Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (53.86 MB, 202 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">
để lại đi sản, tuy nhiên, “tự do” đó phải phù hợp với quy địnhcủa pháp luật, phù hợp với nguyên tắc “tôn trọng truyền<small>thống tốt đẹp” (xem Điều 8, Bộ luật Dân sự 2005). Với</small>_ nguyên lý trên, quyền định đoạt của người lập di chúc sẽ bị
hạn chế trong các trường hợp sau đây:
3.2.1. Người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của
dam bao tuyệt đối quyền sở hữu đổi với tài sản của một ngườinhất định.
Theo phương diện này, pháp luật về thừa kế được xácđịnh trên căn bản cá nhân. Một người là chủ sở hữu đối với
tài sản của mình thì người đó có tồn quyền định đoạt di sản
theo ý muốn của mình mà khơng phải chịu sự hạn chế nào<small>của pháp luật.</small>
Trái lại, nếu dựa trên phương diện đạo đức thì pháp luật
Người ta không chỉ phải nuôi dưỡng bố, mẹ, con cái lúc
lại của cải cho họ sau khi chết. Theo góc độ này thì gia đình
sản bằng di chúc trong phạm vì pháp luật cho phép mà thơi.
người chết sang những người này được thực hiện ra sao?
chỉ bao gồm những người có quan hệ trực hệ trong phạm vibốn đời và những người có quan hệ ngành ngang (bàng hệ)trong phạm vi ba đời đối với người chết.
Bổn phận, từ một góc độ đạo đức đã được pháp luật nâng
<small>lên thành nghĩa vụ pháp lý. Đó chính là nghĩa vụ ni dưỡng</small>
lẫn nhau giữa các thành viên trong một gia đình. Sự nidưỡng đó được người có nghĩa vụ trực tiếp thực hiện khi còn
<small>được quy định lại tại Điều 669. Bộ luật Dân sự 2005 của nước</small>
<small>ta đã quy định:</small>
“Những người sau đây vẫn được hưởng một phần di sảnbằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật,nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ
<small>không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho</small>
hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó, trừ khi họ là
<small>những người từ chối nhận di sản theo quy định tại Điều 642</small>
hoặc họ là những người khơng có quyền hưởng di sản theoquy định tại Khoản 1 Điều 643 của Bộ luật này:
1. Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng;
<small>2. Con đã thành niên mà khơng có khả năng lao động”.</small>Nội dung của điều luật trên thể hiện: một mặt, pháp luậttơn trọng ý chí của người để lại di sản (phương diện kinh tế)nhưng mặt khác, chính pháp luật lại hạn chế quyền địnhđoạt ấy nếu người để lại di sản cịn có những người mà khi họcịn sống họ có nghĩa vụ ni dưỡng, chăm sóc. Hay nói mộtcách khác, điều luật trên quy định một số người thừa kế lncó quyền hưởng một phần di sản nhất định mà khơng phụ
<small>thuộc vào việc người lập di chúc có cho họ hưởng hay khơng.</small>
Vì thế, có thể nói rằng sự quy định trên của pháp luật là sựdung hoà giữa phương diện kinh tế và phương diện đạo đức.
<small>bảo vệ quyền lợi chính đáng, thiết thực cua những người có</small>
<small>14-TKế QDCPL 209</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">Ví dụ: Tại thời điểm mở thừa kế, ơng M có ba người thừakế theo luật cịn sống là cụ H (bố của ông M), bà K (vợ ông M)và một người con là N. Trước khi ông M chết có lập di chúc,trong đó ơng định đoạt tồn bộ khối di sản của mình trị giá là
180 triệu đồng cho vợ và con của mình cùng hưởng.
Pháp luật vẫn tơn trọng ý chí của ơng M, trong việc lậpdi chúc để định đoạt tài sản, tuy nhiên ông M phải có bốn
Xác định một suất thừa kế theo luật là: 180 triệu đồng : 3
= 60 triệu đồng. Cụ H được hưởng hai phần ba của một suất,
Phải nói rằng, nếu so sánh hai phương diện nói trên của
Trước đây, khi quy định về những người được hưởng di
và gây ra sự tranh cãi giữa các quan điểm về việc hiểu diều<small>kiện “không đủ khả năng lao động và túng thiếu” là chỉ đốivới con đã thành niên hay đổi với ca bố, mẹ, vợ, chồng.</small>
Xếp lại danh mục những người được hưởng di sản mộtcách khoa học, Điều 669 Bộ luật Dãn sự 2005 đã tránh đượcthực tế trên đây là một sự tiến bộ, thành công của các nhà
<small>lập pháp. Theo quy định của điều luật nói trên thì bất luận</small>
trong mọi trường hợp bố, mẹ, vợ, chồng của người chết. đềuhưởng một phần di sản ít nhất là bằng hai phần ba của mộtsuất thừa kế theo luật.
Nếu so sánh các bộ cổ luật đã từng tổn tại trong lịch sửpháp luật của Việt Nam, chúng ta thấy rằng: thời nhà Lê, BộQuốc triều hình luật có quy định về tội bất hiếu nhưng phần
Trong thực tế rất ít trường hợp một người ông (bố củangười chết) đứng ra tranh chấp với cháu nội, cháu ngoại củaminh trong việc hưởng di san của người đã chết (mặc dù việc
của Tồ án nhân dân tối cao, đồng thời được quy định lạitrong Điều 25 của Pháp lệnh Thừa kế ngày 30 tháng 8 năm
<small>211</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">lẽ khi người chết có lập di chúc cho con của họ hưởng hết disản càng khơng có tranh chấp gì xây ra. Tuy nhiên, đó là việcngười ta tự nguyện không hưởng quyền mà pháp luật đã chohọ được hưởng. Pháp luật quy định cho họ được hưởng di sảntrong mọi trường hợp nhưng nếu họ sợ chạm đến tục lệ, tậpqn từ xa xưa mà khơng tranh chấp gì thì pháp luật vẫnthừa nhận sự tự nguyện đó. Nghĩa là, một mặt pháp luật bảovệ quyền lợi thiết thực cho một số người thừa kế, mặt khác,luôn tôn trọng truyền thống đạo đức của dân tộc.
