 2% đến 2,3%.

<i>(Biểu đồ 1.4 - Số liệu được tính theo các thống kê của Bộ Cơng an) </i>

<i><b>1.2.4. Tính chất nguy hiểm của tội phạm giết người </b></i>

<i>Tính chất nguy hiểm của tội phạm giết người thể hiện thông qua thông số phản ánh thực trạng, cơ cấu, động thái của tình hình tội phạm. </i>

Thơng qua các số liệu về thực trạng, cơ cấu và động thái của tình hình tội phạm cho thấy được tính phức tạp của loại tội phạm này. Trong thời gian qua, số bị cáo phạm Tội giết người có xu hướng tăng, giảm nhẹ chưa đến mức biến động nhưng số nạn nhân thiệt mạng đang tăng dần theo từng năm, điều này phản ánh tính chất nguy hiểm của chúng đối với xã hội. Tuy nhiên số liệu này có thể khơng chính xác với diễn biến tình hình phức tạp của tội phạm giết người trong vài năm gần đây, trên thực tế, con số này có khả năng cao gấp nhiều lần nhưng cũng phản ánh một phần nào tính chất nguy hiểm của loại tội phạm này, đồng thời cũng phản ánh số lượng án mạng xảy ra tương đối đều ở mức biến động trong thời gian gần đây tại Việt

<small>9901000101010201030104010501060107010801090</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">

<i>- Về hình thức phạm tội (Xem Bảng 1.6 – Phần phụ lục) </i>

Đa số các vụ án giết người thường được thực hiện dưới hình thức phạm tội đơn lẻ, trong tổng số 228 bản án về Tội giết người đã xét xử trên địa bàn cả nước từ năm 2018 – 2022 mà nhóm đã nghiên cứu thì có tới 207 vụ giết người theo hình thức phạm tội đơn lẻ, chiếm tỉ lệ 90,8%. Còn lại là các trường hợp phạm tội có đồng phạm (có 21 vụ chiếm tỉ lệ 9,2%), theo khảo sát thì các vụ án có hình thức đồng phạm chiếm tỉ lệ rất ít, tuy nhiên chúng lại có mức độ nguy hiểm cao hơn so với hình thức phạm tội đơn lẻ. Tuy nhiên trong đó chỉ có số ít trường hợp các đồng phạm lên kế hoạch, bàn bạc với nhau, trái lại, phần lớn ở các vụ án, các đồng phạm hoặc đồng phạm không thông mưu hay là đồng phạm nhưng vai trị khơng đáng kể trong vụ án.

</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">

Thông qua Bảng 1.7, trong tổng số 228 bản án về Tội giết người đã xét xử trên địa bàn cả nước mà nhóm khảo sát thì có 02 phương thức gây án: vật lý và hóa học

 Các tỉnh phía Bắc có 74 vụ giết người theo phương thức vật lý, 3 vụ giết người theo phương thức hóa học.

 Các tỉnh miền Trung có 50 vụ giết người theo phương thức vật lý, 1 vụ giết người theo phương thức hóa học.

 Các tỉnh phía Nam có 97 vụ giết người theo phương thức vật lý, 3 vụ giết người theo phương thức hóa học.

Theo đó, trong tổng số 228 vụ án thì nhóm nghiên cứu rút ra tỉ lệ như sau:  Phương thức vật lý có 221 vụ, chiếm 97%.

 Phương thức hóa học có 7 vụ, chiếm 3%.

</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">

<b>Phương thức phạm tội</b>

<small>Các tỉnh phía BắcCác tỉnh miền TrungCác tỉnh phía Nam</small>

Qua đó, ta có thể thấy được tỉ lệ giết người bằng phương thức vật lý là đa số, chiếm tỉ lệ cao nhất trong số 3 phương thức gây án. Vì tính dễ dàng, nguy hiểm của việc giết người bằng cách tác động vật lý, nên người phạm tội thường sử dụng phương thức này nhất để thực hiện hành vi phạm tội của mình. Hiện nay, các đối tượng càng manh động hơn, xuất hiện những trường hợp sử dụng bom xăng, mìn tự chế, phóng hoả để thực hiện hành vi giết người.

<i>(Biểu đồ 1.7 - Nguồn: 228 bản án mà nhóm thống kê) - Về công cụ, phương tiện phạm tội (Xem Bảng 1.8 – Phần Phụ lục) </i>

Đa số ở các vụ án giết người, người phạm tội luôn sử dụng bạo lực và dùng các công cụ, phương tiện thô sơ chủ yếu như dao, mã tấu, gậy gộc,... để gây án. Có những vụ án chỉ sử dụng duy nhất một công cụ, phương tiện để gây án, nhưng cũng có những vụ án kẻ ác đã sử dụng nhiều công cụ, phương tiện để thực hiện hành vi phạm tội của mình. Qua việc phân tích 228 vụ án giết người trên tồn quốc, nhóm nghiên cứu đã thống kê được số trường hợp sử dụng công cụ, phương tiện của loại tội phạm này là 253 trường hợp thể hiện trên Biểu đồ 1.8.

Người phạm tội có thể sử dụng nhiều loại cơng cụ khác nhau, nhưng trong đó dao là phổ biến hơn cả. Điều này được thể hiện cụ thể qua bảng số liệu trên, với các tỉnh phía Bắc có 55 vụ sử dụng dao, các tỉnh miền Trung có 34 vụ sử dụng dao, các tỉnh phía Nam có 73 vụ sử dụng dao. Trong tổng số 253 trường hợp mà tội phạm giết người sử dụng nhiều loại công cụ, phương tiện để thực hiện hành vi thì trường

</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">

<small>DaoBúaTuýp sắt</small>

<small>Cây gỗKéoTaychân</small>

<b>Công cụ, phương tiện</b>

<small>DaoBúaTuýp sắtCây gỗKéoTay chânXăngSúngKhác</small>hợp sử dụng dao là 162, chiếm tỉ lệ 64%. Con số này cho thấy độ tiện dụng, di động, dễ cất giấu của loại công cụ trên trong việc gây án.

Những công cụ phương tiện khác như búa, kéo, xăng, súng,... cũng được sử dụng để gây án tuy nhiên tỉ lệ không nhiều.

<i>(Biểu đồ 1.8 - Nguồn: 228 bản án mà nhóm thống kê) </i>

- Về thủ đoạn phạm tội

Các đối tượng thực hiện hành vi giết người ngày càng tinh vi. Người phạm tội sử dụng chủ yếu thường là thuốc diệt chuột, thuốc diệt cỏ rồi trộn vào thức ăn, đồ uống nhằm đầu độc nạn nhân… Nguy hiểm hơn, một số đối tượng còn sử dụng cả chất độc xyanua, làm nạn nhân bị bất tỉnh và ngừng tim chỉ sau từ 1 đến 2 phút.

<i>Tinh chất nguy hiểm của tội phạm giết người thông qua đặc điểm về nhân thân người phạm tội. </i>

<i>- Về độ tuổi (Xem Bảng 1.9 – Phần Phụ lục) </i>

Theo số liệu của nhóm nghiên cứu thu thập từ 228 bản án được lấy ngẫu nhiên trong giai đoạn 2018 – 2022 ở phạm vi cả nước và chia thành 3 giai đoạn độ tuổi gồm chưa thành niên, thành niên và trên 70 tuổi. Xét trên tổng số 253 bị cáo, độ tuổi thành niên có tỉ lệ cao nhất với số bị cáo là 234, chiếm tỉ lệ 92,5%; cao thứ hai là

</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">

<small>Chưa thành niênThành niênTrên 70 tuổi</small>

<b>Độ tuổi</b>

<small>Các tỉnh phía BắcCác tỉnh miền TrungCác tỉnh phía Nam</small>

các bị cáo ở độ tuổi chưa thành niên, gồm 17 bị cáo với tỉ lệ 6,7%; thấp nhất là các đối tượng trên 70 tuổi, số bị cáo là 2, chiếm tỉ lệ 0,8%.

