Tải bản đầy đủ (.pdf) (102 trang)

Luận văn thạc sĩ Luật học: Chế định ly hôn theo qui định của pháp luật Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (58.78 MB, 102 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO - BỘ TU PHAPTRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

man GIÁO VI | | sem LAT

Người hướng dan: PTS. Dang Quang Phương

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

MỤC LỤC

Phần mở đầu

Chương 1:

Một số van dé chung về ly hôn ˆ

J.I- Khát quát về sự phát triển của chế định ly hôn trong

Pháp luật Việt nam

1.2- Khái niệm và bản chất pháp lý của ly hôn

1.3-Thue trạng và các nguyên nhân ly hôn ở Việt nam `

I-4- Những quy định của pháp luật về thủ tục giải quyết ly

hôn

2.3- Hậu qua pháp lý của ly hôn

- 2.4- Ly hôn trong một số trường hợp đặc biệt

Chương 3:

Thực tiên giải quyết ly hơn của Tịa án nhân dân và những

kiến nghị nhằm hoàn thiện chế định ly hôn

3./- Thực tiên giải quyết ly hôn của Tịa án nhân dân

3.2- Nhiing kiến nghị nhầm hồn thiện chế định ly hônPhần kết luận

Trang |

O7

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

PHẦN MỞ ĐẦU

I1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài.

Gia đình 1a tế bào của xã hội, là tổ ấm của mỗi người, là môi trường quantrọng giáo duc nếp sống và hình thành nhân cách con người mới, góp phần vào sự

nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói "Gia đình tốt

thì xã hội mới tốt, xã hội tốt thì gia đình càng tt”.

Cùng với quan điểm của Triết học và chính trị học, Luật học nghiên cứuvấn để hơn nhân và gia đình như một thực tế xã hội, là cơ sở, nền tảng của sựnghiệp phát triển xã hội văn minh ma trong đó, lợi ích của mỗi cá nhân va lợi ích

của tồn xã hội kết hợp hài hòa và chặt chẽ.

Với vai trò là cơ sở và nên tang của sự phát triển xã hội, với vị trí vừa làđộng lực, vừa là mục tiêu của Cách mạng Xã hội chủ nghĩa, góp phần giải phóng

phụ nữ, thực hiện đân chủ và bình đẳng xã hội, vì mục tiêu đân giầu, nước manh.

xã hội cơng bang, văn minh, việc nghiên cứu vấn để hôn nhân và gia đình dang

<small>được đặt ra như một tất yếu trong giai đoạn Cách mạng hiện nay và được nhiều</small>

<small>ngành khoa học xã hội quan tâm.</small>

Quan hệ gia đình là tổng hòa của các quan hệ nhân thân và quan liệ tài sản,

các quan hệ nay có sự ràng buộc, lệ thuộc lẫn nhau và tác động qua lại một cáchhài hịa. Trong khung cảnh một gia đình thực sự bền vững và hạnh phúc, trone đó

mỗi con người đều tìm thấy và thỏa mãn nhu cầu tình cảm của mình mà cơ sở vật

chất cho sự thỏa mãn đó là tài sản và ngược lại, quan hệ tài sản giữa vợ chồng lại

bất nguồn từ quan hệ nhân thân giữa hai con người đó với đặc trưng là sự phat

sinh các quyền và nghĩa vụ khi họ kết hôn.

Thực trạng của quan hệ hơn nhân và gia đình khơng chỉ phát triển theochiều hướng thuận như ý tưởng và mong muốn của chúng ta, sự tan vỡ của những

£* Hồ Chi Minh Toàn lập, lập 3- NXBST ; Hà nội - 1988, T.135.

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

gia đình cũng là hiện tượng thực tế của xã hội đặt ra một chiều hướng ngược lại

ma mọi ngành khoa học xã hội, trong đó có ngành khoa học Luật học phải nghiêncứu. Việc chia tay của nhiều cặp vợ chồng bang ly hơn vì ngun nhân nào đó đã

trở thành những trở ngại lớn cho sự nghiệp phát triển chung của xã hội, làm tổn

hai trực tiếp tới mỗi con người, đặc biệt là ảnh hưởng tới sự phát triển bình thường

của con trẻ vì khơng đủ điều kiện để đảm bảo về đời sống tỉnh thần và vật chất cho

Việc thiết lập gia đình bất đầu bằng hơn nhân và hơn nhân đã trở thànhhiện tượng xã hội mang tính tất yếu khách quan. Nếu kết hôn là hiện tượng xã hộibình thường của quan hệ hơn nhân thì ly hơn là mặt trái của quan hệ hôn nhân,

nhưng lại không thể thiếu được khi quan hệ hôn nhân đã tan vỡ. Ly hơn được coilà biện pháp giải phóng cá nhân khỏi quan hệ vợ chồng để họ thoát khỏi những

xung đột trong quan hệ hôn nhân khi đã thực sự tan vỡ, đây cũng là biện pháp

nhằm loại bổ các quan hệ hơn nhân khơng cịn sức sống, khơng cịn lành mạnh: đểgóp phần củng cố các quan hệ gia đình trên cơ sở vững chắc hơn.

Hau quả của ly hôn không chỉ là việc chấm dứt quan hệ nhân thân, tình

cam giữa hai con người (vợ và chồng) mà còn làm phát sinh hàng loạt những vấndé về tài sẵn, về con cái, về cấp đưỡng,... tất cả những vấn dé đó đều có tác động

và phần nào ảnh hưởng đến sự ổn định xã hội; đo đó, nếu khơng có sự điều chỉnh

tuột cách chính xác, hợp tình, hợp lý của các chế định pháp luật, mà cụ thể là luật

Hơn nhân và gia đình, thì tình trạng ly hôn hiện nay sé ảnh hưởng lớn đến sự ồn

định và phát triển chung của xã hội.

Ly hôn - là sự ly tán gia đình, vợ, chồng mỗi người mỗi ngả, con cái chỉ có

thể sống với cha hoặc với mẹ. Điều đó thường đem lại sự hụt hãng, trống trải cho

mỗi (hành viên của gia đình. Ly hơn gây ra những mất mát về tình cảm, có trườnghợp làm cho vợ hoặc chồng thiếu tự tin trong cuộc sống, suy sụp về thể chat lẫn

tỉnh thần, khó khăn về kinh tế mà chủ yếu là phụ nữ và trẻ em.

Thành viên trong gia đình chịu nhiều bất hạnh đo ly hôn gây ra vẫn là concái, dac biệt là con chưa thành niên, bởi vì chúng đang cần sự chăm sóc đầy du

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

khơng chỉ về vat chất mà còn về tinh thần của cả bố lẫn mẹ. Bố me bo nhau là mộtcơn sốc mạnh trong tâm hồn non nớt của đứa trẻ. Vì sau đó là những ngày thángthiếu vắng bóng đáng của người cha hoặc người mẹ. Có những trường hợp bố mẹ

bỏ nhau và mỗi bên đi tìm hơn nhân mới, đứa trẻ bị bỏ rơi, thiếu thốn về tình cảm,thiếu sự chăm sóc, ni dưỡng, nhân cách của đứa trẻ sẽ phát triển khơng bình

thường, nhiều đứa trẻ đã rơi vào tình trạng lang thang, cơ nhỡ, thậm chí có trường

hợp chúng trở nên hư hỏng, dấn thân vào con đường tội lỗi....

Ly hôn cũng là việc chấm đứt một đơn vị kính tế gia đình vì nó kéo theo sự

phân chia khối tài sản chung của vợ chồng mà sự phân chia này không phải lúc

nào cũng suôn xẻ. Vì khi tình cảm khơng cịn vợ, chồng trở nên so đo, tính tốn

một cách chi ly với nhau và nhiều khi trở thành tranh chấp về tài sản.

Thực tế trong mấy năm qua ở Việt nam, tình trạng ly hơn có chiều hướnggia tăng đã làm ảnh hưởng nghiêm trong tới mục đích xây dựng gia đình dân chủ,

hòa thuận, hạnh phúc và bền vững. Theo số liệu thống kê chưa đầy đủ của Tòa ánNhân dân Tối cao, trong năm 1996, Toà án các cấp trong cả nước đã thụ lý giảiquyết 49.711 vụ về hôn nhân gia dinh (tăng 34,45% so với cùng kỳ năm trước).Với số liệu thống kê như vậy, chúng ta thấy vấn đề ly hôn không chỉ chiếm một tỷ

lệ lớn, mà cịn thể hiện tính phức tap của vấn dé này. Trong tình trạng hiện nay,

khi các quan hệ xã hội nói chung, quan hệ hơn nhân và gia đình nói riêng có

nhiều biến đổi, đặc biệt là tinh trạng ly hôn ngày mot gia tăng... dang thu hút sựquan tâm của tồn xã hội mà trước hết địi hỏi các ngành khoa học liên quan trong

đó có ngành khoa học luật phải nghiên cứu.

Ly hơn khơng cịn là đề tài mới mẻ, xong ly hôn là vấn đề phức tạp địi hỏiphải có q trình nghiên cứu lâu dai và sâu rộng về nhiều mặt, đặc biệt là chế định

pháp lý về ly hôn. Dé chế định về ly hôn phù hợp với thực tiễn cuộc sống trongdiều kiện kinh tế, xã hội hiện nay và thống nhất với các quy dịnh khác của phápluật, Nhà nước ta đang tiến hành soạn thảo Luật Hơn nhân va Gia đình (sửa đổi);tất cả những vấn dé được phân tích trên đây nói lên tính cấp thiết của việc nghiên

cứu chế định ly hôn ở Việt nam hiện nay.

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

2. Tình hình nghiên cứu đề tài.

Có thể nói rằng dé tài về chế định ly hôn được nhiều người quan tâm, thế

nhưng cho đến thời điểm hiện nay chưa có một cơng tĩnh khoa học nào nghiên

cứu một cách sâu sắc và có hệ thống về đề tài này. Trong các tạp chí luật học cững

nhu trong các sách báo pháp lý chỉ có những bài viết về một vấn dé nào đó củahiện tượng ly hơn như ngun nhân ly hôn, hậu quả pháp lý của ly hôn hay nhữngbài viết tìm hiểu một hoặc một số quy định của pháp luật về ly hôn và những hanchế của chúng. Do vậy, có thể cho rằng đây là luận án thạc sỹ luật học đấu tiên về

để tài này.

3. Muc đích và phạm vi nghiên ctu đề tài.

Mục đích của việc nghiên cứu dé tài nay là làm rõ được bức tranh toàn

cảnh của pháp luật Việt nam về chế định ly hôn từ năm 1945 đến nay. Trên cơ sởđó làm rõ khái niệm và bản chất của ly hơn. Bằng việc phân tích các quy định của

Luật Hơn nhân va gia đình năm 1986 và nghiên cứu thực tiễn giải quyết ly hôncủa TAND trong thời gian qua, sẽ có những kiến nghị cố cơ sở lý luận và thực tiễnnhằm hoàn thiện chế định ly hơn.

Với mục đích đặt ra như vậy, phạm vi nghiên cứu của luận án là:

- Lam rõ một số vấn dé chung về ly hôn, như sự phát triển của chế định ly

hôn trong pháp luật Việt nam; bản chất pháp lý của ly hôn; thực trạng vàcác nguyên nhân ly hôn ở Việt nam; thủ tục giải quyết ly hôn tại TAND.- Nghiên cứu những quy định của Luật Hơn nhân và gia đình năm 1986 về

ly hơn;

- Nghiên cứu thực tiễn giải quyết ly hơn của Tịa án nhân dân và trên cơ sở

đó đưa ra những kiến nghị hồn thiện chế định ly hơn.4. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu.

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

Cơ sở phương pháp luận của việc nghiên cứu đề tài là đựa trên phép biện

chứng duy vật và lịch sử của chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. các

quan điểm của Đẳng ta và các nguyên tac lý luận cơ bản của khoa học pháp lý vềvan để ly hôn. Nghiên cứu lý luận từ thực tiễn, lấy thực tiễn làm sáng tỏ lý luận.

Phương pháp nghiên cứu dé tài bao gồm phương pháp lịch sử, thống kê,

phân tích tổng hợp, so sánh, logic, khảo sát thực tiễn...

5. Điểm mới va ý nghĩa thực tiên của luận án.

