Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (56.98 MB, 103 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
PHONG b> LA FO2D BV<small>ITa nội 1997</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">1. Tinh cấp thiết cua dé tài :
Mãi dâm là một hiện tượng xã hội, xuất hiện rất sớm trong lịch sử
xã hội loài người và không phải là một hiện tượng riêng lẻ chỉ có ở đất
nước này hay quốc gia khác hoặc chỉ có ở chế độ xã hội này hay chế độ
xã hội khác... mà là hiện tượng phổ biến của nhiều nước trên thé giới.Mặc dù vậy, mãi dâm vẫn là hiện tượng trái với quan điểm đạo đức xã
hội. Con người không chấp nhận sự tén tại của hiện tượng này và ln
tìm mọi biện pháp để loại trừ ra khỏi đời sống xã hội. Trong những
năm gần đây tình hình tệ nạn mãi dâm ở nước ta đang có chiều hướng
phát triển ngày càng nghiêm trọng. Theo số liệu điều tra của cụcphòng chống tệ nạn xã hội Trung ương, thì từ năm 1993 đến nay, ở
nước ta có hàng trăm ngàn gái mãi dâm hoạt động với hàng ngàn chủ<small>chứa và môi giới mãi dâm.</small>
Tệ nạn mãi dâm đã và đang làm xói mịn đạo đức, thuần phongmỹ tục của dân tộc, ảnh hưởng xấu đến đời sống văn hóa và trật tự trị<small>an xã hội. Nghiêm trọng hơn nó cịn là một trong những ngun nhân</small>làm lan truyền căn bệnh SIDA, chứa đựng nguy cơ hủy diệt sự sống
<small>dén sự tôn tai va phat trién giông noi.</small>
<small>oa Z A ` ae z a à ? ^ we R x</small>
<small>Điều dang quan tâm là với sự phat trién cua tệ nạn mãi dam, đã</small>
<small>có hàng triệu trẻ em ở Châu A bị bắt cóc, bị bán, bị giam nhốt trongcác nhà chứa va bị buộc phải bán đâm. Mai đâm cũng đã trở thành</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">Trong điều kiện giao lưu quốc tế rộng rãi như hiện nay, tệ nạn
tượng mua dâm là người nước ngoài bị phát hiện và bị bắt ngày càngnhiều, số gái mãi dâm nước ta thông qua đường dây mơi giới dẫn dắtra nước ngồi bán dâm cũng tăng lên, buôn bán phụ nữ nhằm kinhdoanh mãi dâm cũng diễn ra ngày một nghiêm trọng.
<small>Đứng trước thực trạng đó, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ</small>
trương, chính sách nhằm tăng cường cơng tác đấu tranh phịng chốngtệ nạn mãi dâm. Ngày 1/3/1994 Ban chấp hành Trung ương có chỉ thị
số 33/CT-TW “ vé lãnh đạo phịng, chống các tệ nan xa hội" và Chínhphủ cũng đã có Nghị quyết 05/CP ngày 29/1/1993 ” uề ngăn chặn va
<small>chong tệ nan mai dâm: .</small>
Triển khai thực hiện các chủ trương này, Chính phủ đã có nhiều
chính sách xã hội như hé trợ kinh tế, giải quyết việc làm, tập trung
bán đâm. Các cơ quan bảo vệ pháp luật tăng cường công tác kiểm tra,
minh những hành vi phạm tội về mãi dâm theo quy định của Bộ luậthình sự. Tuy nhiên kết quả đó vẫn cịn thấp và cịn nhiều hạn chế.
Thực tế nạn mãi dâm vẫn chưa được đây lui, hoạt động tội phạm về
mãi dâm đang còn là vấn đề thách thức rất lớn.