Cụ thể tại mỗi vùng, các độ tuổi của các bị cáo được phân bố như sau:

- Các tỉnh phía Bắc có 2,6% bị cáo là người chưa thành niên; 97,4% bị cáo là người thành niên và 0% bị cáo là người trên 70 tuổi.

- Các tỉnh miền Trung có 89,3% bị cáo là người chưa thành niên; 89,3% bị cáo là người thành niên và 1,7% bị cáo là người trên 70 tuổi.

- Các tỉnh phía Nam có 8% bị cáo là người chưa thành niên; 91% bị cáo là người thành niên và 1% bị cáo là người trên 70 tuổi.

<i>(Biểu đồ 1.9 - Nguồn: 228 bản án mà nhóm thống kê) </i>

Qua thống kê cho thấy, các con số cao nhất đều hướng về các bị cáo độ tuổi thành niên, là những đối tượng đáng lẽ được pháp luật xem là đầy đủ nhận thức, hiểu rõ và kiểm soát tốt hành vi của mình nhưng lại là độ tuổi chiếm tỉ lệ cao nhất trong số những người bị xét xử. Ở độ tuổi thành niên cũng phân thành 3 giai đoạn rõ rệt, từ 18 tuổi đến 30 tuổi, 30 tuổi đến 45 tuổi và trên 45 tuổi và hầu hết các nhóm tuổi này đều có các lý doriêng nhất định dẫn đến việc phạm tội. Vào giai đoạn từ 18 tuổi đến 30 tuổi, theo nghiên cứu của các nhà khoa học, đây là độ tuổi con người muốn khẳng định bản thân, không ngại làm những điều mình muốn. Số liệu này đang cho thấy có khơng ít bị cáo là người chưa thành niên đã bị tác động, lôi kéo để thực hiện hành vi giết người. Thông thường các vụ án ở độ tuổi chưa thành niên thường thực hiện dưới hình thức đồng phạm với nguyên nhân chỉ vì những tranh cãi khơng đáng có ở tuổi mới lớn. Chính vì vậy xung đột xảy ra là điều đương nhiên, nhất là trong cơng việc, bạn bè, gia đình,... Đến giai đoạn từ 30 tuổi đến 45 tuổi, con

</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">

người bước dần vào tuổi trung niên, được nhận xét là có phần chín chắn, khả năng kiềm chế cao hơn nên các mâu thuẫn thường xoay quanh các vụ tranh chấp đất đai, tài sản, tình cảm vợ chồng,... Khi con người từ 45 tuổi trở lên, những mâu thuẫn vốn dĩ không nhiều như các giai đoạn trước, phần lớn đến từ mâu thuẫn trong gia đình, quan hệ vợ chồng, vì con cháu,... Các bị cáo độ tuổi chưa thành niên dù có tỉ lệ thấp nhưng những con số này vẫn không thể xem là nhỏ và còn được nhận xét là có xu hướng ngày càng tăng. Điều đáng chú ý là số tội phạm dù ít nhưng vẫn xảy ra ở độ tuổi trên 70 tuổi, đây vốn dĩ là độ tuổi không nên xuất hiện tội phạm giết người. Với những người phạm tội trên 70 tuổi dù chỉ chiếm 0,8% nhưng nếu khơng xử lý triệt để thì với xu hướng tuổi thọ con người ngày càng tăng thì tội phạm ở độ tuổi trên 70 có thể sẽ cịn tăng lên trong những năm sau. Đáng nói hơn, có vài tội phạm trên 70 tuổi nhưng vẫn ra tay thô bạo, đặc biệt là đối tượng đã và đang có tiền án, tiền sự xâm phạm sức khỏe người khác. Độ tuổi trên 70 tuổi có tỉ lệ ít nhất, phần nhiều những người cao tuổi sẽ không lựa chọn giải pháp bạo lực để giải quyết vấn đề vì trở ngại sức khỏe. Tuy nhiên vẫn cần lưu tâm để giải quyết triệt để con số này.

Cũng như vụ án của ông Dương Văn H theo Bản án 21/2021/HS-ST ngày 23/12/2021 của TAND tỉnh Sóc Trăng. Tại thời điểm gây án, bị cáo 73 tuổi, từng bị xử Tội cướp tài sản và Tội cố ý gây thương tích. Ơng Dương Văn H vì khơng được nạn nhân hoàn trả đủ những đồ đã mượn mà gây sự với nạn nhân, tìm cách giết nạn nhân rồi tự tử nhưng khơng thành, sau đó bị cáo đã dùng dao đâm nhiều nhát liên tiếp vào người nạn nhân khiến nạn nhân tử vong.

Nhóm tác giả nhận thấy, đặc điểm độ tuổi thể hiện tính nguy hiểm của Tội giết người là vì độ tuổi phạm tội ngày càng trải rộng, chúng ta không thể tiếp tục cho rằng không phải người chưa thành niên hay người trên 70 tuổi thì khơng có khả năng phạm tội, thay vào đó phải càng cảnh giác, tăng cường áp chế tội phạm.

</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">

Theo đó, cả ba vùng<small> </small>Bắc, Trung, Nam đều có khoảng cách lớn giữa tỉ lệ nam giới và nữ giới, trung bình chênh nhau khoản 85-92%. Đây là minh chứng rõ ràng cho thấy khả năng phạm tội của nam thường cao hơn nữ, xuất phát từ sự khác nhau về quan điểm, sinh lý, khả năng kiềm chế,... Các bị cáo là nữ phần lớn đều rơi vào trường hợp có mâu thuẫn trong chuyện tình cảm, trong khi đó nữ giới phần đơng là những người giỏi kiềm chế, nhẫn nhịn nhưng mặt khác họ cũng có tính tình tương đối nóng nảy. Vậy có thể lý giải, những người phụ nữ này một phần vì đã chịu đựng quá nhiều nên bộc phát thành hành động, một phần vì nóng giận nên khơng kiểm sốt được hành vi. Đối với loại hành động thiếu nhân tính như giết người thì dù đó là nam giới hay nữ giới, họ đều phải chịu hình phạt thích đáng cho hành vi mình đã gây ra.

<i>(Biểu đồ 1.10 - Nguồn: 228 bản án mà nhóm thống kê) </i>

<i>- Về trình độ học vấn (Xem Bảng 1.11 – Phần Phụ lục) </i>

Ở đặc điểm trình độ học vấn, nhóm nghiên cứu lập ra 4 tiêu chí gồm khơng biết chữ, trình độ tiểu học (cấp 1), trình độ trung học cơ sở (cấp 2) và trình độ trung học phổ thơng (cấp 3). Số bị cáo có trình độ tiểu học là 43, chiếm 20,8%; số bị cáo có trình độ trung học cơ sở là 94, chiếm 45,4%; số bị cáo có trình độ trung học phổ thông là 50, chiếm 24,2% và số bị cáo không biết chữ là 20, chiếm 9,6% trong tổng số người bị xét xử. Từ đây có thể thấy, trên cả 3 vùng, tỉ lệ bị cáo có trình độ trung học cơ sở là cao nhất (45,4%), thấp nhất là các bị cáo không biết chữ (9,6%).

Nếu khoanh vùng địa lý ta thấy:

- Các tỉnh phía Bắc với 17% bị cáo trình độ tiểu học; 49% bị cáo trình độ trung học cơ sở; 25% bị cáo trình độ trung học phổ thơng và 9% bị cáo khơng biết chữ.

