Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (58.78 MB, 102 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">
MỤC LỤC
Phần mở đầu
Chương 1:
Một số van dé chung về ly hôn ˆ
1.2- Khái niệm và bản chất pháp lý của ly hôn
1.3-Thue trạng và các nguyên nhân ly hôn ở Việt nam `
2.3- Hậu qua pháp lý của ly hôn
- 2.4- Ly hôn trong một số trường hợp đặc biệt
Chương 3:
Thực tiên giải quyết ly hơn của Tịa án nhân dân và những
3./- Thực tiên giải quyết ly hôn của Tịa án nhân dân
3.2- Nhiing kiến nghị nhầm hồn thiện chế định ly hônPhần kết luận
Trang |
O7
</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">I1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài.
Gia đình 1a tế bào của xã hội, là tổ ấm của mỗi người, là môi trường quantrọng giáo duc nếp sống và hình thành nhân cách con người mới, góp phần vào sự
Cùng với quan điểm của Triết học và chính trị học, Luật học nghiên cứuvấn để hơn nhân và gia đình như một thực tế xã hội, là cơ sở, nền tảng của sựnghiệp phát triển xã hội văn minh ma trong đó, lợi ích của mỗi cá nhân va lợi ích
của tồn xã hội kết hợp hài hòa và chặt chẽ.
Với vai trò là cơ sở và nên tang của sự phát triển xã hội, với vị trí vừa làđộng lực, vừa là mục tiêu của Cách mạng Xã hội chủ nghĩa, góp phần giải phóng
phụ nữ, thực hiện đân chủ và bình đẳng xã hội, vì mục tiêu đân giầu, nước manh.
xã hội cơng bang, văn minh, việc nghiên cứu vấn để hôn nhân và gia đình dang
<small>được đặt ra như một tất yếu trong giai đoạn Cách mạng hiện nay và được nhiều</small>
<small>ngành khoa học xã hội quan tâm.</small>
Quan hệ gia đình là tổng hòa của các quan hệ nhân thân và quan liệ tài sản,
các quan hệ nay có sự ràng buộc, lệ thuộc lẫn nhau và tác động qua lại một cáchhài hịa. Trong khung cảnh một gia đình thực sự bền vững và hạnh phúc, trone đó
mỗi con người đều tìm thấy và thỏa mãn nhu cầu tình cảm của mình mà cơ sở vật
chất cho sự thỏa mãn đó là tài sản và ngược lại, quan hệ tài sản giữa vợ chồng lại
bất nguồn từ quan hệ nhân thân giữa hai con người đó với đặc trưng là sự phat
sinh các quyền và nghĩa vụ khi họ kết hôn.
Thực trạng của quan hệ hơn nhân và gia đình khơng chỉ phát triển theochiều hướng thuận như ý tưởng và mong muốn của chúng ta, sự tan vỡ của những
£* Hồ Chi Minh Toàn lập, lập 3- NXBST ; Hà nội - 1988, T.135.
</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">gia đình cũng là hiện tượng thực tế của xã hội đặt ra một chiều hướng ngược lại
của con trẻ vì khơng đủ điều kiện để đảm bảo về đời sống tỉnh thần và vật chất cho
Việc thiết lập gia đình bất đầu bằng hơn nhân và hơn nhân đã trở thànhhiện tượng xã hội mang tính tất yếu khách quan. Nếu kết hôn là hiện tượng xã hộibình thường của quan hệ hơn nhân thì ly hơn là mặt trái của quan hệ hôn nhân,
xung đột trong quan hệ hôn nhân khi đã thực sự tan vỡ, đây cũng là biện pháp
Hau quả của ly hôn không chỉ là việc chấm dứt quan hệ nhân thân, tình
cam giữa hai con người (vợ và chồng) mà còn làm phát sinh hàng loạt những vấndé về tài sẵn, về con cái, về cấp đưỡng,... tất cả những vấn dé đó đều có tác động
và phần nào ảnh hưởng đến sự ổn định xã hội; đo đó, nếu khơng có sự điều chỉnh
Hơn nhân và gia đình, thì tình trạng ly hôn hiện nay sé ảnh hưởng lớn đến sự ồn
định và phát triển chung của xã hội.
Ly hôn - là sự ly tán gia đình, vợ, chồng mỗi người mỗi ngả, con cái chỉ có
tỉnh thần, khó khăn về kinh tế mà chủ yếu là phụ nữ và trẻ em.
Thành viên trong gia đình chịu nhiều bất hạnh đo ly hôn gây ra vẫn là concái, dac biệt là con chưa thành niên, bởi vì chúng đang cần sự chăm sóc đầy du
</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">thường, nhiều đứa trẻ đã rơi vào tình trạng lang thang, cơ nhỡ, thậm chí có trường
Ly hôn cũng là việc chấm đứt một đơn vị kính tế gia đình vì nó kéo theo sự
một cách chi ly với nhau và nhiều khi trở thành tranh chấp về tài sản.
khi các quan hệ xã hội nói chung, quan hệ hơn nhân và gia đình nói riêng có
nhiều biến đổi, đặc biệt là tinh trạng ly hôn ngày mot gia tăng... dang thu hút sựquan tâm của tồn xã hội mà trước hết địi hỏi các ngành khoa học liên quan trong
đó có ngành khoa học luật phải nghiên cứu.
Ly hơn khơng cịn là đề tài mới mẻ, xong ly hôn là vấn đề phức tạp địi hỏiphải có q trình nghiên cứu lâu dai và sâu rộng về nhiều mặt, đặc biệt là chế định
pháp lý về ly hôn. Dé chế định về ly hôn phù hợp với thực tiễn cuộc sống trongdiều kiện kinh tế, xã hội hiện nay và thống nhất với các quy dịnh khác của phápluật, Nhà nước ta đang tiến hành soạn thảo Luật Hơn nhân va Gia đình (sửa đổi);tất cả những vấn dé được phân tích trên đây nói lên tính cấp thiết của việc nghiên
cứu chế định ly hôn ở Việt nam hiện nay.
</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">2. Tình hình nghiên cứu đề tài.
cứu một cách sâu sắc và có hệ thống về đề tài này. Trong các tạp chí luật học cững
3. Muc đích và phạm vi nghiên ctu đề tài.
Mục đích của việc nghiên cứu dé tài nay là làm rõ được bức tranh toàn
cảnh của pháp luật Việt nam về chế định ly hôn từ năm 1945 đến nay. Trên cơ sởđó làm rõ khái niệm và bản chất của ly hơn. Bằng việc phân tích các quy định của
Luật Hơn nhân va gia đình năm 1986 và nghiên cứu thực tiễn giải quyết ly hôncủa TAND trong thời gian qua, sẽ có những kiến nghị cố cơ sở lý luận và thực tiễnnhằm hoàn thiện chế định ly hơn.
Với mục đích đặt ra như vậy, phạm vi nghiên cứu của luận án là:
- Lam rõ một số vấn dé chung về ly hôn, như sự phát triển của chế định ly
hôn trong pháp luật Việt nam; bản chất pháp lý của ly hôn; thực trạng vàcác nguyên nhân ly hôn ở Việt nam; thủ tục giải quyết ly hôn tại TAND.- Nghiên cứu những quy định của Luật Hơn nhân và gia đình năm 1986 về
ly hơn;
- Nghiên cứu thực tiễn giải quyết ly hơn của Tịa án nhân dân và trên cơ sở
đó đưa ra những kiến nghị hồn thiện chế định ly hơn.4. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu.
</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">Cơ sở phương pháp luận của việc nghiên cứu đề tài là đựa trên phép biện
5. Điểm mới va ý nghĩa thực tiên của luận án.