Trước thực tế đó, vấn dé đặt ra là phải nhận thức lại một cách
toàn điện về nội dung, biện pháp, chủ trương, chính sách, đường lối,
quan điểm về cơng tác đấu tranh phịng chống tệ nạn mãi dâm và tội
phạm mãi dam. Trong đó có vấn đề phải sửa đổi, bổ sung BLHS để nộidung phù hợp với thực tiễn, đáp ứng yêu cầu đấu tranh chống tội
<small>phạm mãi dâm.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">-3-Bởi những lẽ đó, việc nghiên cứu dé tài : “Tội pham mdi dâm va
đầu tranh phòng chống loạt tội nay cứng nh té nan mai damnói chung ở Việt Nam" la một vấn dé có tính cấp bách của cơng tác
đấu tranh phòng chống tội phạm trong giai đoạn hiện nay.2. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài :
Với những kiến nghị và giải pháp nêu ra, sẽ góp phần thiết thực
giúp các cơ quan chức năng thực hiện tốt nhiệm vụ đấu tranh phòng
<small>kK A ~» A se ` ae a ~we A ve oA</small>
<small>chông tệ nạn mãi dâm nói chung và tội phạm về mai dâm nói riêng.</small>
<small>tham khảo khi hoàn thiện BLHS.</small>
ngành, các cơ quan chức năng, các tổ chức xã hội tham khảo trong
hoạt động thực tiễn về công tác tuyên truyền giáo dục pháp luật, cũng
như đấu tranh phòng chống tội phạm liên quan đến tệ nạn mãi dâm<small>và tội phạm mãi dâm.</small>
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận án.
<small>hình tệ nạn mãi dâm đang diễn ra ở nước ta, có so sánh ở chừng mực</small>
nhất định với các nước trong khu vực để xác định các điều kiện,nguyên nhân tác động đến sự tổn tại và phát triển của tệ nạn mãi
dâm. Đồng thời dé ra các biện pháp đấu tranh, ngăn chặn có hiệu qua
cao nhất hiện tượng này. Trong đó có vấn để làm rõ một số điểm hạn
<small>đơi, bơ sung hồn thiện BLHS.</small>
<small>- Nhiệm vụ của luận an : Đánh giá khái quát tình hình tệ nạnmãi dâm trong thời gian qua ở nước ta và liên hệ với một sô nước trongkhu vực. Từ đó dự báo tình hình phát triên của tội phạm mãi dâm.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">Luận án cũng phân tích một số vấn dé về qui định tội phạm mãi dâmtrong luật hình sư Việt Nam. Nghiên cứu, so sánh các qui định về tộiphạm mãi dâm qua các giai đoạn lịch sử, nhằm khẳng định những
nhiệm vụ đề ra những biện pháp đấu tranh phòng chống tội phạm mãiđâm phù hợp với yêu cầu thực tiễn đặt ra.
<small>4 Ae 2A cA 4 À ^ we A ~ A?</small>
<small>Co thé nói việc nghiên cứu về tệ nan mãi dâm cũng như tội phạm</small>
mãi dâm từ trước đến nay chưa được chú ý.
Chỉ sau khi có Nghị quyết 05/CP ngày 29/01/1993 của Chính phủvề "ngăn ngửa và chống tệ nạn mãi đâm" mới có một số nhà khoa học
nhiên, việc nghiên cứu đó cũng chỉ thực hiện dưới góc độ khái qt và
thực trạng của tình hình và nêu lên một số quan điểm yêu cầu đấu
tranh ngăn ngừa, mà chưa di sâu nghiên cứu nguyên nhân, điều kiện<small>của thực trạng tệ nạn mãi dâm.</small>
Về cơng trình nghiên cứu cá nhân trước hết phải kể đến cơng
<small>trình của PTS Nguyễn Xuân Yêm. Tác giả đã nghiên cứu một cách</small>khái quát vấn dé bản chất xã hội của tệ nạn mãi dâm, lịch sử phát
một số quan điểm về yêu cầu sửa đổi bễ sung Bộ luật hình sự và một,
số ý kiến khắc phục về tệ nạn này (tạp chí VKSND tháng 3/1993). Mộtsố bài viết khác nêu lên thực trạng tệ nạn mãi dâm ở các địa phương
<small>đã được đăng tải trong các tạp chí chun ngành như : Tạp chí tịa án</small>nhân dan, tap chí dân chủ pháp luật và tạp chí phịng chống tệ nan xã.Nghiên cứu về tình trạng lạm dụng tình dục trẻ em ở các nước Châu
Á, tác giả RON O' GRADY tuy đi sâu nghiên cứu chung quanh vấn dé<small>lạm dụng tình dục trẻ em, nhưng cũng đã nêu lên được những nét rất</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">khái quát và cơ bản về tình hình tệ nạn mãi dâm ở một số nước trong
<small>tháng 12/1995).</small>
Nhìn chung, các bài viết đã nêu chưa đi sâu phân tích một cách
đây đủ, có hệ thống, bản chất của hiện tượng mãi đâm. Những giải
pháp đề ra cịn chung chung, thiếu cụ thé.