<b>Các tỉnh phía Bắc</b>

<b>Các tỉnh miền Trung</b>

<b>Các tỉnh phía Nam</b>

<small>NamNữ</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">

<b>Trình độ học vấn</b>

<small>Các tỉnh phía BắcCác tỉnh miền TrungCác tỉnh phía Nam</small>

- Các tỉnh miền Trung với 3,7% bị cáo trình độ tiểu học; 55,6% bị cáo trình độ trung học cơ sở; 29,6% bị cáo trình độ trung học phổ thông và 11,1% bị cáo không biết chữ.

- Các tỉnh phía Nam với 28% bị cáo trình độ tiểu học; 40% bị cáo trình độ trung học cơ sở; 22% bị cáo trình độ trung học phổ thơng và 10% bị cáo không biết chữ.

<i>(Biểu đồ 1.11 - Nguồn: 228 bản án mà nhóm thống kê) </i>

Đối với đặc điểm này, chênh lệch tỉ lệ phần trăm giữa các tiêu chí khơng cao, cho thấy tội phạm giết người không nghiêng về bậc trình độ học vấn nhất định, cũng không chỉ những người có trình độ học vấn thấp mới có hành vi giết người. Thơng thường những người có trình độ học vấn thấp sẽ có khả năng giết người cao hơn, do họ thường có hồn cảnh gia đình khó khăn nên khơng thể tiếp tục việc học, khơng được tiếp xúc với môi trường lành mạnh thường xuyên, vì vậy sẽ có xu hướng dùng bạo lực giải quyết mâu thuẫn nhiều hơn. Nhưng trình độ học vấn cũng thể hiện tính nguy hiểm ở chỗ, người có học vấn cao dù nhận thức được hành vi giết người là trái pháp luật nghiêm trọng nhưng họ vẫn mong muốn hoặc để mặc cho hậu quả xảy ra, hơn nữa còn sử dụng những thủ đoạn ngày càng tinh vi để che giấu tội phạm, gây khó khăn cho công tác điều tra, xử lý vụ án.

Trước đây chúng ta có thể nói phần lớn những bị cáo giết người là vì có nhận thức kém, không được học hành tử tế, tuy nhiên ngày nay chúng ta không thể cứ

</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">

“đổ lỗi” cho nguyên nhân này được. Bằng chứng là tỉ lệ người có cấp bậc Trung học phổ thơng vẫn chiếm một phần khơng nhỏ, thậm chí cịn cao hơn cả tỉ lệ của những bị cáo không biết chữ. Phải chăng nhận thức, hiểu biết pháp luật của họ còn kém? Có thể nói đó chỉ là một bộ phận, phần lớn chính là phản ánh mặt trái của sự phát triển. Khơng sai khi nói rằng, xã hội càng phát triển, hội nhập, con người càng trở nên vô cảm.

<i>Về nghề nghiệp (Xem Bảng 1.12 – Phần Phụ lục) </i>

Dựa trên số liệu phân tích được từ 228 bản án trên khắp cả nước trong 5 năm (2018 – 2022), số lượng bị cáo là dân lao động tự do chiếm tỉ lệ cao nhất với 58%, sau đó lần lượt là khơng có việc 13%, làm nơng 10%, công nhân 6% và các nghề nghiệp khác như đầu bếp, lái xe,… chiếm tỉ lệ còn lại là 13%.

Tỉ lệ phần trăm chi tiết ở cả 3 vùng như sau:

- Ở các tỉnh phía Bắc: lao động tự do chiếm tỉ lệ cao nhất với 75%, cao thứ hai là làm nông với 9%, đồng hạng ba là công nhân và không có việc làm với cùng tỉ lệ 4%, các nghề còn lại chiếm 8%.

- Ở các tỉnh miền Trung: lao động tự do chiếm tỉ lệ cao nhất với 59%, cao thứ hai là làm nông với 20%, sau đó là khơng có việc với 10% và cơng nhân với 2%, các nghề còn lại chiếm 10%.

- Ở các tỉnh phía Nam: lao động tự do chiếm tỉ lệ cao nhất với 48%, cao thứ hai là khơng có việc làm với 21%, sau đó là công nhân với 9% và làm nơng với

<i>6%, các nghề cịn lại chiếm 17%. </i>

<i>(Biểu đồ 1.12 - Nguồn: 228 bản án mà nhóm thống kê) </i>

<b>Nghề nghiệp</b>

<small>Cơng nhânLàm nơngLao động tự doKhơng có việc làmKhác</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">

Thơng qua số liệu, ta thấy rõ trong các năm gần đây, các đối tượng có hành vi giết người là những người có nghề nghiệp lao động tay chân là chủ yếu. Cùng với đó là những đối tượng thất nghiệp, khơng có việc làm cũng chiếm tỉ lệ cao thứ hai, thứ ba ở cả 3 vùng và chiếm 13% trên tổng 228 bản án. Điều này cho ta thấy, mơi trường sinh hoạt và tiếp xúc trong q trình làm việc đã đóng vai trị ảnh hưởng rất lớn đến người lao động của các nghề này. Cả với thất nghiệp, khơng có việc làm cũng dẫn đến sự nhàn rỗi về thời gian, thiếu thốn về vật chất hoặc dễ sa vào các tệ nạn xã hội, trong khi q trình phân tích cho thấy phần lớn nguyên nhân của những bị cáo bị thất nghiệp là mâu thuẫn khi đang say xỉn hoặc giết người cướp của hoặc thậm chí là trả thù vì nạn nhân đã khơng nhận mình vào làm việc. Đây là tín hiệu cấp báo cần được chú ý và nhanh chóng tìm ra giải pháp để kịp thời hỗ trợ, giải quyết tình trạng này.

Tuy nhiên, tiêu chí này khơng được phân tích để nói về sự phân biệt nghề nghiệp, bởi lẽ các bị cáo có thể là những đối tượng với bất kỳ nghề nào, mà tiêu chí được phân tích để nói lên khuynh hướng phạm tội của họ có thể bị ảnh hưởng bởi mơi trường sinh hoạt và làm việc họ tiếp xúc thường ngày. Vì vậy, ta cần xem xét và đưa ra những giải pháp thích hợp, đảm bảo khơng gây ảnh hưởng đến quá trình lao động của bất kỳ một cá nhân nào mà vẫn đem lại hiệu quả phòng, chống tội phạm giết người trên cả nước.

<i>- Về mối quan hệ với nạn nhân (Xem Bảng 1.13 – Phần Phụ lục) </i>

Mối quan hệ giữa người phạm tội với nạn nhân trong tội phạm giết người là một tiêu chí khơng kém phần quan trọng. Qua việc phân tích các vụ án giết người trên tồn quốc, nhóm nghiên cứu đã phân thành 4 nhóm quan hệ chính: quen biết, khơng quen biết, huyết thống và quan hệ tình cảm. Trong đó:

 Quen biết có 165 vụ, chiếm tỉ lệ 71%.  Khơng quen biết có 46 vụ, chiếm tỉ lệ 20%.  Quan hệ huyết thống có 11 vụ, chiếm tỉ lệ 5%.  Quan hệ tình cảm có 10 vụ, chiếm tỉ lệ 4%.

</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">

<small>44</small> <sub>3</sub>

<small>Các tỉnh phía BắcCác tỉnh miền TrungCác tỉnh phía Nam</small>

<b>Mối quan hệ với nạn nhân</b>

<small>Huyết thốngQuan hệ tình cảmQuen biếtKhơng quen biết</small>

<i>(Biểu đồ 1.13 - Nguồn: 228 bản án mà nhóm thống kê) </i>

Qua khảo sát trên, ta có thể thấy một sự thật đáng buồn rằng, đa số những vụ án giết người, giữa nạn nhân và người phạm tội có mối quan hệ gắn bó với nhau, cụ thể quan hệ huyết thống có 11 vụ, chiếm tỉ lệ 5%; quan hệ tình cảm có 10 vụ, chiếm tỉ lệ 4% và quen biết nhau có 165 vụ, chiếm tỉ lệ 71%. Số cịn lại khơng quen biết nhau cũng chiếm tỉ lệ khoảng 20%. Chỉ vì vài mâu thuẫn trong cuộc sống, con người đã có thể ra tay sát hại nhau, kể cả đó là bố, là mẹ, là vợ, là chồng của mình hoặc chỉ là người mà bản thân mới gặp lần đầu. Như vậy cũng đủ để cho thấy mức độ nguy hiểm của loại tội phạm này trong xã hội.