Luận án về dé tài “Ché định ly hôn theo quy định của pháp luật Việt nam”được thể hiện theo hệ thống nhận thức một cách khoa học và khách quan hiện

tượng ly hôn và chế định ly hôn theo pháp luật Việt nam. Bên cạnh đó phát hiện

những vấn để mới nảy sinh trong điều kiện kinh tế, xã hội hiện nay cửa công cuộcđổi mới đất nước có tác động đến việc ly hơn và nhhững địi hỏi phải có sự diểu

chỉnh của pháp luật trong lĩnh vực hơn nhân gia đình nói chưng và ly hơn nói

riêng. Tuy nhiên, việc điểu chỉnh này phải có tính nguyên tắc đối với việc sửa đổi,

bổ sung luật hôn nhân và gia đình hiện hành, tạo hành lang pháp luật về hơn nhân

gia đình nói chung và giải quyết vấn để ly hơn nói riêng, g6p phần ổn dịnh quan

<small>hé gia đình, xã hội.</small>

Dưới góc độ lý luận của khoa học pháp lý trên cơ sở đúc kết từ kinhnghiệm thực tiễn, luận án đã đưa ra những kiến nghị có cơ sở lý luận và thực tiễnviệc bảo vệ thành cơng luận án có thể là tài liệu tham khảo trong việc xây dựngluật hôn nhân và gia đình mới. Luận án có thé gop những cứ liệu có cơ sơ khoa

học lịch sử về truyền thống và tập quán của dân tộc Việt nam, hình thành nhữngqui phạm pháp luật Hơn nhân và Gia đình nhằm kịp thời điểu chỉnh những quan

hệ xã hôi đang nảy sinh để các cơ quan và cá nhân quan tâm đến vấn đề này tiếp

tục nghiên cứu làm sáng tỏ cả về lý luận và thực tiễn của van dé đã được nghiên

<small>cứu trong luận án.</small>

Mat khác, luận án cũng có thé 14 tài liệu cấn được tham khảo trong việcgiang day ở một số cấp học, làm cho ngành luật hơn nhân và gia đình von đã

<small>phong phú, càng phone phú hơn, và cũng dong gop kinh nghiệm trong quá trình</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

giải quyết các loại án kiện về hơn nhân va gia đình để cơ quan tiến hành tố tụng

tham khảo trong quá trình xét xử , dam bảo sự thống nhất và đáp ứng nhu cầu của

<small>xã hội.</small>

6. Cơ câu của luận án.

Cơ cấu của luận án được quyết định bởi mục dich và phạm vi nghiên cứu dé tài,

theo đó ngồi phần mở dầu, kết luận và đanh mục tài liệu tham khảo, luận án có

<small>ba chương như sau:</small>

Chương {: Một số vấn dé chung về ly hon.

Cương 2: Chế định ly hôn theo quy định của Luật Hơn nhân và gia đình nam

Chương 3: Thực tiến giai quyết ly hon của Tòa án nhân dan và những kiến nghịnhằm hoàn thiện chế định ly hôn.

Phân kết luận .

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

CHUONG |

MOT SO VẤN ĐỀ CHUNG VỀ LY HON

1d. Khái quái về sự phat triển của chế định ly hòn trong pháp luật Việt nam...

Vấn dé pháp luật Hơn nhân gia đình với ý nghĩa là một bộ phận của cuộccách mang tư tưởng và văn hố, là cơng cụ pháp tý của Nhà nước nhằm điều chính

các quan hệ xã hội trong lĩnh vực hơn nhân và gia đình. Lịch sử phát triển của

Luật Hon nhân và Gia đình Việt nam, trong đó có ly hơn là một thực tế khách

quan phù hợp với sự phát triển của từng giai doan Cách mạng Việt nam. Căn cứvào quá trình phát triển của Cách mạng nước ta nói chung, vào quá trinh phát triểncủa pháp luật về hơn nhân và gia đình nói riêng, chúng tơi chia q trình phát triển

của chế định ly hôn trong pháp luật Việt nam thành các giai đoạn sau đây (sựphân chia nay cũng mang tính tương đối mà thôi).

[.].]- Vài nét về chế định ly hôn trước năm 1945.

Trước Cách mạng tháng § năm 1945, Việt nam là một nước thuộc địa nửaphong kiến dựa trên nền tang kinh tế là chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sanxuất của giai cấp dia chủ phong kiến. Cùng với việc duy trì quan hệ sản xuất

phong kiến, thuc dan Pháp và giai cấp dia chủ phong kiến còn lợi dụng chế độ hon

nhân và gia đình phong kiến đã tổn tại và được duy trì nhiều thế kỷ ở Việt nam để

củng cố nền thống trị của chúng. Thực hiện chính sách "chia để trị", thực dan

Pháp da chia nước ta thành 3 miền khác nhau và ở mỗi miền ban hành, áp dụng

theo từng BO dân luật cụ thể. Tại Bắc kỳ áp dung những quy định trong Bộ dan

<small>luật 1931, tại Nam kỳ áp đụng quy định theo Bộ dan luật giản yếu Nam kỳ 1883,và tai Trung kỳ ấp dụng những quy dinh theo Bộ dan luật 1936.</small>

Thực dân Pháp cho ban hành những Bộ dân luật này phần nhiều đã dựa

theo Hộ dân luật của Cộng hoà Pháp 1804; kết hợp hệ thống pháp luật và nhữngtập tục lạc hậu của xã hội phong kiến Việt nam. Chế độ hôn nhân gia đình theo

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

quy định tại ba Bộ dan luật này dù khác nhau ở những điều luật cụ thé, song nhìn

chung đều bao gồm nội dung giống nhau.

Cả ba Bộ dân luật đều thừa nhận chế độ đa thê, cho phép người chồng được

lấy nhiều vợ đã tạo điều kiện củng cố quyền gia trưởng của người dan ơng. Trong

quan hệ vợ chồng thì chồng là người gia trưởng, người vợ phụ thuộc chồng về mọi

mặt với quan niệm "thuyền theo lái, gái theo chồng". Người dan bà lấy chồng làthuộc hẳn về người chồng. Tập quán của xã hội phong kiến và quy định của pháp

luật đã trói chặt người vợ vào vi trí là nơ lệ trong gia đình. Nếu vợ chết trướcchồng, chồng phải để tang vo 12 tháng mới dược tái thú, nếu chồng chết, người vợphải để tang chồng 27 tháng mới có thể tái giá. Thời kỳ cư sương (thời kỳ Ở vậy)buộc người đàn bà góa phải đợi sau hạn 10 tháng, kể từ ngày chồng chết hoặc từ

ngày phán quyết cho vợ chồng ly hơn của Tịa án có hiệu lực pháp luật thì ngườivợ 26a mdi được kết hôn với người khác. Quy định này tương tự như quy định củaHộ dan luật Pháp 1804 với mục đích tránh lân lộn về con cái.

Ba Bộ luật trên đã đặt việc giải quyết ly hôn dựa trên cơ sở lỗi của vợ

chồng. Những duyên cớ ly hôn của vợ chồng thực chất là vi phạm nghĩa vụ giữa

vợ chống theo luật định. Điều 118 Bộ dan luật Bac kỳ và điều 117 Bộ dan luật

‘Trung ky đã quy định những duyên cớ ly hôn riêng cho vợ (chồng). Chồng có thể

xin ly hơn vì vợ phạm gian (ngoại tinh), vi vợ đã bỗ nhà chồng ma di tuy đã có lời

chồng hối thúc về ma khơng về, vì vợ thứ đánh chửi, bạo hành với vợ chính.

Đặc biệt Bộ dân luật giản yếu 1883 đã quy định việc xin ly hôn chỉ đo

người chồng quyết định, người vợ khơng có quyền đó va áp dụng vào chế độ

"Tam bất khử” cho người vợ. Theo cổ luật phong kiến Việt nam, chồng có quyển

“rãy” vợ nếu: hai vợ chồng nghèo, sau khi mới cưới nhau đã trở nên giàu có, người

vợ để tang nhà chồng 3 năm, người vợ khơng có nơi nương tựa để trở về nhà.

Như vay, chế độ hơn nhân - gia đình ở nước ta trước Cách mạng tháng 8năm 1945 là công cụ pháp lý của Nhà nước thực đân phong kiến nhằm củng cố và

bảo vệ lợi ích của gia đình địa chủ phong kiến, củng cố ách thống trị của thực dân

[Pháp ở Việt nam.

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

Ngay sau khi ra đời (ngày 3 tháng 2 năm 1930), Dang Cộng sản Việt namđã đề ra nhiệm vụ phải xóa bỏ chế độ hơn nhân gia đình lạc hậu, coi đó là mộtyêu cầu cấp thiết của cuộc đấu tranh giải phóng phụ nữ nói riêng, của sự nghiệp

Cách mang nói chung. Trong chương tình hoạt động của Đảng Cộng sản Việtnam được thông qua vào tháng 6 năm 1932, Dang ta đã dé ra yêu cầu đấu tranhđồi "bỏ hết thảy các pháp luật và tục lệ bú bại làm cho đàn bà khơng được bình

dang với đàn ơng, bỏ chế độ áp bức của cha mẹ đối với*con cái, của chồng dối với

vợ, cấm tục lấy nhiều vợ, vợ hầu, vổ lẽ; quyền đàn bà được giữ lại con mình lúc ly

Vào thời kỳ này, trong các chương trình hành động của thanh niên, phong

trào dân tộc dân chủ (1936 - 1939) cũng thể hiện rõ yêu cầu đấu tranh đó.

1.I.2- Chế định ly hơn trong giai đoạn t Cách mạng tháng Tám năm 1945 đếnnăm 1954.

Ngày 2 tháng 9 năm 1945, Cách mạng tháng Tám thành công, Bác Hồ đãđọc Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt nam dân chủ cộng hòa. Ngay từ

khi ra đời, Nhà nước ta đã rất quan tâm và coi trọng việc soạn thao, ban hành mot

bệ thống pháp luật hoàn chỉnh (trong đó có Luật Hơn nhân và Gia đình) nhằm

củng cố và bảo vệ thành quả của Cách mạng, phục vụ lợi ích của nhân dân laođộng. Tuy nhiên, sau Cách mạng tháng Tám, thực dân Pháp có âm mưu trở lại

xâm lược nước ta một lần nữa. Trong hoàn cảnh phải đối phó với thù trong giặc

ngồi, phải chống giặc dói, giặc đốt, giặc ngoại xâm, Nhà nước ta chưa thể ban

hãnh ngay một đạo luật về Hôn nhân - Gia đình. Những năm đầu sau Cách mang,

quan hệ sản xuất phong kiến vẫn còn ảnh hưởng nên việc xố bỏ chế độ hơn nhân- gia đình phong kiến lạc hậu khơng phải dé dang nhanh chóng mà địi hỏi phảikiên trì và tiến hành từng bước. Đảng và Nhà nước ta chủ trương tiến hành phong

trào vận động đời sống mới, vận động quần chúng nhân dân tự nguyện xoá bỏ

những hủ tục phong kiến lạc hậu trong đời sống hơn nhân - gia đình vì pháp luậtthời gian này mới chỉ có Sắc lệnh số 90/SL ngày 10/10/1945 của Chủ tịch nước? Văn kiện Dang từ ngày 27 tháng 10 năm 1929 đến ngày 7 tháng 4 năm 1935 - NXRST Hà nôi - 1964

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

Việt nam dan chủ Cộng hoa, theo đó các quy định về hơn nhân - gia đình trongba Hộ dan luật ở Bắc kỳ 1931, Bộ dân luật 1936 ở Trung kỳ và Bộ dan luật giảnyêu 1883 ở Nam kỳ vẫn có hiệu lực thí hành trên tồn cõi Việt nam.

Nam 1946, Hiến pháp đầu tiên của nước Việt nam dân chủ cộng hoa ra đờiđánh đấu bước chuyển mình lớn nhất trong lich sử dan tộc, ghi nhận thành quả

Cách mạng, quyền dn tộc tự quyết, các quyền, nghĩa vụ công dân. Lần đầu tiên

trong lịch sử pháp luật nước nhà, quyền bình dang nam, nữ được ghi nhận ở đạo

luật có hiệu lực pháp lý cao nhất - Hiến pháp. Tại Điều 9 Hiến pháp 1946 đã quyđịnh “dan ba ngang quyền với dan ông về mọi phương điện”. Day là cơ sở pháp

luật để đấu tranh xố bỏ chế độ hơn nhân gia đình phong kiên, xây đựng chế độ

hơn nhân gia đình mới, dan chủ, tiến bộ. Hơn nữa, trước và sau Cách mang, trong

thực tiễn các cuộc đấu tranh, các phong trào thanh niên, phụ nữ tham gia ngàycảng đông đảo vào công việc xã hội đã đần dần thoát khỏi những ràng buộc của

chế độ hơn nhân gia đình phong kiến. Cũng trong thời gian này, cùng với việc thị

hành chính sách ruộng đất, quyển bình đẳng giữa nam và nữ về mặt kinh tế đã

được Nhà nước bảo đảm, tình hình phát triển của xã hội về mọi mặt kinh tế, chính

trị, quan sự trong q trình đấu tranh cách mạng chống đế quốc và phong kiến. Sự

phát triển của phong trào giải phóng phụ nữ đồi hỏi phải xóa bỏ một số chế định

trong các Bộ dân luật cũ đối với quan hệ hơn nhân - gia đình đang cần trở bướctiến của xã hội nhằm động viên sức người, sức của dam bảo cuộc kháng chiến

chống thực dân Pháp thắng lợi. Nhà nước ta đã ban hành hai Sắc lệnh đầu tiên có

quy định về hơn nhân - gia đình là Sắc lệnh số 9Ø7/SL ngày 22 tháng 5 năm 1950sửa đổi một số qui lệ và chế định trong dân luật và Sắc lệnh số 159/SL ngày 17

tháng [1 năm 1950 quy định vấn đề ly hôn.