Trong khi đó nghị quyết 05/CP của Chính phủ đã xác định ngănchặn phịng chống tệ nạn mãi dâm phải được giải quyết đồng bộ ở cácmặt : Tuyên truyền giáo dục pháp luật và tác hai của tệ nạn mai dâm.Xử lý nghiêm minh theo pháp luật các hành vi mãi đâm, kế cả hành vi
mua dâm, bán dâm, xây dựng chương trình phối hợp liên ngành phịng<small>chơng mại dâm.</small>
Dé thực hiện được các yêu cầu này, có rất nhiều việc phải giải
quyết một cách đồng bộ. Từ công tác nghiên cứu lý luận đến việc xây
<small>dựng pháp luật, thi hành pháp luật và việc xây dựng các chính sách °</small>
kinh tế xã hội khác. Tất cả những vấn đề trên cũng chính là cơ sở,
động lực và là lý do của việc tác giả chọn đề tài đấu tranh phòng chống<small>tệ nạn mãi dâm làm luận án tốt nghiệp cao học.</small>
<small>Tuy nhiên, trong luận án nay chúng tơi khơng có tham vọng giải</small>
án này chỉ đi sâu nghiên cứu vì sao cơng tác đấu tranh chống tệ nạnmãi dâm trong những năm gần đây còn nhiều hạn chế. Qua đó đề xuất
một số kiến giải nhằm khắc phục tình trạng trên, đặc biệt nêu các
quan điểm tội phạm hóa một số hành vi mãi dâm chưa được luật hình
sự nước ta coi là tội phạm, nhằm tiến tới hồn thiện chế định của luật
hình về tội mãi dâm, để đáp ứng yêu cầu mà thực tiễn đang đòi hỏi hết<small>sức cấp bách hiện nay.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">5. Pham vi và đối tượng nghiên cứu.
<small>Pham vi nghiên cứu .</small>
Té nạn mai dâm được hiểu là một khái niệm rộng, bao gồm tổng
<small>và quy định trong luật hình sự.</small>
Khái niệm tệ nạn mãi dâm bao gồm các hành vi: mua dâm, bán
Theo công ước "về loại trừ các hình thức bóc lột tình dục”
(BangKok - Thái Lan năm 1992), thì mãi dâm là việc coi thân thể như
tội phạm mãi dâm luận án đồng thời giải quyết vấn đề tội phạm học
<small>cùng với ca van dé luật hình sự.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">-7-6. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu :
<small>Luận án nay được trình bày trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác</small>
-Lê Nin về tội phạm học, học thuyết về Nhà nước và pháp luật; Quan
điểm của Đảng ta về Nhà nước pháp quyền Việt Nam; Các quan điểm
của Đảng và Nhà nước về công tác đấu tranh phòng chống TNXH.
<small>Luận án sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật</small>lịch sử, cũng như các phương pháp điều tra, khảo sát, thống kê, so<small>sánh...</small>
Ngoài những quan điểm lý luận và phương pháp nghiên cứu nêu
trên, luận văn được trình bày cịn dựa trên cơ sở tham khảo, kế thừa
một số tư liệu về pháp luật của các giai đoạn lịch sử trước, các báo cáo
tổng kết của ngành Tòa án và Cục phòng chống tệ nạn xã hội từ năm
1993 trở lại đây cũng như một số tư liệu nước ngoài nghiên cứu về tệ<small>nạn mãi dâm ở các nước trong khu vực Châu A.</small>
7. Cơ cấu luận án :
Luận án có độ dày 99 trang (kế cả 9 bảng biểu và 3 dé thi), được
chia thành 3 chương cùng phần mở đầu, phần kết luận, kiến nghị và<small>danh mục tải liệu tham khao.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">CHƯƠNG MOT
1.1 Khái quát chung về tinh hình tệ nạn mãi dâm và tội phạm mãi dam
<small>Mỗi loại tội phạm có tình hình tội phạm riêng, có các nguyên</small>nhân và điều kiện phát sinh tội phạm riêng, vì thế có u cầu đấutranh phòng ngừa riêng. Xuất phát từ các nguyên lý trên, việc nghiên
<small>phạm mãi dâm nói riêng có ý nghĩa vô cùng quan trọng và là một yêu</small>
cầu cấp thiết trong cơng tác nghiên cứu tình hình tội phạm hiện nay.