Nếu tham khảo bộ luật dân sự của một số nước, chúng tathấy rằng: cùng với mục đích nhằm cho một số người thừa kếluôn được hưởng một phần di sản nhất định, Bộ luật Dân sựcủa Cộng hoà Pháp đã quy định về vấn đề lưu sản. Theo quyđịnh tại các Điều 931, 914, 915, 916 Bộ luật Dân sự Pháp thìlưu sản là một số tài sản trong số di sản của người chết màpháp luật dành cho một số người thừa kế, chỉ khi khơng cịnai thừa kế theo luật, người lập di chúc mới được định đoạt
quyền định đoạt. Người lập di chúc chỉ có quyền định đoạt:
con của họ. Nếu người lập di chúc chết mà khơng có các con
<small>dược hưởng thừa kế không bị phân biệt giữa con trong hay</small>
<small>con ngồi giá thú, thậm chí khơng phân biệt giữa con đẻ và</small>
<small>con ni, mặt khác, luật cịn xác định, bố, mẹ, vợ, chồng của</small>
người chết đều đứng trong một hàng thừa kế để hưởng di san
<small>của người đó. Do vậy, diện những người được hưởng di sẵn</small>
<small>không phụ thuộc vào nội dung của di chúc, cách thức hưởng</small>
cũng khác rất nhiều so với quy định của Bộ luật Dân sự Cộng
<small>hoà Pháp.</small>
Trong thực tế, khi áp dụng Điều 669 của Bộ luật Dân sự
- Người thừa kế theo Điều 669 có được hưởng di sản khibị người để lại di chúc truất quyền hưởng di sản hay không?
Trước hết, cần phải hiểu rằng người thừa kế “không được
<small>213</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">Về nguyên tắc, một suất thừa kế theo luật là kết quả củamột phép chia, trong đó, số bị chia là tổng giá trị di sản thừakế mà như đã xác định thì di sản thừa kế là toàn bộ di sản
của người chết để lại sau khi trừ đi các nghĩa vụ về tài sản
<small>tạm gọi những người này là những nhân suất). Trong thực</small>
e Người khơng có quyền hưởng di san theo Khoản 1 Điều
<small>643 Bộ luật Dân sự. Đây là những người mà đáng lẽ họ được</small>
hưởng di sản nhưng vì họ có những hành vi trái pháp luật,trái đạo đức nên bị pháp luật tước đi quyền hưởng di sản. Vì
bộ di sản. Bà V khởi kiện yêu cầu được hưởng di san của ơngA. Tồ án xác định, đứa con H của ông A bị tước quyền hưởngdi sản theo Khoản 1 Điều 646. Bộ luật Dân sự. Vụ thừa kế
được giải quyết như sau:
180 triệu đồng - 60 triệu = 120 triệu đồng.
</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9"><small>e Người thừa kế theo Điều 669. Bộ luật Dân sự 2005 bị</small>
Như đã đề cập ở phần trước, dù bị người lập di chúc truấtquyền hưởng di sản, những người này vẫn được hưởng mộtphần di sản. Vì vậy, họ ln là người thừa kế theo luật của
ông K) và một người con là N. Trước khi chết, ông K lập một
ba của một suất thừa kế theo luật. Mặt khác, dù bị truất, bàH vẫn là người thừa kế theo luật của ơng K, do đó, vụ thừakế phải được xác định như sau:
Một suất thừa kế theo luật là: 120 triệu đồng: 2 nhânsuất = 60 triệu đồng. Bà K được hưởng phần di sản là: 60triệu x 2/3 = 40 triệu đồng. Người con N được hưởng là: 120triệu - 40 triệu = 80 triệu đồng.
e Người thừa kế bị người lập di chúc truất quyền hưởng
di sản.
Trong thực tế, người đã bị truất quyền (trừ những người
ở Điều 669. Bộ luật Dân sự 2005) sẽ không được hưởng di sản
<small>215</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">Ví dụ: ơng M có khối di sản trị giá 120 triệu đồng. Bangười thừa kế của ông là bà N (vợ ông M), con P, con Q.
Theo quan điểm trên thì vụ thừa kế này được giải quyết
<small>như sau:</small>
Một suất thừa kế theo luật là: 120 triệu đồng: 2 nhân suất(bà N, con Q) = 60 triệu đồng. Bà N được hưởng hai phần bacủa một suất thừa kế là: 60 triệu đồng x 2/3 = 40 triệu đồng.Người con Q được hưởng: 120 triệu - 40 triệu = 80 triệu đồng.
Quan điểm thứ hai cho rằng: nếu người bị truất quyền làngười không thuộc Điều 669 Bộ luật Dân sự 2005 thì họkhơng phải là người thừa kế theo luật nữa, nếu di san có chiatheo luật thì họ cũng khơng được hưởng. Vì vậy, khơng đượccoi họ là một nhân suất khi tính một suất thừa kế theo luật.Nếu người bị truất quyền là người thuộc Điều 669. Bộ luậtDân sự 2005 thì họ vẫn được hưởng một kỷ phần theo luậtđịnh nên họ vẫn là người thừa kế theo luật của người đãtruất quyền hưởng di sản của họ. Vì thế, họ vẫn là một nhânsuất khi tính một suất thừa kế theo luật.
khơng được hưởng di sản nhưng vẫn là một nhân suất khixác định một suất thừa kế theo luật vì trong Điều 669. Bộluật Dân sự 2005 có ghi “nếu như di sản được chia theo pháp
theo pháp luật. Mặt khác, đối tượng của việc truất quyền lànhững người thừa kế theo pháp luật. Vì vậy, nếu giả thiếtchia theo pháp luật thì xác định một suất thừa kế phải làviệc chia toàn bộ di sản cho tất ca những người thừa kế theo
luật của người để lại di sản.