Luận án về dé tài “Ché định ly hôn theo quy định của pháp luật Việt nam”được thể hiện theo hệ thống nhận thức một cách khoa học và khách quan hiện
tượng ly hôn và chế định ly hôn theo pháp luật Việt nam. Bên cạnh đó phát hiện
những vấn để mới nảy sinh trong điều kiện kinh tế, xã hội hiện nay cửa công cuộcđổi mới đất nước có tác động đến việc ly hơn và nhhững địi hỏi phải có sự diểu
chỉnh của pháp luật trong lĩnh vực hơn nhân gia đình nói chưng và ly hơn nói
<small>hé gia đình, xã hội.</small>
Dưới góc độ lý luận của khoa học pháp lý trên cơ sở đúc kết từ kinhnghiệm thực tiễn, luận án đã đưa ra những kiến nghị có cơ sở lý luận và thực tiễnviệc bảo vệ thành cơng luận án có thể là tài liệu tham khảo trong việc xây dựngluật hôn nhân và gia đình mới. Luận án có thé gop những cứ liệu có cơ sơ khoa
học lịch sử về truyền thống và tập quán của dân tộc Việt nam, hình thành nhữngqui phạm pháp luật Hơn nhân và Gia đình nhằm kịp thời điểu chỉnh những quan
hệ xã hôi đang nảy sinh để các cơ quan và cá nhân quan tâm đến vấn đề này tiếp
tục nghiên cứu làm sáng tỏ cả về lý luận và thực tiễn của van dé đã được nghiên
<small>cứu trong luận án.</small>
Mat khác, luận án cũng có thé 14 tài liệu cấn được tham khảo trong việcgiang day ở một số cấp học, làm cho ngành luật hơn nhân và gia đình von đã
<small>phong phú, càng phone phú hơn, và cũng dong gop kinh nghiệm trong quá trình</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">giải quyết các loại án kiện về hơn nhân va gia đình để cơ quan tiến hành tố tụng
tham khảo trong quá trình xét xử , dam bảo sự thống nhất và đáp ứng nhu cầu của
<small>xã hội.</small>
6. Cơ câu của luận án.
Cơ cấu của luận án được quyết định bởi mục dich và phạm vi nghiên cứu dé tài,
theo đó ngồi phần mở dầu, kết luận và đanh mục tài liệu tham khảo, luận án có
<small>ba chương như sau:</small>
Cương 2: Chế định ly hôn theo quy định của Luật Hơn nhân và gia đình nam
Chương 3: Thực tiến giai quyết ly hon của Tòa án nhân dan và những kiến nghịnhằm hoàn thiện chế định ly hôn.
Phân kết luận .
</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">CHUONG |
Luật Hon nhân và Gia đình Việt nam, trong đó có ly hơn là một thực tế khách
quan phù hợp với sự phát triển của từng giai doan Cách mạng Việt nam. Căn cứvào quá trình phát triển của Cách mạng nước ta nói chung, vào quá trinh phát triểncủa pháp luật về hơn nhân và gia đình nói riêng, chúng tơi chia q trình phát triển
của chế định ly hôn trong pháp luật Việt nam thành các giai đoạn sau đây (sựphân chia nay cũng mang tính tương đối mà thôi).
[.].]- Vài nét về chế định ly hôn trước năm 1945.
Trước Cách mạng tháng § năm 1945, Việt nam là một nước thuộc địa nửaphong kiến dựa trên nền tang kinh tế là chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sanxuất của giai cấp dia chủ phong kiến. Cùng với việc duy trì quan hệ sản xuất
phong kiến, thuc dan Pháp và giai cấp dia chủ phong kiến còn lợi dụng chế độ hon
nhân và gia đình phong kiến đã tổn tại và được duy trì nhiều thế kỷ ở Việt nam để
Pháp da chia nước ta thành 3 miền khác nhau và ở mỗi miền ban hành, áp dụng
theo từng BO dân luật cụ thể. Tại Bắc kỳ áp dung những quy định trong Bộ dan
<small>luật 1931, tại Nam kỳ áp đụng quy định theo Bộ dan luật giản yếu Nam kỳ 1883,và tai Trung kỳ ấp dụng những quy dinh theo Bộ dan luật 1936.</small>
Thực dân Pháp cho ban hành những Bộ dân luật này phần nhiều đã dựa
theo Hộ dân luật của Cộng hoà Pháp 1804; kết hợp hệ thống pháp luật và nhữngtập tục lạc hậu của xã hội phong kiến Việt nam. Chế độ hôn nhân gia đình theo
</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">chung đều bao gồm nội dung giống nhau.
quan hệ vợ chồng thì chồng là người gia trưởng, người vợ phụ thuộc chồng về mọi
ngày phán quyết cho vợ chồng ly hơn của Tịa án có hiệu lực pháp luật thì ngườivợ 26a mdi được kết hôn với người khác. Quy định này tương tự như quy định củaHộ dan luật Pháp 1804 với mục đích tránh lân lộn về con cái.
Ba Bộ luật trên đã đặt việc giải quyết ly hôn dựa trên cơ sở lỗi của vợ
chồng. Những duyên cớ ly hôn của vợ chồng thực chất là vi phạm nghĩa vụ giữa
Đặc biệt Bộ dân luật giản yếu 1883 đã quy định việc xin ly hôn chỉ đo
người chồng quyết định, người vợ khơng có quyền đó va áp dụng vào chế độ
"Tam bất khử” cho người vợ. Theo cổ luật phong kiến Việt nam, chồng có quyển
“rãy” vợ nếu: hai vợ chồng nghèo, sau khi mới cưới nhau đã trở nên giàu có, người
Như vay, chế độ hơn nhân - gia đình ở nước ta trước Cách mạng tháng 8năm 1945 là công cụ pháp lý của Nhà nước thực đân phong kiến nhằm củng cố và
bảo vệ lợi ích của gia đình địa chủ phong kiến, củng cố ách thống trị của thực dân
[Pháp ở Việt nam.
</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">Ngay sau khi ra đời (ngày 3 tháng 2 năm 1930), Dang Cộng sản Việt namđã đề ra nhiệm vụ phải xóa bỏ chế độ hơn nhân gia đình lạc hậu, coi đó là mộtyêu cầu cấp thiết của cuộc đấu tranh giải phóng phụ nữ nói riêng, của sự nghiệp
Cách mang nói chung. Trong chương tình hoạt động của Đảng Cộng sản Việtnam được thông qua vào tháng 6 năm 1932, Dang ta đã dé ra yêu cầu đấu tranhđồi "bỏ hết thảy các pháp luật và tục lệ bú bại làm cho đàn bà khơng được bình
Vào thời kỳ này, trong các chương trình hành động của thanh niên, phong
trào dân tộc dân chủ (1936 - 1939) cũng thể hiện rõ yêu cầu đấu tranh đó.
1.I.2- Chế định ly hơn trong giai đoạn t Cách mạng tháng Tám năm 1945 đếnnăm 1954.
Ngày 2 tháng 9 năm 1945, Cách mạng tháng Tám thành công, Bác Hồ đãđọc Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt nam dân chủ cộng hòa. Ngay từ
khi ra đời, Nhà nước ta đã rất quan tâm và coi trọng việc soạn thao, ban hành mot
củng cố và bảo vệ thành quả của Cách mạng, phục vụ lợi ích của nhân dân laođộng. Tuy nhiên, sau Cách mạng tháng Tám, thực dân Pháp có âm mưu trở lại
xâm lược nước ta một lần nữa. Trong hoàn cảnh phải đối phó với thù trong giặc
ngồi, phải chống giặc dói, giặc đốt, giặc ngoại xâm, Nhà nước ta chưa thể ban
hãnh ngay một đạo luật về Hôn nhân - Gia đình. Những năm đầu sau Cách mang,
quan hệ sản xuất phong kiến vẫn còn ảnh hưởng nên việc xố bỏ chế độ hơn nhân- gia đình phong kiến lạc hậu khơng phải dé dang nhanh chóng mà địi hỏi phảikiên trì và tiến hành từng bước. Đảng và Nhà nước ta chủ trương tiến hành phong
trào vận động đời sống mới, vận động quần chúng nhân dân tự nguyện xoá bỏ
những hủ tục phong kiến lạc hậu trong đời sống hơn nhân - gia đình vì pháp luậtthời gian này mới chỉ có Sắc lệnh số 90/SL ngày 10/10/1945 của Chủ tịch nước? Văn kiện Dang từ ngày 27 tháng 10 năm 1929 đến ngày 7 tháng 4 năm 1935 - NXRST Hà nôi - 1964
</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">Việt nam dan chủ Cộng hoa, theo đó các quy định về hơn nhân - gia đình trongba Hộ dan luật ở Bắc kỳ 1931, Bộ dân luật 1936 ở Trung kỳ và Bộ dan luật giảnyêu 1883 ở Nam kỳ vẫn có hiệu lực thí hành trên tồn cõi Việt nam.