<i>- Động cơ (Xem Bảng 1.14 – Phần Phụ lục) </i>

Trong các đặc điểm nhân thân thể hiện tính nguy hiểm của tội phạm giết người thì đặc điểm động cơ phạm tội là thể hiện rõ nét nhất. Theo kết quả khảo sát 228 bản án cho thấy phần lớn các vụ án giết người đều xuất phát từ những mâu thuẫn trong cuộc sống, sinh hoạt của mỗi cá nhân (tranh chấp đất đai, tài sản, mâu thuẫn vợ chồng, hiểu lầm,…), loại vụ án này chiếm tới 130 trường hợp (56% tổng số vụ). Trường hợp có ý định giết người để trả thù có 53 trường hợp (23% tổng số vụ). Bên cạnh đó, cịn những vụ án khác xuất phát từ những nguyên nhân như nhu cầu sinh lý, chiếm đoạt tài sản, giết người để che giấu tội phạm khác,… thì chiếm tỉ lệ khá thấp

</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">

<small>GhenMâu thuẫnChiến đoạt tài sảnTrả thù</small>

<b>Động cơ phạm tội</b>

<small>Các tỉnh phía BắcCác tỉnh miền TrungCác tỉnh phía Nam</small>

<i>(Biểu đồ 1.14 - Nguồn: 228 bản án mà nhóm thống kê) </i>

Như đã ghi nhận ở Bảng 1.14, hơn 50% vụ giết người là do có mâu thuẫn và phần lớn là mâu thuẫn giữa nạn nhân với bị cáo. Nhưng ngoài mâu thuẫn thì đặc biệt cịn có sự ghen tuông, trả thù cũng gây những cảm xúc mạnh khiến bị cáo ra tay giết người. Như Bản án số 26/2021/HS-PT ngày 13/01/2021 của TAND tỉnh Bình Dương có ghi nhận trường hợp ơng Võ Văn T vì thấy vợ ngoại tình và không đồng ý yêu cầu ly hôn của vợ và ông Th nên đã chém chết vợ mình. Được biết ơng T cũng là người có trình độ học vấn cao, đang làm kinh doanh, nhưng chỉ vì xích mích chuyện tình cảm mà đã ra tay sát hại vợ mình. Qua đó có thể thấy động cơ phạm tội có thể xuất phát từ bất cứ điều gì, thậm chí là những điều tưởng chừng như chỉ nhỏ nhặt trong cuộc sống, từ bất kỳ hoàn cảnh nào nên con người không thể lường trước được. Bởi lẽ động cơ phạm tội còn bị chi phối bởi tâm lý của người phạm tội. Và nếu không lường trước được thì khó có thể đưa ra giải pháp đề phịng, dẫn đến tình hình tội phạm càng diễn biến phức tạp.

<i>Tính chất nguy hiểm của tội phạm giết người thông qua thiệt hại (về vật chất, phi vật chất) </i>

Những thiệt hại mà tội phạm giết người đã gây ra bao gồm thiệt hại về vật chất và thiệt hại phi vật chất. Đây là những thiệt hại cho nạn nhân, gia đình nạn nhân, cho người phạm tội, gia đình người phạm tội và cho toàn xã hội.

</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">

- Thiệt hại về vật chất

Thiệt hại về tính mạng, sức khỏe: Phần lớn tội phạm giết người thường sử dụng những công cụ phương tiện nguy hiểm, có khả năng sát thương cao như dao, mã tấu, súng, các vật sắc nhọn khác,... để tác động lên những vùng trọng yếu trên cơ thể gây ra tổn thương nặng và có thể làm nạn nhân tử vong ngay sau đó.

Thiệt hại về tài sản: Thiệt hại về tài sản ở đây có thể hiểu là thiệt hại về nền kinh tế gia đình và xã hội. Có nhiều vụ án mà nạn nhân bị sát hại là lao động chính trong gia đình, từ đó nguồn thu nhập chủ yếu mất đi tạo thành gánh nặng về đồng tiền, dẫn đến hộ gia đình đó trở thành gánh nặng cho xã hội.

- Thiệt hại phi vật chất

Thiệt hại phi vật chất là những thiệt hại không thể quy đổi bằng tiền mà đặc trưng là thiệt hại về sức khỏe, tinh thần. Trong thời gian gần đây, hàng loạt vụ giết người một cách man rợ gây hoang mang dư luận, điển hình như vụ án giết người chặt đầu ở Hưng Yên tại Bản án HSPT số 396/2022/HS-PT ngày 27/05/2022 của TAND cấp cao TP. Hà Nội. Vụ việc Trần Văn Chuyên nghi ngờ ông Trần Thế D tạt axit vào mặt mẹ mình để trả thù cho con trai là Trần Ngọc Sơn, do có thù ốn Chun đã lợi dụng lúc D khơng để ý cầm dao đâm nhiều nhát vào ngực và cổ D, sau đó dùng dao cắt đầu ơng D và xách đầu ông D đặt trước cổng nhà rồi vào nhà ông D kiếm anh Sơn nhưng do anh Sơn đi vắng nên Chuyên đã ra tay với bà Mý là vợ ông D. Hậu quả là ông D chết, cịn bà Mý thì bị tổn thương 43% sức khỏe. Mặt khác, tư thù cá nhân là một trong những nguyên nhân dẫn đến những vụ án giết người gây chấn động dư luận kèm theo tình hình diễn biến phức tạp như hiện nay. Tình trạng này khơng chỉ gây ra thiệt hại vật chất (tước đi quyền được sống của nạn nhân) mà còn gây ra những thiệt hại về tinh thần, gây đau thương, mất mát không thể bù đắp cho gia đình nạn nhân và gây hoang mang, phẫn nộ trong quần chúng nhân dân. Nhiều người ý thức được hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước được hậu quả nhưng vẫn cố ý thực hiện tội phạm đến cùng, sau khi gây án họ phải sống trong sự xa lánh, miệt thị, cái nhìn khơng mấy thiện cảm của xã hội. Không chỉ họ mà gia đình của người phạm tội cịn phải đối diện với những sự chỉ trích từ những người xung quanh. Đối với xã hội, tình trạng giết người đang tràn lan và ở mức biến động, đặc biệt là người dân, họ sẽ hình thành nên tâm lý lo sợ, mất niềm tin vào cộng đồng. Hậu quả này cũng ảnh hưởng khơng ít đối với gia đình nạn nhân, sự khủng hoảng cùng cực khi mất đi người thân trong gia đình, nỗi đau khơng thể trả giá bằng tiền, kể cả gia đình người phạm tội cũng sẽ rơi vào trường hợp trên nhưng sẽ ảnh hưởng tới các thế hệ phía trước.

</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">

<b>Giai đoạn phạm tội</b>

<small>Chưa đạtHoàn thành</small>

<i>Giai đoạn phạm tội (Xem Bảng 1.15 – Phần phụ lục) </i>

Qua Bảng 1.15, từ kết quả nghiên cứu 228 bản án với khoảng 250 bị cáo về Tội giết người cho thấy, những bị cáo phạm tội hoàn thành chiếm 60,4% (142 trường hợp); những bị cáo phạm tội chưa đạt chiếm 39,6% (93 trường hợp). Trong đó, đại đa số các bị cáo phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp, có một số bị cáo cố tình thực hiện tội phạm đến cùng và số ít bị cáo nhận thức được hành vi của mình nên dừng việc thực hiện tội phạm, lập tức đi đầu thú, nhưng chiếm tỉ lệ rất ít trong tổng số các vụ án.