</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">Theo quan diém này thì vụ thừa kế ở ví dụ đã nêu trên<small>được giải quyết như sau:</small>
Một suất thừa kế theo luật là: 120 triệu: 3 nhân suất (bàN, con P, con Q) = 40 triệu đồng. Bà N được hưởng phần disản là 40 triệu x 2/3 = 27 triệu đồng. Người con Q được hưởnglà: 120 triệu - 27 triệu = 93 triệu đồng. (Người con P khôngđược hưởng gi vi đã bi truất quyền).
e Người từ chối nhận di sản.
Theo chúng tôi, về nguyên tắc, người đã từ chối nhận di
- Nếu người từ chối nhận di sản chỉ là người thừa kế theo
di chúc (họ khơng có quan hệ hơn nhân, huyết thống, ni
- Nếu người từ chối nhận di sản là người thừa kế theo di
lại di san va họ đã từ chối hưởng di sản cả theo di chúc ca theoluật thì họ khơng phải là nhân xuất khi xác định một suấtthừa kế theo luật. Nếu họ chỉ từ chối việc nhận di san theo di
Từ việc phân tích trên cho chúng ta thấy hiện đang cịn
(trừ người đã bị tước, bị truất, người thừa kế theo luật đã từ
<small>217</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">Tổng giá trị di sản thừa kế
<small>x 2/3</small>Tổng nhân suất thừa kế
tại Điều 669 hướng đủ theo phần di sản đã được tính cũng
Quan điểm khác lại cho rang phần di san mà người thừakế theo Điều 669 được hưởng chỉ trích từ phần di sản màngười thừa kế được hưởng theo di chúc và tương ứng vớiphần vượt trội so với suất thừa kế theo luật mà họ được
<small>trên thì vụ thừa kế này sẽ được chia như sau: Theo di chúcthì K được hưởng là: (90.000.000 x 2/3 = 60 triệu đồng. Phần</small>
di sản còn lại được chia cho bà B và H, mỗi người được hưởng
</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">là: (90.000.000 - 60.000.000): 2 = 15 triệu đồng. Hai phần bacủa một suất thừa kế theo luật trong vụ tranh chấp này là:90.000.000đ.: 3 x 2/3 = 20.000.000đ. Nhu vậy, nếu theo dichúc, bà B mới được hưởng có 15 triệu đồng, so với kỷ phầnmà Điều 669 đã định thì cịn thiếu là 5 triệu đồng. Nếukhông được ông A cho hưởng theo di chúc và di sản được chia
<small>theo luật thì K chỉ được 30 triệu nhưng theo di chúc nên K</small>được hưởng 60 triệu. Vì vậy, năm triệu đồng cịn thiếu trongkỷ phần luật định của bà B chỉ trích từ phần di sản mà Kđược hưởng (H. khơng phải trích từ phần di sản mà mìnhđược hưởng vì phần này chưa bằng một suất thừa kế theoluật). Theo chúng tơi thì quan điểm này hợp lý hơn quan
điểm trước vì đã thể hiện được việc pháp luật chỉ hạn chế
quyền định đoạt của người lập di chúc nếu sự định đoạt đóvượt quá giới hạn cho phép và ảnh hưởng đến lợi ích chínhđáng của những người thừa kế mà pháp luật xét thấy cầnphải bảo vệ.
Bằng việc quy định trong Hiến pháp 1992 và Luật Đất
<small>ly, pháp luật nước ta đã quy định: “Đất có gia tri”.</small>
Trên tinh thần đó, Bộ luật Dân sự ra đời đóng vai trị hết
<small>một cách thuận tiện và hợp pháp.</small>
Theo quy định của Luật Đất đai 1993, người sử dụng đấtngoài quyền chiếm hữu, sử dụng cịn có thêm các quyền năng
<small>219</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14"><small>Xét về bản chất thì các quyền năng nói trên là loại quyềndân sự vì đó là những quan hệ tài sản mà người tham gia</small>
quan hệ ấy là chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự. Tuynhiên, các quyền năng nói trên ln gắn liền với một loại tàisản đặc biệt (đất đai) nên chúng là một loại quyền dân sự
<small>mang tính đặc thù. Tính đặc thù của loại quan hệ dân sự này</small>thể hiện ở chỗ người sử dụng khơng có đầy đủ các quyền
<small>năng như các chủ sở hữu, họ chỉ là người được chủ sở hữu đất</small>
đai (Nhà nước) giao cho quyền sử dụng. Mặt khác, đối với cácquan hệ về chuyển nhượng quyền sử dụng đất thì hình thức,
thủ tục, điều kiện để thực hiện các quyền năng đó của ngườisử dụng đất được pháp luật quy định chặt chẽ hơn nhiều sovới quan hệ dịch chuyển các tài sản khác.
Từ những cơ cấu trên, quyền sử dụng đất được Bộ luậtDân sự quy định cụ thể, chi tiết bằng một phần riêng biệt:Phần thứ năm: Quy định về chuyển quyền sử dụng đất.
Trước đây, bởi pháp luật chưa ghi nhận quyền sử dụngđất cũng như chưa quy định các quyền tài sản khác là mộtloại tài sản nên di sản thừa kế của người chết chỉ đơn thuầnlà các vật dụng thuộc quyền sở hữu của người đó. Ngày nay,
<small>do Bộ luật Dân sự đã quy định quyền tài sản cũng được coi làmột loại tài sản nên, quyền sử dụng đất của người đó cũng</small>thuộc di sản thừa kế. Tuy nhiên, việc để lại thừa kế quyền sử
dụng đất bị hạn chế hơn nhiều so với quyền để lại thừa kế di
sản nói chung. |
Theo quy định tại Điều 733 của Bộ luật Dân sự 1995 thì:“Thừa kế quyền sử dụng đất là việc chuyển quyền sử<small>dụng đất của người chết sang cho người thừa kế theo quy</small>
định của Bộ luật này và pháp luật về dat dai”.