Mặc du tội phạm mãi dâm và tệ nạn mãi dâm là hai khái niệmkhông đồng nhất, nhưng có cùng chung các đặc điểm của một loại hiện<small>tượng xã hội. Tội phạm mãi dâm là một bộ phận khơng tách rời của tệ</small>
nạn mãi dâm, giữa chúng có mối quan hệ mật thiết và gắn liền vớinhau. Thông qua tệ nạn mãi dâm, có thể phản ánh được tình hình tội
phạm mãi dâm. Ngược lại từ tình hình tội phạm mãi dâm, có thé nhìn
thấy bức tranh chung về tệ nạn mãi dâm. Với khía cạnh đó, nghiên
cứu tổng thé tình hình tệ nạn mãi dâm cũng đồng thời sẽ giúp nhận
thức được diễn biến của tình hình tội phạm này. Vì vậy có thé khẳng
định rằng ngun nhân dẫn đến sự gia tăng tệ nạn mãi dâm không<small>tách tời các nguyên nhân làm gia tăng loại tội phạm này</small>
1.1.1. Một số đặc điểm của hiện tượng mãi dâm
<small>Mãi dâm là một hiện tượng được hình thành từ hai nhu cầu co</small>bản tình dục và kinh tế giữa hai chủ thể trong quan hệ đó. Để khaithác lợi ích kinh tế qua quan hệ mãi đâm, trong xã hội cũng đã hình
<small>thành một bộ phận người làm các dịch vụ chứa và môi giới mãi dâm.</small>
<small>` Z ..?. ^ ^ A ~ -k „ x ` . ‘></small>
<small>Chính vi vậy ma tac gia Nguyên Xuân Yém da việt : “ Kê tử khi loai</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10"><small>mục dich của tệ nan mat dâm, thậm chi trong một thời diém nhất định</small>
va 6 những nơi nhất định nó còn được coi trọng". [8]
Nghiên cứu về hiện tượng mãi dâm và các tội phạm mãi đâm chothấy mãi dâm đã thực sự trở thành quan hệ mua bán và dịch vụ. Hiểnnhiên, một khi nó đã trở thành đối tượng của " hàng hóa" thì nó cũng
có giá cả của nó. Đó là một thực tế khơng thê phủ nhận được. Có một
<small>trién và có thu nhập cao. Theo kết quả điều tra xã hội hoc của viện sĩ</small>
Igokow năm 1990 thi đa số cho rằng mãi dâm là một " nghé" có thu
nhập cao, hơn cả giáo sư, viện sĩ và chỉ xếp sau nghề giám đốc, nhà<small>bn, phóng viên, nhà ngoại giao. [8]</small>
Kết quả thăm dò trên cho thấy việc người phụ nữ bán dâm khôngphải xuất phát từ lý do duy nhất là nghèo đói, thất nghiệp mà cịn có
cả quan niệm nghề nghiệp và so sánh thu nhập. Như vậy, quan điểm
cho rằng : mại dâm gắn liền với nghèo đói, thất nghiệp, thiếu nhà cửa,
Qua những quan điểm trên có thể rút ra bản chất của vấn đề là
xuất phát từ sự giàu có và sự nghèo nàn, từ mục đích kinh tế và vì
kinh tế con người ta có thé làm tất cả những điều mà dư luận xã hộilên án, pháp luật nghiêm cấm và đem mua bán cả cái mà không thểmua bán được đó là nhân cách, phẩm giá của con người.