<i>(Biểu đồ 1.15 - Nguồn: 228 bản án mà nhóm thống kê) Địa điểm phạm tội và thái độ của người dân </i>

Nếu như trước kia, tội phạm giết người thường xuất hiện ở những nơi vắng vẻ ít người qua lại, người phạm tội thực hiện hành vi một cách kín đáo để dễ lẩn trốn. Thì hiện tại, tội phạm này ngày càng có xu hướng cơng khai, trắng trợn hơn, chúng thực hiện hành vi ở những nơi đông người, ngang nhiên coi thường pháp luật.

Ngày 14/8, TAND cấp cao tại TP.HCM đã xét xử và tuyên phạt bị cáo Võ Minh Thắng mức án tử hình về Tội giết người. Nạn nhân bị Thắng sát hại là chị Nguyễn Thị Tuyết, là người yêu cũng là đồng nghiệp của bị cáo. Theo hồ sơ vụ án, cả hai đều là giáo viên Trường THPT Võ Thị Sáu (quận Bình Thạnh) và có quan hệ tình cảm với nhau. Gia đình hai bên dự tính tổ chức đám cưới, tuy nhiên khoảng cuối tháng 3 năm 2018, chị Tuyết chủ động hủy hôn. Thắng nhiều lần liên lạc với chị Tuyết để hàn gắn tình cảm nhưng chị Tuyết không đồng ý. Khoảng 10h45 ngày

</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32">

23/4/2018, sau khi gác thi, Thắng gặp chị Tuyết tại trường để nói chuyện nhằm hàn gắn tình cảm nhưng chị Tuyết vẫn không đồng ý và cả hai cự cãi nhau. Sau đó chị Tuyết lấy xe máy đi về nhà, Thắng đi xe máy bám theo sau. Khi đến công viên bờ kè kênh Nhiêu Lộc - Thị Nghè trên đường Trường Sa (đoạn qua quận Bình Thạnh), Thắng ép xe chị Tuyết vào lề đường để tiếp tục nói chuyện và hai người tiếp tục cãi vã. Trong lúc tức giận, Thắng rút dao trong cốp xe máy đâm nhiều nhát vào người khiến chị Tuyết tử vong<small>4</small>.

Hiện trường vụ án vốn là tuyến đường nhiều người dân sinh sống, xe cộ qua lại thường xuyên. Nhưng khi chứng kiến cảnh nạn nhân và bị cáo đứng cãi vã to tiếng và bị cáo còn lấy cả con dao trong cốp xe ra, người qua đường vẫn khơng có dấu hiệu can ngăn nên đã một phần dẫn đến hậu quả chị Tuyết bị sát hại. Từ đó, ta thấy thái độ của người dân vẫn cịn bàng quan, thờ ơ trước sự việc, nếu lúc đó có người can ngăn thì có lẽ nạn nhân đã không chết và bị cáo đã không thực hiện hành vi phạm tội đến cùng.

Điều này chứng tỏ người dân chưa thực sự cảm nhận rõ ràng mức độ cần thiết của việc can ngăn khi thấy sự việc đang diễn ra, vẫn còn thờ ơ chưa quan tâm đến hậu quả dẫn tới. Tâm lý cho rằng việc ngăn ngừa tội phạm là của riêng các lực lượng chức năng, cơ quan cơng an vẫn cịn phổ biến. Điều này dẫn đến một phần làm cho người phạm tội có điều kiện thuận lợi để thực hiện hành vi của mình đến cùng.

<b>Kết luận Chương 1 </b>

Ở Chương 1, nhóm nghiên cứu đã tiến hành phân tích, khát qt q trình lập pháp của pháp luật Hình sự Việt Nam về Tội giết người trước khi ban hành BLHS đầu tiên năm 1985 cho đến nay. Nhóm tác giả đã tập trung đi sâu phân tích các vấn đề liên quan đến khái niệm, các dấu hiệu pháp lý của Tội giết người và làm rõ khách thể, mặt khách quan, chủ thể, mặt chủ quan của Tội giết người.

Sau khi phân tích, làm rõ các vấn đề nêu trên, bằng việc tìm kiếm các số liệu liên quan đến tình hình của tội phạm giết người, nhóm nghiên cứu đã tiến hành nêu lên diễn biến của tình hình tội giết người thông qua các tính chất, thơng số nguy hiểm, đặc điểm nhân thân người phạm tội. Từ việc nghiên cứu, thống kê số liệu liên quan đến tình hình tội phạm giết người để thấy được sự biến hóa khơn lường và phức tạp, gây nguy hiểm cho xã hội đối với loại tội phạm này, qua đó đề ra các giải

<small>420190814132807366.htm,truy cập vào ngày 30/6/2023. </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">

phù hợp, có hiệu quả để ngăn chặn và đẩy lùi tội phạm giết người. Những vấn đề phân tích, làm rõ qua từng số liệu, biểu đồ ở Chương 1 là nền tảng cho việc nghiên cứu nguyên nhân, điều kiện của tình hình của tội phạm giết người tại Việt

<b>Nam ở Chương 2. </b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34">

<b>Chương 2 </b>

<b>NGUYÊN NHÂN, ĐIỀU KIỆN CỦA TỘI PHẠM GIẾT NGƯỜI VÀ THỰC TRẠNG CƠNG TÁC ĐẤU TRANH PHỊNG, CHỐNG TỘI PHẠM </b>

<b>GIẾT NGƯỜI TẠI VIỆT NAM HIỆN NAY </b>

<b>2.1. Nguyên nhân và điều kiện của tội phạm giết người tại Việt Nam trong thời gian qua </b>

Nguyên nhân và điều kiện của tội phạm giết người là những yếu tố thuộc về cá nhân người phạm tội kết hợp với những hoàn cảnh khách quan cụ thể, trong sự tác động lẫn nhau dẫn đến việc hình thành động cơ phạm tội, kế hoạch hóa hành vi phạm tội và quyết tâm thực hiện hành vi phạm Tội giết người trên thực tế.

<i><b>2.1.1. Nguyên nhân từ phía người phạm tội </b></i>

<i><b>- Đặc điểm sinh học: </b></i>

Nhóm đặc điểm sinh học bao gồm giới tính, độ tuổi và một số đặc điểm thể chất khác. Với các dấu hiệu này, ta không thể chỉ ra được những cơ chế của hành vi phạm tội hay phân biệt người phạm tội với những người không phạm tội. Các dấu hiệu này chỉ thể hiện mức độ trội lên về thống kê của tình hình tội phạm. Tuy nhiên, việc phân tích nhóm đặc điểm sinh học sẽ cho ta bao quát được mức độ nguy hiểm cũng như tỉ lệ ở nhóm người ở độ tuổi nào, giới tính nào chiếm đa số. Từ đó sẽ đề ra những giải pháp hữu hiệu hơn trong cơng cuộc phịng chống tội phạm, mà cụ thể là tội phạm giết người. Việc xác định giới tính người phạm tội cho chúng ta thấy tính chất, mức độ và đặc điểm tội phạm theo từng giới nam và nữ.