Như vậy, thừa kế quyền sử dụng đất có thể được dịch
<small>pháp luật.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">Tuy nhiên, các hình thức dịch chuyển trên bị pháp luật
<small>hạn chế băng việc quy định thông qua các điều luật sau đây:</small>Điều 739 Bộ luật Dân sự 1995 quy định người được đểthừa kế quyền sử dụng đất.
“Những người sau đây được để thừa kế quyền sử dụng đất:1. Cá nhân được Nhà nước giao đất nông nghiệp để trồngcây hàng năm, nuôi trồng thuy sản;
<small>2. Cá nhân, thành viên của hộ gia đình được giao đất</small>
nơng nghiệp để trồng cây lâu năm, đất lâm nghiệp để trồngrừng, đất ở;
3. Cá nhân có quyền sử dụng đất do người khác chuyển
quyền sử dụng đất phù hợp với quy định của Bộ luật này vàpháp luật về dat dai”.
Người có đủ các điều kiện sau đây thì được thừa kếquyền sử dụng đất theo di chúc hoặc theo pháp luật đối với
đất nông nghiệp để trồng cây hàng năm, nuôi trồng thủy sản:1. Có nhu cầu sử dụng đất, có điều kiện trực tiếp sử dụng
<small>đúng mục đích.</small>
<small>2. Chưa có đất hoặc đang sử dụng đất dưới hạn mức quy</small>định của pháp luật về đất dai”.
Điều 741 Bộ luật Dân sự 1995 “Thừa kế quyền sử dụng
đất theo di chúc đối với đất nông nghiệp dé trồng cây hang
năm, nuôi trồng thuỷ sản. :
Những người được quy định tại Khoản 1 Điều 679 và
Điều 680 của Bộ luật này và có đủ các điều kiện quy định tại
Điều 740 của Bộ luật này được thừa kế quyền sử dụng đất
<small>221</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">Điều 742 “Thừa kế quyền sử dụng đất theo pháp luật
1. Những người được quy định tại Điều 679 và Điều 680của Bộ luật này và có đủ các điều kiện được quy định tạiĐiều 740 của Bộ luật này được thừa kế theo pháp luật đối với
2. Trong trường hợp khơng có người thừa kế có đủ điềukiện quy định tại Điều 740 của Bộ luật này hoặc có nhưngkhông được hưởng di sản, từ chối nhận di sản thì nhà nướcthu hồi đất đó”.
<small>dụng đất.</small>
Trong số những người có quyền sử dụng đất, khi họ chết,
việc xác định quyền đó của họ có phải là di san thừa kế haykhông phải dựa vào việc xem xét quyền sử dụng đất của họ
mục đích sử dụng của từng loại đất.
Mặt khác, loại đất và mục đích sử dụng của nó trong
<small>không? Nếu quyền sử dụng đất được xác lập do nhà nước giaođất cho hộ gia đình (khơng phải theo một trong hai căn cứ</small>
trên) mà người chết là một thành viên trong hộ gia đình ấythì họ chỉ được để lại thừa kế quyền sử dụng đất khi đất được
giao là loại đất ở, đất lâm nghiệp để trồng rừng hoặc đấtnông nghiệp để trồng cây lâu năm, nuôi trồng thuỷ sản.
e Không phải ai cũng được thừa kế quyền sử dụng đất.Pháp luật quy định về thừa kế quyền sử dụng đất nhằm
tạo ra một phương tiện pháp lý để các cá nhân thực hiện việcchuyển quyền sử dụng đất cho người khác sau khi mình chết.
đất trong việc bồi bổ và sử dụng hợp lý vốn đất đai. Người sửdụng đất yên tâm để canh tác, bồi bổ và cải tạo đất mà khơng
phải lo về tính nhất thời của quyền sử dụng đối với đất đai.
Đối với đất nông nghiệp để trồng cây hang năm hoặc
ni trồng thuỷ sản thì một người muốn thừa kế quyền sửdụng đất phải có đủ các điều kiện quy định tại Điều 740 - Bộ
<small>223</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">và đang công tác tại một tỉnh khác. Người con đầu đang được
không được thừa kế quyền sử dụng đất của ơng A để lại vì
Qua ví dụ trên, một số vấn đề được đặt ra và cần phảixem xét là: như thế nào thì được coi là “có điều kiện trực tiếp
e Người lập di chúc chỉ được để lại thừa kế theo di chúc
Theo quy định tại Điều 741 - Bộ luật Dân sự 1996 thì ý
Nếu định đoạt các tài sản khác, người lập di chúc chỉ bị
hạn chế khi có những người thừa kế bắt buộc (được quy định
</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">nơng nghiệp để trồng cây hàng năm hoặc nuôi trồng thuỷ sản
của người lập di chúc cho ai lại bị pháp luật hạn chế. Nghia
Theo quy định của Bộ luật Dân sự 1995 thì thừa kếquyền sử dụng đất được xác định theo hai vấn dé tuỳ thuộc<small>vào loại đất và mục đích sử dụng.</small>
Thứ hai, thừa kế quyền sử dụng đất nông nghiệp trồng
cây hàng năm, ni trồng thuỷ sản.
