Tải bản đầy đủ (.pdf) (202 trang)

Thừa kế theo quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng - Phạm Văn Tuyết (Phần 2)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (53.86 MB, 202 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

để lại đi sản, tuy nhiên, “tự do” đó phải phù hợp với quy địnhcủa pháp luật, phù hợp với nguyên tắc “tôn trọng truyền<small>thống tốt đẹp” (xem Điều 8, Bộ luật Dân sự 2005). Với</small>_ nguyên lý trên, quyền định đoạt của người lập di chúc sẽ bị

hạn chế trong các trường hợp sau đây:

3.2.1. Người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của

dam bao tuyệt đối quyền sở hữu đổi với tài sản của một ngườinhất định.

Theo phương diện này, pháp luật về thừa kế được xácđịnh trên căn bản cá nhân. Một người là chủ sở hữu đối với

tài sản của mình thì người đó có tồn quyền định đoạt di sản

theo ý muốn của mình mà khơng phải chịu sự hạn chế nào<small>của pháp luật.</small>

Trái lại, nếu dựa trên phương diện đạo đức thì pháp luật

về thừa kế là một phương tiện pháp lý để dịch chuyển của cảitừ người chết sang những người cịn sống khác qua đó để

người q cố làm trịn bổn phận của mình đối với gia đình họ.

Bổn phận của mỗi người đối với mỗi thành viên khác trong

gia đình khơng chỉ trong hiện tại mà còn phải hướng vềtương lai, nghĩa là mỗi người đều phải có bổn phận với nhau

cả sau khi đã chết.

Người ta không chỉ phải nuôi dưỡng bố, mẹ, con cái lúc

cịn sống mà cịn có bổn phận phải tạo dựng cho họ những

<small>207</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

điều kiện để đời sống của họ được dễ dàng. Nghĩa là phải để

lại của cải cho họ sau khi chết. Theo góc độ này thì gia đình

có thể được coi là một chuỗi thế hệ kế tiếp nhau, mà thê hệsau ngay khi ra đời đã được thừa hưởng của cải do thế hệ

trước để lại. Dựa trên căn bản đạo đức, pháp luật thừa kê

quy định rằng việc chuyển dịch tài sản của một người cho

những người khác trong gia đình là bổn phận bắt buộc đối với

người để lại di sản. Vì vậy, người đó chỉ có thể định đoạt di

sản bằng di chúc trong phạm vì pháp luật cho phép mà thơi.

Nhưng phạm vi đó như thế nào? Ai là người mà người chết

bắt buộc phải để lại di san cho ho? Sự dịch chuyển di san từ

người chết sang những người này được thực hiện ra sao?

Tuy thuộc vào tục lệ của từng thời đại, tuỳ thuộc vào chếđộ kinh tế của từng xã hội mà những vấn đề trên sẽ đượcpháp luật quy định cụ thể.

Ỏ Việt Nam, diện những người thừa kế theo khn mẫu

gia đình xưa có một phạm vi rộng rãi, bao gồm tất cả những

người thân thuộc dù gần hay xa của người chết. Ngày nay,phạm vi đó được thu hẹp lại rất nhiều, nếu về huyết thống

chỉ bao gồm những người có quan hệ trực hệ trong phạm vibốn đời và những người có quan hệ ngành ngang (bàng hệ)trong phạm vi ba đời đối với người chết.

Đặc biệt, trong diện đã được thu hẹp đó thì chỉ một số

người tối thiểu có quan hệ hết sức thân thuộc gần gũi với

người đã chết mới được hưởng di sản mà người chết thực hiệnbốn phận bắt buộc nói trên.

Bổn phận, từ một góc độ đạo đức đã được pháp luật nâng

<small>lên thành nghĩa vụ pháp lý. Đó chính là nghĩa vụ ni dưỡng</small>

lẫn nhau giữa các thành viên trong một gia đình. Sự nidưỡng đó được người có nghĩa vụ trực tiếp thực hiện khi còn

sống, đồng thời khi đã chết, nghĩa vụ đó được thể hiện thống

qua việc để lại đi sản, vì vậy, Điều 672 Bộ luật Dân sự 1995

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

<small>được quy định lại tại Điều 669. Bộ luật Dân sự 2005 của nước</small>

<small>ta đã quy định:</small>

“Những người sau đây vẫn được hưởng một phần di sảnbằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật,nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ

<small>không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho</small>

hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó, trừ khi họ là

<small>những người từ chối nhận di sản theo quy định tại Điều 642</small>

hoặc họ là những người khơng có quyền hưởng di sản theoquy định tại Khoản 1 Điều 643 của Bộ luật này:

1. Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng;

<small>2. Con đã thành niên mà khơng có khả năng lao động”.</small>Nội dung của điều luật trên thể hiện: một mặt, pháp luậttơn trọng ý chí của người để lại di sản (phương diện kinh tế)nhưng mặt khác, chính pháp luật lại hạn chế quyền địnhđoạt ấy nếu người để lại di sản cịn có những người mà khi họcịn sống họ có nghĩa vụ ni dưỡng, chăm sóc. Hay nói mộtcách khác, điều luật trên quy định một số người thừa kế lncó quyền hưởng một phần di sản nhất định mà khơng phụ

<small>thuộc vào việc người lập di chúc có cho họ hưởng hay khơng.</small>

Vì thế, có thể nói rằng sự quy định trên của pháp luật là sựdung hoà giữa phương diện kinh tế và phương diện đạo đức.

Nghia là sự chuyển dịch tài sản dù là hệ luận của quyền sở

hữu đi nữa thì pháp luật vẫn can thiệp đến sự định đoạt củangười lập di chúc để hạn chế quyển định đoạt của họ nhằm

<small>bảo vệ quyền lợi chính đáng, thiết thực cua những người có</small>

quan hệ thích thuộc vối người đó. Trái lại, nếu sự chuyển

dịch di sản được coi là bổn phận của người đã chết đối với giađình họ thì pháp luật vẫn cho phép người đó được tự do mộtphần nào trong việc định đoạt tài sản, miễn là phải làm trònbổn phận tối thiểu đối với gia đình.

<small>14-TKế QDCPL 209</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

Ví dụ: Tại thời điểm mở thừa kế, ơng M có ba người thừakế theo luật cịn sống là cụ H (bố của ông M), bà K (vợ ông M)và một người con là N. Trước khi ông M chết có lập di chúc,trong đó ơng định đoạt tồn bộ khối di sản của mình trị giá là

180 triệu đồng cho vợ và con của mình cùng hưởng.

Pháp luật vẫn tơn trọng ý chí của ơng M, trong việc lậpdi chúc để định đoạt tài sản, tuy nhiên ông M phải có bốn

phận tối thiểu đối với người bố của mình là cụ H. Nên ơng M

khơng được quyền định đoạt hết tài sẵn cho người khác. Vìvậy, vụ án trên phải được giải quyết như sau:

Xác định một suất thừa kế theo luật là: 180 triệu đồng : 3

= 60 triệu đồng. Cụ H được hưởng hai phần ba của một suất,

thừa kế theo luật là: 60 triệu đồng x 2/3 = 40 triệu đồng. Bà

K và người con N cùng hưởng phần di sản còn lại là: 180

triệu đồng - 40 triệu đồng = 140 triệu đồng.

Phải nói rằng, nếu so sánh hai phương diện nói trên của

pháp luật thừa kế thì phương diện đạo đức có thể quan trọng

hơn ca. Bởi lẽ, nếu từ vấn dé đạo đức, pháp luật công nhận

rằng người để lại di sản có bổn phận đối với gia đình tức là đã

gián tiếp làm cho quyền sở hữu có một phần tác dụng kinh tếvà khi đó quyền sở hữu của những người thừa kế đối với

những đi sản được hưởng lại là hệ quả của pháp luật thừa kế.

Mặt khác, pháp luật thừa kế dựa trên quy tắc đạo đức

thường có một giá trị chắc chắn hơn là dựa trên một hình

thức sở hữu thường bị thay đổi. Chẳng hạn, người ta vẫn còn

bàn cãi nhiều về quyền sở hữu tư nhân nhưng về mặt đạođức khó có thể tranh cãi về bổn phận của cha, mẹ phải bảo

đảm đời sống cho các con của họ.

Trước đây, khi quy định về những người được hưởng di

sản không phụ thuộc vào nội dung của di chúc, do sắp xếp

ngôn từ không hợp lý, Điều 20 của Pháp lệnh Thừa kế đã làm

xuất hiện nhiều cách hiểu khác nhau về cùng một điều luật

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

và gây ra sự tranh cãi giữa các quan điểm về việc hiểu diều<small>kiện “không đủ khả năng lao động và túng thiếu” là chỉ đốivới con đã thành niên hay đổi với ca bố, mẹ, vợ, chồng.</small>

Xếp lại danh mục những người được hưởng di sản mộtcách khoa học, Điều 669 Bộ luật Dãn sự 2005 đã tránh đượcthực tế trên đây là một sự tiến bộ, thành công của các nhà

<small>lập pháp. Theo quy định của điều luật nói trên thì bất luận</small>

trong mọi trường hợp bố, mẹ, vợ, chồng của người chết. đềuhưởng một phần di sản ít nhất là bằng hai phần ba của mộtsuất thừa kế theo luật.

Nếu so sánh các bộ cổ luật đã từng tổn tại trong lịch sửpháp luật của Việt Nam, chúng ta thấy rằng: thời nhà Lê, BộQuốc triều hình luật có quy định về tội bất hiếu nhưng phần

dân sự khơng hể có quy định con phải để lại cho bố, mẹ phầndi sản theo bổn phận tối thiểu. Trong Bộ Dân luật Bac và Bộ

dân luật Trung cũng khơng hề có quy định này.

Đặc biệt với nguyên tắc: di sản phải được chuyển dịch

xuống hàng ty thuộc của người chết, khi khơng cịn ai ở hàngty thuộc di sản mới được dịch lên cho hàng tơn thuộc, nêntrong ca ba bộ luật nói trên đều quy định “Khi bố, mẹ chết, con

đứng ở hàng thừa kế thứ nhất để hưởng di sản nhưng bố, mẹchỉ đứng ở hàng thừa kế thứ hai để hưởng di sản khi con chết”

Trong thực tế rất ít trường hợp một người ông (bố củangười chết) đứng ra tranh chấp với cháu nội, cháu ngoại củaminh trong việc hưởng di san của người đã chết (mặc dù việc

cha, mẹ luôn được hưởng một kỷ phần bắt buộc đối với di sảndo con để lại đã được pháp luật của Nhà nước ta quy định từ

những năm đầu của thập niên 1980 bằng Thơng tư 81-TATC

của Tồ án nhân dân tối cao, đồng thời được quy định lạitrong Điều 25 của Pháp lệnh Thừa kế ngày 30 tháng 8 năm

1990). Khi người chết không để lại di chúc, bản thân ơng bố

của người đó khơng tranh chấp gì với cháu của ơng ta thì có

<small>211</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

lẽ khi người chết có lập di chúc cho con của họ hưởng hết disản càng khơng có tranh chấp gì xây ra. Tuy nhiên, đó là việcngười ta tự nguyện không hưởng quyền mà pháp luật đã chohọ được hưởng. Pháp luật quy định cho họ được hưởng di sảntrong mọi trường hợp nhưng nếu họ sợ chạm đến tục lệ, tậpqn từ xa xưa mà khơng tranh chấp gì thì pháp luật vẫnthừa nhận sự tự nguyện đó. Nghĩa là, một mặt pháp luật bảovệ quyền lợi thiết thực cho một số người thừa kế, mặt khác,luôn tôn trọng truyền thống đạo đức của dân tộc.