<i>Giới tính </i>

Theo số liệu thống kê hình sự ở nước ta cũng như ở các nước khác trên thế giới thì nữ giới phạm tội ít hơn nam giới. Ở đa số trường hợp, ta thấy nam giới phạm tội do đặc điểm sinh học của mỗi giới tính ảnh hưởng đến tư duy, lựa chọn và cách giải quyết vấn đề. Thứ nhất, hormone testosterone trong nam giới có hàm lượng cao hơn phụ nữ, hormone này có tác dụng phát triển các cơ bắp cũng như sức mạnh ở cả nam và nữ<small>5</small>. Thứ hai, nam giới thường không làm chủ được trong việc kiểm soát những hành động bốc đồng được xui khiến bởi cơn giận nên họ kìm nén cơn giận kém hơn nữ giới<small>6</small>. Điều này thể hiện những đặc thù về tâm sinh lý của phụ nữ, họ vốn là phái đẹp, ôn hòa, ngại va chạm, ghét sự xung đột trong đời sống, hạn chế về

</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35">

sức khỏe,... Phụ nữ chủ yếu hành động theo tình cảm hơn là lý trí. Cịn nam giới do đặc điểm tâm sinh lý vốn có dễ bị ảnh hưởng bởi môi trường sống, dễ phát sinh tâm lý tiêu cực như nóng nảy, cộc cằn, thơ lỗ, thiếu kiểm sốt, bạo lực,… Thêm vào đó nam giới thích thể hiện sức mạnh, vũ lực để khuất phục người khác, trong nhiều trường hợp sẽ làm cho họ không làm chủ được bản thân bởi những hành động mang tính tiêu cực từ phía nạn nhân, làm nảy sinh hành vi phạm tội dẫn tới trở thành tội phạm của Tội giết người.

Tuy nhiên trong thời gian gần đây, tỉ lệ phạm tội ở nữ giới có xu hướng tăng và đa dạng hơn. Sự thay đổi này là do xã hội có nhiều chuyển biến, nữ giới có sự thay đổi vị trí cũng như vai trị trong gia đình và xã hội.

<i> Độ tuổi </i>

Xác định độ tuổi của tội phạm đặc biệt là tội phạm giết người cho ta thấy rõ tính chất, mức độ, đặc điểm của người phạm tội ở từng lứa tuổi và sự ảnh hưởng của lứa tuổi đến việc thực hiện tội phạm này. Dưới góc độ tội phạm học, người ta chia thành 5 nhóm tuổi là dưới 18 tuổi, từ 18 tuổi đến 30 tuổi, từ 30 tuổi đến 45 tuổi, từ 45 tuổi đến 60 tuổi và trên 60 tuổi. Ở đây, tội phạm giết người thường tập trung chủ yếu ở nhóm từ 18 tuổi đến 30 tuổi, bởi ở nhóm độ tuổi này chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố nên xuất hiện những hành vi lệch chuẩn, áp lực xã hội, nhu cầu muốn chứng tỏ bản thân, cái tôi cao, độ tuổi khỏe nhất của đời người, thiếu kinh nghiệm sống… Ở các nhóm độ tuổi khác, việc phạm tội cũng hạn chế hơn do các điều kiện xã hội và đời sống. Dưới 18 tuổi, các hoạt động trong giai đoạn này chủ yếu là học tập và phát triển bản thân, dù vậy vẫn có một số trẻ bốc đồng, thích thể hiện bản thân nhưng do còn sự ảnh hưởng từ gia đình, nhà trường nên khả năng phạm tội ít hơn so với nhóm từ 18 tuổi đến 30 tuổi. Ở độ tuổi từ 30 tuổi đến 45 tuổi, người ta sẽ tập trung chăm lo cho gia đình và sự nghiệp, tâm lý mưu cầu duy trì một cuộc sống ổn định nên cũng ít xảy ra các vấn đề tội phạm, nếu có thì thường tập trung vào nhóm tội phạm về kinh tế, tội phạm gia đình. Từ 45 tuổi đến 60 tuổi và trên 60 tuổi trở lên, con người sẽ suy giảm về sức khoẻ, thái độ với xã hội và tâm lý ở giai đoạn này cũng ơn hồ hơn, chủ yếu muốn vui vẻ, yên bình cùng con cháu. Vậy nên, tỉ lệ tội phạm ở các nhóm tuổi này cũng ít hơn hẳn so với nhóm từ 18 tuổi đến 30 tuổi.

Nhưng càng về sau, tội phạm giết người không chỉ xảy ra nhiều trong nhóm tuổi từ 18 tuổi đến 30 tuổi mà cịn có sự xê dịch sang các nhóm tuổi khác. Xã hội phát triển, các nhu cầu trong cuộc sống của con người cũng theo đó mà tăng lên. Ở nhóm dưới 18 tuổi, với sự du nhập của nền văn hoá thế giới, các em sẽ dễ tiếp cận với những tư tưởng bạo lực. Hơn nữa, đây là lứa tuổi trong giai đoạn định hình tâm lý, con người dễ bị tác động và ảnh hưởng bởi môi trường xung quanh, có xu hướng

</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36">

học hỏi và bắt chước theo những gì chúng thấy, nếu khơng biết chọn lọc và có sự giáo dục kỹ lưỡng từ gia đình và nhà trường các em sẽ dễ học theo, làm theo, từ đó dẫn đến lối sống cơn đồ, nóng nảy. Cịn ở độ tuổi 30 tuổi đến 45, do mưu cầu cuộc sống ổn định nhưng mức sống ngày càng tăng sẽ dẫn đến tâm lý áp lực gia đình và đồng tiền, dẫn đến nhiều nỗi lo về vật chất và kinh tế, dễ nảy sinh tâm lý nóng nảy là một trong những điều kiện để phát sinh tình hình tội phạm. Hay ở độ tuổi từ 45 tuổi đến 60 tuổi và trên 60 tuổi, người ở nhóm tuổi này thường có vị trí xã hội và nghề nghiệp ổn định, kinh nghiệm sống cao, khả năng kiềm chế cao hơn nên khả năng phạm tội thấp hơn các nhóm tuổi khác. Ngày nay, nhu cầu sống của con người tăng cao, y học ngày càng phát triển tiên tiến nên tuổi thọ được nâng cao. Do vậy các nhu cầu cơ bản vẫn cần tiếp tục được đáp ứng như nhu cầu về ăn uống, sinh lý, tình cảm,... chính điều kiện này cũng làm cho tỉ lệ tội phạm độ tuổi này có xu hướng tăng. Đặc biệt, khi đã ngoài 60 tuổi, con người sẽ có xu hướng hoài niệm về quá khứ, lúc này sự nghiệp khơng cịn quan trọng như trước, nên họ sẽ có những suy nghĩ về tình cảm nhiều hơn dẫn đến mâu thuẫn tình cảm cũng phát sinh nhiều hơn. Các yếu tố về đời sống và xã hội cũng ảnh hưởng rất nhiều đến tình hình tội phạm, vậy nên ta cần phải nắm rõ tình hình đời sống của xã hội để phân tích và nắm bắt được các mối đe dọa trong nội tâm con người ở từng lứa tuổi.

<i><b>- Đặc điểm xã hội: </b></i>

<i>Hồn cảnh gia đình. </i>

Gia đình là tổ ấm của con người, là mơi trường đầu tiên hình thành nhân cách cá nhân, giữ vai trò quan trọng trong việc phát triển, định hướng hành vi của con người từ lúc sinh ra cho đến khi trưởng thành. Gia đình tác động đến cá nhân một cách có mục đích rõ ràng hoặc tự phát thông qua cuộc sống thường ngày của gia đình, có thể là cách thức giao tiếp hằng ngày giữa các thành viên, sự giáo dục từ cha mẹ và chính mỗi người trong gia đình cũng là tấm gương cho con em mình noi theo. Một gia đình văn hóa, hịa thuận sẽ góp phần hình thành nhân cách tốt lên những đứa trẻ. Ngược lại, nếu gia đình đó khiếm khuyết, có nhiều yếu tố tiêu cực thì sẽ hình thành những đặc điểm lệch lạc trong nhân cách của đứa trẻ, điều này cũng dẫn đến việc tăng nguy cơ thực hiện tội phạm của chúng sau này. Những yếu tố tiêu cực đó xuất phát từ những thành viên trong gia đình, cụ thể ta nói những mơi trường gia đình sau:

Thứ nhất, gia đình có cơ cấu khơng hồn thiện (khuyết thiếu): đứa trẻ sinh ra mà khơng có cha hoặc mẹ hay khơng có cả hai. Những đứa trẻ trong hoàn cảnh này thường có tính cách bướng bỉnh, suy nghĩ kém hồn thiện do thiếu sự quan tâm và dạy dỗ của cha mẹ; sự thiếu tình thương, chăm sóc, bảo bọc và quản lý từ cha mẹ

</div><span class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37">

dẫn đến việc những đứa trẻ dễ bị sa ngã, lôi kéo vào con đường xấu, vi phạm pháp luật.