Trong đó, quyền định đoạt của người lập di chúc trong
việc để lại thừa kế quyền sử dụng đất đối với đất thuộc vấn
cho thấy tính bất cập trong quy định về thừa kế quyền sử
dụng đất đai lại là một loại tài sản mà cá nhân có quyền sở
<small>15-TKế QĐCPL 225</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">kế đối với loại di sản này cũng là một sự bất cập. Chúng ta
khơng được quyền nhận di sẵn đó bằng hiện vật nhưng họ
vẫn được hưởng thừa kế đối với di sản đó. Nghĩa là cần phải
Dân su 2005 đã có rất nhiều sửa đổi. Theo Bộ luật Dân sự
Tóm lại: người lập di chúc có quyền định đoạt tài sản vàcác vấn đề khác nhưng việc định đoạt đó khơng được làm ảnhhưởng đến lợi ích của nhà nước; của xã hội; quyền, lợi ích hợppháp của người khác. Vì vậy, bên cạnh việc ghi nhận và bảovệ quyền định đoạt của người lập di chúc, pháp luật nước tacũng hạn chế quyền định đoạt đó trong một số trường hợpnhất định nhằm bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng cho các chủ
Phần thứ ba
Như đã nói ở các phần trước, sự dịch chuyển di sản từmột người đã chết sang người còn sống được thực hiện theo
tự thừa kế. Điều 674 Bộ luật Dân sự 2005 đã định nghĩa vềthừa kế theo pháp luật như sau:
“Thừa kế theo pháp luật là thừa kế theo hàng thừa kế,điều kiện và trình tự thừa kế do pháp luật quy định.” Theo
<small>227</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">di sản khi đủ một điều kiện là không bị pháp luật tước quyềnhưởng di sản. Tại Khoản 1 - Điều 643 -Bộ luật Dân sự 2005đã liệt kê bốn trường hợp mà nếu người thừa kế rơi vào mộttrong những trường hợp đó sẽ không được quyền hưởng di san.Quyền hưởng di sản là một trong hai nội dung của quyền thừakế cá nhân được pháp luật thừa nhận và bảo đảm thực hiện.Tuy vậy, quyền này sẽ bị tước bỏ nếu người có quyền đó lại có
<small>những hành vi trái pháp luật, trái dao đức xã hội. Vì vậy, cá</small>
nhân chỉ được hưởng thừa kế nói chung và thừa kế theo di
<small>chúc nói riêng khi không rơi vào những trường hợp đã được</small>luật dự liệu về tình trạng khơng có quyền hưởng di sản. Đốivới người thừa kế theo pháp luật thi chỉ được hưởng di san khicó đủ hai điều kiện: khơng bị tước quyền hưởng di sản theo
Thứ ba, trong thừa kế theo di chúc, di sản được dịch
ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế nếu khơng cịn ai ở
hàng thừa kế trước do đã chết, khơng có quyền hưởng di san,bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.
1. Những trường hợp thừa kế theo pháp luật
Các văn bản pháp luật về thừa kế ở nước ta từ trước đến
nay đều đã liệt kê các trường hợp thừa kế theo luật. Tuynhiên, sự liệt kê về các trường hợp phát sinh việc thừa kếtheo pháp luật của các văn bản sau ngày càng hoàn thiện va
đầy đủ hơn so với văn bản pháp luật trước đó. Dưới đâychúng tôi xin nêu quy định này của các văn bản pháp luật
- Pháp luật về thừa kế trong chế độ phong kiến chỉ xácđịnh có hai trường hợp thừa kế theo luật (được quy định tạiĐiều 332 Bộ luật Dân sự Bắc Ky 1931) là:
+ Một người khi còn sống khơng phân chia tài sản củamình cho người khác và cũng khơng lập di chúc chỉ địnhngười thừa kế thì khi họ chết, di sản của họ sẽ được phân
<small>chia theo pháp luật.</small>
+ Người chết có để lại di chúc nhưng di chúc đó khơng có<small>hiệu lực thi hành.</small>
- Khi Sắc lệnh 97/SL ngày 22 tháng 05 năm 1950 được
thừa kế theo luật vẫn được giữ nguyên cho mãi đến ngày 27
tháng 8 năm 1968 Thơng tư 594 của Tồ án nhân dân tối cao
- Khi Thơng tư 81 của Tồ án nhân dân tối cao đượcban hành ngày 24 tháng 7 năm 1981 thì trường hợp phát
<small>229</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">+ Người để lại di sản có để lại di chúc, nhưng toàn bộ
hoặc một phần của di chúc khơng có hiệu lực pháp luật;
+ Người lập di chúc chỉ định đoạt theo đi chúc một phầntài sản;
+ Người được chỉ định thừa kế theo di chúc đã chết trướcngười lập di chúc hay từ chối không nhận di sản theo di chúc;
<small>người lập di chúc. Tuy nhiên, khác với Thông tư 594, Thông</small>tư 81 chỉ quy định về trường hợp phát sinh việc thừa kế theo<small>luật khi di chúc khơng có hiệu lực pháp luật nhưng lại không</small>xác định trường hợp phát sinh việc thừa kế theo luật khi di
<small>pháp) với di chúc khơng có hiệu lực thi hành là một.</small>
- Pháp lệnh Thừa kế được ban hành ngày 30 tháng 8năm 1990 đã xác định một cách toàn diện hơn về các trườnghợp phát sinh việc thừa kế theo pháp luật. Theo Điều 24 củaPháp lệnh Thừa kế thì bao gồm các trường hợp thừa kế theo
<small>luật sau đây:</small>
<small>+ Khơng có di chúc;</small>
<small>+ Di chúc không hợp pháp;</small>
<small>+ Những người thừa kế theo di chúc chết. trước người lập</small>
+ Những người được chỉ định làm người thừa kế theo di
chúc đều khơng có quyền hưởng di sản, khước từ quyển
hưởng di san.
</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">Bốn trường hợp nói trên được xác định trong Điều 24 củaPháp lệnh Thừa kế là bốn trường hợp mà việc thừa kế sẽđược giải quyết hoàn toàn theo pháp luật. Ngoài ra, trongKhoản 2 của điều luật này còn xác định việc thừa kế theoluật cũng được áp dụng đối với các phần di sản sau đây:
+ Phần di sản không được định đoạt trong di chúc
+ Phần di sản liên quan đến phần di chúc khơng có hiệu<small>lực pháp luật</small>
+ Phần di san liên quan đến người được chỉ định làm
người thừa kế theo di chúc nhưng họ khơng có quyền hưởng
đi sản, khước từ quyền hưởng di sản hoặc chết trước người
<small>lập di chúc;</small>
+ Phần di sản liên quan đến cơ quan, tổ chức được chỉđịnh làm người thừa kế theo di chúc nhưng khơng cịn tồn tại
vào thời điểm mở thừa kế.