Nếu tham khảo bộ luật dân sự của một số nước, chúng tathấy rằng: cùng với mục đích nhằm cho một số người thừa kếluôn được hưởng một phần di sản nhất định, Bộ luật Dân sựcủa Cộng hoà Pháp đã quy định về vấn đề lưu sản. Theo quyđịnh tại các Điều 931, 914, 915, 916 Bộ luật Dân sự Pháp thìlưu sản là một số tài sản trong số di sản của người chết màpháp luật dành cho một số người thừa kế, chỉ khi khơng cịnai thừa kế theo luật, người lập di chúc mới được định đoạt

hết di sản của mình cho người khác. Vì vậy, với phần di sản

được luật xác định là lưu sản thì người lập di chúc khơng có

quyền định đoạt. Người lập di chúc chỉ có quyền định đoạt:

một phần hai khối di sản nếu khi chết để lại một con, một

phần ba khối di sản nếu khi chết để lại hai con, một phần tưkhối di sản nếu khi chết để lại ba con trở lên. Như vậy, nếukhi chết, người lập di chúc cịn có các con thì phần di sản mà

người lập di chúc khơng có quyền định đoạt ln thuộc về các

con của họ. Nếu người lập di chúc chết mà khơng có các con

chính thức nhưng có các con ngoại hơn thì quyền định đoạtcũng được xác định như trên nhưng phần lưu sản sẽ dành ra

một phần tám cho các tơn thuộc của người đó, cịn lại chia<small>cho các con ngoại hôn.</small>

Ở nước ta việc quy định của pháp luật thừa kế được xác

định trên nguyên tắc bình đẳng giữa các cá nhân nên việc

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

<small>dược hưởng thừa kế không bị phân biệt giữa con trong hay</small>

<small>con ngồi giá thú, thậm chí khơng phân biệt giữa con đẻ và</small>

<small>con ni, mặt khác, luật cịn xác định, bố, mẹ, vợ, chồng của</small>

người chết đều đứng trong một hàng thừa kế để hưởng di san

<small>của người đó. Do vậy, diện những người được hưởng di sẵn</small>

<small>không phụ thuộc vào nội dung của di chúc, cách thức hưởng</small>

cũng khác rất nhiều so với quy định của Bộ luật Dân sự Cộng

<small>hoà Pháp.</small>

Trong thực tế, khi áp dụng Điều 669 của Bộ luật Dân sự

2005 nước ta để bảo đảm cho quyền lợi của những người thừa

kế được quy định trong đó, vấn đề đầu tiên là phương phápxác định được “hai phần ba của một suất thừa kế theo luật”.Đây là một vấn đề hết sức khó khăn trong quá trình giảiquyết một vụ tranh chấp về thừa kế. “Hai phần ba của mộtsuất thừa kế theo luật” cụ thể là bao nhiêu? Theo khuôn mẫu

nào để xác định. Mong muốn góp phần giải quyết những

vướng mắc khi áp dụng điều luật này, chúng tơi xin bàn tới<small>mấy khía cạnh sau đây:</small>

- Người thừa kế theo Điều 669 có được hưởng di sản khibị người để lại di chúc truất quyền hưởng di sản hay không?

Trước hết, cần phải hiểu rằng người thừa kế “không được

người để lại di chúc cho hưởng di sản” bao gồm: người không

được người lập di chúc phân định cho một phần di san nào,người bị người lập di chúc truất quyển hưởng di sản. Như

vậy, “người không được người để lại đi chúc cho hưởng disản” có thể khơng phải là người bị truất quyển, nhưng ngượclại, người bị truất quyền là người “không được người để lại di

chúc cho hưởng di sản”. Từ đó, cần xác định những ngườiđược quy định trong Điều 669 Bộ luật Dân sự 2005 luôn được

hưởng hai phần ba của một suất thừa kế theo luật kể cả

trường hợp người lập di chúc truất quyền hưởng di sản.

- Chia như thế nào để xác định một suất thừa kế theo luật.

<small>213</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

Về nguyên tắc, một suất thừa kế theo luật là kết quả củamột phép chia, trong đó, số bị chia là tổng giá trị di sản thừakế mà như đã xác định thì di sản thừa kế là toàn bộ di sản

của người chết để lại sau khi trừ đi các nghĩa vụ về tài sản

của người chết để lại và các khoản chi phí liên quan, số chia

là tổng số những người thừa kế theo pháp luật (chúng tôi

<small>tạm gọi những người này là những nhân suất). Trong thực</small>

tế, việc xác định được một suất thừa kế để từ đó xác định hai

phần ba của nó khơng đơn giản, thuần t như sự đơn giảncủa một phép chia số học. Việc xem xét những ai được coi là

nhân suất cịn có nhiều quan điểm khác nhau. Vì vậy, khi

xác định một suất thừa kế theo luật cần lưu ý những ngườisau đây có được coi là nhân suất hay khơng.

e Người khơng có quyền hưởng di san theo Khoản 1 Điều

<small>643 Bộ luật Dân sự. Đây là những người mà đáng lẽ họ được</small>

hưởng di sản nhưng vì họ có những hành vi trái pháp luật,trái đạo đức nên bị pháp luật tước đi quyền hưởng di sản. Vì

vậy, họ khơng phải là người thừa kế của người để lại di sảnnữa. Do đó, khi cộng nhân suất để xác định một suất thừa kế

theo luật, khơng được cộng những người này.

Ví dụ: Ơng A có khối di sản trị giá 180 triệu đồng, ba

người thừa kế theo luật của ông là bà V (vợ ông A), con H,con Y. Trước khi chết, ơng A viết di chúc cho Y, hưởng tồn

bộ di sản. Bà V khởi kiện yêu cầu được hưởng di san của ơngA. Tồ án xác định, đứa con H của ông A bị tước quyền hưởngdi sản theo Khoản 1 Điều 646. Bộ luật Dân sự. Vụ thừa kế

được giải quyết như sau:

Xác định một suất thừa kế theo luật là: 180 triệu đồng: 2

nhân suất (bà V, con Y) = 90 triệu. Bà V được hưởng hai

phần ba của một suất thừa kế theo luật là: 90 triệu đồng x

2/3 = 60 triệu đồng. Đứa con Y được hưởng phần di san là:

180 triệu đồng - 60 triệu = 120 triệu đồng.

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

<small>e Người thừa kế theo Điều 669. Bộ luật Dân sự 2005 bị</small>

người để lại di chúc truất quyền hưởng di sản.

Như đã đề cập ở phần trước, dù bị người lập di chúc truấtquyền hưởng di sản, những người này vẫn được hưởng mộtphần di sản. Vì vậy, họ ln là người thừa kế theo luật của

người để lại di sản dù rằng họ bị truất quyền đó. Do vậy, khi

xác định một suất thừa ké theo luật, ho vẫn là một nhân

suất. Ví dụ: Ơng K có hai người thừa kể theo luật là bà H (vợ

ông K) và một người con là N. Trước khi chết, ông K lập một

di chúc để truất quyền hưởng di sản của bà H và cho ngườicon N hưởng toàn bộ di san mà ông để lại trị giá là 120 triệu

đồng. Trong trường hợp này, bà H vẫn được hưởng hai phần

ba của một suất thừa kế theo luật. Mặt khác, dù bị truất, bàH vẫn là người thừa kế theo luật của ơng K, do đó, vụ thừakế phải được xác định như sau:

Một suất thừa kế theo luật là: 120 triệu đồng: 2 nhânsuất = 60 triệu đồng. Bà K được hưởng phần di sản là: 60triệu x 2/3 = 40 triệu đồng. Người con N được hưởng là: 120triệu - 40 triệu = 80 triệu đồng.

e Người thừa kế bị người lập di chúc truất quyền hưởng

di sản.

Trong thực tế, người đã bị truất quyền (trừ những người

ở Điều 669. Bộ luật Dân sự 2005) sẽ không được hưởng di sản

thừa kế kể cả khi di sản chia theo pháp luật (vấn dé này

cũng được chúng tơi phân tích ở mục 3.1.2. của sách này).Tuy nhiên, người bị truất quyền có được coi là một nhân suấttrong việc xác định một suất thừa kế theo luật hay không?

Hiện nay đang tổn tại ba quan điểm.

Quan điểm thứ nhất cho rằng: đã là người bị truất quyền

thì khơng coi là người thừa kế theo luật nữa và vì vậy, khơng

được coi là một nhân suất để tính một suất thừa kế theo luật.

<small>215</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

Ví dụ: ơng M có khối di sản trị giá 120 triệu đồng. Bangười thừa kế của ông là bà N (vợ ông M), con P, con Q.

Ông M lập di chúc truất quyền hưởng di sản của P (P

<small>không thuộc người thừa kế theo Điều 669. Bộ luật Dân sự</small>2005), đồng thời cho Q được hưởng toàn bộ di sản.

Theo quan điểm trên thì vụ thừa kế này được giải quyết

<small>như sau:</small>

Một suất thừa kế theo luật là: 120 triệu đồng: 2 nhân suất(bà N, con Q) = 60 triệu đồng. Bà N được hưởng hai phần bacủa một suất thừa kế là: 60 triệu đồng x 2/3 = 40 triệu đồng.Người con Q được hưởng: 120 triệu - 40 triệu = 80 triệu đồng.

Quan điểm thứ hai cho rằng: nếu người bị truất quyền làngười không thuộc Điều 669 Bộ luật Dân sự 2005 thì họkhơng phải là người thừa kế theo luật nữa, nếu di san có chiatheo luật thì họ cũng khơng được hưởng. Vì vậy, khơng đượccoi họ là một nhân suất khi tính một suất thừa kế theo luật.Nếu người bị truất quyền là người thuộc Điều 669. Bộ luậtDân sự 2005 thì họ vẫn được hưởng một kỷ phần theo luậtđịnh nên họ vẫn là người thừa kế theo luật của người đãtruất quyền hưởng di sản của họ. Vì thế, họ vẫn là một nhânsuất khi tính một suất thừa kế theo luật.

Quan điểm thứ ba cho rằng: Người bị truất quyền thì

khơng được hưởng di sản nhưng vẫn là một nhân suất khixác định một suất thừa kế theo luật vì trong Điều 669. Bộluật Dân sự 2005 có ghi “nếu như di sản được chia theo pháp

luật”. Quy định trên còn được hiểu rằng khi xác định một

suất thừa kế theo luật phải giả thiết vụ thừa kế đó được chia

theo pháp luật. Mặt khác, đối tượng của việc truất quyền lànhững người thừa kế theo pháp luật. Vì vậy, nếu giả thiếtchia theo pháp luật thì xác định một suất thừa kế phải làviệc chia toàn bộ di sản cho tất ca những người thừa kế theo

luật của người để lại di sản.