Thứ hai, gia đình khơng hạnh phúc, thường xun có bầu khơng khí căng thẳng, xung đột kéo dài: Gia đình có cha, mẹ thường xun cãi vã, đánh đập, chửi bới nhau hay những gia đình có cha mẹ ly hôn, con cái phải sống với cha dượng hay mẹ kế và bị họ bạo lực về thể chất lẫn tinh thần... Sống trong những gia đình có hoàn cảnh như trên, nhiều trẻ em phải gánh chịu nỗi đau một mình, khơng có ai để chia sẻ, nỗi ám ảnh tinh thần đau đớn vì hành vi ứng xử thô bạo của cha mẹ cứ đeo bám những đứa trẻ cho đến khi chúng trưởng thành, dẫn đến tâm lý ám ảnh, bi quan trong cuộc sống, tiêm nhiễm những thói sống vơ kỷ luật, không tôn trọng người lớn, cách cư xử thô bạo, tâm lý thù ghét,...

Thứ ba, những đứa trẻ thiếu sự quan tâm và chăm sóc từ gia đình: nền kinh tế ngày càng phát triển, mức sống người dân tăng cao, các bậc cha mẹ vì mưu sinh, chạy theo đồng tiền mà ít để ý tới con cái, khơng có nhiều thời gian để chăm dạy và giáo dục con. Một số cha mẹ ỷ lại và nghĩ rằng giáo dục con là nghĩa vụ của nhà trường, đây là tâm lý xấu của các bậc phụ huynh, điều này làm ảnh hưởng khơng nhỏ tới sự hồn thiện nhân cách của đứa trẻ. Hoặc bản thân cha, mẹ là người thường xuyên vi phạm pháp luật, có tiền án, tiền sự đã tạo tấm gương xấu cho con cái. Do thiếu sự quan tâm của cha mẹ, những đứa trẻ dần thu mình, hành xử theo những gì chúng cho là đúng, không phân biệt được đúng sai. Những đứa trẻ này nếu gặp những đứa trẻ khác có cùng hồn cảnh thì sẽ có xu hướng tụ tập lại, chơi bời, dễ bị lôi kéo vào con đường phạm tội, nghiện ma túy, sẵn sàng giết người để bảo vệ đồng bọn của mình,… Điển hình như vụ án Tống Thị Tùng Linh (sinh năm 2001, trú phường Phước Nguyên, TP Bà Rịa) dùng chất độc xyanua để đầu độc cha ruột khiến người đàn ông này tử vong. Theo hồ sơ vụ án, do mâu thuẫn trong sinh hoạt hàng ngày, Tống Thị Tùng Linh nảy sinh ý định giết cha ruột của mình là ơng T.H.Đ (sinh năm 1968, trú tại Khu phố 4, phường Phước Nguyên, TP Bà Rịa). Vào khoảng tháng 9/2021, Linh giã nát một viên thuốc ngủ rồi pha vào chai nước cho ông Đ. uống với mục đích cho ơng Đ. chết nhưng sau khi uống hết chai nước, ơng Đ. khơng bị gì. Sau đó, Linh tiếp tục lên mạng Internet tìm hiểu về chất độc xyanua để mua về đầu độc ông Đ. Ngày 18/01/2022, Linh đến cửa hàng mua xyanua và đến khoảng 20 giờ cùng ngày, Linh lấy xyanua cho vào 03 chai nước rồi để ngăn mát tủ lạnh với mục đích để ơng Đ. lấy uống. Sự việc xảy ra đúng như suy tính của Linh, Linh bình tĩnh đi ngủ. Đến khoảng 07 giờ, ngày 19/01/2022, Linh đi mua máy cưa về phá cửa nhà vệ sinh kéo xác bố đến góc phía sau nhà rồi Linh mua gạch, xi măng để xây giấu xác ơng Đ. Q trình giấu xác, Linh thấy khó che giấu hành vi của mình

</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38">

nên đã nghĩ ra cách đốt nhà để tạo hiện trường giả. Sau khi châm lửa đốt nhà, Linh chạy qua nhà của ông nội thông báo cho mọi người biết có một người khơng rõ lai lịch đột nhập vào nhà đánh Linh và đốt nhà. Sau khi sự việc xảy ra, Cơ quan điều tra đã mời Tống Thị Tùng Linh lên làm việc, tại đây Linh đã thừa nhận toàn bị hành vi giết người của mình<small>7</small>.

Thứ tư, xuất phát từ thói quen, truyền thống của gia đình: đây là một trong các yếu tố tác động đến tính cách con người sâu sắc nhất. Khi một gia đình có nếp sống kỷ luật, kỷ cương, lành mạnh thì trẻ em sẽ hình thành lối sống, lối suy nghĩ tích cực, tốt đẹp. Khác với một gia đình có thói quen sống bng thả, thiếu nề nếp, trật tự, ưa dùng vũ lực, sẽ tạo điều kiện cho con em giao du với người xấu, từ đó càng trở nên sa đọa, vướng vào các tệ nạn xã hội. Ngồi ra có những gia đình thường hay bao che cho con cái, thấy con mình làm sai nhưng họ khơng chỉ bảo mà lại tìm mọi cách để minh oan cho con. Chính thói quen này sẽ vơ tình hình thành tính cách ỷ lại và dựa dẫm, chúng bất chấp làm những gì mình muốn bởi ln nghĩ rằng gia đình sẽ bao che cho mình. Dần dần những hành vi sẽ ngày càng nghiêm trọng, từ những vụ trộm cắp vặt thành những vụ đánh nhau, thậm chí là giết người.

Tại Bản án HSST số 24/2022/HS-ST về vụ án giết người ngày 31/5/2022 tỉnh Bắc Giang là một minh chứng cho thói quen bao che của gia đình. Bị cáo Y và nạn nhân H là vợ chồng, nhưng sau đó thì ly hôn, Y chung sống như vợ chồng với người khác. Một thời gian sau, H và Y chung sống với nhau nhưng sinh hoạt riêng, cùng thời điểm này, 2 người thường xảy ra tranh cãi. Ngày 17/10/2021, Y đang nằm trong phịng ngủ thì thấy có người chạy ra từ phịng mình, đến khi bắt được thì phát hiện là H, trên tay có cầm búa. Y cho rằng H có ý định giết mình nên ra tay với Y một cách thô bạo khiến Y tử vong. Sau đó H chạy xe qua nhà cháu họ X, tại đây X không những không khuyên Y đi đầu thú mà cịn giúp Y trốn tránh cơng an, che giấu tội phạm.

Từ những phân tích trên cho ta thấy, nền kinh tế càng phát triển thì sẽ kéo theo nhiều mặt trái tiêu cực làm ảnh hưởng đến mơi trường gia đình, dẫn đến phát sinh những đặc điểm tâm sinh lý, hành vi lệch lạc, lối sống vật chất, thực dụng, coi thường pháp luật, trong một vài trường hợp cịn coi thường cả tính mạng, sức khỏe của người khác và trong những điều kiện, tình huống thuận lợi sẽ làm phát sinh hành vi giết người, gây nỗi bức xúc trong xã hội.