<small>Mai dâm ngày nay cũng không chỉ dừng lại là một hiện tượng tiêu</small>
cực của đời sống xã hội, mà là một hiện tượng tội phạm và trong
những năm gần đây nó đã trở thành một hiện tượng chính trị, xã hội<small>của nhiều quôc gia.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">1.1.2. Vài nét về tình hình tệ nạn mãi dâm ở các nước trong
phủ của nhiều nước cũng đặc biệt chú ý đến vấn dé này. Theo báo cáo
<small>của Chính phủ Na uy năm 1988 với Bộ trưởng Bộ Tư pháp các nước</small>
bị bắt cóc, bị mua bán hoặc thơng qua những hình thúc khác bị buộc<small>phốt gia nhập vao thị trường mai dâm" [6]</small>
Theo đánh giá chung, các nước thuộc Châu Á hiện đang là điểm
nóng của tệ nạn mãi dâm. Tình hình đó có liên quan và ảnh hưởng rấtlớn đến thực trang mãi dâm ở nước ta. Vì vậy trong phạm vi dé tài nàychúng tôi thấy cần phải dé cập đến thực trạng tệ nạn mãi dâm cũng
như việc xử lý hiện tượng này ở một số nước trong khu vực, trước khi<small>trình bày tình hình này ở nước ta.</small>
Theo kết quả nghiên cứu của RON O' GRADY [6] công bố năm
1995 về tình hình gái mãi dâm ở các nước châu A, thi Thai Lan, Trung
Quốc, Pakistan là những nước dẫn đầu về tệ nạn mãi đâm trong khuvực. Một số nước khác như Philippin, Đài Loan, Ấn Độ, Inđơnêxia cũngcó số lượng rất lớn gái mãi dâm hoạt động thường xuyên. Đặc biệt
trong đó những nước có số gái mãi dâm là trẻ em chiếm tỷ lệ đáng kể<small>như Thái Lan (khoảng 800.000 em), Philippin (khoảng từ 60.000 -100.000 em), Dai Loan (khoảng tu 40.000 - 60.000 em) (xem bang</small>
thống kê).
</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">-11-Bang 1 : Thống kê về tỉnh hinh mãi dâm ở một số nước Châu A
Số | TÊN NƯỚC Số gái mãi dâm Trong đó gái mại | Tỷ lệ với
<small>TT (ước tính) dâm là trẻ em dân số %</small>
<small>(ước tính)</small>
<small>01 | Thái Lan 2.000.000 800.000 3,27</small>
<small>02 | Trung Quốc từ 200.000 khơng ước tính 0,016</small>
đến 500.000 được số lượng 0.04<small>03 Pakistan 200.000 khơng ước tính 1,64</small>
được số lượng
<small>04 | Philippin trên 100.000 60.000 - 100.000 0,13</small>
05 | Ấn Độ 100.000 20.000 - 30.000 0,012<small>06 | Dai Loan 100.000 40.000 - 60.000 0,5</small>
* Về dối tượng gái bán dam:
- Một số phụ nữ đi vào con đường mại đâm do sự rắc rối về tình
- Một số khác thì do nghèo khó, túng thiếu hoặc vì những lý do
<small>đặc biệt mà tự nguyện hoặc bị ép buộc trở thành gái mãi đâm.</small>
<small>- Một bộ phận khác thì lười lao động nhưng lại thích ăn chơi đuađịi và coi mãi dâm như là một "nghề nghiệp" của họ.</small>
* Giữa những nước này đều có mối liên hệ với nhau qua hoạt động
<small>chứa mãi dâm va môi giới mãi dâm. Dé phục vụ cho loại "dịch vu" nayđã hình thành các đường dây tội phạm quốc tế mua bán phụ nữ và trẻem, đê cung cấp gái mai dâm cho các nhà chứa. Dudi những hình thức</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">khác nhau như thông qua các dịch vụ du lich, kết hôn, làm con nuôi,
dẫn tới một tình trạng chung ở các nước là khơng thể kiểm sốt và
quản lý được các đối tượng mại dâm.