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

Theo quan diém này thì vụ thừa kế ở ví dụ đã nêu trên<small>được giải quyết như sau:</small>

Một suất thừa kế theo luật là: 120 triệu: 3 nhân suất (bàN, con P, con Q) = 40 triệu đồng. Bà N được hưởng phần disản là 40 triệu x 2/3 = 27 triệu đồng. Người con Q được hưởnglà: 120 triệu - 27 triệu = 93 triệu đồng. (Người con P khôngđược hưởng gi vi đã bi truất quyền).

e Người từ chối nhận di sản.

Theo chúng tôi, về nguyên tắc, người đã từ chối nhận di

sản thì họ không được hưởng di sản nữa kể cả chia theo phápluật. Tuy nhiên, nguyên tắc trên cần được xác định cụ thể

<small>theo các trường hợp sau đây:</small>

- Nếu người từ chối nhận di sản chỉ là người thừa kế theo

di chúc (họ khơng có quan hệ hơn nhân, huyết thống, ni

dưỡng với người để lại di sản) thì đương nhiên họ không phải

là nhân suất khi xác định một suất thừa kế theo luật.

- Nếu người từ chối nhận di sản là người thừa kế theo di

chúc đồng thời cũng là người thừa kế theo luật của người để

lại di san va họ đã từ chối hưởng di sản cả theo di chúc ca theoluật thì họ khơng phải là nhân xuất khi xác định một suấtthừa kế theo luật. Nếu họ chỉ từ chối việc nhận di san theo di

chúc thì họ vẫn là người thừa kế theo luật của người để lại di

sản. Vì vậy, họ là nhân suất khi xác định một suất thừa kế.

Từ việc phân tích trên cho chúng ta thấy hiện đang cịn

nhiều quan điểm khác nhau trong việc xác định hai phần ba

của một suất thừa kế theo luật. Thông qua việc đánh giá, nhận

định các quan điểm đó, chúng tơi cho rằng khi xác định haiphần ba của một suất thừa kế theo luật cần theo cách thức sau:

Lấy tổng giá trị di sản thừa kế chia cho tổng nhân suất

(trừ người đã bị tước, bị truất, người thừa kế theo luật đã từ

chối tồn bộ) và nhân với 2/3 . Vì vậy, hai phần ba của một

suất thừa kế theo theo luật được tính theo cơng thức:

<small>217</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

Tổng giá trị di sản thừa kế

<small>x 2/3</small>Tổng nhân suất thừa kế

Sau khi áp dụng cơng thức trên và tính được hai phần

ba của một suất thừa kế theo luật cụ thể là bao nhiêu thì việctrích từ phần di sản nào để cho người thừa kế được xác định

tại Điều 669 hướng đủ theo phần di sản đã được tính cũng

cịn có nhiều quan điểm khác nhau.

Có quan điểm cho rằng, nếu di sản chưa chia thì trước khichia di sản, trích từ di sản thừa kế cho mỗi người được hưởngtheo Điều 669 một phần di san bằng phần di sản đã được xác

định từ công thức trên nếu họ không được người để lại di sản

cho hưởng hoặc cho hưởng nhưng khơng bằng phần di sản đó.Nếu di sản đã được chia thì mỗi người thừa kế được nhận disản phải trích lại một phần sao cho đủ so với kỷ phần màngười thừa kế theo Điều 669 được hưởng, trong đó phần phảitrích lại của mỗi người thừa kế tương ứng với phần di sản mà

họ đã nhận. Chúng tơi cho rằng quan điểm này có nhiều bất

cập, bởi lẽ sẽ không phù hợp với nguyên tắc quyền định đoạt

của người lập di chúc, sẽ bị hạn chế nếu sự định đoạt đó phạmvào căn bản đạo đức. Mặt khác, sẽ không đảm bảo được quyềnhưởng di sản của những người thừa kế theo luật khác.

Quan điểm khác lại cho rang phần di san mà người thừakế theo Điều 669 được hưởng chỉ trích từ phần di sản màngười thừa kế được hưởng theo di chúc và tương ứng vớiphần vượt trội so với suất thừa kế theo luật mà họ được

hưởng. Ví dụ: Ơng N. để lại một khối di sản có tổng giá trị là90 triệu đồng. Ơng có ba người thừa kế theo luật là bà B (vợ),

cùng hai người con là K, H. Khi ơng chết, có để lại một dichúc, trong đó ông cho K hưởng 2/3 di sản. Theo quan điểm

<small>trên thì vụ thừa kế này sẽ được chia như sau: Theo di chúcthì K được hưởng là: (90.000.000 x 2/3 = 60 triệu đồng. Phần</small>

di sản còn lại được chia cho bà B và H, mỗi người được hưởng

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

là: (90.000.000 - 60.000.000): 2 = 15 triệu đồng. Hai phần bacủa một suất thừa kế theo luật trong vụ tranh chấp này là:90.000.000đ.: 3 x 2/3 = 20.000.000đ. Nhu vậy, nếu theo dichúc, bà B mới được hưởng có 15 triệu đồng, so với kỷ phầnmà Điều 669 đã định thì cịn thiếu là 5 triệu đồng. Nếukhông được ông A cho hưởng theo di chúc và di sản được chia

<small>theo luật thì K chỉ được 30 triệu nhưng theo di chúc nên K</small>được hưởng 60 triệu. Vì vậy, năm triệu đồng cịn thiếu trongkỷ phần luật định của bà B chỉ trích từ phần di sản mà Kđược hưởng (H. khơng phải trích từ phần di sản mà mìnhđược hưởng vì phần này chưa bằng một suất thừa kế theoluật). Theo chúng tơi thì quan điểm này hợp lý hơn quan

điểm trước vì đã thể hiện được việc pháp luật chỉ hạn chế

quyền định đoạt của người lập di chúc nếu sự định đoạt đóvượt quá giới hạn cho phép và ảnh hưởng đến lợi ích chínhđáng của những người thừa kế mà pháp luật xét thấy cầnphải bảo vệ.

3.2.2. Để lại thừa kế quyền sử dụng đất

Bằng việc quy định trong Hiến pháp 1992 và Luật Đất

đai 1993, lần đầu tiên, trong khi vẫn khẳng định đất đai

thuộc quyền sở hữu toàn dân, do Nhà nước thống nhất quản

<small>ly, pháp luật nước ta đã quy định: “Đất có gia tri”.</small>

Trên tinh thần đó, Bộ luật Dân sự ra đời đóng vai trị hết

sức quan trọng trong việc cụ thể hóa và phát triển thêmnhững quy định về đất đai, déng thời thiết lập cơ chế để

người sử dụng đất đai thực hiện các quyền năng của mình

<small>một cách thuận tiện và hợp pháp.</small>

Theo quy định của Luật Đất đai 1993, người sử dụng đấtngoài quyền chiếm hữu, sử dụng cịn có thêm các quyền năng

khác đối với đất đai. Cụ thể là họ có quyền chuyển nhượng,chuyển đổi, cho thuê, thế chấp, và để lại thừa kế quyền sử

dụng đất.

<small>219</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">

<small>Xét về bản chất thì các quyền năng nói trên là loại quyềndân sự vì đó là những quan hệ tài sản mà người tham gia</small>

quan hệ ấy là chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự. Tuynhiên, các quyền năng nói trên ln gắn liền với một loại tàisản đặc biệt (đất đai) nên chúng là một loại quyền dân sự

<small>mang tính đặc thù. Tính đặc thù của loại quan hệ dân sự này</small>thể hiện ở chỗ người sử dụng khơng có đầy đủ các quyền

<small>năng như các chủ sở hữu, họ chỉ là người được chủ sở hữu đất</small>

đai (Nhà nước) giao cho quyền sử dụng. Mặt khác, đối với cácquan hệ về chuyển nhượng quyền sử dụng đất thì hình thức,

thủ tục, điều kiện để thực hiện các quyền năng đó của ngườisử dụng đất được pháp luật quy định chặt chẽ hơn nhiều sovới quan hệ dịch chuyển các tài sản khác.

Từ những cơ cấu trên, quyền sử dụng đất được Bộ luậtDân sự quy định cụ thể, chi tiết bằng một phần riêng biệt:Phần thứ năm: Quy định về chuyển quyền sử dụng đất.

Trước đây, bởi pháp luật chưa ghi nhận quyền sử dụngđất cũng như chưa quy định các quyền tài sản khác là mộtloại tài sản nên di sản thừa kế của người chết chỉ đơn thuầnlà các vật dụng thuộc quyền sở hữu của người đó. Ngày nay,

<small>do Bộ luật Dân sự đã quy định quyền tài sản cũng được coi làmột loại tài sản nên, quyền sử dụng đất của người đó cũng</small>thuộc di sản thừa kế. Tuy nhiên, việc để lại thừa kế quyền sử

dụng đất bị hạn chế hơn nhiều so với quyền để lại thừa kế di

sản nói chung. |

Theo quy định tại Điều 733 của Bộ luật Dân sự 1995 thì:“Thừa kế quyền sử dụng đất là việc chuyển quyền sử<small>dụng đất của người chết sang cho người thừa kế theo quy</small>

định của Bộ luật này và pháp luật về dat dai”.

Như vậy, thừa kế quyền sử dụng đất có thể được dịch

chuyển theo di chúc (theo ý chí của người chết) hoặc theo

<small>pháp luật.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">

Tuy nhiên, các hình thức dịch chuyển trên bị pháp luật

<small>hạn chế băng việc quy định thông qua các điều luật sau đây:</small>Điều 739 Bộ luật Dân sự 1995 quy định người được đểthừa kế quyền sử dụng đất.

“Những người sau đây được để thừa kế quyền sử dụng đất:1. Cá nhân được Nhà nước giao đất nông nghiệp để trồngcây hàng năm, nuôi trồng thuy sản;

<small>2. Cá nhân, thành viên của hộ gia đình được giao đất</small>

nơng nghiệp để trồng cây lâu năm, đất lâm nghiệp để trồngrừng, đất ở;

3. Cá nhân có quyền sử dụng đất do người khác chuyển

quyền sử dụng đất phù hợp với quy định của Bộ luật này vàpháp luật về dat dai”.

Điều 740 Bộ luật Dân sự 1995 cũng nêu rõ “điều kiện đểthừa kế quyền sử dụng đất nông nghiệp để trồng cây hàng

năm, ni trồng thuỷ san.

Người có đủ các điều kiện sau đây thì được thừa kếquyền sử dụng đất theo di chúc hoặc theo pháp luật đối với

đất nông nghiệp để trồng cây hàng năm, nuôi trồng thủy sản:1. Có nhu cầu sử dụng đất, có điều kiện trực tiếp sử dụng

<small>đúng mục đích.</small>

<small>2. Chưa có đất hoặc đang sử dụng đất dưới hạn mức quy</small>định của pháp luật về đất dai”.

Điều 741 Bộ luật Dân sự 1995 “Thừa kế quyền sử dụng

đất theo di chúc đối với đất nông nghiệp dé trồng cây hang

năm, nuôi trồng thuỷ sản. :

Những người được quy định tại Khoản 1 Điều 679 và

Điều 680 của Bộ luật này và có đủ các điều kiện quy định tại

Điều 740 của Bộ luật này được thừa kế quyền sử dụng đất

theo di chúc đối với đất nông nghiệp để trồng cây lâu năm,

nuôi trồng thuỷ sẵn”.