<small>7 Cự Giải (2022), “Vụ thiếu nữ sát hại cha: Người phụ nữ 31 tuổi bán chất độc xyanua bị truy tố tội </small>

<i><small>gì?”, Chuyên trang Đời sống và pháp luật. </small></i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 39</span><div class="page_container" data-page="39">

<i>Giáo dục </i>

Mạnh Tử từng có câu: “Nhân chi sơ tính bản thiện”, ý chỉ bản chất của con người là thiện lương nhưng vì trong quá trình lớn lên, bị đời sống xã hội tác động nên tính cách thay đổi, có thể có khuynh hướng xấu, nhưng chủ yếu nhờ có sự giáo dục mà con người mới giữ được lối sống lành mạnh, văn minh, có đạo đức. Sở dĩ sự giáo dục có sự ảnh hưởng to lớn đối với con người là bởi vì đây là cách thức làm chuyển biến về mặt tâm lý một cách tự nhiên, dễ đón nhận nhất. Bình thường một người sẽ tiếp nhận sự giáo dục từ ba góc độ, phía gia đình, phía nhà trường và từ xã hội.

Có thể nói, sự giáo dục đến từ gia đình chính là lý do sâu xa và bao quát nhất dẫn đến sự xuất hiện của tội phạm. Gia đình sẽ là yếu tố tác động trực diện nhất đến tính cách của một người. Nếu người thân trong gia đình ln quan tâm, chăm sóc lẫn nhau thì con người sẽ lớn lên trong sự tốt đẹp, từ đó cũng sẽ hướng đến những điều tích cực, có ích cho xã hội. Ngược lại, nếu gia đình, người thân khơng quan tâm dạy dỗ thì sẽ khơng nhận ra những chuyển biến về tính cách của con em, lúc này con người sẽ dễ bị dụ dỗ, sa đọa vào các tệ nạn xã hội. Con người thường có xu hướng sa vào tệ nạn là do những điều này dễ thực hiện, lại có kết quả ngay sau khi hành động. Các tệ nạn còn có sự kích thích, hấp dẫn hơn và chủ yếu, làm việc xấu sẽ chứng tỏ được bản thân khi họ cảm thấy thua kém. Điển hình như khi một người bị khinh thường, họ sẽ tức giận, đánh, mắng người khác để chứng tỏ mình khơng thua kém ai, và điều này dễ dàng hơn nhiều so với dùng lý lẽ, thực lực để thuyết phục người khác dẫn đến người kia bị thương tích, trong khi muốn dùng thực lực để chứng minh thì phải mất thời gian để nâng cao thực lực.

Ngồi ra văn hóa ứng xử, nề nếp, thói quen sinh hoạt, làm việc cũng xuất phát từ gia đình là chủ yếu, mà những điều này sẽ chi phối cách họ nhìn nhận, xử lý vấn đề. Nếu một gia đình có lối sống lành mạnh, kỷ luật, kỷ cương, hịa thuận, tử tế thì con người cũng sẽ theo đó mà phát triển. Vì vậy những người này sẽ có xu hướng lựa chọn những cách ơn hịa hơn để giải quyết mâu thuẫn. Đổi lại, nếu gia đình q bng lỏng, thoải mái, để con em tự lập nhưng khơng có định hướng đúng đắn hoặc q nng chiều thì con em có thể sẽ phát triển theo chiều hướng tiêu cực như có thói quen đi qua đêm, tham gia các hoạt động kém lành mạnh hoặc các tệ nạn xã hội, sớm sử dụng chất kích thích, bia rượu,...

Minh chứng là Bản án HSST số 49/2021/HS-ST ngày 30/09/2021 của TAND tỉnh Hà Tĩnh là ngày 12/02/2021, tại tỉnh Hà Tĩnh đã xảy ra một vụ giết người, nhưng đáng nói ở chỗ, vốn dĩ là mâu thuẫn giữa người cha và bạn, nhưng sau cùng, đứng trước vành móng ngựa cịn có người con trai của ơng. Ông L đến nhà bạn chơi

</div><span class="text_page_counter">Trang 40</span><div class="page_container" data-page="40">

thì xảy ra mâu thuẫn với nạn nhân. Cả hai bên giằng co, đấm, đá nhau nhưng sau đó được mọi người can ngăn. Do vẫn còn bực tức với nạn nhân nên ông L gọi điện thoại cho con trai là anh N đến cùng đánh nạn nhân. Kết quả anh N đâm trúng nạn nhân làm nạn nhân tử vong do mất máu cấp. Từ những tình tiết của vụ án cho thấy, ông L là một tấm gương xấu cho con trai, là một người nóng nảy, sẵn sàng dùng vũ lực để giải quyết vấn đề. Không những thế mà ơng cịn nhờ anh N giúp mình đánh người. Qua sự việc trên có thể thấy, hậu quả mà N đang gánh chịu cũng chính là kết quả từ cách giáo dục của ơng L và chính bản thân ông.

Tuổi trẻ chúng ta gần như chỉ dành thời gian để đến trường nên ngồi gia đình thì sự giáo dục ở trường học cũng quan trọng không kém. Trường học đóng vai trị như một “xã hội thu nhỏ”, càng học cao thì “xã hội” này ngày càng gần với cuộc sống đời thường. Do đó trường học là nơi lý tưởng để con người có thể phát triển bản thân, mà trong đó giáo viên sẽ là người tác động trực tiếp và định hướng cho trẻ. Với môi trường học tập tốt, mọi người sẽ cố gắng phấn đấu nâng cao bản thân, tích cực tham gia các hoạt động bổ ích trong và ngồi trường,… vì vậy cách tư duy, đối mặt và giải quyết vấn đề cũng sẽ tích cực, lành mạnh hơn.

Như đã đề cập ở trên, sự giáo dục từ nhà trường cũng quan trọng khơng kém so với gia đình, để đạt được hiệu quả cao nhất khi giáo dục con người thì nhà trường và gia đình cần phối hợp chặt chẽ với nhau. Như một số gia đình vì cha mẹ dành nhiều thời gian cho cơng việc nên giao việc giáo dục hồn tồn cho nhà trường, do đó sẽ khơng đảm bảo con em sẽ được quan tâm, dạy dỗ cẩn thận. Giáo dục đạo đức tốt sẽ dẫn đến ý thức chấp hành pháp luật nghiêm, có nhận thức đúng đắn về các hành vi gây nguy hiểm cho xã hội, nhờ đó mà tội phạm mới khơng hình thành, khơng đe dọa cho an toàn xã hội. Thế nhưng thực trạng giáo dục pháp luật hiện nay lại cho thấy người dân hiểu biết rất ít về pháp luật hình sự, nhất là dễ gặp các sai lầm về pháp luật của Tội giết người.

Cuối cùng là sự giáo dục đến từ xã hội. Tiếp nhận giáo dục từ phía gia đình và nhà trường cũng như tiếp cận về mặt lý thuyết, nhưng khi thực tế ngồi xã hội, gặp một tình huống cụ thể thì liệu rằng chúng ta có đủ bình tĩnh để sử dụng được những “lý thuyết” đó khơng? Xã hội có khả năng biến một người nhân cách tốt thành một tên tội phạm mất nhân tính nhưng nếu khéo léo, tiếp thu có chọn lọc thì xã hội sẽ cho ta những bài học để phát triển. Xã hội gần như là điều kiện để hình thành tội phạm, nó có thể làm tha hóa con người, làm thay đổi tính cách, bản chất vốn có.

Qua các số liệu thống kê từ 228 bản án mà nhóm nghiên cứu, hầu hết các vụ giết người đều xuất phát từ việc bị cáo và nạn nhân xảy ra mâu thuẫn nhưng lại chọn cách tước đoạt tính mạng của người khác một cách bất hợp pháp để giải quyết

</div>

×