<small>- Bộ luật Dân sự 1995 (có hiệu lực ngày 01 tháng 7 năm</small>
1996 đã xác định các trường hợp thừa kế theo luật tại Điều
678 (được g1ữ nguyên trong Điều 675 của Bộ luật Dân sự sửa
đổi 2005) như sau:
“1, Thừa kế theo pháp luật được áp dụng trong những<small>trưởng hợp sau đây:</small>
<small>231</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">2. Thừa kế theo pháp luật cũng được áp dụng đối với cácphần di sản sau đây:
a) Phần đi sản không được định đoạt trong di chúc;
b) Phần di sản có liên quan đến phần của di chúc khơng<small>có hiệu lực pháp luật;</small>
c) Phần di sản có liên quan đến người được thừa kế theo dichúc nhưng họ khơng có quyền hưởng di sản, từ chối quyền
Như vậy, so với Pháp lệnh Thừa kế cũng như các vănbản pháp luật về thừa kế trước đây thì Bộ luật Dân sự đãhồn thiện hơn rất nhiều trong việc xác định các trường hợpthừa kế theo pháp luật. Theo Điều 678 Bộ luật Dân sự 1995
Nhóm thứ nhất: Di sản thừa kế hoàn toàn được chia theopháp luật, bao gồm các trường hợp sau đây:
<small>+ Khơng có di chúc;</small>
<small>+ Di chúc khơng hợp pháp tồn bộ;</small>
<small>+ Di chúc hợp pháp nhưng tồn bộ di chúc khơng có hiệu</small>
lực thi hành do tất cả người thừa kế theo di chúc đều chết
Nhóm thứ hai: Di sản vừa được chia theo đi chúc vừađược chia theo pháp luật, bao gồm các trường hợp sau đây:
<small>+ Có phần di sản khơng được định đoạt trong di chúc;</small>+ Có một phần di chúc khơng có hiệu lực pháp luật;
</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27"><small>+ Có một hoặc một số người trong số những người thừa</small>
kế theo di chúc chết trước hoặc chết cùng thời điểm với ngườilập di chúc; một hoặc một số cơ quan, tổ chức được thừa kếtheo di chúc khơng cịn vào thời điểm mở thừa kế hoặc có một<small>hoặc một số người trong số những người thừa kế theo di chúckhông được quyền hướng di san hay từ chối quyền hưởng disản theo di chúc.</small>
Theo trên, việc thừa kế theo pháp luật sẽ được áp dụng
<small>trong những trưởng hợp sau đây:</small>
<small>di chúc</small>
<small>chúc đó thì cũng được coi là khơng có di chúc.</small>
Trong các trường hợp nói trên, tồn bộ đi sản mà người
Di chúc chỉ được coi là hợp pháp nếu đã đáp ứng được
<small>233</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">khơng có hiệu lực pháp luật ở nhiều mức độ khác nhau. Di
Một di chúc sẽ bị coi là vơ hiệu tồn bộ nếu di chúc đó do
người khơng cịn minh mẫn, sáng suốt lập ra hoặc di chúc đókhơng phải là ý chí tự nguyện đích thực của người lập di chúcdo bị người khác cưỡng ép, ngăn cần hoặc lừa dối. Di chúccũng bị coi là vơ hiệu tồn bộ nếu do người dưới mười lăm
khơng có hiệu lực tồn bộ thì vụ thừa kế sẽ hồn toàn được
luật sẽ áp dụng thừa kế theo pháp luật để chia cho nhữngngười thừa kế theo luật của người để lại đi sản, phần di sảnliên quan đến phần di chúc có hiệu lực pháp luật sẽ được chia
<small>cho những người thừa kế được xác định trong di chúc. Ví dụ:</small>
triệu đồng với điều kiện S. phải gây thương tích nặng cho Q.
Số di sản cịn lại cho P và K mỗi người 1/2. Khi giải quyết vụthừa kế này, Tồ án xác định việc ơng N. định đoạt cho 6.phần di sản trị giá 12 triệu đồng là bất hợp pháp. Vì vậy, vừa
Theo đó, phần di sản trị giá 112 triệu đồng là phần di sản
liên quan đến phần di chúc có hiệu lực được chia theo sự địnhđoạt của ơng N trong di chúc như sau: ông H. được hưởng: 12triệu đồng, P. được hưởng 50 triệu đồng, K được hưởng 50
triệu đồng. Phần di sản trị giá 12 triệu đồng mà ông N. địnhđoạt một cách bất hợp pháp cho Q. sẽ được chia cho nhữngngười thừa kế theo luật của ông N. như sau: ba người thừa
Theo quy định tại Điều 635 Bộ luật Dân sự 2005 (đãđược xét đến tương đối kỹ ở phần trước) thì người thừa kế
<small>235</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">Thứ nhất, nếu cá nhân là người được chỉ định trong di
hưởng theo di chúc sẽ được chia theo luật (H. không được thếvị số di sản này) nhưng được thé vị B để hưởng phần di sảnđược chia theo pháp luật. Vì vậy, 90 triệu này được chia đềucho ba người: H. (thế vị của B), C, D. và mỗi người được 30triệu đồng.
Thứ hai, Nếu cá nhân là người thừa kế theo di chúc nhưng
Thứ ba, các cơ quan, tổ chức chỉ bị coi là khơng cịn nếu
vào thời điểm mở thừa kế các cơ quan, tổ chức đó đã chấm
quan, tổ chức cũ (vì các Điều 94, 95, 96, 97 của Bộ luật Dânsự 2005 đều quy định rằng khi hợp nhất, sáp nhập, chia tách
pháp nhân thì các quyền và nghĩa vụ của pháp nhân trước đó
Trong trường hợp người lập di chúc chỉ mới định đoạtmột phần di sản thì phần di san này được chia theo di chúc.