<small>221</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">

Điều 742 “Thừa kế quyền sử dụng đất theo pháp luật

đối với đất nông nghiệp để trồng cây lâu năm, nuôi trồng

thuỷ san:

1. Những người được quy định tại Điều 679 và Điều 680của Bộ luật này và có đủ các điều kiện được quy định tạiĐiều 740 của Bộ luật này được thừa kế theo pháp luật đối với

quyền sử dụng đất nông nghiệp để trồng cây hàng năm, nuôi

trồng thuỷ sản.

2. Trong trường hợp khơng có người thừa kế có đủ điềukiện quy định tại Điều 740 của Bộ luật này hoặc có nhưngkhông được hưởng di sản, từ chối nhận di sản thì nhà nướcthu hồi đất đó”.

Qua các điều luật trên, chúng ta thấy rằng việc để lại

thừa kế quyền sử dụng đất phụ thuộc vào việc ai là người sửdụng, đó là loại đất gì, căn cứ làm xác lập quyền sử dụng đất

đó như thế nào. Vì thế, việc để lại thừa kế quyền sử dụng đấtbị hạn chế một số điểm sau đây:

e Không phải ai cũng được để lại thừa kế quyền sử

<small>dụng đất.</small>

Trong số những người có quyền sử dụng đất, khi họ chết,

việc xác định quyền đó của họ có phải là di san thừa kế haykhông phải dựa vào việc xem xét quyền sử dụng đất của họ

được hình thành từ căn cứ nào. Một người được để lại thừa kế

quyền sử dụng đất nếu đất đó là do nhà nước giao cho cá

nhân họ hoặc họ có được do người khác chuyển dịch phù hợp

<small>với pháp luật. Nghĩa là khi có một trong hai căn cứ này thì</small>

việc để lại thừa kế khơng phụ thuộc vào loại đất cũng như

mục đích sử dụng của từng loại đất.

Mặt khác, loại đất và mục đích sử dụng của nó trong

nhiều trường hợp lại là căn cứ để xác định xem quyền sửdụng đất có phải là di sản thừa kế mà người chết để lại hay

</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">

<small>không? Nếu quyền sử dụng đất được xác lập do nhà nước giaođất cho hộ gia đình (khơng phải theo một trong hai căn cứ</small>

trên) mà người chết là một thành viên trong hộ gia đình ấythì họ chỉ được để lại thừa kế quyền sử dụng đất khi đất được

giao là loại đất ở, đất lâm nghiệp để trồng rừng hoặc đấtnông nghiệp để trồng cây lâu năm, nuôi trồng thuỷ sản.

e Không phải ai cũng được thừa kế quyền sử dụng đất.Pháp luật quy định về thừa kế quyền sử dụng đất nhằm

tạo ra một phương tiện pháp lý để các cá nhân thực hiện việcchuyển quyền sử dụng đất cho người khác sau khi mình chết.

Qua dó để duy trì điều kiện sản xuất, điều kiện sống của gia

đình từ đời này qua đời khác. Hơn nữa, việc quy định trên củapháp luật cịn nhằm động viên, khuyến khích người sử dụng

đất trong việc bồi bổ và sử dụng hợp lý vốn đất đai. Người sửdụng đất yên tâm để canh tác, bồi bổ và cải tạo đất mà khơng

phải lo về tính nhất thời của quyền sử dụng đối với đất đai.

Mặt khác, để tránh tình trạng đất đai tập trung vào một

số người nhất định và lấy nó làm phương tiện bóc lột sức laođộng của người khác, pháp luật cịn hạn chế phạm vi RHHng

người có thể được thừa kế quyền sử dụng đất.

Đối với đất nông nghiệp để trồng cây hang năm hoặc

ni trồng thuỷ sản thì một người muốn thừa kế quyền sửdụng đất phải có đủ các điều kiện quy định tại Điều 740 - Bộ

<small>223</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">

và đang công tác tại một tỉnh khác. Người con đầu đang được

quyền sử dụng một diện tích là 3 ha đất nông nghiệp để

trồng cây hàng năm và ni trồng thuỷ sản. Theo ví dụ này,người con đầu không được thừa kế quyền sử dụng đất của

ông A để lại vì diện tích đất mà người đó đang sử dụng đã đủ

<small>hạn mức mà Luật Đất đai quy định. Người con thứ ba cũng</small>

không được thừa kế quyền sử dụng đất của ơng A để lại vì

khơng có nhu cầu sử dụng đất và cũng khơng có điều kiện đểtrực tiếp sử dụng đất. Quyền sử dụng đất mà ông A để lại sẽ

do người con thứ hai thừa kế. Tuy nhiên, người đó phải có

điều kiện để trực tiếp sử dụng đất vào mục đích nơng nghiệp.

Đồng thời nếu việc thừa kế làm cho diện tích sử dụng đất củangười này vượt quá 3 ha thì phần diện tích vượt q đó sẽ

được nhà nước thu hồi lại để giao cho người khác sử dụng

theo quy định của pháp luật đất đai.

Qua ví dụ trên, một số vấn đề được đặt ra và cần phảixem xét là: như thế nào thì được coi là “có điều kiện trực tiếp

sử dụng đất” và cơ quan nào có thẩm quyền xác định tình

trạng đó của người thừa kế? Theo chúng tơi, ai cho rằng mình

có đủ điều kiện để hưởng thừa kế quyền sử dụng đất theo

Điều 740 - Bộ luật Dân sự 1995 thì người đó phải khởi kiện

trước Toà án để Toà án xác nhận quyền thừa kế của mình.

e Người lập di chúc chỉ được để lại thừa kế theo di chúc

quyền sử dụng đất nông nghiệp để trồng cây hàng năm, nuôi

trồng thuỷ sản cho những người trong diện thừa kế theo<small>pháp lưật của họ. |</small>

Theo quy định tại Điều 741 - Bộ luật Dân sự 1996 thì ý

chí của người lập di chúc trong việc để lại thừa kế quyền sửdụng đất bị hạn chế rất nhiều so với việc để lại thừa kế di

sản nói chung.

Nếu định đoạt các tài sản khác, người lập di chúc chỉ bị

hạn chế khi có những người thừa kế bắt buộc (được quy định

</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">

tại Điều 672. Bộ luật Dân sự 1995), và cũng chỉ phải để lại

2/3 của một suất thừa kế theo luật cho mỗi người, còn lạimuốn cho ai tuỳ ý thì việc “định đoạt” quyền sử dụng đất

nơng nghiệp để trồng cây hàng năm hoặc nuôi trồng thuỷ sản

của người lập di chúc cho ai lại bị pháp luật hạn chế. Nghia

là, người để lại thừa kế quyền sử dụng đất nông nghiệp để

trồng cây hàng năm, nuôi trồng thuỷ sản chỉ được phép theo

ý chí của mình để định đoạt quyền đó cho những người thuộc

hàng thừa kế được quy định tại Khoản 1 Điều 679 và Điều 680

của Bộ luật Dân sự 1995 chứ không phải muốn để cho bất kỳ

<small>người nào cũng được.</small>

Theo quy định của Bộ luật Dân sự 1995 thì thừa kếquyền sử dụng đất được xác định theo hai vấn dé tuỳ thuộc<small>vào loại đất và mục đích sử dụng.</small>

Thứ nhất, thừa kế quyền sử dụng đất nông nghiệp để

trồng cây lâu năm, đất lâm nghiệp để trồng rừng, đất ở.

Thứ hai, thừa kế quyền sử dụng đất nông nghiệp trồng

cây hàng năm, ni trồng thuỷ sản.

Trong đó, quyền định đoạt của người lập di chúc trong

việc để lại thừa kế quyền sử dụng đất đối với đất thuộc vấn

đề thứ hai mới bị hạn chế theo quy định bởi Chương VI, Phần

thứ năm của Bộ luật Dân sự 1995. Tuy nhiên, sau một thờigian áp dụng Bộ luật Dân sự 1995 vào thực tiễn cuộc sống đã

cho thấy tính bất cập trong quy định về thừa kế quyền sử

dụng đất nói trên. Sự bất cập đó thể hiện ở chỗ: Đất đai là

một loại tài sản chỉ thuộc sở hữu nhà nước nhưng quyền sử

dụng đất đai lại là một loại tài sản mà cá nhân có quyền sở

hữu nên khơng thể hạn chế quyền định đoạt của một chủ sở

hữu đôi với tài sản đã thuộc quyền sở hữu của họ. Mặt khác,việc Bộ luật Dân sự 1995 quy định những người thừa kế

khơng có điều kiện để sử dụng đất nông nghiệp trồng cây

hàng năm hoặc nuôi trồng thuỷ sản không được hưởng thừa

<small>15-TKế QĐCPL 225</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">

kế đối với loại di sản này cũng là một sự bất cập. Chúng ta

thấy rằng với nguyên tắc bình đẳng trong pháp luật thừa kế

thì những người thừa kế theo pháp luật phải được hưởng disản ngang bằng nhau đối với toàn bộ khối di sản mà người

chết dé lại, nên nếu người thừa kế nào khơng có khả năng để

sử dụng một loại tài sản nào đó trong khối di sản thì họ chỉ

khơng được quyền nhận di sẵn đó bằng hiện vật nhưng họ

vẫn được hưởng thừa kế đối với di sản đó. Nghĩa là cần phải

xác định trị giá của di sản đó vào tổng giá trị của di sản và

chia đều tổng giá trị di sản cho tất cả những người thừa kê(nếu thừa kế được chia theo pháp luật) hoặc chia cho nhữngngười thừa kế theo phần giá trị đã được xác định trong dichúc (nếu thừa kế được chia theo di chúc) còn việc ai nhận disản theo hiện vật nào sẽ căn cứ vào điều kiện hoàn cảnh của

từng người cụ thể.

Để khắc phục những bất cập trên của Bộ luật Dân sự

1995 nên khi quy định về thừa kế quyền sử dụng đất Bộ luật

Dân su 2005 đã có rất nhiều sửa đổi. Theo Bộ luật Dân sự

2005 thì việc để lại cũng như hưởng thừa kế đối với quyền sửdụng đất về cơ bản cũng giống như việc để lại và hưởng thừa

kế các loại tài sản khác. Tuy nhiên, ngoài việc phải tuân theocác quy định của Bộ luật Dân sự thì việc thừa kế quyền sử

dụng đất cịn phải tuân theo các quy định của pháp luật về

đất đai.

Tóm lại: người lập di chúc có quyền định đoạt tài sản vàcác vấn đề khác nhưng việc định đoạt đó khơng được làm ảnhhưởng đến lợi ích của nhà nước; của xã hội; quyền, lợi ích hợppháp của người khác. Vì vậy, bên cạnh việc ghi nhận và bảovệ quyền định đoạt của người lập di chúc, pháp luật nước tacũng hạn chế quyền định đoạt đó trong một số trường hợpnhất định nhằm bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng cho các chủ

thể khác.