<small>Ví dụ : Hang năm có khoảng 10.000 phụ nữ và trẻ em Mianma bị</small>
bán cho các chủ chứa ở Thái Lan (Một số khác đến từ Campuchia, Lào,Việt Nam). Tình hình này ở Ấn Độ cịn có nhiều phức tạp hơn. Người
ta ước tính trong những năm gần đây có khoảng từ 5.000 đến 7.000
<small>khác như Pakistan, Nhật Bản và các nước Trung Đông. Tương tự như</small>
vậy, tại biện giới phía Bắc nước ta đã có rất nhiều phụ nữ và trẻ em bị
lừa bán hoặc trốn sang Trung Quốc để "hành nghề" mãi dâm. Nhiều
người trong số đó được các nhà chức trách Trung Quốc giải thốt vàđưa về Việt Nam.
lớn đến sự gia tăng đáng ké số gái mãi dâm, chủ chứa, môi giới ở các<small>nước trong khu vực Châu A.</small>
* Da số các nước này đều thiếu hệ thống pháp luật dé điều chỉnh<small>loại quan hệ này, bên cạnh đó cơng tác quản lý của Chính phủ cịn</small>
Thái Lan còn cho phép các khu nhà chứa hoạt động để thu thuế. N gười
<small>ta ước tính lợi nhuận thu được từ hoạt động mãi dâm trong năm 1996</small>
của Thái Lan là khoảng 500 ti bath, bằng 62,5% tổng thu nhập quốc
dân của Thái Lan năm 1995 (khoảng 800 tỉ bath). Chính điều này đã
làm cho Thái Lan trở thành " thi trường" mại dam sôi động nhất trongkhu vực và trên thế giới. Trước sức ép của dư luận yêu cầu bảo vệ tìnhdục trẻ em, mới đây (đầu năm 1997) Chính phủ Thái Lan đã ban hành
</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">-18-luật chống mại dâm trẻ em. Theo -18-luật này thì chỉ truy cứu trách
nhiệm hình sự đối với người nào có hành vi mua dâm trẻ em dưới 18
<small>+4 lẻ x . 4° 4 , x k v</small>
<small>tuôi và có thê bị xử phạt với mức án cao nhất đến 6 năm tu.</small>
Tóm lại, chính sự mua bán, di chuyển gái mại dâm giữa các nước
đồng hành với tệ nạn mãi dâm phát triển ở các nước đã hình thành
một đường đây tội phạm quốc tế về mua bán phụ nữ và môi giới mãi
dam. Lịch sử thế giới đang trong thời kỳ phát triển với xu thế quốc tế
hóa nhiều mặt của đời sống xã hội. Vì vậy hoạt động tội phạm mang
tính quốc tế như trên cũng đã tăng lên rất nhanh. Do đó, có thé nói
rằng tệ nạn mãi dâm nói chung và tình trạng lạm dụng tình dục trẻem nói riêng, khơng cịn là vấn đề giới hạn của mỗi quốc gia mà là vấn
<small>dé có tính qc tê.</small>
Vì vậy, vấn đề phịng chống tệ nạn mãi dâm phải đi đơi với phịngchống các tội phạm về bn bán, bắt cóc phụ nữ và trẻ em, và phải cósự hợp tác và phối hợp giữa các Chính phủ của các nước trong khu vực
cảnh sát quốc tế (INTERPOL) về đấu tranh phòng chống tội phạm.<small>1.1.3 - Thực trạng tệ nạn mãi dâm và tình hình xét xử loại tội</small>
phạm này ở nước ta trong những năm gần đây
<small>1.1.3.1 Thực trạng tệ nan mdi dâm: qua các giai doan</small>
11.800 gái mại dâm. Trong đó có đến 6000 gái mại dâm được chính
quyền cấp thé mơn bài với 45 nhà chứa, 55 điểm hát cơ đầu có chứa
<small>gái mại dâm</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">- Sau năm 1975 ở miền Nam có tới 200.000 gái mại dam , riêng
<small>Sài Gịn có 100.000 người.</small>
- Hiện nay, số gái mại dâm trong cả nước có khoảng 80.000 người.Trong đó số chuyên nghiệp có tới 13.130 người. Hầu hết số hành nghề
mại dâm "mang tính chuyên nghiệp" tập trung tại một số tỉnh, thành
<small>Theo báo cáo của Bộ Nội vụ thì năm 1992 ở nước ta có khỏang</small>
120.000 gái mại dâm ,đến năm 1994 tăng lên khoảng 200.000 gái mại
<small>dâm. Trong đó có 93% là hoạt động chuyên nghiệp ; 90% khơng có</small>nghề ; tuổi đời từ 14 - 35 chiếm 85% ; 35% có tiền án tiền sự [15].