Phần di sản chưa được định đoạt trong di chúc sẽ áp dụng
<small>237</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32">chúc vẫn được hưởng một phần trong phần di sẵn chưa được
định đoạt nếu họ là người đứng trong hàng thừa kế đượchưởng di sản theo pháp luật, trừ trường hợp người lập di’chúc đã nói rõ họ chỉ được hưởng phần di sản theo di chúc. Ví
= 30 triệu đồng.
Người thừa kế theo di chúc khơng có quyền hưởng di sản
khác hưởng phần di sẵn mà những người thừa kế theo di chúcnhưng khơng có quyền hưởng.
người thừa bế theo di chúc từ chốt quyền hưởng di sảnNếu người thừa kế theo di chúc thực hiện việc từ chốinhận di sản đúng với quy định tại Điều 642 Bộ luật Dân sự2005 thì phần di sản liên quan đến họ sẽ được áp dụng thừakế theo pháp luật. Nếu người thừa kế theo di chúc khôngđồng thời là người thừa kế theo pháp luật thì việc họ từ chối
nhận di sản luôn chỉ là từ chối hưởng di sản theo di chúc.Nếu người thừa kế theo di chúc đồng thời là người thừa kếtheo pháp luật của người lập di chúc thì cần phải xác định họ
từ chối tồn bộ (cả theo di chúc, cả theo pháp luật) hay chỉ từchối nhận di sản theo di chúc. Vì vậy, đối với những ngườinày nếu họ chỉ từ chối quyền hưởng di san theo di chúc thì họvẫn là người thừa kế theo pháp luật của người lập di chúcnên phần di sản được giải quyết theo pháp luật vẫn phải chiacho họ. Nếu họ đã từ chối toàn bộ quyền hưởng di sản thìphần di sản đó được chia cho những người thừa kế theo pháp
luật khác của người để lại di sản.
Trong trường hợp toàn bộ những người thừa kế theo dichúc từ chối quyền hưởng di sản thì áp dụng thừa kế theo
lại. Theo đó toàn bộ di sản thừa kế được chia cho người thừakế theo pháp luật của người lập di chúc. Nếu chỉ có một hoặcmột số người thừa kế theo di chúc từ chối quyền hưởng di sản
thì chỉ áp dụng thừa kế theo pháp luật đối với phần di sảnliên quan đến họ.
2. Diện và hàng thừa kế theo pháp luật2.1. Diện thừa kế theo phúp luật
Như đã nói, thừa kế theo pháp luật là trình tự dịch
<small>239</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34">Diện thừa kế theo pháp luật là phạm vi những người
mẫu gia đình “tam, tứ đại đồng gia” nên diện những ngườithừa kế theo pháp luật được xác định hết sức rộng rãi, baogồm tồn bộ những người thích thuộc của người chết màkhông giới hạn theo mức độ gần gũi. Theo xác định của cácbộ dân luật thời phong kiến thì tất cả người thân thuộc củangười chết dù xa hay gần, dù thân hay sơ đều thuộc diện
</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35">thừa kế theo luật của người đó. Khi khơng cịn ai bên nội tộcthì di sản của người đó được dịch chuyển cho bên ngoại.
Sau khi giành được chính quyền, nước Việt Nam Dânchủ cộng hoà được thành lập, bằng nhiều văn bản pháp luật,ở mỗi một thời kỳ lịch sử, nhà nước ta đã xác định phạm vìnhững người thuộc diện thừa kế theo pháp luật khác nhau.
<small>Theo Thông tư 1742 do Bộ Tư pháp ban hành ngày 19 tháng</small>
8 năm 1956 (sau đây gọi tắt là Thông tư 1742) thì diệnnhững người thừa kế theo pháp luật bao gồm: vợ, chồng, các
xác định rõ những người thừa kế khác là những ai. Vì vậy,
<small>trong thời kỳ này, anh, chị, ơng bà, các cụ không thuộc diện</small>
những người thừa kế theo luật của người chết.