</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">

Phần thứ ba

THỪA KẾ THEO PHÁP LUẬT

Như đã nói ở các phần trước, sự dịch chuyển di sản từmột người đã chết sang người còn sống được thực hiện theo

một trong hai căn cứ là ý chí của người để lại đi sản và quy

định của pháp luật. Nếu sự dịch chuyển di sản đó căn cứ vào

ý chí của người đã chết để lại thì được gọi là thừa kế theo đichúc, nếu sự dịch chuyển tài sản của người chết để lại sang

người còn sống căn cứ vào quy định của pháp luật thì đượcgọi là thừa kế theo pháp luật. Như vậy, thừa kế theo phápluật được hiểu một cách đơn giản là quá trình dịch chuyển disản của người chết sang những người còn sống theo quy địnhcủa pháp luật về thừa kế. Mặt khác, theo quy định của pháp

luật thì khi khơng có căn cứ để dịch chuyển di sản của ngườichết theo ý chí của họ thì di sản đó phải dịch chuyển theo

quy định của pháp luật về hàng thừa kế, điều kiện và trình

tự thừa kế. Điều 674 Bộ luật Dân sự 2005 đã định nghĩa vềthừa kế theo pháp luật như sau:

“Thừa kế theo pháp luật là thừa kế theo hàng thừa kế,điều kiện và trình tự thừa kế do pháp luật quy định.” Theo

đó chúng ta có thể thấy thừa kế theo pháp luật khác với thừakế theo di chúc ở một số điểm sau đây:

Thứ nhất, nếu việc dịch chuyển di sản trong thừa kếtheo di chúc hoàn toàn được thực hiện theo ý chí của người đểlại di sản thì trong thừa kế theo luật, việc dịch chuyển đi sản

phải được thực hiện theo hàng thừa kế mà pháp luật đã quyđịnh. Nói cách khác, nếu trong thừa kế theo di chúc, người

được hưởng di sản do người chết xác định bằng ý chí của họ

thì trong thừa kế theo pháp luật, người được hưởng di sản do<small>pháp luật xác định.</small>

Thứ hai, người thừa kế theo di chúc sẽ được quyền hưởng

<small>227</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">

di sản khi đủ một điều kiện là không bị pháp luật tước quyềnhưởng di sản. Tại Khoản 1 - Điều 643 -Bộ luật Dân sự 2005đã liệt kê bốn trường hợp mà nếu người thừa kế rơi vào mộttrong những trường hợp đó sẽ không được quyền hưởng di san.Quyền hưởng di sản là một trong hai nội dung của quyền thừakế cá nhân được pháp luật thừa nhận và bảo đảm thực hiện.Tuy vậy, quyền này sẽ bị tước bỏ nếu người có quyền đó lại có

<small>những hành vi trái pháp luật, trái dao đức xã hội. Vì vậy, cá</small>

nhân chỉ được hưởng thừa kế nói chung và thừa kế theo di

<small>chúc nói riêng khi không rơi vào những trường hợp đã được</small>luật dự liệu về tình trạng khơng có quyền hưởng di sản. Đốivới người thừa kế theo pháp luật thi chỉ được hưởng di san khicó đủ hai điều kiện: khơng bị tước quyền hưởng di sản theo

Khoản 1, Điều 643 Bộ luật Dân sự 2005 và không bị người để

lại di sẵn truất quyền hưởng di san.

Thứ ba, trong thừa kế theo di chúc, di sản được dịch

chuyển đồng thời cho tất cả những người thừa kế mà không

cần tuân theo một trình tự nào nhưng trong thừa kế theo

pháp luật thì việc dịch chuyển di sản phải theo một trình tự

nhất định căn cứ vào các hàng thừa kế. Theo đó, những người

ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế nếu khơng cịn ai ở

hàng thừa kế trước do đã chết, khơng có quyền hưởng di san,bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.

1. Những trường hợp thừa kế theo pháp luật

Các văn bản pháp luật về thừa kế ở nước ta từ trước đến

nay đều đã liệt kê các trường hợp thừa kế theo luật. Tuynhiên, sự liệt kê về các trường hợp phát sinh việc thừa kếtheo pháp luật của các văn bản sau ngày càng hoàn thiện va

đầy đủ hơn so với văn bản pháp luật trước đó. Dưới đâychúng tôi xin nêu quy định này của các văn bản pháp luật

trong từng thời kỳ và so sánh để thấy được sự hoàn thiện

tịnh tiến theo thời gian:

</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">

- Pháp luật về thừa kế trong chế độ phong kiến chỉ xácđịnh có hai trường hợp thừa kế theo luật (được quy định tạiĐiều 332 Bộ luật Dân sự Bắc Ky 1931) là:

+ Một người khi còn sống khơng phân chia tài sản củamình cho người khác và cũng khơng lập di chúc chỉ địnhngười thừa kế thì khi họ chết, di sản của họ sẽ được phân

<small>chia theo pháp luật.</small>

+ Người chết có để lại di chúc nhưng di chúc đó khơng có<small>hiệu lực thi hành.</small>

- Khi Sắc lệnh 97/SL ngày 22 tháng 05 năm 1950 được

ban hành, các quy định về thừa kế trong pháp luật của chế độ

cũ đã được sửa đối theo tinh thần mới nhưng các trường hợp

thừa kế theo luật vẫn được giữ nguyên cho mãi đến ngày 27

tháng 8 năm 1968 Thơng tư 594 của Tồ án nhân dân tối cao

được ban hành. Theo hướng dẫn của Thơng tư này thì thừa kế

theo pháp luật phát sinh trong các trường hợp sau đây:

+ Người chết không để lại di chúc;

- Khi Thơng tư 81 của Tồ án nhân dân tối cao đượcban hành ngày 24 tháng 7 năm 1981 thì trường hợp phát

sinh thừa kế theo pháp luật càng được quy định chi tiết

hơn, bao gồm:

+ Người để lại di sản khơng định đoạt di sản của mình

bằng di chúc;

<small>229</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">

+ Người để lại di sản có để lại di chúc, nhưng toàn bộ

hoặc một phần của di chúc khơng có hiệu lực pháp luật;

+ Người lập di chúc chỉ định đoạt theo đi chúc một phầntài sản;

+ Người được chỉ định thừa kế theo di chúc đã chết trướcngười lập di chúc hay từ chối không nhận di sản theo di chúc;

So với Thơng tư 594 thì Thơng tư 81 có điểm tiến bộ hơn

là đã xác định được các trường hợp thừa kế vừa được giải

quyết. theo luật, vừa được giải quyết theo di chúc và đã bổ

sung thêm được một trường hợp phát sinh việc thừa kế theoluật khi người được chỉ định thừa kế theo di chúc chết trước

<small>người lập di chúc. Tuy nhiên, khác với Thông tư 594, Thông</small>tư 81 chỉ quy định về trường hợp phát sinh việc thừa kế theo<small>luật khi di chúc khơng có hiệu lực pháp luật nhưng lại không</small>xác định trường hợp phát sinh việc thừa kế theo luật khi di

chúc khơng có hiệu lực thi hành. Điểm khác biệt này chochúng ta thấy rằng Thông tư 81 vơ hình chung đã đồng

<small>nghĩa di chúc khơng có hiệu lực pháp luật (di chúc không hợp</small>

<small>pháp) với di chúc khơng có hiệu lực thi hành là một.</small>

- Pháp lệnh Thừa kế được ban hành ngày 30 tháng 8năm 1990 đã xác định một cách toàn diện hơn về các trườnghợp phát sinh việc thừa kế theo pháp luật. Theo Điều 24 củaPháp lệnh Thừa kế thì bao gồm các trường hợp thừa kế theo

<small>luật sau đây:</small>

<small>+ Khơng có di chúc;</small>

<small>+ Di chúc không hợp pháp;</small>

<small>+ Những người thừa kế theo di chúc chết. trước người lập</small>

đi chúc; cơ quan, tổ chức được chỉ định làm người thừa kế

theo di chúc khơng cịn tổn tại vào thời điểm mở thừa kế;

+ Những người được chỉ định làm người thừa kế theo di

chúc đều khơng có quyền hưởng di sản, khước từ quyển

hưởng di san.

</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">

Bốn trường hợp nói trên được xác định trong Điều 24 củaPháp lệnh Thừa kế là bốn trường hợp mà việc thừa kế sẽđược giải quyết hoàn toàn theo pháp luật. Ngoài ra, trongKhoản 2 của điều luật này còn xác định việc thừa kế theoluật cũng được áp dụng đối với các phần di sản sau đây:

+ Phần di sản không được định đoạt trong di chúc

+ Phần di sản liên quan đến phần di chúc khơng có hiệu<small>lực pháp luật</small>

+ Phần di san liên quan đến người được chỉ định làm

người thừa kế theo di chúc nhưng họ khơng có quyền hưởng

đi sản, khước từ quyền hưởng di sản hoặc chết trước người

<small>lập di chúc;</small>

+ Phần di sản liên quan đến cơ quan, tổ chức được chỉđịnh làm người thừa kế theo di chúc nhưng khơng cịn tồn tại

vào thời điểm mở thừa kế.

<small>- Bộ luật Dân sự 1995 (có hiệu lực ngày 01 tháng 7 năm</small>

1996 đã xác định các trường hợp thừa kế theo luật tại Điều

678 (được g1ữ nguyên trong Điều 675 của Bộ luật Dân sự sửa

đổi 2005) như sau:

“1, Thừa kế theo pháp luật được áp dụng trong những<small>trưởng hợp sau đây:</small>

d) Những người được chỉ định làm người thừa kế theo di

chúc mà khơng có quyền hưởng di sản hoặc từ chối quyền

hưởng di sản

<small>231</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">

2. Thừa kế theo pháp luật cũng được áp dụng đối với cácphần di sản sau đây:

a) Phần đi sản không được định đoạt trong di chúc;

b) Phần di sản có liên quan đến phần của di chúc khơng<small>có hiệu lực pháp luật;</small>

c) Phần di sản có liên quan đến người được thừa kế theo dichúc nhưng họ khơng có quyền hưởng di sản, từ chối quyền

hưởng di sản, chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người

lập di chúc; liên quan đến cơ quan, tổ chức được hưởng di sản

theo di chúc nhưng khơng cịn vào thời điểm mở thừa kế.”

Như vậy, so với Pháp lệnh Thừa kế cũng như các vănbản pháp luật về thừa kế trước đây thì Bộ luật Dân sự đãhồn thiện hơn rất nhiều trong việc xác định các trường hợpthừa kế theo pháp luật. Theo Điều 678 Bộ luật Dân sự 1995

và Điều 675 Bộ luật Dân sự 2005 thì các trường hợp thừa kế

theo pháp luật được chia thành hai nhóm chính sau đây:

Nhóm thứ nhất: Di sản thừa kế hoàn toàn được chia theopháp luật, bao gồm các trường hợp sau đây:

<small>+ Khơng có di chúc;</small>

<small>+ Di chúc khơng hợp pháp tồn bộ;</small>

<small>+ Di chúc hợp pháp nhưng tồn bộ di chúc khơng có hiệu</small>

lực thi hành do tất cả người thừa kế theo di chúc đều chết

trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc hoặc đều

khơng có quyền hưởng di sản hay đều từ chối quyền hưởng di

sản; cơ quan, tổ chức được hưởng thừa kế theo di chúc khơngcịn vào thời điểm mở thừa kế.