Nam 1946, Hiến pháp đầu tiên của nước Việt nam dân chủ cộng hoa ra đờiđánh đấu bước chuyển mình lớn nhất trong lich sử dan tộc, ghi nhận thành quả
Cách mạng, quyền dn tộc tự quyết, các quyền, nghĩa vụ công dân. Lần đầu tiên
trong lịch sử pháp luật nước nhà, quyền bình dang nam, nữ được ghi nhận ở đạo
luật có hiệu lực pháp lý cao nhất - Hiến pháp. Tại Điều 9 Hiến pháp 1946 đã quyđịnh “dan ba ngang quyền với dan ông về mọi phương điện”. Day là cơ sở pháp
hơn nhân gia đình mới, dan chủ, tiến bộ. Hơn nữa, trước và sau Cách mang, trong
thực tiễn các cuộc đấu tranh, các phong trào thanh niên, phụ nữ tham gia ngàycảng đông đảo vào công việc xã hội đã đần dần thoát khỏi những ràng buộc của
chế độ hơn nhân gia đình phong kiến. Cũng trong thời gian này, cùng với việc thị
được Nhà nước bảo đảm, tình hình phát triển của xã hội về mọi mặt kinh tế, chính
trị, quan sự trong q trình đấu tranh cách mạng chống đế quốc và phong kiến. Sự
trong các Bộ dân luật cũ đối với quan hệ hơn nhân - gia đình đang cần trở bướctiến của xã hội nhằm động viên sức người, sức của dam bảo cuộc kháng chiến
quy định về hơn nhân - gia đình là Sắc lệnh số 9Ø7/SL ngày 22 tháng 5 năm 1950sửa đổi một số qui lệ và chế định trong dân luật và Sắc lệnh số 159/SL ngày 17
tháng [1 năm 1950 quy định vấn đề ly hôn.
định về hơn nhân - gia đình đã xố bỏ tính chất phong kiến quyền gia trưởng cũ,
<small>quá rang buộc va áp bức cá nhân. Người thanh niên có quyền tự chỉ huy minh và</small>
quản trị tài sản riêng (Điều 2). Sắc lệnh đã quy định cho phếp người đàn bà ly dị
có thể lấy chồng khác ngay sau khí có án tun ly di, nếu din chứng được rang
mình khơng có thai hoac dang mang thai (Điều 4 và Điều ©) đã thể hiện sự bình
</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">thực hiện mọi hành vi dan sự (Điều 6).
bệnh khó chữa khỏi, một bên bd nhà di quá 2 năm ma không có dun cớ
tụng bình thường như khi xử các việc họ khác”.
Tuy nhiên trong trường hợp hai vợ chồng xin thuận tình ly hơn, nếu ‘Toa án
nhân dan huyện hay thị xã hồ giải khơng thành và nếu sau đó | tháng hai vợ
chồng vẫn gift ý kiến xin ly hơn thì Tịa án nhân dan huyện, thị xã sẽ chính thứccơng nhận sự ly hôn (Điều 4)
- Sắc lệnh đã quy định việc bảo vệ phụ nữ có thai và thai nhi trong việc lyhơn. Nếu người vợ có thai thì vợ hay chồng có thể xin Tịa án hỗn đến sau
kỳ sinh nở mới xử việc ly hôn (Điều 5).
- Thực hiện nguyên tác bảo vệ quyền lợi của người con chưa thành niên khi
ly hơn Tịa án sẽ căn cứ vào quyền lợi của các con vị thành niên để ấn định
<small>mình.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">chồng, thực chất là lỗi của bị đơn như: Do một bên ngoại tình, bi can án phạt giam(Điều 2) là chưa dựa vào bản chất của quan hệ hôn nhân.
Cùng với sự phát triển của đất nước, hệ thống pháp luật hôn nhân và giađình nói chung, chế độ ly hon nói riêng cũng đần được hồn thiện.
1.1.3. Chế định ly hơn trong giai đoạn từ 1955 đến 1975.
Ngày 7 tháng 5 năm 1954, chiến địch Điện Biên Phủ lịch sử đã toàn thắng.
Cuộc kháng chiến trường kỳ 9 năm gian khổ chống thực đân Pháp xâm lược đã
thang lợi. Tuy nhiên , dế quốc Mỹ đã thay chân Pháp nhảy vào Miễn Nam Việtnam thực hiện mưa đồ xâm lược, chia cất nước ta lâu dài. Sự nghiệp Cách mạngViệt nam thời kỳ này phải thực hiện hai nhiệm vụ: Miễn Bắc bước vào thời kỳ xây
dựng Chủ nghĩa xã hội, miền Nam tiếp tục cuộc cách mang dân tộc, dan chủ, đấu
tranh: thống nhất nước nhà.
quan hệ sản xuất phong kiến, chế độ hơn nhân gia đình phong kiến bị xóa bỏ.Dang và Nhà nước ta chủ trương thực hiện xoá bỏ sở hữu tư nhân về tư liệu sản
</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">xuất, thực hiện chính sách cải tạo xã hội chủ nghĩa, thực hiện công hữu hố về tư
bằng cơ chế kế hoạch hóa tập trung bao cấp. Từ năm 1958, ở nước ta đã tiến hành
đình phong kiến vẫn cịn ảnh hưởng và tác động mạnh mẽ vào đời sống gia đình
phong kiến "việc ban hành đạo luật mới về hôn nhân và gia đình đã trở thành một
Trong thời kỳ này, Hiến pháp của nước Việt nam dân chủ cộng hòa đã
được Quốc hội khoá I, kỳ họp thứ 11 thing qua ngay 31 thang 12 nam 1959 va
dược Chủ tịch nước ký lệnh công bố ngày 1 tháng 1 năm 1960, trong đó Điều 24đã quy định quyền bình đẳng giữa nam và nữ về mọi mặt kinh tế, chính trị, văn
hố xã hội va gia đình "day là cơ sở pháp lý cho việc xây dựng Luật Hôn nhân và
gia đình mới xã hội chủ nghĩa ở nước ta". Sau các cuộc điều tra khảo sát tình hình
11 vùng kinh tế khác nhau, qua ý kiến thảo luận đóng góp của nhân dân, dự án
Luật Hơn nhân và Gia đình đã được Quốc hội khố I, kỳ họp thứ Ll chính thức
hơn nhân - gia đình.
Luật Hơn nhân và Gia đình là cơng cụ pháp lý của Nhà nước ta được xây
dựng và thực hiện với hai nhiệm vụ cơ bản: Xóa bỏ những tàn tích của chế độ hơn
nhân và gia đình phong kiến lạc hậu, xây đựng chế độ hơn nhân và gia đình mớixã hội chủ nghĩa. Luật này dựa trên nguyên tac hôn nhân tự do, tiến bộ một vợ,
Hơn nhân va Gia đình năm 1959 gồm 6 chương chia thành 35 điều, trong đó
<small>“Ve trình của Chính phú trước Quốc hội ngày 23 tháng 12 năm £959 về Dự Luật Hơn nhân và Gia đình,</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">chương V gồm 9 điều quy định về ly hôn và căn cứ ly hôn một cách chính xác,
phù hợp với quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin "ly hôn chỉ là việc xác nhận
một sự kiện rằng đó là một cuộc hơn nhân đã chết, sự tồn tại của nó chỉ là bềngồi và lừa đối. Đương nhiên không phải sự tùy tiện của nhà lập pháp... mà chỉ
bản chất của sự kiện mới quyết định được cuộc hôn nhân đã chết hay chưa
<small>ty (4)</small>
Luật Hơn nhân và Gia đình 1959 đã cơng nhận quyển tự đo kết hơn và tự
Luật Hơn nhân và Gia đình 1959 không quy định những căn cứ ly hôn riêng biệt,
mà quy định căn cứ ly hôn duy nhất cho mọi trường hợp là tình trạng mâu thuẫn
vợ chồng trầm trọng, đời sống chung khơng thể kéo đài, mục đích hơn nhân
khơng dat được.
Luật Hơn nhân và Gia đình 1959 đơn giản thủ tục ly hôn. Điều 25 quy
định: Vợ chồng có thể xin thuận tình ly hơn sau khi diều tra nếu xét đúng hai bên
tự nguyện xin ly hơn, Tịa án sẽ cơng nhận việc thuận tinh ly hơn. Việc ra quyếtđịnh cơng nhận thuận tình ly hơn hoặc bản án xử cho ly hôn là sự phản ánh thựctế khách quan cuộc sống chung giữa hai vợ chồng khơng cịn nữa chứ khơng phải
đơn giản là giữa hai vợ chồng khơng cịn tình u mà nó muốn nói đến việc niday con cái... và nếu tiếp tục duy trì cc sống đó thì nó khơng thể là cơ sở để xâydung gia đình hồ thuận, lạnh phúc. Do vậy Tịa án xử cho ly hơn chỉ là côngnhận về mặt luật pháp với thực trang là cuộc hôn nhân đã chết.
Luật này cũng quy định việc bảo vệ phụ nữ có thai; "chỉ có thể xin ly hôn
khi người mẹ đã sinh dé được một năm. Điều hạn chế. này không áp đụng đối với
việc ly hôn của người vợ” (Điều 27); "vợ chồng đã ly hơn vẫn có moi nghĩa vụ và
quyền lợi đối với con chung" (Điều 31) và quy định việc giao con cho ai trụng
đ â Mỏc - Bn d lut về ly hơn. C.Mac - Ph. Anghen tồn lận. T.1 - NXBST Hà nội 1978. T.219
</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">Indi người tùy theo khả năng của mình (Điều 32).