Sac lệnh 97/SL ngày 22 tháng 5 nam 1950 có 15 điều trong đó 8 điểu quy

định về hơn nhân - gia đình đã xố bỏ tính chất phong kiến quyền gia trưởng cũ,

<small>quá rang buộc va áp bức cá nhân. Người thanh niên có quyền tự chỉ huy minh và</small>

quản trị tài sản riêng (Điều 2). Sắc lệnh đã quy định cho phếp người đàn bà ly dị

có thể lấy chồng khác ngay sau khí có án tun ly di, nếu din chứng được rang

mình khơng có thai hoac dang mang thai (Điều 4 và Điều ©) đã thể hiện sự bình

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

dang nam nữ (rong quan hệ gia đình. Đối với người dan bà lấy chồng có toàn nang

thực hiện mọi hành vi dan sự (Điều 6).

- Dac biệt Sắc lệnh số 159/SL ngày 17 tháng 11 năm 1950 quy định van dé

ly hơn gồm có 9 điều, chia thành 3 mục: Duyên cớ ly hôn, thủ tục ly hôn vàhiệu lực của việc ly hôn. Sắc lệnh đã quy định thích ứng luật lệ ly hơn,

cơng nhận quyền tự đo giá thú (kết hôn) va tự đo ly hơn, xố bo sự phânbiệt khơng bình đẳng về các duyên cớ ly hôn chung cho ca hai vợ chồng là:Ngoại tình, một bên can án phạt giam, một bên mắc bệnh điên hoặc một

bệnh khó chữa khỏi, một bên bd nhà di quá 2 năm ma không có dun cớ

chính đáng, vợ chồng tính tình khơng hợp hoặc đối xử với nhau đến nỗikhông thể sống chung được (Điều 2).

- Đơn gian thủ tục ly hôn. Điều 3 của Sắc lệnh đã quy định: “vợ chồng có

thể xin thuận tinh ly hôn và khi xử việc ly hơn, Tịa án áp dụng thủ tục tố

tụng bình thường như khi xử các việc họ khác”.

Tuy nhiên trong trường hợp hai vợ chồng xin thuận tình ly hơn, nếu ‘Toa án

nhân dan huyện hay thị xã hồ giải khơng thành và nếu sau đó | tháng hai vợ

chồng vẫn gift ý kiến xin ly hơn thì Tịa án nhân dan huyện, thị xã sẽ chính thứccơng nhận sự ly hôn (Điều 4)

- Sắc lệnh đã quy định việc bảo vệ phụ nữ có thai và thai nhi trong việc lyhơn. Nếu người vợ có thai thì vợ hay chồng có thể xin Tịa án hỗn đến sau

kỳ sinh nở mới xử việc ly hôn (Điều 5).

- Thực hiện nguyên tác bảo vệ quyền lợi của người con chưa thành niên khi

ly hơn Tịa án sẽ căn cứ vào quyền lợi của các con vị thành niên để ấn định

VIỆC trông nom, nuôi đưỡng và dạy đỗ chúng. Hai vợ chồng đã ly hơn phải

cùng chịu phí tổn về việc ni dạy con, mỗi người tùy theo khả năng của

<small>mình.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">

Thong nhất luật lệ về ly hôn trong tồn quốc, kể từ khi Sắc lệnh này được

cơng bố các việc xét xu ly hôn trong phạm vi cả nước phải tuân theo những quydinh trong Sac lệnh này.

Nhu vay, Sắc lệnh số 97/SL ngày 22 tháng 5 năm 1950 va Sắc 1lénh459/SLngay 17 tháng 11 năm 1950 đã góp phần đáng kể vào việc xố bỏ chế độ hơn

nhận và gia đình phong kiến, giải phóng phụ nữ thốt khỏi chế độ đó, góp phầnthúc đẩy sự phát triển của xã hội Việt nam trong thời kỳ Cách mạng dan tộc dan

chủ. Nội dung của hai Sac lệnh này đã thể hiện tinh dân chủ và tiến bộ hơn rất

nhiều so với chế độ hôn nhân gia đình phong kiến. Tuy vậy do được ban hành

trong hồn cảnh xã hội và diéu kiện lịch sử nhất định, hai Sắc lệnh này cịn có mat

hạn chế, chưa xóa bỏ tận gốc và tồn điện chế độ hơn nhân gia đình phong kiến

lạc hậu. Đối với Sắc lệnh 159/SL ngày 17 tháng 11 năm 1950 khi quy định về

việc ly hôn đã quy định giải quyết ly hôn dựa trên những nguyên cớ của vợ

chồng, thực chất là lỗi của bị đơn như: Do một bên ngoại tình, bi can án phạt giam(Điều 2) là chưa dựa vào bản chất của quan hệ hôn nhân.

Cùng với sự phát triển của đất nước, hệ thống pháp luật hôn nhân và giađình nói chung, chế độ ly hon nói riêng cũng đần được hồn thiện.

1.1.3. Chế định ly hơn trong giai đoạn từ 1955 đến 1975.

Ngày 7 tháng 5 năm 1954, chiến địch Điện Biên Phủ lịch sử đã toàn thắng.

Cuộc kháng chiến trường kỳ 9 năm gian khổ chống thực đân Pháp xâm lược đã

thang lợi. Tuy nhiên , dế quốc Mỹ đã thay chân Pháp nhảy vào Miễn Nam Việtnam thực hiện mưa đồ xâm lược, chia cất nước ta lâu dài. Sự nghiệp Cách mạngViệt nam thời kỳ này phải thực hiện hai nhiệm vụ: Miễn Bắc bước vào thời kỳ xây

dựng Chủ nghĩa xã hội, miền Nam tiếp tục cuộc cách mang dân tộc, dan chủ, đấu

tranh: thống nhất nước nhà.

Ở miền Bắc, năm 1957, cuộc cải cách ruộng đất đã căn bản hoàn thành,

quan hệ sản xuất phong kiến, chế độ hơn nhân gia đình phong kiến bị xóa bỏ.Dang và Nhà nước ta chủ trương thực hiện xoá bỏ sở hữu tư nhân về tư liệu sản

</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">

xuất, thực hiện chính sách cải tạo xã hội chủ nghĩa, thực hiện công hữu hố về tư

liệu sản xuất dưới hai hình thức sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể, quan lý kinh tế

bằng cơ chế kế hoạch hóa tập trung bao cấp. Từ năm 1958, ở nước ta đã tiến hành

hợp tác hóa nơng nghiệp, xác lập quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa là cơ sở của

chế độ hôn nhân gia đình mới. Tuy nhiên, những tàn tích của chế độ hơn nhân gia

đình phong kiến vẫn cịn ảnh hưởng và tác động mạnh mẽ vào đời sống gia đình

và xã hội. Để xóa bỏ triệt để những tàn tích lac hậu của chế độ hơn nhân gia đình

phong kiến "việc ban hành đạo luật mới về hôn nhân và gia đình đã trở thành một

doi hỏi cấp bách của tồn thể xã hội. Đó là một tất yếu khách quan thúc đẩy sự

nghiệp xây dựng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc nước ta".

Trong thời kỳ này, Hiến pháp của nước Việt nam dân chủ cộng hòa đã

được Quốc hội khoá I, kỳ họp thứ 11 thing qua ngay 31 thang 12 nam 1959 va

dược Chủ tịch nước ký lệnh công bố ngày 1 tháng 1 năm 1960, trong đó Điều 24đã quy định quyền bình đẳng giữa nam và nữ về mọi mặt kinh tế, chính trị, văn

hố xã hội va gia đình "day là cơ sở pháp lý cho việc xây dựng Luật Hôn nhân và

gia đình mới xã hội chủ nghĩa ở nước ta". Sau các cuộc điều tra khảo sát tình hình

thực tế quan hệ hơn nhân và gia đình được tiến hành từ năm 1951 đến năm 1958 ở

11 vùng kinh tế khác nhau, qua ý kiến thảo luận đóng góp của nhân dân, dự án

Luật Hơn nhân và Gia đình đã được Quốc hội khố I, kỳ họp thứ Ll chính thức

thơng qua ngày 29 tháng 12 năm 1959 và được Chủ tịch nước ký Sắc lệnh côngbố ngày 13 tháng 1 năm 1960 theo Sắc lệnh số 02/SL còn gọi là đạo luật số 13 về

hơn nhân - gia đình.

Luật Hơn nhân và Gia đình là cơng cụ pháp lý của Nhà nước ta được xây

dựng và thực hiện với hai nhiệm vụ cơ bản: Xóa bỏ những tàn tích của chế độ hơn

nhân và gia đình phong kiến lạc hậu, xây đựng chế độ hơn nhân và gia đình mớixã hội chủ nghĩa. Luật này dựa trên nguyên tac hôn nhân tự do, tiến bộ một vợ,

một chồng, nam nữ bình đẳng, bảo vệ quyển lợi của người phụ nữ và trẻ em. Luật

Hơn nhân va Gia đình năm 1959 gồm 6 chương chia thành 35 điều, trong đó

<small>“Ve trình của Chính phú trước Quốc hội ngày 23 tháng 12 năm £959 về Dự Luật Hơn nhân và Gia đình,</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">

chương V gồm 9 điều quy định về ly hôn và căn cứ ly hôn một cách chính xác,

phù hợp với quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin "ly hôn chỉ là việc xác nhận

một sự kiện rằng đó là một cuộc hơn nhân đã chết, sự tồn tại của nó chỉ là bềngồi và lừa đối. Đương nhiên không phải sự tùy tiện của nhà lập pháp... mà chỉ

bản chất của sự kiện mới quyết định được cuộc hôn nhân đã chết hay chưa

<small>ty (4)</small>

Luật Hơn nhân và Gia đình 1959 đã cơng nhận quyển tự đo kết hơn và tự

do ly hơn, xố bỏ sự bất bình đẳng về dun cớ ly hơn chung cho cả hai vợ chồng.

Luật Hơn nhân và Gia đình 1959 không quy định những căn cứ ly hôn riêng biệt,

mà quy định căn cứ ly hôn duy nhất cho mọi trường hợp là tình trạng mâu thuẫn

vợ chồng trầm trọng, đời sống chung khơng thể kéo đài, mục đích hơn nhân

khơng dat được.

Luật Hơn nhân và Gia đình 1959 đơn giản thủ tục ly hôn. Điều 25 quy

định: Vợ chồng có thể xin thuận tình ly hơn sau khi diều tra nếu xét đúng hai bên

tự nguyện xin ly hơn, Tịa án sẽ cơng nhận việc thuận tinh ly hơn. Việc ra quyếtđịnh cơng nhận thuận tình ly hơn hoặc bản án xử cho ly hôn là sự phản ánh thựctế khách quan cuộc sống chung giữa hai vợ chồng khơng cịn nữa chứ khơng phải

thể hiện ý chí của người xét xử. Ở đây "tình trạng mâu thuẫn vợ chồng trâm trọng,

đời sống chung không thể kéo đài, mục đích hơn nhân khơng đạt được” khơng chỉ

đơn giản là giữa hai vợ chồng khơng cịn tình u mà nó muốn nói đến việc niday con cái... và nếu tiếp tục duy trì cc sống đó thì nó khơng thể là cơ sở để xâydung gia đình hồ thuận, lạnh phúc. Do vậy Tịa án xử cho ly hơn chỉ là côngnhận về mặt luật pháp với thực trang là cuộc hôn nhân đã chết.

Luật này cũng quy định việc bảo vệ phụ nữ có thai; "chỉ có thể xin ly hôn

khi người mẹ đã sinh dé được một năm. Điều hạn chế. này không áp đụng đối với

việc ly hôn của người vợ” (Điều 27); "vợ chồng đã ly hơn vẫn có moi nghĩa vụ và

quyền lợi đối với con chung" (Điều 31) và quy định việc giao con cho ai trụng

đ â Mỏc - Bn d lut về ly hơn. C.Mac - Ph. Anghen tồn lận. T.1 - NXBST Hà nội 1978. T.219

</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">

nom, ni dudng, cũng như việc dong góp phí tổn ni nấng, giáo đục con cái.

Indi người tùy theo khả năng của mình (Điều 32).