Nhóm thứ hai: Di sản vừa được chia theo đi chúc vừađược chia theo pháp luật, bao gồm các trường hợp sau đây:

<small>+ Có phần di sản khơng được định đoạt trong di chúc;</small>+ Có một phần di chúc khơng có hiệu lực pháp luật;

</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">

<small>+ Có một hoặc một số người trong số những người thừa</small>

kế theo di chúc chết trước hoặc chết cùng thời điểm với ngườilập di chúc; một hoặc một số cơ quan, tổ chức được thừa kếtheo di chúc khơng cịn vào thời điểm mở thừa kế hoặc có một<small>hoặc một số người trong số những người thừa kế theo di chúckhông được quyền hướng di san hay từ chối quyền hưởng disản theo di chúc.</small>

Theo trên, việc thừa kế theo pháp luật sẽ được áp dụng

<small>trong những trưởng hợp sau đây:</small>

1.1. Áp dụng thừa kế theo phúp luật trong các

<small>trương hợp khơng có di chúc hoặc được coi là khơng có</small>

<small>di chúc</small>

Đây là những trường hợp mà người để lại di sản khơng

lập di chúc hoặc có lập di chúc nhưng đã huỷ di chúc như đốt,xé hoặc tuyên bố huỷ bỏ di chúc đã lập. Cũng được coi làkhông có di chúc trong những trường hợp người chết có để lạidi chúc nhưng khi có tranh chấp về thừa kế xảy ra di chúc đó

đã bị thất lạc hoặc đã bị hư hại hồn tồn đến mức khơng thể

hiện được đầy đủ và rõ ràng ý chí của người lập di chúc và

cũng không thể chứng minh được ý nguyện đích thực củangười lập di chúc. Ngồi ra, nếu bản di chúc được viết bằng

ký hiệu hoặc bằng ngôn từ khó hiểu làm cho tất cả người kếcó cách hiểu khơng đồng nhất về tồn bộ nội dung của bản di

<small>chúc đó thì cũng được coi là khơng có di chúc.</small>

Trong các trường hợp nói trên, tồn bộ đi sản mà người

chết để lại sẽ được phân chia cho những người thừa kế theo

quy định của pháp luật.

1.9. Ap dụng thừa bế theo luật trong trường hợp có

<small>di chúc nhưng di chúc bhông hợp phap</small>

Di chúc chỉ được coi là hợp pháp nếu đã đáp ứng được

đầy đủ các điều kiện của một giao dịch có hiệu lực và các điều

<small>233</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">

kiện đã được Bộ luật Dân sự 2005 quy định tại Điều 652. DI

chúc bị coi là khơng hợp pháp sẽ khơng có hiệu lực pháp luật

và do vậy di sản liên quan đến di chúc đó sẽ được giải quyết

theo pháp luật. Tuy nhiên, một di chúc bất hợp pháp có thể

khơng có hiệu lực pháp luật ở nhiều mức độ khác nhau. Di

chúc bất hợp pháp có thể bị coi là vơ hiệu tồn bộ nhưng cóthể chỉ vơ hiệu một phần nên khi giải quyết một tranh chấp

về thừa kế có hên quan đến di chúc phải căn cứ vào từng

trường hợp cụ thể, vào các điều kiện mà di chúc đã vi phạm

để xác định mức độ vô hiệu của di chúc.

Một di chúc sẽ bị coi là vơ hiệu tồn bộ nếu di chúc đó do

người khơng cịn minh mẫn, sáng suốt lập ra hoặc di chúc đókhơng phải là ý chí tự nguyện đích thực của người lập di chúcdo bị người khác cưỡng ép, ngăn cần hoặc lừa dối. Di chúccũng bị coi là vơ hiệu tồn bộ nếu do người dưới mười lăm

tuổi lập ra hoặc do người đủ mười lăm tuổi lập ra nhưng

khơng có sự đồng ý của cha, mẹ hoặc người giám hộ. Ngoài

ra, một di chúc dù không vi phạm các điều kiện trên vẫn bị

coi là vơ hiệu tồn bộ nếu tồn bộ nội dung của di chúc đótrái pháp luật, trái đạo đức xã hội. Khi xác định di chúc

khơng có hiệu lực tồn bộ thì vụ thừa kế sẽ hồn toàn được

được giải quyết theo pháp luật, nghĩa là toàn bộ di sản màngười lập di chúc để lại sẽ được chia cho những người thừa kế

theo pháp luật của họ. |

Một di chúc đã đáp ứng được các điều kiện về năng lựchành vi, tính tự nguyện, độ minh mẫn sáng suốt của ngườilập di chúc nhưng nội dung của nó lại có một phần khơng hợp

pháp hoặc trái đạo đức xã hội và phần khơng hợp pháp đó

khơng ảnh hưởng đến hiệu lực đối với phần còn lại của dichúc thì di chúc đó bị coi là vơ hiệu một phần. Khi giải quyếttranh chấp về thừa kế trong các trường hợp này thì phần di

sản có liên quan đến phần di chúc khơng có hiệu lực pháp

</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">

luật sẽ áp dụng thừa kế theo pháp luật để chia cho nhữngngười thừa kế theo luật của người để lại đi sản, phần di sảnliên quan đến phần di chúc có hiệu lực pháp luật sẽ được chia

<small>cho những người thừa kế được xác định trong di chúc. Ví dụ:</small>

Ơng N. có ba người thừa kế theo pháp luật ở hàng thừa kế

thứ nhất là M, P, K (cả ba người này khơng có ai thuộc diệnngười thừa kế được xác định theo Điều 669). Trước khi chết,ông N. lập đi chúc và định đoạt di sản của ông (trị giá 124triệu đồng) cho người bạn thân của mình là H. hưởng số disản trị giá 12 triệu đồng. Cho S. hưởng số di san trị giá 12

triệu đồng với điều kiện S. phải gây thương tích nặng cho Q.

Số di sản cịn lại cho P và K mỗi người 1/2. Khi giải quyết vụthừa kế này, Tồ án xác định việc ơng N. định đoạt cho 6.phần di sản trị giá 12 triệu đồng là bất hợp pháp. Vì vậy, vừa

căn cứ vào di chúc, vừa áp dụng thừa kế theo pháp luật để

chia số di san của ông N. cho những người thừa kế của ơng.

Theo đó, phần di sản trị giá 112 triệu đồng là phần di sản

liên quan đến phần di chúc có hiệu lực được chia theo sự địnhđoạt của ơng N trong di chúc như sau: ông H. được hưởng: 12triệu đồng, P. được hưởng 50 triệu đồng, K được hưởng 50

triệu đồng. Phần di sản trị giá 12 triệu đồng mà ông N. địnhđoạt một cách bất hợp pháp cho Q. sẽ được chia cho nhữngngười thừa kế theo luật của ông N. như sau: ba người thừa

kế theo luật của ơng N. là M, P, K trong đó mỗi người đượcmột phần bằng nhau là: 12 triệu: 3 = 4 triệu đồng.

1.3. Ap dụng thừa kế theo pháp luật trong trường

hợp người thừa ké theo di chúc chết trước hoặc chết

cùng thời điểm uới người lập di chúc, cơ quan, tổ chức

được hưởng di san theo di chúc khơng cịn o thoi

điểm mở thừa bế

Theo quy định tại Điều 635 Bộ luật Dân sự 2005 (đãđược xét đến tương đối kỹ ở phần trước) thì người thừa kế

<small>235</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">

nếu là cá nhân phải là người còn sống và thời điểm mở thừa

kế, cơ quan, tổ chức được thừa kế theo di chúc phải còn tồn

tại vào thời điểm mở thừa kế. Vì vậy, khi giải quyết một vụthừa kế mà người chết có để lại một di chúc hợp pháp cần

phải xác định cá nhân, tổ chức được chỉ định làm người thừa

kế có cịn sống, còn tồn tại vào thời điểm người để lại đi sản

chết hay khơng. Theo đó, nếu tất cả cá nhân được thừa kế

theo đi chúc đều đã chết trước hoặc chết cùng thời điểm với

người để lại di sản, các cơ quan, tổ chức được hưởng di sản

theo di chúc cũng đều khơng cịn tổn tại vào thời điểm mởthừa kế thì tồn bộ di sản của người chết để lại được chia cho

những người thừa kế theo pháp luật của người đó. Nếu chỉ cómột hoặc một số người thừa kế theo di chúc chết trước hoặc

chết cùng thời điểm với người để lại di sản, một hoặc một sốcơ quan, tổ chức khơng cịn vào thời điểm mở thừa kế thì chỉ

áp dụng thừa kế theo luật đối với phần di sản liên quan đến

người thừa kế theo di chúc đã chết, cơ quan, tổ chức khơng

cịn vào thời điểm mở thừa kế. Những người còn sống, các cd

quan, tổ chức còn tổn tại vẫn được hưởng phần di sản đãđược người để lại di sản định đoạt trong di chúc. Tuy nhiên,

trong những trường hợp này cần lưu ý ba vấn đề sau:

Thứ nhất, nếu cá nhân là người được chỉ định trong di

chúc khơng cịn vào thời điểm mở thừa kế mà đã có con thì

con của họ khơng được thế vị phần di sản mà nếu còn sống,họ sẽ được hưởng theo di chúc nhưng sẽ được thế vị phần disản mà nếu còn sống, họ sẽ được hưởng theo pháp luật. Ví

dụ: Ơng A có ba người thừa kế theo pháp luật là ba người

con: B, C, D. Anh B có con là H. Trước khi chết ông A lập di

chúc và định đoạt số di sản của mình trị giá 120 triệu đồng

như sau: Cho B 90 triệu, cho D. 30 triệu. Ông A và anh B

chết cùng thời điểm trong một vụ tai nạn giao thông. Vụ

thừa kế trên sẽ được giải quyết như sau: Theo di chúc, D.được 30 triệu. Số di sản trị giá 90 triệu mà ông A cho B

</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">

hưởng theo di chúc sẽ được chia theo luật (H. không được thếvị số di sản này) nhưng được thé vị B để hưởng phần di sảnđược chia theo pháp luật. Vì vậy, 90 triệu này được chia đềucho ba người: H. (thế vị của B), C, D. và mỗi người được 30triệu đồng.

Thứ hai, Nếu cá nhân là người thừa kế theo di chúc nhưng

chưa sinh ra vào thời điểm người lập di chúc chết và cũng chưa

sinh ra vào thời điểm vụ thừa kế được giải quyết thì phần disản của cá nhân đó được dành ra và giao cho một người quản lýđể khi người đó sinh ra nếu cịn sống sẽ được hưởng.