Việc thực hiện Luật H6n nhân và Gia đình 1959 ở miền Bắc trong quá trình
thành tập quán tốt đẹp trong xã hội và được nhân dân tự nguyện thực hiện, ý thứcpháp luật của quần chúng nhân đân ngày càng được nâng cao.
Việt nam đân chủ cộng hồ, phục vụ cho lợi ích của nhân dân lao động phù hợp
với yêu cầu và nguyện vọng của tồn đân, nhằm xây đựng chế độ hơn nhân và gia
đình mới xã hội chủ nghĩa, thúc đẩy sự nghiệp cách mang trong phạm vi ca nước.
chủ nghĩa.
Tuy nhiên, q trình thực hiện và áp dung Luật Hơn nhân va Gia đình 1959
cịn gap khơng it trở ngại, một số trường hợp phát sinh quan hệ hôn nhân và gia
đình nhưng khơng có qui phạm điều chỉnh. Do đó, khi có tranh chấp về hơn nhân,gia đình theo u cầu của đương sự, Tòa án khi xét xử thiếu cơ sở pháp lý, dan tớitình trạng xét xử theo cảm tính, thiếu khách quan, khơng bảo vệ được quyền lợicủa đương sự, như việc yêu cầu ly hôn mà một bên vợ (chồng) là người nước
ngoài hoặc định cứ ở nước ngoài,... Do vậy vấn để cần sửa đổi mội cách tồn điện
<small>Luật Hơn nhân và Gia đình 1959 là phù hợp với nhiệm vụ cách mạng trong giai</small>
đoạn mới cua dat nước.
(J miền Nam, sau nam E95 do âm mưu chia cất lâu đài đất nước ta, đế
quốc My đã thay chân thực dan Pháp nhảy vào và tiếp tục chính sách cai trị của
</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">chủ nghia đế quốc. Dat nước ta tạm thời bị chia thành hai miền Nam, Bac với hai
chế độ chính trị khác biệt
Miền Nam nước ta trong những năm đầu dưới sự thống trị của chế độ gia
đình trị Diệm - Nhu, tiếp sau là chế độ ngụy quyền Sai gịn, ln có sự trợ giúpcủa các quan thầy Mỹ cùng tim cách chọn lựa những chính sách cai trị phan động,
trong đó khơng loại trừ pháp luật về hơn nhân và gia đình. Từ năm 1954 đến nam
1975 đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai đã ban hành một số văn bản pháp luật áp dụngtrong các quan hệ hơn nhân- gia đình như Luật Gia đình ngày 2 thang | năm 1959
1964. và Bộ Dân luật 20/12/1972 của chính quyền Nguy Sài gon.
hôn trong những trường hợp đặc biệt theo quyết định của Nguyên thủ Quốc gia
hay ông bà. Chế định ly thân được áp dụng theo quyết định của Tòa án dựa trên
lỗi của vợ chồng. Đặc biệt Luật Gia đình 2/1/1959, tại Điều 55 đã quy định cấmvợ chồng không được ly hơn trừ trường hợp đặc biệt, Tổng thống có thể quyết
giải quyết ly hôn cũng dựa trên những duyên cớ, thực chất là lỗi của vợ, chồng,
<small>nhimg duyên cớ ly thân cũng được áp dung cho ly hôn (Điều 170 - Bộ Dân luật1972).</small>
Nhu vậy, chế độ hơn nhân và gia đình ở miền Nam nước ta trước ngày giảiphóng là chế độ hơn nhân gia đình phong kiến tư sản với tính chất lạc hậu, phầnđộng như bản chất của Nhà nước thực dân phong kiến. Các văn bản luật này chínhlà cơng cụ của Nhà nước phản động đi ngược lại lợi ích của nhân dân lao động
nên sự sụp đổ của bọn bù nhìn bán nước, xóa bỏ chế độ hơn nhân gia đình tư sản,
phong kiến lạc hậu là khơng thể tránh khỏi.
</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">1.1.4. Chế định ly hôn trong giai đoạn tt năm 1976 đến nay.
Với thắng lợi hoàn toàn của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước (ngày
<small>~. E4 A ? ~ ~ ˆ 5</small>
Cộng hoa xã hội chủ nghiã Việt nam". Nhà nước xã hội chủ nghĩa thống nhất doi
định về việc thực hiện pháp luật thống nhất trong phạm vi cả nước, trong đó có
Luật Hơn nhân và Gia đình 1959. Như vậy, theo quy định của Hội đồng Chínhphủ trong Nghị quyết 76/CP từ ngày 25 tháng 3 nam 1977, Luật Hơn nhân và Gia
đình 1959 được áp dụng trên ca hai miền Nam, Bắc. Việc 4p dụng và thực hiện
Luat Hơn nhân và Gia đình 1959 trong phạm vi cả nước ngồi nhiệm vụ xố bdchế độ hơn nhân và gia đình của chế độ cũ ở miền Nam cịn nhằm xây dựng gia
đình mới xã hội chủ nghĩa trên đất nước ta.
Ngày 18 tháng 12 nam 1980, tại kỳ họp thứ 7 Quốc hội khóa VI nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam đã chính thức thơng qua bản Hiến pháp mới
của Nhà nước, đó là nên tảng cho bước phát triển mới của Luật Hơn nhân và Gia
đình Việt nam và là đạo luật cơ ban của Nhà nước. Hiến pháp 1980 đã ghi nhận
thành quả cách mạng vĩ đại sau mấy chục năm chiến dấu giành lại đất nước; quyđịnh về ché độ chính trị, kinh tế, văn hố, xã hội; quyển và nghĩa vụ cơ bản của
mỗi công dân; cơ cấu tổ chức và nguyên tac hoạt động của các cơ quan Nhà nước;
lý trong xã hội Việt nam. Trong Hiến pháp 1980, các Điều 38, 47,63 và 64 đã quy
định các nguyên tắc của chế độ hơn nhân và gia đình xã hội chủ nghĩa là cơ sởpháp lý để xây dung đạo luật mới về hơn nhân - gia đình.
<small>H n VY</small>
Sự nghiệp xây đựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta đã giành được những thành
Một số quy định của Luật Hồn nhân và Gia đình 1959 khơng còn phù hợp, do
chính các quan hệ hơn nhân - gia đình xã hội chủ nghia. Việc ban hành Luật Hơn
nhân và Gia đình mới là một tất yếu khách quan để thúc đầy sự nghiệp xây đựng
Hiên nhân và Gia đình mới. Sau thời gian tiến hành điều tra, khảo sát về tình hìnhcác quan hệ hơn nhân - gia đình trong các khu vực, tham khảo ý kiến đóng góp
của nhân đân và các cơ quan Nhà nước, các tổ chức xã hội, dự án luật Hôn nhân
và Gia đình mới đã được Quốc hội khố VII, kỳ họp thứ 12 chính thức thơng qua
ngày 29 tháng 12 năm 1986 và được công bố ngày 03 tháng O1 nam 1987 theolệnh số 21/LCT- HĐNN của Chủ tịch Hội đồng Nhà nước.
Luật Hơn nhân và Gia đình 1986 gồm 57 điều, chia thành 10 chương dựa
Việt nam xã hội chủ nghĩa.
Như vậy, Luật Hơn nhân và Gia đình ở nước ta một bước nữa được hoàn
thiện hơn, phù hợp với sự phát triển về kinh tế, xã hội của dat nước. So với Luật
Hơn nhân va Gia đình 1959, Luật Hơn nhân và Gia đình 1986 của Nhà nước ta
quy định đầy đủ hơn. Với 10 chương, 57 điều, Luật Hơn nhân và Gia đình 1986
đã để cập tới những quy định chung của việc kết hôn, nghĩa vụ của cha mẹ với
con cái, quy định việc xác định cha mẹ cho con, vấn dé ly hôn, quan hệ hôn nhâncủa công dân Việt nam với người nước ngồi. Những quy định này của Luật Hơn
nhân và Gia đình 1986 đã bổ sung những hạn chế của Luật Hơn nhân và Gia đình
</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">1959. Nghiên cứu các điều luật cụ thể của Luật Hôn nhân va Gia đình 1986 có
hôn và cấm kết hôn, nghĩa vụ và quyền của vợ chồng về nhân thân, tài sản,... đặcbiệt là chế độ tài sản vợ chồng được quy định trong Luật Hơn nhân và Gia dinh
Gia đình 1986, Điều 25,26 Luật Hơn nhân và Gia đình 1959).
Tuy nhiên, theo Luật Hơn nhân và Gia đình 1986, thủ tục hịa giải được đặtra và coi là thủ tục pháp lý bắt buộc phải cớ trong việc giải quyết án kiện ly hơn,
Hơn nhân va Gia đình 1959.