Tác giả Nguyễn Xuân Yêm thì đưa ra số liệu như sau : Cuối năm<small>1993 ở nước ta có khoảng 130.000 gái mại dâm chuyên nghiệp, vớikhéang 3000 chủ chứa, mơi giới [8].</small>
Trong khi đó Cục phịng chống tệ nạn xã hội TW, cơ quan chuyên
trách về tệ nạn này lại đưa ra những số liệu khác so với các tác giả
trên. Qua đây cho phép chúng ta khẳng định rằng diễn biến của tệ
nạn mãi dâm là hết sức phức tạp, khó có thể điều tra khảo sát mộtcách đây đủ và chính xác. Do đó, ở mỗi góc độ nghiên cứu hay mỗi một
cơ quan chức năng cũng chỉ phản ảnh những con số rất tương đối.
Cũng xuất phát từ sự phản ảnh không thống nhất nhau về số liệucủa tình hình tệ nạn mãi đâm trong cùng một thời điểm như trên dẫnđến việc nghiên cứu ở góc độ tội phạm học của dé tài này gặp nhiều
khó khăn. Bởi lẽ độ dao động của những thơng số làm cứ liệu nghiên
cứu cịn có những sai số q lớn, nên việc phân tích so sánh khó có thểchính xác. Vì vậy tất yếu khơng tránh được những điểm còn hạn chế
<small>trong việc nghiên cứu.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16"><small> 1B </small>
<small>-Đảng và Nhà nước ta đã luôn luôn coi mãi đâm là một tệ nạn xã</small>
hội và là tàn dư của xã hội cũ để lại cần phải thanh tốn. Riêng các
hành vi chứa chấp và mơi giới, dẫn dắt mãi dâm được luật hình sựnước ta quy định là tội phạm và xử lý rất nghiêm.
Tuy vậy, trên thực tế nạn mãi dâm vẫn tơn tại. Có những thời
có giai đoạn lại phát triển như là một nan dịch.
Sau ngày miền Nam giải phóng, thống nhất đất nước, hiện tượng
công cộng như công viên, nhà ga, đường vắng và vào ban đêm... Vì thếchúng ta khơng thấy hết tính chất nghiêm trọng của vấn dé này nênđã chủ quan, lơ là và không chú ý nhiều đến yêu cầu đấu tranh phịng
ngừa. Chúng tơi cho rằng đây cũng chính là một nguyên nhân làm cho<small>tệ nạn mãi dâm ở nước ta gia tăng đáng ké trong những năm sau này.</small>
Kẻ từ khi thực hiện chính sách kinh tế mở cửa, tệ nạn mãi dam
càng có điều kiện tăng nhanh. Theo thống kê của Cục phòng chống tệ
<small>nạn xã hội Trung ương thì năm 1992 ở nước ta có khoảng 400.000 gái</small>
mãi dâm chuyên nghiệp, tập trung chủ yếu ở các thành phế lớn nhưThành phố Hỗ Chí Minh, Hà Nội, Hải Phịng, Cần Thơ, Đà Nẵng.Trong đó ở Thành phố Hồ Chí Minh có số lượng gái mãi dâm lớn nhất
và tình hình mãi dâm cũng điễn ra nghiêm trọng nhất.
<small>So với trước, tệ nạn mãi dâm hoạt động ngày càng có tính cơng</small>
khai và trắng trợn hơn nhiều. Chúng đã thay hình đổi dạng đội lốt trá
<small>hình dưới các dịch vụ công cộng như nhà hàng, khách sạn, Massage,qn cà phê, quan bia ... và mn hình vạn trạng khác.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">sâu sắc của toàn xã hội, đặc biệt là trong điều kiện nạn dịch HIV đã<small>xâm nhập vào nước ta. Đứng trước tình hình báo động như vậy, ngày</small>29/01/1993 Chính phủ ra nghị quyết số 05/CP yêu cầu các cấp, ngànhtăng cường công tác đấu tranh ngăn chặn tệ nạn mãi dâm.