Thứ ba, các cơ quan, tổ chức chỉ bị coi là khơng cịn nếu

vào thời điểm mở thừa kế các cơ quan, tổ chức đó đã chấm

dứt sự tổn tại của mình một cách tuyệt đối do giải thể hoặc

tuyên bố phá sản. Vì vậy, nếu cơ quan, tổ chức được hưởng di

sản thừa kế theo di chúc bị chấm dứt do sáp nhập, hợp nhất

hoặc chia, tách thì cơ quan, tổ chức mới do sáp nhập, hợp

nhất, chia, tách được kế quyền thừa kế theo di chúc của cơ

quan, tổ chức cũ (vì các Điều 94, 95, 96, 97 của Bộ luật Dânsự 2005 đều quy định rằng khi hợp nhất, sáp nhập, chia tách

pháp nhân thì các quyền và nghĩa vụ của pháp nhân trước đó

được chuyển giao cho pháp nhân mới). Vì vậy, phần di sảnmà cơ quan, tổ chức cũ được hưởng theo di chúc vẫn đượcdịch chuyển theo di chúc cho các cơ quan, tổ chức mới được

thành lập do hợp nhất, sáp nhập, chia tách.

1.4. Ap dụng thừa bế theo luật đối uới phần di sản

<small>không được dinh đoạt trong di chúc</small>

Trong trường hợp người lập di chúc chỉ mới định đoạtmột phần di sản thì phần di san này được chia theo di chúc.

Phần di sản chưa được định đoạt trong di chúc sẽ áp dụng

thừa kế theo pháp luật để dịch chuyển cho những người thừakế theo luật của người để lại di sản. Những người trong cùng

<small>237</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32">

một hàng thừa kế sẽ được hưởng ngang nhau đối với phần di

sản nay. Vi vậy, một người dù đã được hưởng di sản theo di

chúc vẫn được hưởng một phần trong phần di sẵn chưa được

định đoạt nếu họ là người đứng trong hàng thừa kế đượchưởng di sản theo pháp luật, trừ trường hợp người lập di’chúc đã nói rõ họ chỉ được hưởng phần di sản theo di chúc. Ví

dụ: Khi chết ơng A để lại khối di sản trị giá 120 triệu đồng.Ơng A có ba người thừa kế ở hàng thứ nhất là B, C, D. Trước

khi chết, ông A lập di chúc cho B hưởng một phần di sản trịgiá 30 triệu đồng. Phần di sản cịn lại trị giá 90 triệu đồng

khơng được định đoạt cho ai. Vụ thừa kế này được giải quyết

như sau: Theo di chúc, B được hưởng 30 triệu đồng. Theo

pháp luật, B, C, D, mỗi người được hưởng là: 90 triệu đồng: 3

= 30 triệu đồng.

1.5. Ấp dụng thừa ké theo luột trong trường hop

người thừa kế theo di chúc không được quyền hưởng

di sản

Người thừa kế theo di chúc khơng có quyền hưởng di sản

là những người được người để lại di sản chỉ định làm người

thừa kế theo di chúc nhưng chính họ lại có một trong các hànhvi được quy định tại Khoản 1, Điều 643 Bộ luật Dân sự 2005nên đã bị pháp luật tước bỏ quyền hưởng di sản. Nếu toàn bộnhững người thừa kế theo di chúc đều khơng có quyền hưởngđi sản thì áp dụng thừa kế theo pháp luật đối với toàn bộ di

sản mà người lập di chúc đã để lại. Nếu chỉ có một hoặc một số

người thừa kế theo di chúc khơng có quyền hưởng di sản thìchỉ áp dụng thừa kế theo pháp luật đối với phần di sẵn liênquan đến người đó. Nhưng người thừa kế theo di chúc khơng

có các hành vi nói trên được hưởng phần di sản mà người để

lại di sản đã xác định trong di chúc. Ngoài ra, nếu người thừakế theo di chúc đồng thời là người thừa kế theo luật của người

để lại di sản còn được cùng với những người thừa kế theo luật

</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">

khác hưởng phần di sẵn mà những người thừa kế theo di chúcnhưng khơng có quyền hưởng.

1.6. Ap dụng thừa kế theo luật trong trường hop

người thừa bế theo di chúc từ chốt quyền hưởng di sảnNếu người thừa kế theo di chúc thực hiện việc từ chốinhận di sản đúng với quy định tại Điều 642 Bộ luật Dân sự2005 thì phần di sản liên quan đến họ sẽ được áp dụng thừakế theo pháp luật. Nếu người thừa kế theo di chúc khôngđồng thời là người thừa kế theo pháp luật thì việc họ từ chối

nhận di sản luôn chỉ là từ chối hưởng di sản theo di chúc.Nếu người thừa kế theo di chúc đồng thời là người thừa kếtheo pháp luật của người lập di chúc thì cần phải xác định họ

từ chối tồn bộ (cả theo di chúc, cả theo pháp luật) hay chỉ từchối nhận di sản theo di chúc. Vì vậy, đối với những ngườinày nếu họ chỉ từ chối quyền hưởng di san theo di chúc thì họvẫn là người thừa kế theo pháp luật của người lập di chúcnên phần di sản được giải quyết theo pháp luật vẫn phải chiacho họ. Nếu họ đã từ chối toàn bộ quyền hưởng di sản thìphần di sản đó được chia cho những người thừa kế theo pháp

luật khác của người để lại di sản.

Trong trường hợp toàn bộ những người thừa kế theo dichúc từ chối quyền hưởng di sản thì áp dụng thừa kế theo

pháp luật đối với toàn bộ di sản mà người lập di chúc đã để

lại. Theo đó toàn bộ di sản thừa kế được chia cho người thừakế theo pháp luật của người lập di chúc. Nếu chỉ có một hoặcmột số người thừa kế theo di chúc từ chối quyền hưởng di sản

thì chỉ áp dụng thừa kế theo pháp luật đối với phần di sảnliên quan đến họ.

2. Diện và hàng thừa kế theo pháp luật2.1. Diện thừa kế theo phúp luật

Như đã nói, thừa kế theo pháp luật là trình tự dịch

<small>239</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34">

chuyển di sản thừa kế của người chết để lại theo hàng thừa

kế, điều kiện, trình tự thừa kế theo quy định của pháp luật.Nghĩa là theo trình tự này thì ai được hưởng di sản của người

chết để lại, hưởng như thế nào, bao nhiêu, hoàn toàn do pháp

luật xác định. Tuy nhiên, khi xác định phạm vi những người

được hưởng di sản của người chết. để lại, pháp luật về thừa kế

của bất kỳ quốc gia nào cũng phải dựa trên ý chí mang tính

truyền thống của người để lại di sản là nếu họ chết tài sảncòn lại của họ (di sản thừa kế) phải được dịch chuyển cho

những người thân thích của họ. Mặt khác, pháp luật về thừakế còn phụ thuộc vào chế độ sở hữu, điều kiện kinh tế, xã hộicủa mỗi một quốc gia và theo từng thời kỳ lịch sử nhất định.

Vì thế, có thể nói rằng thừa kế theo pháp luật là việc phápluật phỏng đốn ý chí của người để lại di sản để theo đó xácđịnh việc dịch chuyển di sản của người đó cho những ai trên

cơ sở dựa vào điều kiện kinh tế xã hội của nhà nước trongtừng thời kỳ nhất định.

Diện thừa kế theo pháp luật là phạm vi những người

được pháp luật xác định nằm trong diện có thể được hưởng di

sản của người chết theo quy định của pháp luật. Nhữngngười được pháp luật xác định nằm trong diện thừa kế phải

là người thân thích của người để lại di sản thừa kế được xác

định trên cơ sở quan hệ hôn nhân, gia đình giữa họ với người

để lại đi sản.

O Việt Nam trong thời kỳ phong kiến, dựa theo khuôn

mẫu gia đình “tam, tứ đại đồng gia” nên diện những ngườithừa kế theo pháp luật được xác định hết sức rộng rãi, baogồm tồn bộ những người thích thuộc của người chết màkhông giới hạn theo mức độ gần gũi. Theo xác định của cácbộ dân luật thời phong kiến thì tất cả người thân thuộc củangười chết dù xa hay gần, dù thân hay sơ đều thuộc diện

</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35">

thừa kế theo luật của người đó. Khi khơng cịn ai bên nội tộcthì di sản của người đó được dịch chuyển cho bên ngoại.

Sau khi giành được chính quyền, nước Việt Nam Dânchủ cộng hoà được thành lập, bằng nhiều văn bản pháp luật,ở mỗi một thời kỳ lịch sử, nhà nước ta đã xác định phạm vìnhững người thuộc diện thừa kế theo pháp luật khác nhau.

<small>Theo Thông tư 1742 do Bộ Tư pháp ban hành ngày 19 tháng</small>

8 năm 1956 (sau đây gọi tắt là Thông tư 1742) thì diệnnhững người thừa kế theo pháp luật bao gồm: vợ, chồng, các

con dé, các con nuôi, các cháu, các chat, cha, mẹ của người dé

<small>lại di sản và những người thừa kế khác. Thông tư này không</small>

xác định rõ những người thừa kế khác là những ai. Vì vậy,

<small>trong thời kỳ này, anh, chị, ơng bà, các cụ không thuộc diện</small>

những người thừa kế theo luật của người chết.

Những tranh chấp về thừa kế phát sinh trong thực tiễncho thấy diện những người thừa kế theo pháp luật được xácđịnh theo Thông tư 1742 chưa được thoả đáng. Vì vậy, Thơngtư 594 đã xác định diện thừa kế theo pháp luật với một phạmvi rộng hơn, bao gầm: Vợ goa (ca vợ cả, vợ 1é); con đẻ và connuôi; bô đẻ, mẹ đẻ, bố nuôi, mẹ nuôi, ông bà nội, ông bàngoại; anh, chị, em ruột, anh, chị, em nuôi của người để lại disản. Như vậy, so với Thơng tư 1742 thì diện những ngườithừa kế theo pháp luật được Thông tư 594 xác định thêm là:anh, chị, em ruột, anh, chị, em nuôi; ông bà nội, ngoại củangười chết nhưng lại loại bỏ cháu, chắt ra khỏi diện thừa kế.Diện thừa kế theo pháp luật được xác định trong thông tưnày tương đối phù hợp với thực tiễn về thừa kế của nước tatrong giai đoạn 1968 - 1981 bởi lẽ phần nào nó đã phan ánhđược tính chất đặc biệt của quan hệ thừa kế là quan hệ đượchình thành giữa những người có mối quan hệ hơn nhân, gia

đình và có yếu tố tình cảm gắn chặt giữa họ. Tuy nhiên, việc

xác định anh, chị, em nuôi cũng thuộc diện thừa kế theo

<small>16-TKế QĐCPL 241</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36">

pháp luật là một vấn đề cịn bất cập vì theo Luật Hơn nhân

<small>và Gia đình lúc đó thì quan hệ giữa anh, chị, em ni khơng</small>

thuộc quan hệ gia đình. Việc loại bỏ cháu ra khỏi diện thừakế theo pháp luật trong khi vẫn đưa ông, bà thuộc diện thừa

kế là một quy định thiếu tính bình đẳng trong mối quan hệ

<small>giữa ơng bà và chau.</small>

Thông tư 81 đã xác định rằng cơ sở pháp lý của việc thừakế theo luật là quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống vàquan hệ nuôi dưỡng. Vì vậy, diện những người thừa kế theoluật gồm những người thân gần gũi của người chết theo ba

quan hệ này. Cụ thể bao gồm: Vợ goá (vợ cả goá, vợ lẽ goá)

hoặc chồng goa, các con đẻ và con nuôi; bố đẻ, mẹ đẻ hoặc bố

<small>nuôi, mẹ nuôi; ông nội, bà nội và ông ngoại, bà ngoại; anh,chị, em ruột; anh, chị, em cùng cha khác mẹ hoặc cùng mẹ</small>