Nhu vậy, chế định ly hôn trong Luật Hôn nhân và Gia đình 1986 đã quy
chỉnh các quan hệ phát sinh trong lĩnh vực hôn nhân gia đình trong những năm
đầu của thời kỳ đổi mới trên đất nước ta. *
Việc thực hiện Luật Hôn nhân và Gia đình 1986, kể từ khi ban hành (ngày
3 tháng 1 năm 1987) cho đến nay đã được 10 năm, đã góp phần củng cố chế độhơn nhân gia đình mới xã hội chủ nghĩa, xây dựng những gia đình xã hội chu
</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">Nhà nước ta về hôn nhân gia đình nói chung, chế định ly hơn nói riêng ngây càng
thập ky 80. Tình hình đó đã tác động đến nhiều mặt của đời sống xã hội, đến các
quan hệ hơn nhân va gia đình. Do đó, các quy định của Luật Hơn nhân và Giađình 1986 (một số điều) khi áp dung khơng cịn phù hợp với tình hình thực tế. Các
những Luật Tơn nhân va Gia đình 1986 chưa có quy định như: quan hệ hơn nhân
-gia đình của Nhà nước ta nên dự liệu đầy đủ các trường hợp “có yếu tố nước
nước ta ban hành những năm gần dây có liên quan đến lĩnh vực hơn nhân - gia
1986 cho phù hợp với tình hình thực tế hiện nay. Đó là nhu cầu khách quan của xã
llưởng ứng năm Quốc tế gia đình 1994 do Liên hợp Quốc phát động va
<small>LLuat Hơn nhân va Gia đình đã được thành lập do Bộ Tư pháp chủ trì. Chúng ta hy</small>
vọng rang dự án Luật Hơn nhân và Gia đình sửa đổi lần này sẽ đáp ứng đượcnhững nhu cầu của xã hội và từng gia đình Việt nam, góp phần xây dựng chế độhơn nhân gia đình mới và một bước hồn thiện Pháp Luật Hơn nhân và Gia đìnhnói chung, chế định ly hơn nói riêng trong thời kỳ đổi mới.
I.2- Khái niệm va bản chát pháp lý của ly hôn.1 .2.1- Khái niệm ly hôn.
</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">Từ khi trong xã hội lồi người hình thành khái niệm gia đình, thì khái niệm
ly hơn cũng đã được đề cập tới và là một bộ phận không thé tách rời được củapháp luật hơn nhân và gia đình. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác Lê nin, hơn
trình phát sinh, tồn tại và chấm dứt quan hệ hôn nhân. Thông thường thì hơn nhânlà sự liên kết suốt đời giữa vợ và chồng, bởi vì nó được xây đựng trên cơ sở tìnhu chân chính của hai bên nam và nữ nhằm gắn bó và thỏa mãn những tình cảm
trong đời sống gia đình, xây dựng gia đình hạnh phúc, bền vững. Tuy nhiên, tính
chất suốt đời của hơn nhân vẫn có những trường hợp ngoại lệ, tức là sau khi kếthôn, trong thời gian chung sống giữa vợ và chồng phát sinh những mâu thuẫn
tram trọng mục dich của hôn nhân không đạt được và cả hai hoặc mot người vợhay chồng khơng thể tiếp tục sống chung được thì Pháp luật quy định cho phép
chấm dứt quan hệ vợ chồng bằng việc ly hôn. Khoa học pháp lý coi ly hôn là việc
dân cho ly hơn bang bản án hoặc bằng quyết định cơng nhận sự thuận tình ly hôn.
Ly hôn là sự chấm dứt hôn nhân khi cả hai vợ chồng cịn sống đo ý chí đơnphương của một bên hoặc đo sự thỏa thuận của hai bên trước pháp luật. Như vậy,chấm đứt hôn nhân bằng ly hơn là kết qua của ý chí vợ và chồng, ngồi ra khơng
mt người nào khác có thể u cầu ly hơn được. Bên cạnh đó, Nhà nước ta kiểm
sốt việc ly hơn bằng chế định pháp luật nhằm bảo vệ quyền lợi cho mỗi người,cho xã hội va bao đảm các nguyên tac của hôn nhân xã hội chủ nghĩa. Theo quiđinh hiện hành của Nha nước ta chỉ có Tịa án nhân dan mới có quyền cho ly hơn
đến lợi ích của gia đình và xã hội.
Ly hơn là một mặt của hôn nhân. Nếu kết hôn là hiên tượng bình thường
nhằm xác lập quan hệ vợ chồng, thì ly hơn là quan hệ bất bình thường, là mặt trái
của hôn nhân nhưng không thể thiếu được khi quan hệ hôn nhân đã thực sự tan
<small>vỡ, trong trường hợp đó thì ly hơn là giải pháp cần thiết cho cả hai vợ chồng.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">Từ sự phân tích trên, chúng tơi có khái niệm ly hơn như sau: Ly hôn là sự
hay của cả hai vợ chồng.
1.2.2. Bản chất pháp lý của ly hơn.
nhiều phụ nữ mặc dù khơng cịn tình cảm với chồng và cuộc sống chung chỉ
mang lại đau khổ cho họ mà họ vẫn không được phép ly hôn.
Đến thời ky tư bản chủ nghĩa, do tác động của tư tưởng cách mạng tư san là
vục ly hơn nói riêng cũng khơng nằm ngồi xu hướng đó. Các nhà luật gia tư sản
cho rằng tự đo ly hôn phải được thừa nhận như một quyền pháp định. Tuy vậy,trong thời kỳ tư bản chủ nghĩa quan điểm về ly hôn cũng thay đổi tùy theo từng
giai đoạn lịch sử và phần nào phụ thuộc vào tôn giáo. Hiện nay, pháp luật tư sản
</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">đều thừa nhận quyền ly hơn (trừ một số ít nước như Malta, San Marino...) tuy
Ban chất của ly hôn là sự tan vỡ của cuộc hôn nhân, do vậy pháp luật (pháp luật
Hôn nhân va Gia đình) khơng phải là yếu tố có thể han gắn sự rạn nứt về tình cam
của các bên trong cuộc sống vợ chồng, mà trái lại, việc Tịa án cơng nhận thuậntình ly hơn hay xử cho ly hôn chỉ là việc ghi nhận một cách khách quan, một thựctế đối với cuộc hôn nhân tan vỡ mà thơi.
xem xét và quyết định hop lý, hep tình. Khác với pháp luật tư bản, pháp luật xãhội chủ nghĩa không coi hôn nhân là một khế ước dân sự và coi hôn nhân là sự tự
nguyện, cộng đồng về tinh thần và tài sản của hai bên nam nữ. Yếu tố tình cam
so với quan điểm của Nhà nước phong kiến, tư bản (trong đó Luật pháp của chínhquyền ngụy quyền Sài gịn cấm ly hôn). Luật pháp xã hội chủ nghĩa không nhữngtơn trọng quyền tự do của con người, mà cịn bảo đảm lợi ích chung cho cả xã hội.Chúng ta đều thấy cấm ly hôn là một quan điểm lạc hậu, vơ nhân đạo, là "đi tích
thống trị trên thế giới... Bây giờ chỉ có nơi nào cịn giữ chế độ thân quyền lạc hậu
thì mới cấm ly hơn” (Trích phát biểu của Thủ tướng Pham Văn Đồng tại phiên họp
Quốc hội nước Việt Nam Dân Chủ Cộng hòa ngày 2/12/1959). |Liên hệ với pháp luật của ta, thì mục đích của cuộc hơn nhân trong chế độ
ta là xây dựng những gia đình đân chủ hịa thuận, bền vững hạnh phúc. Nhưng vì
</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">lé nay hay lẽ khác, như việc lựa chọn khơng thận trọng nên trong đời sống gia
thiết để giải phóng cho những cặp vợ chồng này. Đồng chí Xn Thuỷ đã phântích: "Hơn nhân tự do bao gồm hai mặt: Tự do kết hôn và tự do ly hơn. Tự do lyhơn khơng có nghĩa là ly hôn bừa bãi, ly hôn là biện pháp giải quyết một tình
Ly hơn là hiện tượng xã hội khơng bình thường, nó đặt đâu chấm hết chomột cuộc hơn nhân nhưng để lại sau đó nhiều hậu quả như việc chăm sóc, giáo
luật lấy làm cơ sở, nên tang để xây dựng Luật Hơn nhân và Gia đình 1986 thay
thế luật Hơn nhân và Gia đình 1959.
1.3- Thực trạng và các nguyên nhân ly hôn ở Việt nam hiện nay.
1.3.1- Thực trạng ly hôn hiện nay.