Việc thực hiện Luật H6n nhân và Gia đình 1959 ở miền Bắc trong quá trình

cải tạo và xây dựng cơ sở vật chất của chế độ xã hội chủ nghĩa đã đạt được nhiều

thành tựu to lớn, chế độ hơn nhân và gia đình phong kiến đã dần được xố bỏ vớinhững tan tích lạc hậu dan được loại bỏ trong đời sống nhân dân. Quá trình thựchiện Luật Hơn nhân và Gia đình 1959 đã đi vào cuộc sống và nhiều quy định trở

thành tập quán tốt đẹp trong xã hội và được nhân dân tự nguyện thực hiện, ý thứcpháp luật của quần chúng nhân đân ngày càng được nâng cao.

EAIẬt Hôn nhân và Gia đình 1959 được Nhà nước ta ban hành đã khẳng

định bản chất của pháp luật xã hội chủ nghĩa, là công cụ pháp ly của Nha nước

Việt nam đân chủ cộng hồ, phục vụ cho lợi ích của nhân dân lao động phù hợp

với yêu cầu và nguyện vọng của tồn đân, nhằm xây đựng chế độ hơn nhân và gia

đình mới xã hội chủ nghĩa, thúc đẩy sự nghiệp cách mang trong phạm vi ca nước.

Đồng thời việc ban hành Luat Hơn nhân và Gia đình 1959 là một bước phát triển

dần hoàn thiện hệ thống pháp luật về hơn nhân và gia đình, là cơ sở mới để từngbude xây đựng nganh Luật Hôn nhân và gia đình trong hệ thêng pháp luật xã hội

chủ nghĩa.

Tuy nhiên, q trình thực hiện và áp dung Luật Hơn nhân va Gia đình 1959

cịn gap khơng it trở ngại, một số trường hợp phát sinh quan hệ hôn nhân và gia

đình nhưng khơng có qui phạm điều chỉnh. Do đó, khi có tranh chấp về hơn nhân,gia đình theo u cầu của đương sự, Tòa án khi xét xử thiếu cơ sở pháp lý, dan tớitình trạng xét xử theo cảm tính, thiếu khách quan, khơng bảo vệ được quyền lợicủa đương sự, như việc yêu cầu ly hôn mà một bên vợ (chồng) là người nước

ngoài hoặc định cứ ở nước ngoài,... Do vậy vấn để cần sửa đổi mội cách tồn điện

<small>Luật Hơn nhân và Gia đình 1959 là phù hợp với nhiệm vụ cách mạng trong giai</small>

đoạn mới cua dat nước.

(J miền Nam, sau nam E95 do âm mưu chia cất lâu đài đất nước ta, đế

quốc My đã thay chân thực dan Pháp nhảy vào và tiếp tục chính sách cai trị của

</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">

chủ nghia đế quốc. Dat nước ta tạm thời bị chia thành hai miền Nam, Bac với hai

chế độ chính trị khác biệt

Miền Nam nước ta trong những năm đầu dưới sự thống trị của chế độ gia

đình trị Diệm - Nhu, tiếp sau là chế độ ngụy quyền Sai gịn, ln có sự trợ giúpcủa các quan thầy Mỹ cùng tim cách chọn lựa những chính sách cai trị phan động,

trong đó khơng loại trừ pháp luật về hơn nhân và gia đình. Từ năm 1954 đến nam

1975 đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai đã ban hành một số văn bản pháp luật áp dụngtrong các quan hệ hơn nhân- gia đình như Luật Gia đình ngày 2 thang | năm 1959

(luật 1/59) đưới chế độ Ngô Đình Diệm; Sắc luật 15/64 ngày 23 tháng 7 năm

1964. và Bộ Dân luật 20/12/1972 của chính quyền Nguy Sài gon.

Các văn bản Pháp luật này thường quy định tuổi kết hôn đối với nam phảidủ 18 tuổi, đối với nữ phải đủ 15 tuổi (hoặc 16 tuổi) và cho phép hạ thấp tuổi kết

hôn trong những trường hợp đặc biệt theo quyết định của Nguyên thủ Quốc gia

(Điều I1 - Luật Gia đình ngày 2 tháng 1 năm 1959; Điều 10.1 Bộ Dân luật năm

1972,..) Việc kết hôn của nam nữ đưới 21 tuổi phải được sự đồng ý của cha me

hay ông bà. Chế định ly thân được áp dụng theo quyết định của Tòa án dựa trên

lỗi của vợ chồng. Đặc biệt Luật Gia đình 2/1/1959, tại Điều 55 đã quy định cấmvợ chồng không được ly hơn trừ trường hợp đặc biệt, Tổng thống có thể quyết

Sac luật 15/64 và BO Dan luật 1972 có quy định chế định ly hôn, tuy nhiên,

giải quyết ly hôn cũng dựa trên những duyên cớ, thực chất là lỗi của vợ, chồng,

<small>nhimg duyên cớ ly thân cũng được áp dung cho ly hôn (Điều 170 - Bộ Dân luật1972).</small>

Nhu vậy, chế độ hơn nhân và gia đình ở miền Nam nước ta trước ngày giảiphóng là chế độ hơn nhân gia đình phong kiến tư sản với tính chất lạc hậu, phầnđộng như bản chất của Nhà nước thực dân phong kiến. Các văn bản luật này chínhlà cơng cụ của Nhà nước phản động đi ngược lại lợi ích của nhân dân lao động

nên sự sụp đổ của bọn bù nhìn bán nước, xóa bỏ chế độ hơn nhân gia đình tư sản,

phong kiến lạc hậu là khơng thể tránh khỏi.

</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">

1.1.4. Chế định ly hôn trong giai đoạn tt năm 1976 đến nay.

Với thắng lợi hoàn toàn của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước (ngày

30 tháng 4 năm 1975) "Cách mạng Việt nam chuyển sang giai đoạn mới, giai

đoạn cả nước độc lap, thống nhất, tiến hành Cách mạng xã hội chủ nghĩa tiên

<small>~. E4 A ? ~ ~ ˆ 5</small>

nhanh, mạnh vững chấc lên Chủ nghĩa xã hội". ;

Quốc hội khoá VI trong kỳ họp thứ nhất đã đổi tên nước ta thành “Nước

Cộng hoa xã hội chủ nghiã Việt nam". Nhà nước xã hội chủ nghĩa thống nhất doi

hỏi phải có hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa thống nhất trên cả hai miền Nam

Bác. Ngày 25 tháng 3 năm 1977, Hội đồng Chính phủ đã ra nghị quyết 76/CP quy

định về việc thực hiện pháp luật thống nhất trong phạm vi cả nước, trong đó có

Luật Hơn nhân và Gia đình 1959. Như vậy, theo quy định của Hội đồng Chínhphủ trong Nghị quyết 76/CP từ ngày 25 tháng 3 nam 1977, Luật Hơn nhân và Gia

đình 1959 được áp dụng trên ca hai miền Nam, Bắc. Việc 4p dụng và thực hiện

Luat Hơn nhân và Gia đình 1959 trong phạm vi cả nước ngồi nhiệm vụ xố bdchế độ hơn nhân và gia đình của chế độ cũ ở miền Nam cịn nhằm xây dựng gia

đình mới xã hội chủ nghĩa trên đất nước ta.

Ngày 18 tháng 12 nam 1980, tại kỳ họp thứ 7 Quốc hội khóa VI nước

Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam đã chính thức thơng qua bản Hiến pháp mới

của Nhà nước, đó là nên tảng cho bước phát triển mới của Luật Hơn nhân và Gia

đình Việt nam và là đạo luật cơ ban của Nhà nước. Hiến pháp 1980 đã ghi nhận

thành quả cách mạng vĩ đại sau mấy chục năm chiến dấu giành lại đất nước; quyđịnh về ché độ chính trị, kinh tế, văn hố, xã hội; quyển và nghĩa vụ cơ bản của

mỗi công dân; cơ cấu tổ chức và nguyên tac hoạt động của các cơ quan Nhà nước;

thể chế hod mối quan hệ giữa Dang lãnh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà nước quản

lý trong xã hội Việt nam. Trong Hiến pháp 1980, các Điều 38, 47,63 và 64 đã quy

định các nguyên tắc của chế độ hơn nhân và gia đình xã hội chủ nghĩa là cơ sởpháp lý để xây dung đạo luật mới về hơn nhân - gia đình.

9 i h h paint eas 5 TRUONG OH AT WA hNghị quyét Đại hội Đại biêu toàn quốc lần TV Pang CS Việt nam - ganda Ha nội - 1978.

<small>H n VY</small>

" THUVIES Hag

</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">

Sự nghiệp xây đựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta đã giành được những thành

tựu đáng kể. Tình hình ở nước ta đã thay đổi về căn bản so với những năm 1959.

Một số quy định của Luật Hồn nhân và Gia đình 1959 khơng còn phù hợp, do

kinh tế phát triển, đặc biệt là tình hình thực tế của quan hệ hơn nhân gia đình, địihỏi Nhà nước ta cần phải quy định dây đủ và cụ thể hơn trong pháp luật để điều

chính các quan hệ hơn nhân - gia đình xã hội chủ nghia. Việc ban hành Luật Hơn

nhân và Gia đình mới là một tất yếu khách quan để thúc đầy sự nghiệp xây đựng

chủ nghĩa xã hội trong phạm vi cả nước. Ngày 25 tháng 10 năm 1982, Hội đồng

Bộ trưởng (nay là Chính phủ) đã ra quyết định về việc thành lập Ban du thảo Luật

Hiên nhân và Gia đình mới. Sau thời gian tiến hành điều tra, khảo sát về tình hìnhcác quan hệ hơn nhân - gia đình trong các khu vực, tham khảo ý kiến đóng góp

của nhân đân và các cơ quan Nhà nước, các tổ chức xã hội, dự án luật Hôn nhân

và Gia đình mới đã được Quốc hội khố VII, kỳ họp thứ 12 chính thức thơng qua

ngày 29 tháng 12 năm 1986 và được công bố ngày 03 tháng O1 nam 1987 theolệnh số 21/LCT- HĐNN của Chủ tịch Hội đồng Nhà nước.

Luật Hơn nhân và Gia đình 1986 gồm 57 điều, chia thành 10 chương dựa

trên các nguyên tic hôn nhân tự nguyện và tiến bộ một vợ, một chồng, vợ chồngbình đẳng, bảo vệ quyền lợi của cha mẹ và con cái. Luật Hơn nhân và Gia đìnhnan 1986 kế thừa và phát triển luật Hôn nhân - Gia đình 1959, góp phần vào sự

nghiệp giải phóng phụ nữ, xây dựng gia đình xã hội chủ nghĩa thật sự đân chủ,hoa thuận, hạnh phúc bén vững, thúc đầy sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc

Việt nam xã hội chủ nghĩa.

Như vậy, Luật Hơn nhân và Gia đình ở nước ta một bước nữa được hoàn

thiện hơn, phù hợp với sự phát triển về kinh tế, xã hội của dat nước. So với Luật

Hơn nhân va Gia đình 1959, Luật Hơn nhân và Gia đình 1986 của Nhà nước ta

quy định đầy đủ hơn. Với 10 chương, 57 điều, Luật Hơn nhân và Gia đình 1986

đã để cập tới những quy định chung của việc kết hôn, nghĩa vụ của cha mẹ với

con cái, quy định việc xác định cha mẹ cho con, vấn dé ly hôn, quan hệ hôn nhâncủa công dân Việt nam với người nước ngồi. Những quy định này của Luật Hơn

nhân và Gia đình 1986 đã bổ sung những hạn chế của Luật Hơn nhân và Gia đình

</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">

1959. Nghiên cứu các điều luật cụ thể của Luật Hôn nhân va Gia đình 1986 có

những quy định khác với Luật Hơn nhân và Gia đình 1959 về các điều kiện kết

hôn và cấm kết hôn, nghĩa vụ và quyền của vợ chồng về nhân thân, tài sản,... đặcbiệt là chế độ tài sản vợ chồng được quy định trong Luật Hơn nhân và Gia dinh

1986 có những thay đổi cơ bản.

Tai chương VII Luật Hơn nhân va Gia đình 1986 quy định về ly hôn (từ

Điều 40 đến Điều 45) cũng giống như Luật Hơn nhân và Gia đình 1959. Quy địnhvề các trường hợp ly hơn (thuận tình ly hôn hoặc do môt bên vợ, chồng yêu cầu),về căn cứ ly hơn đều như nhau, chỉ có căn cứ pháp lý chung nhất là khi vợ chồng

xin ly hôn ma diéu fra, hồ giải khơng thành, Tịa án nhân dan "nếu xét thấy tình

trạng trầm trọng, đời sống chung khơng thể kéo dài, mục dích cuộc hơn nhânkhơng đạt được thì Tịa án nhân dân xử cho ly hơn” (Điều 40 Luật Hơn nhân và

Gia đình 1986, Điều 25,26 Luật Hơn nhân và Gia đình 1959).

Tuy nhiên, theo Luật Hơn nhân và Gia đình 1986, thủ tục hịa giải được đặtra và coi là thủ tục pháp lý bắt buộc phải cớ trong việc giải quyết án kiện ly hơn,

dù hai bên vợ chồng thuận tình ly hơn hay chỉ có một bên vợ (chồng) u cầu.