<small>khác cha; anh, chị, em ni. Ngồi ra, Thơng tư này còn xác</small>định “người thừa tự” cũng là người thừa kế theo pháp luậtcủa người lập tự như con thừa kế của cha mẹ, cháu được thừakế thế vị di sẵn của ông bà nếu cha, mẹ cháu chết trước ôngbà. Như vậy, diện thừa kế theo pháp luật trong Thông tư 81được mở rộng hơn nhiều so với các văn bản pháp luật trướcđó. Theo Thơng tư này thì diện thừa kế theo pháp luật đượcxác định dựa vào ba mối quan hệ giữa người thừa kế với

người để lại di sản: Quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống,

<small>quan hệ ni dưỡng.</small>

- Đối với người có quan hệ hôn nhân với người để lại di

sản, Thông tư 81 xác định họ sẽ thuộc diện thừa kế theopháp luật của nhau nếu “đến khi mở thừa kể” giữa họ vẫnđang tổn tại quan hệ hôn nhân hợp pháp hoặc là hơn nhân

thực tế được Tồ án thừa nhận. Bao gồm: vợ goá (vợ cả goá,

vợ lẽ goá), chồng goá. Chúng ta đều biết, chế độ hôn nhân

_ trong thời phong kiến ở nước ta cho phép một người đàn ông

có nhiều vợ, trong những năm mà Thông tư 81 được ban

</div><span class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37">

hành và áp dụng thì hậu quả của chế độ hơn nhân cũ cịn tồn

<small>dong tương đơi nhiều vấn dé. Vì thé việc Thơng tư này xácđịnh cả vợ ca, vợ lẽ thuộc diện thừa kế theo pháp luật của</small>người chồng khi người đó chết là một điều dễ hiểu.

<small>- Đối với những người có quan hệ huyết thông với người</small>để lại di san, Thông tư 81 xác định theo ba nhóm sau đây:

<small>Nhóm thứ nhất: Những người có quan hệ huyết thơngvới người chết thuộc trực hệ (quan hệ huyết thống ngành đọc)</small>

bề trên (tôn thuộc) bao gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà

ngoại; cha đẻ, mẹ đẻ, của người để lại di sản. Như vậy, diện

<small>thừa kế theo luật được Thông tư này xác định theo tôn thuộc</small>

trực hệ chỉ dừng lại ở ơng bà (đời thứ ba) mà khơng có bậc các

<small>cụ (đời thứ tư).</small>

Nhóm thứ hai: Những người có quan hệ huyết thống với

người để lại di sản thuộc trực hệ bề dưới (ty thuộc) của ngườiđể lại đi sản bao gồm: các con đẻ (bao gồm cả con trong giá thú

và con ngoài giá thú), các cháu nội, các cháu ngoại của ngườichết. Tương ứng với quan hệ tôn thuộc, diện thừa kế theo luậtđược xác định theo ty thuộc trực hệ cũng chỉ dừng lại ở hàng

cháu (đời thứ ba) mà khơng có hàng chat (đời thứ tư).

Nhóm thứ ba: Những người có quan hệ huyết thống với

người để lại di sản thuộc bàng hệ (quan hệ huyết thống

ngành ngang) gồm có anh, chị, em ruột; anh, chị, em cùng

cha khác mẹ hoặc cùng mẹ khác cha của người để lại di sản.

- Đối với những người có quan hệ nuôi dưỡng với người

để lại đi sản, Thông tư 81 xác định theo hai nhóm sau đây:

Nhóm thứ nhất, gồm có bế ni, mẹ ni, con đẻ, conni của người chết. Theo tỉnh thần của Thông tư này thì khimột người đang làm con ni của người khác chỉ thuộc diệnthừa kế theo pháp luật của cha nuôi, mẹ ni đó mà khơngthuộc diện thừa kế theo luật của cha mẹ đẻ, cũng như cha mẹ

<small>243</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38">

<small>đẻ cũng không thuộc diện thừa kế theo pháp luật của người</small>

<small>con đang làm con ni cho người khác.</small>

<small>Nhóm thứ hai, anh nuôi, chị nuôi, em nuôi của người</small>

chết. Trước hết phải hiểu rằng, anh, chị, em nuôi được xácđịnh trong Thông tư 81 không phải là những người mà giữa

<small>họ có quan hệ ni dưỡng hay họ nhận kết nghĩa anh - em,chị - em với nhau mà họ là những người được coi là nhữngthành viên trong một gia đình nhưng khơng cùng cha me dévì một người là con ruột, một người là con nuôi của cha mẹ</small>

trong gia đình đó. Chẳng hạn, vợ chồng ơng A và bà B có con

dé là anh C, sau đó nhận anh D làm con ni thì C và D.được gọi là anh - em ni. Vì vậy, khi ông A, bà B chết thì cảC và D đều là con nên đều thuộc điện thừa kế theo luật củaông A, bà B Khi C chết, D. thuộc diện thừa kế theo luật của

<small>C và ngược lại.</small>

Trong những năm khởi đầu thực hiện chủ trương đổi mới

nền kinh tế, nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản pháp

luật để thừa nhận và bảo đảm cho nhiều thành phần kinh tếcùng tồn tại và phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Bên cạnh các hình thức sở hữu cơ bản, chủ đạo như sở hữu

nhà nước, sở hữu tập thể thì các hình thức sở hữu khác nhưsở hữu cá thể, sở hữu tiểu chủ, sở hữu tư bản tư nhân cũng

được nhà nước công nhận và đảm bao để tồn tại và phát

triển. Theo đó, các văn bản pháp luật về thừa kế cũng đượccủng cố nhằm dam bảo sự 6n định và bền vững mối quan hệgiữa các thành viên trong gia đình, đảm bảo quyền tư hữucủa cá nhân đối với tài sản của họ. Đặc biệt nhằm bảo đảmquyền để lại thừa kế cũng như quyền hưởng di sẵn của ngườichết để lại giữa những người là thành viên trong một gia

đình, Hội đồng nhà nước (nay là Uy ban Thường vụ Quốc hộn)

của nước ta đã kịp thời ban hành Pháp lệnh Thừa kế vào<small>ngày 30 tháng 8 năm 1990.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 39</span><div class="page_container" data-page="39">

<small>Diện thừa kế theo pháp luật mà Pháp lệnh Thừa kế xác</small>

định được mở rộng hơn so với Thông tư 81. Đó là đối với

những người có quan hệ huyết thống với người để lại đi sản

theo trực hệ đã được xác định ở phạm vi bôn đời (tôn thuộc ởbậc cụ, ty thuộc ở hàng chất). Đối với những người có quan hệ

huyết thống với người để lại di sản theo bàng hệ (ngành

<small>ngang) đã được mở rộng sang hai đời (chú ruột, bác ruột, cơ</small>

ruột, dì ruột, cậu ruột của người chết là cháu và cháu củangười chết là chú ruột, bác ruột, cơ ruột, cậu ruột, dì ruột). Tuynhiên, Pháp lệnh Thừa kế không thừa nhận anh, chi, em nicó quan hệ thừa kế đối với nhau.

Khi Bộ luật Dân sự 1995 của nhà nước ta được ban hànhthì các vấn đề về Thừa kế nói chung về cơ bản được kế thừatừ quy định của Pháp lệnh thừa kế. Vì vậy, diện những ngườiđược hưởng di sản của người chết theo pháp luật được xác

định trong Bộ luật này khơng có gì thay đối so với Pháp lệnh

Thừa kế. Các văn bản pháp luật về thừa kế trước đây (chẳng

hạn như Thông tư 594, Thông tư 81) đã trực tiếp sử dung

thuật ngữ “diện thừa kế” để xác định phạm vi những ngườicó thể được hưởng thừa kế theo pháp luật đối với di sẵn củangười chết. để lại. Khác với các thơng tư đó, Bộ luật Dân sự

1995 không quy định trực tiếp về diện thừa kế. Tuy vậy, dựavào những người thuộc các hàng thừa kế theo pháp luật vànhững người được thừa kế thế vị mà Bộ luật này đã xác định

thì những người nằm trong diện có thể được hưởng thừa kế

theo pháp luật bao gồm những người sau đây: vợ, chồng; chađẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi; con đẻ, con nuôi của người chết(thuộc hàng thừa kế thứ nhất); ông nội, bà nội, ông ngoại, bàngoại; anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết (thuộc hàngthừa kế thứ hai); cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột,

chú ruột, cơ ruột, cậu ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột

của người chết mà người chết là chú ruột, bác ruột, cơ ruột,

<small>245</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 40</span><div class="page_container" data-page="40">

cậu ruột, đì ruột (thuộc hàng thừa kế thứ ba); cháu ruột của

<small>người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà</small>ngoại; chắt của người chết mà người chết là cụ nội; cụ ngoại(thuộc người thừa kế thế vi).

Rhi Bộ luật Dân sự 1995 được sửa đổi bằng Bộ luật Dânsự 2005 thì phạm vi những người có thể được hưởng thừa kế

theo pháp luật đối với di sản thừa kế của người chết để lại về

cơ bản không thay đổi. Tuy nhiên, Bộ luật Dân sự 2005 đã

xác định thêm: Cháu vừa là người thừa kế theo pháp luật

của ông, bà ở hàng thừa kế thứ hai vừa là người thừa kế thế

vị của ông, bà khi cha, mẹ cháu chết trước hoặc chết cùng

thời điểm với ông, bà. Chắt vừa là người thừa kế theo pháp

luật của cụ ở hàng thừa kế thứ ba vừa là người thừa kế thế vịkhi ông, bà cha, mẹ chết trước cụ.

2.2. Hàng thừa ké theo pháp luật

Như chúng ta đã biết, di sản của người chết phải được

dịch chuyển cho những người thân thích của người đó. Tuy

nhiên, trong số những người thân thích đó thì mức độ gầngũi, thân thích của mỗi người đối với người chết là khácnhau. Theo trình tự hưởng di sản thừa kế thì người nào cómức độ gần gũi nhất với người chết sẽ được hưởng di sản mà

người đó để lại, nhiều người có cùng một mức độ gần gũi với

người chết sẽ cùng được hưởng di sản của người đó. Khi

khơng có người gần gũi nhất thì những người có mức độ gần

gũi tiếp theo sẽ được hưởng di sản của người chết để lại. Như

vậy, không phải tất cả những người trong diện những người

thừa kế theo pháp luật đều được thừa kế cùng một lúc. Để

những người thuộc diện thừa kế theo pháp luật hưởng di sản

theo trình tự trước, sau căn cứ vào mức độ gần gũi giữa họ

với người chết, pháp luật về thừa kế đã xếp những người đótheo từng nhóm khác nhau. Mỗi một nhóm đó được gọi là mộthàng thừa kế theo pháp luật.

</div>

×