Nhà nước ta là nhà nước của dân, do dân, và vì dân, trong đó, mọi cơng dân
đều bình đẳng trong mọi lĩnh vực của cuộc sống. Bên cạnh đó, pháp luật cịn ưu
tiên bảo vệ quyền lợi của phụ nữ và trẻ em nhằm đặt nền móng xây dựng một xã
hôi ngày càng tốt đẹp hơn. Tôn trọng và bảo vệ quyển lợi của phụ nữ và trẻ em
Trong hệ thống pháp luật của mỗi nước có những quy định về ly hôn khácnhau và ngay cả trong cùng một nước những quy định này cũng thay đổi theo
từng thời kỳ, phụ thuộc vào tình hình kinh tế, chính trị, xã hội của quốc gia đó.
Ngày nay, ở các nước, vấn đề công nhận hay không công nhận quyền ly hơn là'® Xn Thuỷ báo cáo về dự án luật HN-GĐ. Bộ Tư pháp xuất bản 1959 - T.11
</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">vận để dang được tranh luận và chưa ngã ngũ, bởi mỗi nước đều đưa ra những lýđo bảo vệ quan điểm của mình.
dan ông là trụ cột, là trọng tâm của gia đình, của xã hội nên pháp luật đã công
Theo thống kê của Tòa án một huyện trong tỉnh Hải Dương từ năm 1990
đến năm 1996 thì số vụ ly hơn qua các năm như sau:
<small>1990 7 — 252 259</small>
— 199) | 12 261 273
<small>-_ 1992 : Ad -_ 265 27601993 9 - __ 259 ~ 268.</small>
_ 1994 SỐ 14 264 278 _
1996 16 271 287
Qua đó chúng ta thấy chỉ ở một huyện nhưng số vụ ly hơn qua các năm có
biến động và đạt con số gần 300 vụ/năm. Điều này cho ta thấy việc ly hơn có xu
hướng gia tăng. Việc giải quyết các vụ ly hôn trong năm của các Tòa án thường
đạt tỷ lệ cao từ 92-95%. Như vậy, hầu như các vụ ly hôn đều được giải quyết.
</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">Citing theo báo cáo thống kê trước đây cho thấy, người vợ đứng nguyên don
thường có số lượng cao hơn người chồng. Theo báo cáo về tình hình thi hành Luật
lớn đối với phụ nữ. Tuy thực ra chẳng khó khăn gì mà khơng hiểu được rằng khingười ta thừa nhận tất cả các phụ nữ đều có quyền bỏ chồng thì khơng phải như
Về độ tuổi thì lứa tuổi xin ly hơn đa phần là đưới 40 tuổi. Điều này cho
cuộc ly hơn trong độ tuổi từ 41-50 (có tỷ lệ khơng nhỏ) cho thấy sự khác biệt vớigia đình truyền thống Việt nam trước dây.
Khi xem xét các vụ ly hôn, điều đáng quan tâm là nguyên nhân nào đã dẫn
đến ly hơn. Tìm hiểu kỹ vấn dé này, có thể có biện pháp giảm bớt được số vụ ly
I.3.2- Ngun nhân ly hơn.
Ly hôn là một hiện tượng xã hội, là mặt trái của quan hệ hôn nhân. Nó
cũng xuất phát từ nhimg nguyên nhân nhất định. Chỉ có Nha nước Xã hội Chunghĩa mới dé cập và nghiên cứu nguyên nhân ly hôn đúng với thực chất của nó,nhằm loại trừ những nguyên nhân dẫn đến xung đột, mâu thuẫn trong quan hệ vợchồng; hạn chế đến mức thấp nhất việc ly hôn, bảo vệ và củng cố hạnh phúc của
gia đình.
Ngun nhân ly hơn là những hiện tượng, sự việc tác động đến hôn nhân và
làm cho hôn nhân tan vỡ. Việc người vợ hay người chồng chủ động muốn ly hôn
thường xuất phát từ những ly do hoặc có một động cơ nhất định. Những lý do
hoặc động cơ đó được đưa ra Tồ án như ngun cớ để xin ly hơn. Thường thì lý
do đưa ra Toà án trùng với nguyên nhân gây nên sự tan vỡ trong quan hệ vợ chồng
' nhưng cũng có trường hợp nguyên nhân thực của việc ly hôn khác với lý do mà
người chồng hay người vợ (có khi cả hai) chủ động đưa ra trước Tồ án. Rất nhiều
vụ án ly hôn mà trong don xin ly hơn đương sự trình bày ngun nhân xin ly hôn
đơn giản là do hai vợ chồng không hop với nhau nhưng sau khi xác minh thì lý do
dich thực lại hồn tồn khác và mn hình mn vẻ, kể cả những bất đồng vềquyền lợi kinh tế hay khả năng sinh lý của một bên.
Thực tế ở nước ta hiện nay những nguyên nhân xin ly hôn thường là: Vợ(hoặc chồng) ngoại tình; người chồng nghiện ngập, bạc đãi thậm chí đánh đập vợ,
<small>con; một trong hai người khơng có kha năng sinh con hoặc phạm tội... Theo</small>
thống kê của Tòa án Nhân dân tỉnh Hải Dương năm 1994, lý do của các đương sựđưa ra trong đơn ly hôn cũng như những lý do họ đưa ra trong lúc xét xử, hoà giả
Bang |.
Nguyên nhân ly hôn Sốvụ |%
Cưỡng hôn 2 0,26Mau thuẫn gia đình do bi đánh đập, ngược đãi 309 39,46
Ngoại tình 240 30,65
Lira đối về tài sắc, địa vị, tuổi tác 96 12,26
Bénh tat khơng có con 10 1,27
Vợ hoặc chồng bi cải tao can án 6 0,78Vợ hoặc chồng ở nước ngoài 13 1,66
Vợ hoặc chồng bị mất tích hoặc xa cách lâu năm 6 0,78
Vợ hoặc chồng là người nước ngoài bỏ về nước 30 3,83
<small>Các nguyên nhân khác 71 9,05</small>
Tổng số 783 100
Qua số liệu trong bang 1 cũng như số liệu thống kê liên tục trong nhiềunăm fa thấy nguyên nhân ly hôn đo mâu thuẫn gia đình, đo bị đánh đập ngược đãichiếm ty lệ cao nhất. Theo báo cáo của Bộ Tư pháp về tình hình thi hành Luật hơn
nhân và gia đình 1986 thì số vụ ly hơn theo ngun nhân trên ở Hải phòng là
30%, ở Nghệ an - 41%, ở Hồ bình - 31%, ở Tiền giang- 60%. Có nhiều trươnghợp người chồng có hành vi ngược đãi vợ con gây hậu quả nghiêm trọng. Từnhững số liệu trên ta thấy, người phụ nữ ngày nay tuy được bình đẳng hơn trước
</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">đình nên người phụ nữ muốn ly hơn để xây dựng cuộc sống mới.
lớn như Hà nội, Hải phịng, Hồ Chí Minh. Với tâm lý muốn tìm kiém một cuộc
xuất cảnh hợp pháp bằng cách kết hôn với việt kiều hay người ngoại quốc. Do tínhchat vụ lợi khi kết hơn nên những cuộc hơn nhân như vậy thường nhanh chóngnay sinh nhiêu mau thuẫn và dẫn đến ly hôn, điểu nay khiến cho các vụ ly hơn cónhân tố nước ngồi gần đây xuất hiện ngày càng nhiều.
Như đã nêu ở trên, nguyên nhân dẫn tới ly hôn rất đa dạng. Trừ một số
trường hợp rất han hữu lý do ly hơn là hồn tồn khách quan (ví du phát hiện ra
vợ, chồng có quan hệ huyết thống qúa gần, một người đột ngột mất tích hoặc do
<small>nhân như sau:</small>
1.3.2.1. Nhóm nguyên nhân do Š thức chủ quan của vợ hoặc chồng.
Nước ta bước vào thời kỳ mở cửa, những mặt trái của nền kinh tế vận hành
theo cơ chế thị trường có tác động khơng nhỏ tới đời sống gia đình, nhất là ở các
thành phố và các trung tâm công nghiệp - nơi cửa ngõ tiếp nhận các luồng tưtưởng văn hóa mới từ bên ngoài, là nơi cọ xát của nhiều quan điểm, lối sống khácnhau, từ những quan niệm gia đình truyền thống tốt đẹp, sống có nề nếp đếnnhững quan niệm sống phóng túng hơn về tình u, hơn nhân và gia đình, từ các
quan niệm sống chú trọng đến các giá trị tinh thần, giá trị nhân đạo đến lối sốngthực dụng, coi trọng vật chất. Trong điều kiện đó đã bộc lộ các lối sống mà trước
day chưa có dip để bộc lộ. Chính lối sống “moi” của một bên (cũng có khi của cả
</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32">hai bên) đó, lam cho nhiều cặp vợ chồng sau nhiều năm chung sống hồ hop chợt
vào ăn chơi xa xỉ, bỏ bê gia đình tới lúc nguời vợ khơng tiếp tục cam chịu được vàchủ động xin ly hôn. Một trong những nguyên nhân có chiều hướng gia tăngtrong nhóm ngun nhân này là một bên khơng có khả năng đáp ứng nhu cầu
sinh lý, khơng có khả năng sinh con, dễ dẫn đến bất hòa và một trong hai bên chủ
động ly hôn.