Cịn Luật Hơn nhân và Gia đình 1959 chỉ qui định thủ tục hịa giải đối với trườnghợp ly hơn đo vợ, chồng yêu cầu. Phần giải quyết hậu quả pháp lý của việc ly hơn,

đặc biệt là các ngun tắc thanh tốn (chia) tài sản chung của vợ chồng thì Điều42 Luật Hơn nhân va Gia đình 1986 quy định cụ thể, chi tiết hơn Điều 29 Luật

Hơn nhân va Gia đình 1959.

Nhu vậy, chế định ly hôn trong Luật Hôn nhân và Gia đình 1986 đã quy

định khá đây đủ các quan hệ cần thiết, khá cụ thể so với chế định trong Luật Hơn

nhân và Gia đình 1959. Các quy định cũng rõ ràng, đầy đủ hơn, kịp thời điều

chỉnh các quan hệ phát sinh trong lĩnh vực hôn nhân gia đình trong những năm

đầu của thời kỳ đổi mới trên đất nước ta. *

Việc thực hiện Luật Hôn nhân và Gia đình 1986, kể từ khi ban hành (ngày

3 tháng 1 năm 1987) cho đến nay đã được 10 năm, đã góp phần củng cố chế độhơn nhân gia đình mới xã hội chủ nghĩa, xây dựng những gia đình xã hội chu

</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">

nghĩa thật sự đân chủ, hòa thuận, hạnh phúc và bền vững. Hệ thống pháp luật của

Nhà nước ta về hôn nhân gia đình nói chung, chế định ly hơn nói riêng ngây càng

dược hồn thiện. Tuy nhiên, những nam gần day, tình hình phát triển kinh tế, xã

hội của đất nước có nhiều biến đổi, khác với những năm 1959 và những năm đầu

thập ky 80. Tình hình đó đã tác động đến nhiều mặt của đời sống xã hội, đến các

quan hệ hơn nhân va gia đình. Do đó, các quy định của Luật Hơn nhân và Giađình 1986 (một số điều) khi áp dung khơng cịn phù hợp với tình hình thực tế. Các

trường hop mới nảy sinh trong xã hội đồi hỏi cần được điều chỉnh bằng pháp luật,

những Luật Tơn nhân va Gia đình 1986 chưa có quy định như: quan hệ hơn nhân

gia đình của cơng đân Việt nam với người nước ngoài. Luật mới về hơn nhân

-gia đình của Nhà nước ta nên dự liệu đầy đủ các trường hợp “có yếu tố nước

ngồi” trong các quan hệ hơn nhân - gia đình, định rõ việc áp dụng pháp lý nhằm

giai quyết xung đột pháp lý cụ thể. Bên cạnh đó, các văn bản pháp luật được Nhà

nước ta ban hành những năm gần dây có liên quan đến lĩnh vực hơn nhân - gia

đình như Bộ luật dan sự,.. vì vậy cần sửa đổi, bổ sung Luật Hơn nhân và Gia đình

1986 cho phù hợp với tình hình thực tế hiện nay. Đó là nhu cầu khách quan của xã

llưởng ứng năm Quốc tế gia đình 1994 do Liên hợp Quốc phát động va

khẩn trương nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung chính sách pháp luật về hơn nhân gia

đình, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 482/TTG ngày 8 tháng 9 nam1994 về việc tổng kết 8 năm thi hành Luật Hơn nhân và Gia đình và Ban soạn thao

<small>LLuat Hơn nhân va Gia đình đã được thành lập do Bộ Tư pháp chủ trì. Chúng ta hy</small>

vọng rang dự án Luật Hơn nhân và Gia đình sửa đổi lần này sẽ đáp ứng đượcnhững nhu cầu của xã hội và từng gia đình Việt nam, góp phần xây dựng chế độhơn nhân gia đình mới và một bước hồn thiện Pháp Luật Hơn nhân và Gia đìnhnói chung, chế định ly hơn nói riêng trong thời kỳ đổi mới.

I.2- Khái niệm va bản chát pháp lý của ly hôn.1 .2.1- Khái niệm ly hôn.

</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">

Từ khi trong xã hội lồi người hình thành khái niệm gia đình, thì khái niệm

ly hơn cũng đã được đề cập tới và là một bộ phận không thé tách rời được củapháp luật hơn nhân và gia đình. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác Lê nin, hơn

nhân trong đó có ly hơn là hiện tượng xã hội mang tính giai cấp sâu sắc, nó có q

trình phát sinh, tồn tại và chấm dứt quan hệ hôn nhân. Thông thường thì hơn nhânlà sự liên kết suốt đời giữa vợ và chồng, bởi vì nó được xây đựng trên cơ sở tìnhu chân chính của hai bên nam và nữ nhằm gắn bó và thỏa mãn những tình cảm

trong đời sống gia đình, xây dựng gia đình hạnh phúc, bền vững. Tuy nhiên, tính

chất suốt đời của hơn nhân vẫn có những trường hợp ngoại lệ, tức là sau khi kếthôn, trong thời gian chung sống giữa vợ và chồng phát sinh những mâu thuẫn

tram trọng mục dich của hôn nhân không đạt được và cả hai hoặc mot người vợhay chồng khơng thể tiếp tục sống chung được thì Pháp luật quy định cho phép

chấm dứt quan hệ vợ chồng bằng việc ly hôn. Khoa học pháp lý coi ly hôn là việc

chấm dứt quan hệ vợ chồng khi hai người còn sống. Còn pháp luật quy định,

muốn chấm đứt quan hệ hơn nhân khi vợ chồng cịn sống phải được Tồ án nhân

dân cho ly hơn bang bản án hoặc bằng quyết định cơng nhận sự thuận tình ly hôn.

Ly hôn là sự chấm dứt hôn nhân khi cả hai vợ chồng cịn sống đo ý chí đơnphương của một bên hoặc đo sự thỏa thuận của hai bên trước pháp luật. Như vậy,chấm đứt hôn nhân bằng ly hơn là kết qua của ý chí vợ và chồng, ngồi ra khơng

mt người nào khác có thể u cầu ly hơn được. Bên cạnh đó, Nhà nước ta kiểm

sốt việc ly hơn bằng chế định pháp luật nhằm bảo vệ quyền lợi cho mỗi người,cho xã hội va bao đảm các nguyên tac của hôn nhân xã hội chủ nghĩa. Theo quiđinh hiện hành của Nha nước ta chỉ có Tịa án nhân dan mới có quyền cho ly hơn

vì ly hơn là một hiên tượng xã hội phức tạp, nó dụng cham đến tình cải vợ chồng,

đến lợi ích của gia đình và xã hội.

Ly hơn là một mặt của hôn nhân. Nếu kết hôn là hiên tượng bình thường

nhằm xác lập quan hệ vợ chồng, thì ly hơn là quan hệ bất bình thường, là mặt trái

của hôn nhân nhưng không thể thiếu được khi quan hệ hôn nhân đã thực sự tan

<small>vỡ, trong trường hợp đó thì ly hơn là giải pháp cần thiết cho cả hai vợ chồng.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">

Từ sự phân tích trên, chúng tơi có khái niệm ly hơn như sau: Ly hôn là sự

cham đứt quan hệ hôn nhân (vợ chồng) đo Toà án nhân dân quyết định khi có một

trong những cán cứ do pháp luật quy định trên cơ sở yêu cầu của vợ hoặc chồng

hay của cả hai vợ chồng.

1.2.2. Bản chất pháp lý của ly hơn.

Cùng với tiến trình lịch sử, gia đình ln được coi là nền tảng của xã hội

Việt nam, do đó gia đình đã sớm được tổ chức chặt chẽ và những qui định pháp

luật về nó qua từng thời kỳ phát triển của đất nước mang những nét chung nhấtcủa lịch sử và thời đại. Là một nội dung quan trọng của Luật hơn nhân và gia đình

Việt nam, chế đinh ly hơn ngồi việc mang những nét chung đố còn mang những

đặc điểm thể hiện sắc thái thuần tuý của dân tộc Việt nam.

Dưới chế độ phong kiến, phù hợp với sự khẳng định của Anghen giáo hội là

sự khái quát cao nhất và sự phê chuẩn của chế độ phong kiến đương thời. Pháp

luật và tục lệ phong kiến Việt nam có nhiều quy phạm mang tính ln lý, nho

giáo, đặc biệt là quy phạm về hôn nhân và gia đình mà theo đó người phụ nữ phảisống theo thuyết tam tòng (tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử).Cuộc đời người phụ nữ gắn với cơng việc gia đình, với chồng con trên cơ sở địa vị

thấp hèn và nhẫn nhục, bi chi phối bởi nguyên tắc "phu xướng, phụ tuỳ”, ngườichồng là chúa tể trong gia đình, người vợ chỉ là cơng cụ biết nói thuộc sở hữu của

người chồng. Do lễ giáo phong kiến khơng có sự bình đẳng giữa nam và nữ nên

nhiều phụ nữ mặc dù khơng cịn tình cảm với chồng và cuộc sống chung chỉ

mang lại đau khổ cho họ mà họ vẫn không được phép ly hôn.

Đến thời ky tư bản chủ nghĩa, do tác động của tư tưởng cách mạng tư san là

tự đo và bình dang nên pháp luật nói chung và các quy định pháp luật trong linh

vục ly hơn nói riêng cũng khơng nằm ngồi xu hướng đó. Các nhà luật gia tư sản

cho rằng tự đo ly hôn phải được thừa nhận như một quyền pháp định. Tuy vậy,trong thời kỳ tư bản chủ nghĩa quan điểm về ly hôn cũng thay đổi tùy theo từng

giai đoạn lịch sử và phần nào phụ thuộc vào tôn giáo. Hiện nay, pháp luật tư sản

</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">

đều thừa nhận quyền ly hơn (trừ một số ít nước như Malta, San Marino...) tuy

nhiên quan điểm và quy định về ly hôn ở các nước cũng có nhiều điểm khác nhau.

Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, ban chất xã hội chủ nghĩa của luật pháp đãthể hiện được tinh ưu việt của nó trong moi lĩnh vực, trong đó có vấn dé ly hôn.

Ban chất của ly hôn là sự tan vỡ của cuộc hôn nhân, do vậy pháp luật (pháp luật

Hôn nhân va Gia đình) khơng phải là yếu tố có thể han gắn sự rạn nứt về tình cam

của các bên trong cuộc sống vợ chồng, mà trái lại, việc Tịa án cơng nhận thuậntình ly hơn hay xử cho ly hôn chỉ là việc ghi nhận một cách khách quan, một thựctế đối với cuộc hôn nhân tan vỡ mà thơi.

Ở đây, ngồi việc thừa nhận quyền tự do hơn nhân, pháp luật cịn đạt ra

việc giải quyết ly hôn phải đựa vào bản chất và thực trạng của cuộc hôn nhân để

xem xét và quyết định hop lý, hep tình. Khác với pháp luật tư bản, pháp luật xãhội chủ nghĩa không coi hôn nhân là một khế ước dân sự và coi hôn nhân là sự tự

nguyện, cộng đồng về tinh thần và tài sản của hai bên nam nữ. Yếu tố tình cam

gan bó họ với nhau là quan trọng. Tuy nhiên, tình u khơng phải là yếu tố duynhất để duy trì quan hệ vợ chồng, mà quan hệ vợ chồng còn phụ thuộc vào nhiều

yếu tố khác như trách nhiệm đối với gia đình, bản thân và xã hội. Do vậy, khi giảiquyết việc ly hơn, cơ quan Nhà nước có thẩm quyển khơng chỉ dựa vào ý muốn

chủ quan của vợ, chồng mà còn xét tới yếu tố con cái và sự phát triển của gia đình.