Những tranh chấp về thừa kế phát sinh trong thực tiễncho thấy diện những người thừa kế theo pháp luật được xácđịnh theo Thông tư 1742 chưa được thoả đáng. Vì vậy, Thơngtư 594 đã xác định diện thừa kế theo pháp luật với một phạmvi rộng hơn, bao gầm: Vợ goa (ca vợ cả, vợ 1é); con đẻ và connuôi; bô đẻ, mẹ đẻ, bố nuôi, mẹ nuôi, ông bà nội, ông bàngoại; anh, chị, em ruột, anh, chị, em nuôi của người để lại disản. Như vậy, so với Thơng tư 1742 thì diện những ngườithừa kế theo pháp luật được Thông tư 594 xác định thêm là:anh, chị, em ruột, anh, chị, em nuôi; ông bà nội, ngoại củangười chết nhưng lại loại bỏ cháu, chắt ra khỏi diện thừa kế.Diện thừa kế theo pháp luật được xác định trong thông tưnày tương đối phù hợp với thực tiễn về thừa kế của nước tatrong giai đoạn 1968 - 1981 bởi lẽ phần nào nó đã phan ánhđược tính chất đặc biệt của quan hệ thừa kế là quan hệ đượchình thành giữa những người có mối quan hệ hơn nhân, gia
<small>16-TKế QĐCPL 241</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36">pháp luật là một vấn đề cịn bất cập vì theo Luật Hơn nhân
<small>và Gia đình lúc đó thì quan hệ giữa anh, chị, em ni khơng</small>
thuộc quan hệ gia đình. Việc loại bỏ cháu ra khỏi diện thừakế theo pháp luật trong khi vẫn đưa ông, bà thuộc diện thừa
<small>giữa ơng bà và chau.</small>
Thông tư 81 đã xác định rằng cơ sở pháp lý của việc thừakế theo luật là quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống vàquan hệ nuôi dưỡng. Vì vậy, diện những người thừa kế theoluật gồm những người thân gần gũi của người chết theo ba
<small>nuôi, mẹ nuôi; ông nội, bà nội và ông ngoại, bà ngoại; anh,chị, em ruột; anh, chị, em cùng cha khác mẹ hoặc cùng mẹ</small>
<small>khác cha; anh, chị, em ni. Ngồi ra, Thơng tư này còn xác</small>định “người thừa tự” cũng là người thừa kế theo pháp luậtcủa người lập tự như con thừa kế của cha mẹ, cháu được thừakế thế vị di sẵn của ông bà nếu cha, mẹ cháu chết trước ôngbà. Như vậy, diện thừa kế theo pháp luật trong Thông tư 81được mở rộng hơn nhiều so với các văn bản pháp luật trướcđó. Theo Thơng tư này thì diện thừa kế theo pháp luật đượcxác định dựa vào ba mối quan hệ giữa người thừa kế với
<small>quan hệ ni dưỡng.</small>
thực tế được Tồ án thừa nhận. Bao gồm: vợ goá (vợ cả goá,
vợ lẽ goá), chồng goá. Chúng ta đều biết, chế độ hôn nhân
_ trong thời phong kiến ở nước ta cho phép một người đàn ông
có nhiều vợ, trong những năm mà Thông tư 81 được ban
</div><span class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37">hành và áp dụng thì hậu quả của chế độ hơn nhân cũ cịn tồn
<small>dong tương đơi nhiều vấn dé. Vì thé việc Thơng tư này xácđịnh cả vợ ca, vợ lẽ thuộc diện thừa kế theo pháp luật của</small>người chồng khi người đó chết là một điều dễ hiểu.
<small>- Đối với những người có quan hệ huyết thông với người</small>để lại di san, Thông tư 81 xác định theo ba nhóm sau đây:
<small>Nhóm thứ nhất: Những người có quan hệ huyết thơngvới người chết thuộc trực hệ (quan hệ huyết thống ngành đọc)</small>
bề trên (tôn thuộc) bao gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà
trực hệ chỉ dừng lại ở ơng bà (đời thứ ba) mà khơng có bậc các
<small>cụ (đời thứ tư).</small>
Nhóm thứ hai: Những người có quan hệ huyết thống với
Nhóm thứ ba: Những người có quan hệ huyết thống với
- Đối với những người có quan hệ nuôi dưỡng với người
Nhóm thứ nhất, gồm có bế ni, mẹ ni, con đẻ, conni của người chết. Theo tỉnh thần của Thông tư này thì khimột người đang làm con ni của người khác chỉ thuộc diệnthừa kế theo pháp luật của cha nuôi, mẹ ni đó mà khơngthuộc diện thừa kế theo luật của cha mẹ đẻ, cũng như cha mẹ
<small>243</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38"><small>đẻ cũng không thuộc diện thừa kế theo pháp luật của người</small>
<small>con đang làm con ni cho người khác.</small>
<small>Nhóm thứ hai, anh nuôi, chị nuôi, em nuôi của người</small>
chết. Trước hết phải hiểu rằng, anh, chị, em nuôi được xácđịnh trong Thông tư 81 không phải là những người mà giữa
<small>họ có quan hệ ni dưỡng hay họ nhận kết nghĩa anh - em,chị - em với nhau mà họ là những người được coi là nhữngthành viên trong một gia đình nhưng khơng cùng cha me dévì một người là con ruột, một người là con nuôi của cha mẹ</small>
<small>C và ngược lại.</small>
Trong những năm khởi đầu thực hiện chủ trương đổi mới
nền kinh tế, nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản pháp
của nước ta đã kịp thời ban hành Pháp lệnh Thừa kế vào<small>ngày 30 tháng 8 năm 1990.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 39</span><div class="page_container" data-page="39"><small>Diện thừa kế theo pháp luật mà Pháp lệnh Thừa kế xác</small>
định được mở rộng hơn so với Thông tư 81. Đó là đối với
huyết thống với người để lại di sản theo bàng hệ (ngành
<small>ngang) đã được mở rộng sang hai đời (chú ruột, bác ruột, cơ</small>
ruột, dì ruột, cậu ruột của người chết là cháu và cháu củangười chết là chú ruột, bác ruột, cơ ruột, cậu ruột, dì ruột). Tuynhiên, Pháp lệnh Thừa kế không thừa nhận anh, chi, em nicó quan hệ thừa kế đối với nhau.
Khi Bộ luật Dân sự 1995 của nhà nước ta được ban hànhthì các vấn đề về Thừa kế nói chung về cơ bản được kế thừatừ quy định của Pháp lệnh thừa kế. Vì vậy, diện những ngườiđược hưởng di sản của người chết theo pháp luật được xác
hạn như Thông tư 594, Thông tư 81) đã trực tiếp sử dung
chú ruột, cơ ruột, cậu ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột
của người chết mà người chết là chú ruột, bác ruột, cơ ruột,
<small>245</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 40</span><div class="page_container" data-page="40">cậu ruột, đì ruột (thuộc hàng thừa kế thứ ba); cháu ruột của
<small>người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà</small>ngoại; chắt của người chết mà người chết là cụ nội; cụ ngoại(thuộc người thừa kế thế vi).
của ông, bà ở hàng thừa kế thứ hai vừa là người thừa kế thế
vị của ông, bà khi cha, mẹ cháu chết trước hoặc chết cùng
2.2. Hàng thừa ké theo pháp luật
Như chúng ta đã biết, di sản của người chết phải được
vậy, không phải tất cả những người trong diện những người
những người thuộc diện thừa kế theo pháp luật hưởng di sản