Các cuộc hôn nhân qúa sớm, qua vội vã thường có ty lẻ ly hơn khá cao do
một bên (có khi cả hai bên) sau một thời gian chung sống mới hiểu rõ vợ (hoặcchồng) mình và thấy không thể tiếp tục chung sống, họ chủ động sớm ly hôn.
Trong cuộc sống đô thị hiện nay, với vai trị chính là tham gia vào các hoạtđộng nghề nghiệp, nam giới có nhiều cơ hội giao tiếp với nhiều mơi trường khácngồi gia đình. Thêm vào đó là sự mất cân bằng giới tính, mà chủ yếu là có nhiều
phụ nữ tuổi từ 20-35 chưa có gia đình hoặc đã ly hơn, ly thân... Các diéu kiện đó
cùng với các quan niệm dé dai hơn về đạo lý đã dẫn đến mâu thuẫn gia đình trong
đó có sự tác động của người thứ ba. Nguyên nhân ngoại tình thường xảy ra ở phíanam giới và dẫn đến ly hơn ở các cặp vợ chồng trẻ có thời gian chung sống dai.
1.3.2.2. Nhóm nguyên nhân trực tiếp liên quan tới kính tế.
Nhiều cặp vợ chồng tan vỡ sau một thời gian chung sống hạnh phúc đo cónhững thay đổi lớn về điều kiện, khả năng kinh tế của gia đình. Kinh tế đột nhiênkhá lên làm thay đổi nếp sống, dẫn tới thay đổi suy nghĩ, đánh giá về những người
xung quanh, về xã hội. Kinh tế đột nhiên lâm vào tình trạng hết sức khó khăn, bế
khơng ít cặp vợ chồng khơng chịu đựng được khó khăn, dẫn tới tan vỡ.
Mot nguyên nhân khác cũng khá phổ biến là các cặp vợ chồng kết hơn, có
con qúa sớm, khi chưa có khã năng tự chủ về kinh tế, thậm chí chưa dự kiến đượcnhững khó khăn trong cuộc sống tự lập (như khơng có việc làm, nhà ở...). Trong
</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">hoàn cảnh khó khăn, thiếu thốn các cặp vợ chồng trẻ khơng dự kiến được và
được cũng thường dẫn tới ly hơn.
được phát hiện và có biện pháp giải quyết thỏa đáng, kịp thời thì dé tích tụ dẫn tới
xung đột và ly hơn. Trong gia đình Việt nam cổ truyền, cha, mẹ hoặc các thành
viên khác trong gia đình có thể can thiệp hoặc đóng vai trị tác động tích cực vào
việc lập gia đình, việc riêng của con cái, người phụ nữ phải có bổn phận với cha
Sống hiếu thảo, sống với tình thương và biết cách xử sự với gia đình chồng(hoặc vợ) là một truyền thống tốt đẹp, một điều cần thiết. Tuy nhiên, trong xã hộiphong kiến đã có khơng ít sự lạm dụng làm cho quan hệ cha mẹ chồng và nàng
dâu hoặc giữa gia đình chồng và nàng dâu trở nên căng thẳng và mâu thuẫn có khitrầm trọng là nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn vợ chồng sâu sắc và hậu quả đángtiếc của nó là ly hôn.
Ngày nay, ở thành phố xu hướng phát triển đến gia đình hạt nhân (chỉ gồm
vợ chồng và các con vị thành niên của họ) đang ngày càng phát triển. Các thế hệ
phụ nữ trẻ ngại sống chung với gia đình chồng chính vì ngại cảnh "làm dau". Tuynhiên, các cặp vợ chồng trẻ lại chưa có điều kiện để có nhà riêng, nhất là nhà ở
thành phố rất đất đỏ so với thu nhập của các cặp vợ chồng trẻ, vì vậy, tuy khơng
</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34">Ngồi ra cũng có những vụ ly hơn giả tạo,nhằm dạt được mục đích như
-phân nhà, hay mục đích trái pháp luật tạo điều kiện cho chồng lấy vợ lẽ một cách
<small>hợp pháp.</small>
Như vậy, lý do cụ thể mà đương sự đưa ra để ly hơn thì có nhiều nhưngnhìn chung có thể xếp vào 3 nhóm ngun nhân chính như đã trình bày ở trên.
1.4. Những quy định của pháp luật về thủ tục giải quyết ly hôn.
Trong chế độ xã hội chủ nghĩa, lợi ích của mỗi thành viên trong gia đình,
lợi ích của gia đình và lợi ích của xã hội gắn bó và có quan hệ hữu cơ với nhau.Bác Hồ đã dạy:” Nhiều gia đình cộng lại mới thành xã hội, xã hội tốt thì gia đìnhcàng tốt, gia đình tốt thì xã hội tốt”. Nói cách khác nếu hạt nhân của xã hội tơn tạikhơng bình thường, sự tồn tại của quan hệ vợ chồng khơng cịn có lợi cho gia đìnhvà xã hội thì ly hơn là tất yếu khơng thể tránh khỏi.
Pháp luật của Nhà nước xã hội chủ nghĩa đã công nhận quyền tự do ly hơn
tự do ly hôn, ly hôn dua trên sự tự nguyện của hai vợ chồng, pháp luật không épbuộc họ phải sống chung theo quan hệ vợ chồng với nhau khi họ thật sự khơng
cịn khả năng dồn tụ. “ Tình bạn hiện thực ngay cả trong gia đình, trong nhà
nước hiện thực, trong lịch sử thế giới huỷ hoại như thế nào thì hơn nhân hiện thực
Họ khơng muốn sống chung, thậm chí khơng muốn nhìn mặt nhau nữa thì việc
giải quyết cho ly hơn là cần thiết; "Nhà lập pháp chỉ có thể xác định những điều
kiện trong đó hơn nhân tan vỡ, nghĩa là trong đó, về thực chất, hơn nhân tự nó đãbị phá vỡ rồi. Việc Tịa án cho phép phá bỏ hơn nhân chỉ có thể là việc ghi biên
nhân, thừa nhận bản chất đạo đức sâu xa của hôn nhân.
Hôn nhân là mội hiện tượng xã hội phức tạp, nó đụng chạm đến tình cảm
vợ chồng, đến lợi ích của gia đình và xã hội. Nếu hơn nhân là cơ sở pháp lý hình
thành các quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản giữa vợ chồng, thì ly hơn lại là cơ
sở pháp lý để chấm đứt mối quan hệ đó. Khác với quan hệ pháp lý về tài sản trongdân sự, ở mỗi người là những đồng sở hữu chủ đối với tài sản chung theo phần mà
phần quyền và nghiã vụ tương xứng với phần tài sản góp vào, thì quan hệ tài sảngiữa vợ và chồng khác hẳn so với quan hệ tài sản trong dân sự. Cơ sở nền tảng củaquan hệ tài sản chung vợ chồng theo pháp luật Hơn nhân và Gia đình là tình uchân chính là mối quan hệ gắn bó chặt chẽ suốt đời giữa hai con người đó là mối
<small>công dân theo quy định của Hiến pháp và pháp luật.</small>
Khi vợ hoặc chồng hoặc cả hai vợ chồng có đơn xin ly hơn thì Tịa án nhân
vợ chồng thuận tình ly hơn thì đo. cơ quan hành chính (hộ tịch) giải quyết. Trường
hợp vợ hoặc chồng có dơn xin ly hơn thì cơ quan Tư pháp (Tịa án) giải quyết.
TM © Mac - Ban dự luật về ly hơn - C.Mac - Ph.Anghen Tồn tap, Tập 1 - NXBST Hà nội 1978. T.219
</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36">khơng đạt được mục dich hơn nhân thì Tịa án xử cho ly hơn.
Vấn dé hạn chế ly hôn cũng đã được Nhà nước ta quan tâm xem xết và quy| định ngay từ Sắc lệnh 159/SL ngày 17 tháng 11 năm 1950. Để bảo vệ phụ nữ có
hôn. Tuy nhiên về mặt pháp lý , quy định này chưa chặt chẽ để bảo vệ bà mẹ và
chồng vẫn có thể kiện ly hơn. Mặt khác quy định thời hạn cho đến kỳ sinh nở là
không hợp lý vì lúc này người vợ chưa kịp phục hồi sức khoẻ sau khi sinh đẻ.