Như vậy, quan điểm về ly hơn của Nhà nước xã hội chủ nghĩa tiến bộ hơn

so với quan điểm của Nhà nước phong kiến, tư bản (trong đó Luật pháp của chínhquyền ngụy quyền Sài gịn cấm ly hôn). Luật pháp xã hội chủ nghĩa không nhữngtơn trọng quyền tự do của con người, mà cịn bảo đảm lợi ích chung cho cả xã hội.Chúng ta đều thấy cấm ly hôn là một quan điểm lạc hậu, vơ nhân đạo, là "đi tích

của thời kỳ ‘Trung cổ mà Đạo Thiên chúa kết hợp với chế độ Phong kiến còn

thống trị trên thế giới... Bây giờ chỉ có nơi nào cịn giữ chế độ thân quyền lạc hậu

thì mới cấm ly hơn” (Trích phát biểu của Thủ tướng Pham Văn Đồng tại phiên họp

Quốc hội nước Việt Nam Dân Chủ Cộng hòa ngày 2/12/1959). |Liên hệ với pháp luật của ta, thì mục đích của cuộc hơn nhân trong chế độ

ta là xây dựng những gia đình đân chủ hịa thuận, bền vững hạnh phúc. Nhưng vì

</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">

lé nay hay lẽ khác, như việc lựa chọn khơng thận trọng nên trong đời sống gia

đình xảy ra những mâu thuẫn kéo dài, sâu sắc, khiến cho vợ chồng hết tình, hết

nghĩa, cuộc sống chung khơng thể tiếp tục được nữa thì ly hơn là biện pháp cần

thiết để giải phóng cho những cặp vợ chồng này. Đồng chí Xn Thuỷ đã phântích: "Hơn nhân tự do bao gồm hai mặt: Tự do kết hôn và tự do ly hơn. Tự do lyhơn khơng có nghĩa là ly hôn bừa bãi, ly hôn là biện pháp giải quyết một tình

trạng nghiêm trọng làm cho đơi vợ chồng khơng thể sống chung được nữa".t®

Ly hơn là hiện tượng xã hội khơng bình thường, nó đặt đâu chấm hết chomột cuộc hơn nhân nhưng để lại sau đó nhiều hậu quả như việc chăm sóc, giáo

dục con cái, việc ổn định đời sống của mỗi người sau ly hơn.... Để phối hợp vớicác điêu kiện kính tế, xã hội, nguyện vọng và sự phát triển tâm lý của cộng đồng

xã hội, việc thay đổi các quy định pháp luật là cần thiết và tất yếu. Hiến pháp 1980đã đánh dấu bước ngoặt lớn trong lịch sử lập pháp của nước nhà, nó quy định đầydi và chặt chẽ quyển bình đẳng giữa nam và nữ (Điều 36) về sở hữu riêng của

công dân được pháp luật bảo hộ (Điều 27), những quy định đó được các nhà làm

luật lấy làm cơ sở, nên tang để xây dựng Luật Hơn nhân và Gia đình 1986 thay

thế luật Hơn nhân và Gia đình 1959.

1.3- Thực trạng và các nguyên nhân ly hôn ở Việt nam hiện nay.

1.3.1- Thực trạng ly hôn hiện nay.

Nhà nước ta là nhà nước của dân, do dân, và vì dân, trong đó, mọi cơng dân

đều bình đẳng trong mọi lĩnh vực của cuộc sống. Bên cạnh đó, pháp luật cịn ưu

tiên bảo vệ quyền lợi của phụ nữ và trẻ em nhằm đặt nền móng xây dựng một xã

hôi ngày càng tốt đẹp hơn. Tôn trọng và bảo vệ quyển lợi của phụ nữ và trẻ em

dược thể hiện rất rõ ràng trong xã hội ta mà cụ thể là trong chế định ly hôn.

Trong hệ thống pháp luật của mỗi nước có những quy định về ly hôn khácnhau và ngay cả trong cùng một nước những quy định này cũng thay đổi theo

từng thời kỳ, phụ thuộc vào tình hình kinh tế, chính trị, xã hội của quốc gia đó.

Ngày nay, ở các nước, vấn đề công nhận hay không công nhận quyền ly hơn là'® Xn Thuỷ báo cáo về dự án luật HN-GĐ. Bộ Tư pháp xuất bản 1959 - T.11

</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">

vận để dang được tranh luận và chưa ngã ngũ, bởi mỗi nước đều đưa ra những lýđo bảo vệ quan điểm của mình.

Pháp luật phong kiến thừa nhận sự bất bình đẳng giữa nam và nữ, giữa vợ

và chồng. Trong xã hội phong kiến, đo tư tưởng trọng nam, khinh nữ, coi người

dan ông là trụ cột, là trọng tâm của gia đình, của xã hội nên pháp luật đã công

nhận và bảo vệ quyển gia trưởng của người dan ông. Quan niệm cho rằng lấy vợ là

để phục vụ, hầu hạ chồng, để chồng xây dung sự nghiệp, thậm chí nhiều nướcphương đơng quan niệm rằng lấy vợ chỉ để đẻ con nỗi dõi tông đường, vì vậy việcly hơn ở thời kỳ phong kiến chủ yếu là do người chồng quyết định.

Ngày nay, phụ nữ đã có được tiếng nói của mình và được quyền đưa đơn

ly hôn. Theo Luật Hôn nhân và Gia đình 1986 (Điều 40) thì khi một bên vợ hoặcchồng xin ly hơn, nếu hịa giải khơng được và thấy tình trạng trầm trọng, đời sốngchung khơng thể kéo đài, mục đích hơn nhân khơng đạt thì Tịa án nhân dân sẽcho ly hơn ma khơng đặt điều kiện gì về thời gian. Bên cạnh đó, do tác động của

hồn cảnh kinh tế, xã hội, số vụ ly hôn gần đây có xu hướng tăng, có thể làm ảnh

hưởng đến trật tự xã hội// để phần nào nắm được thực trạng này, chúng tôi đưa ra

day một vài số liệu về ly hôn để chúng ta xem xét.

Theo thống kê của Tòa án một huyện trong tỉnh Hải Dương từ năm 1990

đến năm 1996 thì số vụ ly hơn qua các năm như sau:

Nam Số vụ cũ của năm trước còn lại Số vụ mới Tổng số

<small>1990 7 — 252 259</small>

— 199) | 12 261 273

<small>-_ 1992 : Ad -_ 265 27601993 9 - __ 259 ~ 268.</small>

_ 1994 SỐ 14 264 278 _

_ 95 | 19 266 285

1996 16 271 287

Qua đó chúng ta thấy chỉ ở một huyện nhưng số vụ ly hơn qua các năm có

biến động và đạt con số gần 300 vụ/năm. Điều này cho ta thấy việc ly hơn có xu

hướng gia tăng. Việc giải quyết các vụ ly hôn trong năm của các Tòa án thường

đạt tỷ lệ cao từ 92-95%. Như vậy, hầu như các vụ ly hôn đều được giải quyết.

</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">

Citing theo báo cáo thống kê trước đây cho thấy, người vợ đứng nguyên don

thường có số lượng cao hơn người chồng. Theo báo cáo về tình hình thi hành Luật

Hơn nhân và Gia đình 1986 của Bộ tư pháp thì: Trong tổng số các vụ ly hôn, tỷ lệ

đơn do người vợ đứng tên tăng 40-60% ở Hà Tây; 62% ở Nghệ An; 65% ở HồBình; 66% ở Cần thơ, 73% ở Thanh hóa; trên 50% ở Lạng Sơn; 51% ở Lâm Đồng;

65% ở Quảng Nam - Đà Nang. Xu hướng này thể hiện vai trò chủ động của người

phụ nữ trong việc bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của ban thân mình và của concái. Điều này có thể nói ngày nay người vợ đã được quyền tự do trong ly hôn vàcũng chứng tỏ người phụ nữ ngày nay đã ý thức rõ hơn về quyền lợi của mình,

độc lập hơn về kinh tế, đã thấm nhuần tư tưởng bình đẳng nên khó chấp nhận

những lối sống kiểu gia đình gia trưởng còn tồn tại ở nước ta. Lênin cho rằng:"Người ta không thể là người dân chủ và xã hội chủ nghĩa nếu ngay từ bây giờ

người ta khơng địi quyển tự do ly hơn vì thiếu quyền tự do ấy là một sự ức hiếp

lớn đối với phụ nữ. Tuy thực ra chẳng khó khăn gì mà khơng hiểu được rằng khingười ta thừa nhận tất cả các phụ nữ đều có quyền bỏ chồng thì khơng phải như

vay là ta khuyến khích tất cả họ bơ chồng”. ”

Về độ tuổi thì lứa tuổi xin ly hơn đa phần là đưới 40 tuổi. Điều này cho

thấy xu hướng các vụ ly hơn thường xảy ra ở các gia đình vợ chồng còn trẻ tuổi.

Như vậy, so với độ tuổi phổ biến khi kết hơn (20-25 tuổi) thì gia đình vẫn chưathực sự bền vững sau 10-15 năm, nó phù hợp với những nghiên cứu xã hội học giađình về các giai đoạn khủng hoảng của các cặp vợ chồng. Tuy nhiên, chính số

cuộc ly hơn trong độ tuổi từ 41-50 (có tỷ lệ khơng nhỏ) cho thấy sự khác biệt vớigia đình truyền thống Việt nam trước dây.

Khi xem xét các vụ ly hôn, điều đáng quan tâm là nguyên nhân nào đã dẫn

đến ly hơn. Tìm hiểu kỹ vấn dé này, có thể có biện pháp giảm bớt được số vụ ly

I.3.2- Ngun nhân ly hơn.

«Ban dự luật về ly hôn” C.Mac - Ph.Anghen - Tập 1. NXBST Hà nội 1978.

</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">

Ly hôn là một hiện tượng xã hội, là mặt trái của quan hệ hôn nhân. Nó

cũng xuất phát từ nhimg nguyên nhân nhất định. Chỉ có Nha nước Xã hội Chunghĩa mới dé cập và nghiên cứu nguyên nhân ly hôn đúng với thực chất của nó,nhằm loại trừ những nguyên nhân dẫn đến xung đột, mâu thuẫn trong quan hệ vợchồng; hạn chế đến mức thấp nhất việc ly hôn, bảo vệ và củng cố hạnh phúc của

gia đình.

Ngun nhân ly hơn là những hiện tượng, sự việc tác động đến hôn nhân và

làm cho hôn nhân tan vỡ. Việc người vợ hay người chồng chủ động muốn ly hôn

thường xuất phát từ những ly do hoặc có một động cơ nhất định. Những lý do

hoặc động cơ đó được đưa ra Tồ án như ngun cớ để xin ly hơn. Thường thì lý

do đưa ra Toà án trùng với nguyên nhân gây nên sự tan vỡ trong quan hệ vợ chồng

' nhưng cũng có trường hợp nguyên nhân thực của việc ly hôn khác với lý do mà

người chồng hay người vợ (có khi cả hai) chủ động đưa ra trước Tồ án. Rất nhiều

vụ án ly hôn mà trong don xin ly hơn đương sự trình bày ngun nhân xin ly hôn

đơn giản là do hai vợ chồng không hop với nhau nhưng sau khi xác minh thì lý do

dich thực lại hồn tồn khác và mn hình mn vẻ, kể cả những bất đồng vềquyền lợi kinh tế hay khả năng sinh lý của một bên.

Thực tế ở nước ta hiện nay những nguyên nhân xin ly hôn thường là: Vợ(hoặc chồng) ngoại tình; người chồng nghiện ngập, bạc đãi thậm chí đánh đập vợ,

<small>con; một trong hai người khơng có kha năng sinh con hoặc phạm tội... Theo</small>

thống kê của Tòa án Nhân dân tỉnh Hải Dương năm 1994, lý do của các đương sựđưa ra trong đơn ly hôn cũng như những lý do họ đưa ra trong lúc xét xử, hoà giả

được phân loại theo những nguyên nhân ly hôn như trong bảng 1. |

</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">

Bang |.

Nguyên nhân ly hôn Sốvụ |%

Cưỡng hôn 2 0,26Mau thuẫn gia đình do bi đánh đập, ngược đãi 309 39,46

Ngoại tình 240 30,65

Lira đối về tài sắc, địa vị, tuổi tác 96 12,26

Bénh tat khơng có con 10 1,27

Vợ hoặc chồng bi cải tao can án 6 0,78Vợ hoặc chồng ở nước ngoài 13 1,66

Vợ hoặc chồng bị mất tích hoặc xa cách lâu năm 6 0,78

Vợ hoặc chồng là người nước ngoài bỏ về nước 30 3,83

<small>Các nguyên nhân khác 71 9,05</small>

Tổng số 783 100

Qua số liệu trong bang 1 cũng như số liệu thống kê liên tục trong nhiềunăm fa thấy nguyên nhân ly hôn đo mâu thuẫn gia đình, đo bị đánh đập ngược đãichiếm ty lệ cao nhất. Theo báo cáo của Bộ Tư pháp về tình hình thi hành Luật hơn

nhân và gia đình 1986 thì số vụ ly hơn theo ngun nhân trên ở Hải phòng là

30%, ở Nghệ an - 41%, ở Hồ bình - 31%, ở Tiền giang- 60%. Có nhiều trươnghợp người chồng có hành vi ngược đãi vợ con gây hậu quả nghiêm trọng. Từnhững số liệu trên ta thấy, người phụ nữ ngày nay tuy được bình đẳng hơn trước

</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">

song họ vẫn là nạn nhân của sự ngược đãi của người chồng và thậm chí của gia

đình chồng. Mặt khác, trong điều kiện phải di làm ăn ở địa phương khác hoặc ởnước ngồi, hiện tượng "xa nhà một thời gian dai" khơng có tin tức và địa chỉ của

người chồng đã gây nên sự thiếu quan tâm đến vợ con, sự vô trách nhiệm với gia

đình nên người phụ nữ muốn ly hơn để xây dựng cuộc sống mới.

Ngồi ra, do sự tác động của thời kỳ kinh tế mở cửa nên nhiều việt kiểu ma

da số là nam giới đã về thăm gia đình hay cơng tác hoặc làm an tại các thành phố

lớn như Hà nội, Hải phịng, Hồ Chí Minh. Với tâm lý muốn tìm kiém một cuộc

sống ổn định cao về kinh tế ở nước ngoài nên một số phụ nữ hy vọng có cơ may

xuất cảnh hợp pháp bằng cách kết hôn với việt kiều hay người ngoại quốc. Do tínhchat vụ lợi khi kết hơn nên những cuộc hơn nhân như vậy thường nhanh chóngnay sinh nhiêu mau thuẫn và dẫn đến ly hôn, điểu nay khiến cho các vụ ly hơn cónhân tố nước ngồi gần đây xuất hiện ngày càng nhiều.

Như đã nêu ở trên, nguyên nhân dẫn tới ly hôn rất đa dạng. Trừ một số

trường hợp rất han hữu lý do ly hơn là hồn tồn khách quan (ví du phát hiện ra

vợ, chồng có quan hệ huyết thống qúa gần, một người đột ngột mất tích hoặc do

u cầu cơng tác đặc biệt như tình báo...) cịn lại lý do xin ly hôn là chủ quan của

một hoặc cả hai bên. Để dễ tìm hiểu, có thể phân tạm chia thành ba nhóm nguyên

<small>nhân như sau:</small>

1.3.2.1. Nhóm nguyên nhân do Š thức chủ quan của vợ hoặc chồng.

Nước ta bước vào thời kỳ mở cửa, những mặt trái của nền kinh tế vận hành

theo cơ chế thị trường có tác động khơng nhỏ tới đời sống gia đình, nhất là ở các

thành phố và các trung tâm công nghiệp - nơi cửa ngõ tiếp nhận các luồng tưtưởng văn hóa mới từ bên ngoài, là nơi cọ xát của nhiều quan điểm, lối sống khácnhau, từ những quan niệm gia đình truyền thống tốt đẹp, sống có nề nếp đếnnhững quan niệm sống phóng túng hơn về tình u, hơn nhân và gia đình, từ các

quan niệm sống chú trọng đến các giá trị tinh thần, giá trị nhân đạo đến lối sốngthực dụng, coi trọng vật chất. Trong điều kiện đó đã bộc lộ các lối sống mà trước

day chưa có dip để bộc lộ. Chính lối sống “moi” của một bên (cũng có khi của cả

</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32">

hai bên) đó, lam cho nhiều cặp vợ chồng sau nhiều năm chung sống hồ hop chợt

thấy mình khơng thể chấp nhận được vợ (hoặc chồng) mình nữa. Một hiện tượng

khá phổ biến là người chồng dua vào chức vị của mình kiéin được nhiều tiền, lao

vào ăn chơi xa xỉ, bỏ bê gia đình tới lúc nguời vợ khơng tiếp tục cam chịu được vàchủ động xin ly hôn. Một trong những nguyên nhân có chiều hướng gia tăngtrong nhóm ngun nhân này là một bên khơng có khả năng đáp ứng nhu cầu

sinh lý, khơng có khả năng sinh con, dễ dẫn đến bất hòa và một trong hai bên chủ

động ly hôn.

Các cuộc hôn nhân qúa sớm, qua vội vã thường có ty lẻ ly hơn khá cao do

một bên (có khi cả hai bên) sau một thời gian chung sống mới hiểu rõ vợ (hoặcchồng) mình và thấy không thể tiếp tục chung sống, họ chủ động sớm ly hôn.

Trong cuộc sống đô thị hiện nay, với vai trị chính là tham gia vào các hoạtđộng nghề nghiệp, nam giới có nhiều cơ hội giao tiếp với nhiều mơi trường khácngồi gia đình. Thêm vào đó là sự mất cân bằng giới tính, mà chủ yếu là có nhiều

phụ nữ tuổi từ 20-35 chưa có gia đình hoặc đã ly hơn, ly thân... Các diéu kiện đó

cùng với các quan niệm dé dai hơn về đạo lý đã dẫn đến mâu thuẫn gia đình trong

đó có sự tác động của người thứ ba. Nguyên nhân ngoại tình thường xảy ra ở phíanam giới và dẫn đến ly hơn ở các cặp vợ chồng trẻ có thời gian chung sống dai.

1.3.2.2. Nhóm nguyên nhân trực tiếp liên quan tới kính tế.

Nhiều cặp vợ chồng tan vỡ sau một thời gian chung sống hạnh phúc đo cónhững thay đổi lớn về điều kiện, khả năng kinh tế của gia đình. Kinh tế đột nhiênkhá lên làm thay đổi nếp sống, dẫn tới thay đổi suy nghĩ, đánh giá về những người

xung quanh, về xã hội. Kinh tế đột nhiên lâm vào tình trạng hết sức khó khăn, bế

tac cũng làm nhiều cặp vợ chồng thương yêu nhau hơn nhưng ngược lạicũng

khơng ít cặp vợ chồng khơng chịu đựng được khó khăn, dẫn tới tan vỡ.

Mot nguyên nhân khác cũng khá phổ biến là các cặp vợ chồng kết hơn, có

con qúa sớm, khi chưa có khã năng tự chủ về kinh tế, thậm chí chưa dự kiến đượcnhững khó khăn trong cuộc sống tự lập (như khơng có việc làm, nhà ở...). Trong

</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">

hoàn cảnh khó khăn, thiếu thốn các cặp vợ chồng trẻ khơng dự kiến được và

không chuẩn bi tinh thân để đối phó vỡi những tình huống khó khăn, nếu khơng

được gia đình giúp đỡ kịp thời cũng dễ dẫn đến ly hơn.

Những cuộc hơn nhân có tính tốn, một bên quyết định kết hơn vì khả năngkinh tế của bên kia nhưng sau khi chung sống thấy khả năng kinh tế đó vẫn

khơng đáp ứng được địi hỏi của mình hoặc ý đồ lợi đụng kinh tế không thực hiện

được cũng thường dẫn tới ly hơn.

được phát hiện và có biện pháp giải quyết thỏa đáng, kịp thời thì dé tích tụ dẫn tới

xung đột và ly hơn. Trong gia đình Việt nam cổ truyền, cha, mẹ hoặc các thành

viên khác trong gia đình có thể can thiệp hoặc đóng vai trị tác động tích cực vào

việc lập gia đình, việc riêng của con cái, người phụ nữ phải có bổn phận với cha

me chồng và con.

Sống hiếu thảo, sống với tình thương và biết cách xử sự với gia đình chồng(hoặc vợ) là một truyền thống tốt đẹp, một điều cần thiết. Tuy nhiên, trong xã hộiphong kiến đã có khơng ít sự lạm dụng làm cho quan hệ cha mẹ chồng và nàng

dâu hoặc giữa gia đình chồng và nàng dâu trở nên căng thẳng và mâu thuẫn có khitrầm trọng là nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn vợ chồng sâu sắc và hậu quả đángtiếc của nó là ly hôn.

Ngày nay, ở thành phố xu hướng phát triển đến gia đình hạt nhân (chỉ gồm

vợ chồng và các con vị thành niên của họ) đang ngày càng phát triển. Các thế hệ

phụ nữ trẻ ngại sống chung với gia đình chồng chính vì ngại cảnh "làm dau". Tuynhiên, các cặp vợ chồng trẻ lại chưa có điều kiện để có nhà riêng, nhất là nhà ở

thành phố rất đất đỏ so với thu nhập của các cặp vợ chồng trẻ, vì vậy, tuy khơng

</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34">

muốn nhưng họ vẫn phải sống chung với đại gia đình nhiều thế hệ. Những khó

khăn kinh tế cộng với mâu thuẫn gia đình nhà chồng trong cuộc sống chung hàng

ngay nhiều khi vượt quá kha năng chịu đựng của người phụ nữ trẻ. Do vậy, don

xin ly hôn với lý đo được đương sự đưa ra là do gia đình bên chồng gây khó khănhoac tác động đến người chồng chứ khơng phải do chính mâu thuẫn giữa hai vợ

Ngồi ra cũng có những vụ ly hơn giả tạo,nhằm dạt được mục đích như

-phân nhà, hay mục đích trái pháp luật tạo điều kiện cho chồng lấy vợ lẽ một cách

<small>hợp pháp.</small>

Như vậy, lý do cụ thể mà đương sự đưa ra để ly hơn thì có nhiều nhưngnhìn chung có thể xếp vào 3 nhóm ngun nhân chính như đã trình bày ở trên.

1.4. Những quy định của pháp luật về thủ tục giải quyết ly hôn.

Trong chế độ xã hội chủ nghĩa, lợi ích của mỗi thành viên trong gia đình,

lợi ích của gia đình và lợi ích của xã hội gắn bó và có quan hệ hữu cơ với nhau.Bác Hồ đã dạy:” Nhiều gia đình cộng lại mới thành xã hội, xã hội tốt thì gia đìnhcàng tốt, gia đình tốt thì xã hội tốt”. Nói cách khác nếu hạt nhân của xã hội tơn tạikhơng bình thường, sự tồn tại của quan hệ vợ chồng khơng cịn có lợi cho gia đìnhvà xã hội thì ly hơn là tất yếu khơng thể tránh khỏi.

Pháp luật của Nhà nước xã hội chủ nghĩa đã công nhận quyền tự do ly hơn

chính đáng của vợ chồng. Hồn tồn khơng đặt ra những điều kiện hạn chế quyéh

tự do ly hôn, ly hôn dua trên sự tự nguyện của hai vợ chồng, pháp luật không épbuộc họ phải sống chung theo quan hệ vợ chồng với nhau khi họ thật sự khơng

cịn khả năng dồn tụ. “ Tình bạn hiện thực ngay cả trong gia đình, trong nhà

nước hiện thực, trong lịch sử thế giới huỷ hoại như thế nào thì hơn nhân hiện thực

trong nhà nước cũng có thể bị phá vỡ như thế ấy 0) . Trong quan hệ gia đình hạnh

phúc của hai vợ chồng khơng phải chỉ ở tình u giữa vợ chồng với nhau, mà cònbao gồm nhiều mặt trong đời sống vợ chồng nói riêng và gia đình nói chung. Song® C Mac - Bản dự luật về ly hôn - C.Mac - Ph.Anghen Toàn tập, Tap 1 - NXBST Hà nội 1978. T.219

</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35">

nguồn gốc cốt lõi của gia đình chính là hạnh phúc của vợ chồng kết hợp với niềm

tự hào về trách nhiệm đối với gia đình và xã hội mà họ cần phải thực hiện. Khơng

thể có một gia đình êm ấm, hạnh phúc khi giữa vợ chồng có mâu thuẫn sâu sắc.

Họ khơng muốn sống chung, thậm chí khơng muốn nhìn mặt nhau nữa thì việc

giải quyết cho ly hơn là cần thiết; "Nhà lập pháp chỉ có thể xác định những điều

kiện trong đó hơn nhân tan vỡ, nghĩa là trong đó, về thực chất, hơn nhân tự nó đãbị phá vỡ rồi. Việc Tịa án cho phép phá bỏ hơn nhân chỉ có thể là việc ghi biên

ban sự tan rã bên trong của nó"? Ở day thấy rằng, nhà lập pháp tôn trọng hôn

nhân, thừa nhận bản chất đạo đức sâu xa của hôn nhân.

Hôn nhân là mội hiện tượng xã hội phức tạp, nó đụng chạm đến tình cảm

vợ chồng, đến lợi ích của gia đình và xã hội. Nếu hơn nhân là cơ sở pháp lý hình

thành các quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản giữa vợ chồng, thì ly hơn lại là cơ

sở pháp lý để chấm đứt mối quan hệ đó. Khác với quan hệ pháp lý về tài sản trongdân sự, ở mỗi người là những đồng sở hữu chủ đối với tài sản chung theo phần mà

phần quyền và nghiã vụ tương xứng với phần tài sản góp vào, thì quan hệ tài sảngiữa vợ và chồng khác hẳn so với quan hệ tài sản trong dân sự. Cơ sở nền tảng củaquan hệ tài sản chung vợ chồng theo pháp luật Hơn nhân và Gia đình là tình uchân chính là mối quan hệ gắn bó chặt chẽ suốt đời giữa hai con người đó là mối

quan hệ nhân thân, cịn quan hệ tài sản trong dân sự là quyền bình đẳng của mỗi

<small>công dân theo quy định của Hiến pháp và pháp luật.</small>

Khi vợ hoặc chồng hoặc cả hai vợ chồng có đơn xin ly hơn thì Tịa án nhân

dân tiến hành điều tra và hoà giải. Như vậy pháp luật Hơn nhân và Gia đình Việt

nam quy định chỉ có Tịa án nhân dân mới có thể giải quyết ly hôn. Ở một số nước

trên thế giới, ly hôn được giải quyết với các cơ quan Nhà nước khác nhau. Nếu hai

vợ chồng thuận tình ly hơn thì đo. cơ quan hành chính (hộ tịch) giải quyết. Trường

hợp vợ hoặc chồng có dơn xin ly hơn thì cơ quan Tư pháp (Tịa án) giải quyết.