Cho đến Luật Hôn nhân và Gia đình 1959, Điều 27 “Trong trường hợp
người vợ có thai chồng chỉ có thể xin ly hơn sau khi vợ sinh con được một nam"
và Luật Hôn nhân và Gia đình 1986, Điều 41 quy định: “Trong trường hợp ngườivợ có thai, chồng chỉ có thể xin ly hôn sau khi vợ đã sinh con được một năm, điềuhạn chế này không áp dung dối với việc xin ly hôn của người vợ”.
</div><span class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37">Theo nội dung điều luật này có sự tranh cãi là nếu sinh con mà con chết thìcó phải hỗn việc ly hôn sau một năm không? Theo chúng tôi điều quy định "sau
cịn sống hay chết không được đặt ra. Mặt khác, nếu con chết sẽ ảnh hưởng xấu
tới tinh thần của người mẹ và dẫn đến suy sụp về sức khoẻ nên việc hỗn ly hơnsau một năm là cần thiết và phù hợp.
Điều kiện hạn chế ly hôn này chỉ áp dụng trong trường hợp người chồng
xin ly hôn mà không áp dụng trớng trường hợp ngược lại, ở đây chủ ý của luật chỉrằng buộc trách nhiệm của người chồng với vợ con. Trong trường hợp người vợcần đến trách nhiệm ấy. Ngược lại, nếu quan hệ vợ chồng chỉ làm người vợ thêm
dau khổ, thì người vợ có quyền lựa chọn để xin ly hơn.
Có một điều được coi là điều kiện hạn chế ly hôn cho cả vợ và chồng trongnghị quyết 01/NQ-HĐIP ngày 20 tháng 1 năm 1988 của Hội đồng Thẩm
<small>phánTòa án Nhân đân Tối cao hướng dẫn: Nếu Tịa án bác đơn xin ly hơn thì</small>
người bị bác don có thể xin ly hơn lại sau một năm kể từ khi bản án có hiệu lực
pháp luật. Việc quy định thời gian như vậy là hợp lý đủ để hai vợ chồng bình tĩnh
<small>suy xét khi mà cuộc hôn nhân thực sự chưa phải là vô phương cứu chữa.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38">CHUONG 2
2.1. Những căn cứ để Tòa án xử cho ly hôn.
Pháp luật của Nhà nước xã hội chủ nghĩa đã cơng nhận quyền được tự doly hơn chính đáng của vợ chồng; hồn tồn khơng đặt ra những điều kiện hạn chế
quyền tự đo này. Theo Lénin “thực ra tự do ly hơn tuyệt đối khơng có nghĩa là làmtan rã những mối quan hệ gia đình mà ngược lại, nó củng cố những mối quan hệ
đó, trên những cơ sở dan chủ, những cơ sở duy nhất có thể có và vững chắc trong
Nhà nước bảo hộ hôn nhân, bao đảm quyền tự do ly hơn của vợ chồngkhơng có nghia là giải quyết ly hơn tùy tiện theo ý chí, nguyện vọng của vợ chồngmuốn sao làm vậy, mà phải theo quy định của Luật Hơn nhân và Gia đình, Nhà
nước kiểm sốt việc ly hơn. Theo Điều 26Luat Hơn nhân và Gia đình 1959, Điều
40 Luật Hơn nhân và Gia đình 1986 khi vợ chồng hoặc cả hai vợ chồng có đơn
xin ly hơn thì Tịa án nhân dân tiến hành điều tra và hịa giải nhằm đồn tụ giađình. Nếu hịa giải khơng thành thì Tịa án nhân dan mới xét xử và chỉ xử cho ly „hôn nếu thấy tình trạng mâu thuẫn đã trầm trọng, đời sống chung khơng thể kéo
đài, mục đích cuộc hơn nhân khơng đạt được.
Quan hệ vợ chồng ở vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thểkéo dài được là quan hệ vợ chồng đã có nhiều lục đục, mâu thuẫn vợ chồng đã
chung bình thường, quan hệ vợ chồng không tồn tại được nữa, sự tan vỡ của cuộc
hơn nhân và sự tan vỡ của gia đình là khơng thể tránh khỏi. Chính vì thế, khi giải
quyết việc ly hơn Tịa án Nhân dan phải tiến hành hòa giải, điều tra, xem xét mau
thuần phong mỹ tục của con người Việt nam.
Cán cứ ly hơn là những tình tiết (hoặc điều kiện) được Pháp luật quy định
để căn cứ vào đó Tịa án xem xét và quyết định cho ly hơn. Các căn cứ này là căncứ pháp luật, nó thể hiện được quan điểm Nhà nước trong vẫn dé ly hôn. Trong
từng giai đoạn khác nhau của lịch sử nước ta, Nhà nước đều ban hành các văn bảnpháp luật, trong đó các căn cứ về ly hơn phù hợp với từng giai đoạn lịch sử cụ thể.
Điều 9 Hiến pháp nước Việt nam dan chủ cộng hoà năm 1946 đã cơng
nhận quyền bình dang giữa nam và nữ về mọi mat. Đây là cơ sở pháp lý để đấu
tranh xóa dan chế độ hơn nhân phong kiến, xây dung chế độ hôn nhân mới dan
chủ và tiến bộ.
Ngày 22 tháng 5 năm 1950, Sắc lệnh 97 được Nhà nước ban hành và sau
đó ngày 17 tháng 1! năm 1950 Sắc lệnh 159 về ly hôn cũng được ban hành.Tuy nhiên, do hoàn cảnh xã hội lúc bấy giờ nên Sắc lệnh 159 về ly hônkhông tránh khỏi hạn chế nhất định. Theo Sắc lệnh này, khi giải quyết về ly hơncịn đứng trên quan điểm tư sản để xem xét, cũng như nó chưa xóa bỏ được tậngốc chế độ hôn nhân phong kiến. Sắc lệnh này mới chỉ giải quyết được một vấnđề cấp bách, góp phần giải phóng phụ nữ. Với quy định nam, nữ bình đẳng trongly hơn, nhưng cịn chưa thật sâu sac. Việc ly hôn chủ yếu dựa vào lỗi của các bên
vợ, chồng. Sắc lệnh {59 về ly hôn quy định các căn cứ ly hơn cho cả vợ và chong
<small>|. Ngoại tình;</small>
<small>2. Mội bên can an phạt giam;</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 40</span><div class="page_container" data-page="40">2. Một bên mắc bệnh điên hoặc bệnh khó chữa;
4. Một bên bỏ nha di q 2 nam ma khơng có lý do chính dang;
hơn chung cho cả vợ và chồng, không tách riêng ra như các Bộ Dân luật phong
kiến trước đây. Theo những quy định này, lần đầu tiên người phụ nữ được ly dị
chồng nếu chồng ngoại tình. Trong Sắc lệnh 159 chỉ quy định một bên can án
phạt giam là can cứ cho ly hơn mà khơng loại trừ tội phạm chính trị như các luật
giam khiến cuộc sống của vợ chồng bị ngăn trở là cốt lõi chứ không phải xem tội
nào la chủ yếu.
Sau kháng chiến chống Pháp thắng lợi, hịa bình lập lại, miền Bắc nước ta
bước vào thời kỳ quá độ đi lên Chủ nghĩa xã hội, để phù hợp với tình hình mới,
đồi hỏi phải xóa bỏ tận gốc những tàn tích của chế độ hơn nhân gia đình phong
kiến cịn ảnh hưởng sâu đến cuộc sống gia đình và xã hội. Lúc này, Sắc lệnh 159
khơng cịn phù hợp với tình hình mới do đó ngày 29 tháng 12 năm 1959 Quốc hội
nước Việt nam dân chủ cộng hoà thơng qua Luật Hơn nhân và Gia đình và ngày
13 tháng | năm 1960, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh công bố luật này.
Luật Hôn nhân và Gia đình 1959 ra đời đã đáp ứng được đồi hỏi cấp bách của
<small>toàn xã hội.</small>
Lần đầu tiên trong lịch sử hình thành và phát triển pháp luật Hon nhân va
Gia đình Việt nam, căn cứ ly hơn được quy định một cách chính xác, phd hợp với
nhận một sự kiện, rằng đó là cuộc hơn nhân đã chết, sự tồn tại của nó chỉ là bểngồi và lừa đối. Đương nhiên khơng phải sự tuỳ tiện của nhà lập pháp cũng
không phải sự tùy liện của mỗi cá nhân mà chỉ bản chât của sự kiện mới quyết
<small>định dược cuộc hôn nhân đã chết hay chưa chết. Bởi vì việc xác định sự kiện chết</small>
là tuy thuộc vào thực chất của vấn dé chứ khơng phải là ý chí của các bên hữu
</div>