TM © Mac - Ban dự luật về ly hơn - C.Mac - Ph.Anghen Tồn tap, Tập 1 - NXBST Hà nội 1978. T.219

</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36">

Hoa giải là nguyên tắc bất buộc được quy định cho mọi trường hợp ly hôn.

\ Tại Điều 26 Luật Hơn nhân và Gia đình 1959 và Điều 40 Luật Hơn nhân và Gia

- đình £986 đều nêu rõ: Khi vợ hoặc chồng hoặc cả hai vợ chồng có đơn xin ly hơn

- thì Tịa án nhân dân tiến hành diéu tra va boa giải. Hồ giải chính là việc dan xếp,

thương lượng giữa các đương sự trong khuôn khổ pháp luật quy định nhằm cho vợchồng hiểu, thơng cảm nhau hơn, tránh xảy ra xích mich và mau thuẫn giữa vợ vàchồng khơng phát triển thêm. Hồ giải không chỉ là một thủ tục tố tụng mà nó cịnlà biện pháp tích cực, nhiều khí hàn gan được các cuộc hơn nhân có nguy cơ đổ

vỡ. Trong q trình hịa giải, vợ và chồng dần dần trở lại bình finh và khơng hiểulầm nhau từ đó họ đặt lợi ích của gia đình, con cái lên trên sự tự ái, ích kỷ của bản

khơng đạt được mục dich hơn nhân thì Tịa án xử cho ly hơn.

Vấn dé hạn chế ly hôn cũng đã được Nhà nước ta quan tâm xem xết và quy| định ngay từ Sắc lệnh 159/SL ngày 17 tháng 11 năm 1950. Để bảo vệ phụ nữ có

thai thì vợ hay chồng có thể xin Tịa án hỗn đến thời kỳ sinh nở mới xử việc ly

hôn. Tuy nhiên về mặt pháp lý , quy định này chưa chặt chẽ để bảo vệ bà mẹ và

thai nhỉ vì ở đây chỉ nói có thể xin hỗn chứ khơng phải là hỗn do vậy vợ hay

chồng vẫn có thể kiện ly hơn. Mặt khác quy định thời hạn cho đến kỳ sinh nở là

không hợp lý vì lúc này người vợ chưa kịp phục hồi sức khoẻ sau khi sinh đẻ.

Cho đến Luật Hôn nhân và Gia đình 1959, Điều 27 “Trong trường hợp

người vợ có thai chồng chỉ có thể xin ly hơn sau khi vợ sinh con được một nam"

và Luật Hôn nhân và Gia đình 1986, Điều 41 quy định: “Trong trường hợp ngườivợ có thai, chồng chỉ có thể xin ly hôn sau khi vợ đã sinh con được một năm, điềuhạn chế này không áp dung dối với việc xin ly hôn của người vợ”.

</div><span class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37">

Theo nội dung điều luật này có sự tranh cãi là nếu sinh con mà con chết thìcó phải hỗn việc ly hôn sau một năm không? Theo chúng tôi điều quy định "sau

khi người vợ sinh con một năm" chứ khơng nói con được một tuổi nên vấn dé con

cịn sống hay chết không được đặt ra. Mặt khác, nếu con chết sẽ ảnh hưởng xấu

tới tinh thần của người mẹ và dẫn đến suy sụp về sức khoẻ nên việc hỗn ly hơnsau một năm là cần thiết và phù hợp.

Điều kiện hạn chế ly hôn này chỉ áp dụng trong trường hợp người chồng

xin ly hôn mà không áp dụng trớng trường hợp ngược lại, ở đây chủ ý của luật chỉrằng buộc trách nhiệm của người chồng với vợ con. Trong trường hợp người vợcần đến trách nhiệm ấy. Ngược lại, nếu quan hệ vợ chồng chỉ làm người vợ thêm

dau khổ, thì người vợ có quyền lựa chọn để xin ly hơn.

Có một điều được coi là điều kiện hạn chế ly hôn cho cả vợ và chồng trongnghị quyết 01/NQ-HĐIP ngày 20 tháng 1 năm 1988 của Hội đồng Thẩm

<small>phánTòa án Nhân đân Tối cao hướng dẫn: Nếu Tịa án bác đơn xin ly hơn thì</small>

người bị bác don có thể xin ly hơn lại sau một năm kể từ khi bản án có hiệu lực

pháp luật. Việc quy định thời gian như vậy là hợp lý đủ để hai vợ chồng bình tĩnh

<small>suy xét khi mà cuộc hôn nhân thực sự chưa phải là vô phương cứu chữa.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38">

CHUONG 2

CHẾ ĐỊNH LY HON THEO QUY ĐỊNH CUA LUAT HON NHÂN

VA GIA DINH NAM 1986.

2.1. Những căn cứ để Tòa án xử cho ly hôn.

Pháp luật của Nhà nước xã hội chủ nghĩa đã cơng nhận quyền được tự doly hơn chính đáng của vợ chồng; hồn tồn khơng đặt ra những điều kiện hạn chế

quyền tự đo này. Theo Lénin “thực ra tự do ly hơn tuyệt đối khơng có nghĩa là làmtan rã những mối quan hệ gia đình mà ngược lại, nó củng cố những mối quan hệ

đó, trên những cơ sở dan chủ, những cơ sở duy nhất có thể có và vững chắc trong

một xã hội văn minh”.

Nhà nước bảo hộ hôn nhân, bao đảm quyền tự do ly hơn của vợ chồngkhơng có nghia là giải quyết ly hơn tùy tiện theo ý chí, nguyện vọng của vợ chồngmuốn sao làm vậy, mà phải theo quy định của Luật Hơn nhân và Gia đình, Nhà

nước kiểm sốt việc ly hơn. Theo Điều 26Luat Hơn nhân và Gia đình 1959, Điều

40 Luật Hơn nhân và Gia đình 1986 khi vợ chồng hoặc cả hai vợ chồng có đơn

xin ly hơn thì Tịa án nhân dân tiến hành điều tra và hịa giải nhằm đồn tụ giađình. Nếu hịa giải khơng thành thì Tịa án nhân dan mới xét xử và chỉ xử cho ly „hôn nếu thấy tình trạng mâu thuẫn đã trầm trọng, đời sống chung khơng thể kéo

đài, mục đích cuộc hơn nhân khơng đạt được.

Quan hệ vợ chồng ở vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thểkéo dài được là quan hệ vợ chồng đã có nhiều lục đục, mâu thuẫn vợ chồng đã

đến mức căng thang khơng thể điều hịa được nữa. Vợ chồng khơng thé sống

chung bình thường, quan hệ vợ chồng không tồn tại được nữa, sự tan vỡ của cuộc

hơn nhân và sự tan vỡ của gia đình là khơng thể tránh khỏi. Chính vì thế, khi giải

“ Lenin Toàn tập về quyền dân tộc tự quyết - NXB Matxcova 1980 - tap 25. T.335

</div><span class="text_page_counter">Trang 39</span><div class="page_container" data-page="39">

quyết việc ly hơn Tịa án Nhân dan phải tiến hành hòa giải, điều tra, xem xét mau

thuần giữa vợ chồng đã thực sự trầm trọng chưa? Cuộc hôn nhân đó có thực sự tan

vỡ khơng? đời sống chung của vợ chồng có thể tiếp tục được nữa hay khơng? xemxét lợi ích của vợ chồng, con cái, của gia đình và của xã hội trong quan bệ hơnnhân đó ra sao? có như vậy khi quyết định cho ly hơn mới mang lại kết quả tíchcực, mới làm thúc đẩy quan hệ hôn nhân lành mạnh, phát triển quan hệ xã hội

thuần phong mỹ tục của con người Việt nam.

Cán cứ ly hơn là những tình tiết (hoặc điều kiện) được Pháp luật quy định

để căn cứ vào đó Tịa án xem xét và quyết định cho ly hơn. Các căn cứ này là căncứ pháp luật, nó thể hiện được quan điểm Nhà nước trong vẫn dé ly hôn. Trong

từng giai đoạn khác nhau của lịch sử nước ta, Nhà nước đều ban hành các văn bảnpháp luật, trong đó các căn cứ về ly hơn phù hợp với từng giai đoạn lịch sử cụ thể.

Điều 9 Hiến pháp nước Việt nam dan chủ cộng hoà năm 1946 đã cơng

nhận quyền bình dang giữa nam và nữ về mọi mat. Đây là cơ sở pháp lý để đấu

tranh xóa dan chế độ hơn nhân phong kiến, xây dung chế độ hôn nhân mới dan

chủ và tiến bộ.

Ngày 22 tháng 5 năm 1950, Sắc lệnh 97 được Nhà nước ban hành và sau

đó ngày 17 tháng 1! năm 1950 Sắc lệnh 159 về ly hôn cũng được ban hành.Tuy nhiên, do hoàn cảnh xã hội lúc bấy giờ nên Sắc lệnh 159 về ly hônkhông tránh khỏi hạn chế nhất định. Theo Sắc lệnh này, khi giải quyết về ly hơncịn đứng trên quan điểm tư sản để xem xét, cũng như nó chưa xóa bỏ được tậngốc chế độ hôn nhân phong kiến. Sắc lệnh này mới chỉ giải quyết được một vấnđề cấp bách, góp phần giải phóng phụ nữ. Với quy định nam, nữ bình đẳng trongly hơn, nhưng cịn chưa thật sâu sac. Việc ly hôn chủ yếu dựa vào lỗi của các bên

vợ, chồng. Sắc lệnh {59 về ly hôn quy định các căn cứ ly hơn cho cả vợ và chong

<small>|. Ngoại tình;</small>

<small>2. Mội bên can an phạt giam;</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 40</span><div class="page_container" data-page="40">

2. Một bên mắc bệnh điên hoặc bệnh khó chữa;

4. Một bên bỏ nha di q 2 nam ma khơng có lý do chính dang;

5. Vợ chồng tính tinh khơng phù hợp hoặc đối xử với nhau đến nỗi không

thể sống chung được.

Qua đó chúng ta thấy Sắc lệnh 159 đã có bước tiến khi quy định căn cứ ly

hơn chung cho cả vợ và chồng, không tách riêng ra như các Bộ Dân luật phong

kiến trước đây. Theo những quy định này, lần đầu tiên người phụ nữ được ly dị

chồng nếu chồng ngoại tình. Trong Sắc lệnh 159 chỉ quy định một bên can án

phạt giam là can cứ cho ly hơn mà khơng loại trừ tội phạm chính trị như các luật

ban hành trước đó. Ở đây việc quy định chung như vậy chứng tỏ đã coi việc phạt

giam khiến cuộc sống của vợ chồng bị ngăn trở là cốt lõi chứ không phải xem tội

nào la chủ yếu.

Sau kháng chiến chống Pháp thắng lợi, hịa bình lập lại, miền Bắc nước ta

bước vào thời kỳ quá độ đi lên Chủ nghĩa xã hội, để phù hợp với tình hình mới,

đồi hỏi phải xóa bỏ tận gốc những tàn tích của chế độ hơn nhân gia đình phong

kiến cịn ảnh hưởng sâu đến cuộc sống gia đình và xã hội. Lúc này, Sắc lệnh 159

khơng cịn phù hợp với tình hình mới do đó ngày 29 tháng 12 năm 1959 Quốc hội

nước Việt nam dân chủ cộng hoà thơng qua Luật Hơn nhân và Gia đình và ngày

13 tháng | năm 1960, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh công bố luật này.

Luật Hôn nhân và Gia đình 1959 ra đời đã đáp ứng được đồi hỏi cấp bách của

<small>toàn xã hội.</small>

Lần đầu tiên trong lịch sử hình thành và phát triển pháp luật Hon nhân va

Gia đình Việt nam, căn cứ ly hơn được quy định một cách chính xác, phd hợp với

quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lénin. Theo Các Mác:"Ly hôn chỉ là việc xác

nhận một sự kiện, rằng đó là cuộc hơn nhân đã chết, sự tồn tại của nó chỉ là bểngồi và lừa đối. Đương nhiên khơng phải sự tuỳ tiện của nhà lập pháp cũng

không phải sự tùy liện của mỗi cá nhân mà chỉ bản chât của sự kiện mới quyết

<small>định dược cuộc hôn nhân đã chết hay chưa chết. Bởi vì việc xác định sự kiện chết</small>

là tuy thuộc vào thực chất của vấn dé chứ khơng phải là ý chí của các bên hữu

</div>

×