Thực hiện nghị quyết trên, trong những năm qua công tác chống
dấu hiệu khả quan. Cuối năm 1993 ở nước ta chỉ còn khoảng 130.000<small>gái mãi dâm chuyên nghiệp với khoảng 3.000 chủ chứa, môi giới mãi</small>dâm. So với năm 1992, số mãi dâm đã giảm đi gần 70%. Như vậy, ngay
giới tiếp tục giảm, chỉ cịn 73.577 gái mãi dâm và 2.800 chủ chứa, môi
<small>giới mãi dâm.</small>
Nhưng đến năm 1995 cả gái mãi dâm và chủ chứa, mơi giới lạităng lên. Trong đó số gái mãi dâm tăng 4,5% va chủ chứa môi giới
tăng 11,6% (theo tài liệu tập huấn phịng chống TNXH tháng 6/1995
thì số gái mại dâm ở nước ta có 76.885 người và có 3.126 chủ chứa, môi
Đến tháng 9 năm 1996 số gái mãi dâm lại giảm xuống còn 63.592và 1.899 chủ chứa, môi giới mãi dâm. Đến cuối năm 1996 số gái mãidâm tiếp tục giảm xuống còn 56.323 người, nhưng số chủ chứa mơi giới<small>khơng có dâu hiệu giảm mà cịn có khả năng tăng.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18"><small>- l7 </small>
<small>-Bảng 2: Thống kê tỉnh hình gái mãi dâm va chủ chứa môi giớitừ năm 1992 đến nay</small>
<small>Năm Số gái Số chủ chứa</small>
<small>mãi dâm môi giới1992 400.000</small>
<small>1993 130.000 3.0001994 73.577 2.800</small>
<small>1995 76.885 3.126</small>
<small>1996 56.323 gần 2.000</small>
Từ bảng thống kê trên chúng ta có biểu dé điễn biến tình hình gái
<small>mãi dâm và chủ chứa như sau :</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">Mặc dù về mặt số lượng có giảm như trên, song về tính chất tệnạn mãi dâm đã phức tạp hơn. Đáng chú ý nhất là việc hình thành các
<small>đường dây mơi giới đưa gái mại dâm ra nước ngồi đê bán dâm.</small>
Phân tích ngun nhân dẫn đến tình hình tệ nạn mãi dâm giảm
trong các năm thì thấy :
- Cục phịng chống tệ nạn xã hội làm tốt cơng tác lập hồ sơ quản lýđối tượng mãi dâm. Trong đó đã phân loại và áp dụng các biện pháp
xử lý phù hợp với từng loại đối tượng. Đặc biệt là các hình thức giáodục tập trung (trai 05) và giáo duc, tạo việc làm tại cộng đồng có hiệu<small>quả.</small>
- Các cơ quan bảo vệ pháp luật đã cố gắng rất lớn trong việc khám
phá, điều tra và truy tế ra trước pháp luật để xét xử bọn chủ chứa, môi<small>giới.</small>
- Một bộ phận rất lớn gái mãi dâm bằng nhiều con đường khác
<small>Kông, Macao và nhiều nước khác. |</small>
- Một số khác thay đổi hình thức hoạt động, không công khai trắng
trợn như trước, nhằm trốn tránh sự quản lý của các cơ quan chức năng.
<small>1.1.3.2 Tinh hình xét xử tội phạm mai dâm ở nuéc ta trong</small>nhưng ndm gân đây
Nghiên cứu kết quả khám phá điều tra truy tế và xét xử các tộiphạm về chứa mãi dâm và môi giới mãi dâm từ năm 1994 đến năm1996 cho thấy : Bình quân mỗi năm loại tội này đưa ra xét xử tăng10% về số vụ. Nhưng ngược lại số chủ chứa, môi giới trên thực tế
không giảm theo tỷ lệ tương xứng, mà có thời điểm tại tăng lên (xem
bảng so sánh dưới). Điều này cho phép khẳng định rằng : Bên cạnh các
<small>nhóm tội phạm mới.</small>
Bảng so sánh đưới đây cho chúng ta thấy rõ điều này :
</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20"><small>- </small>
<small>19-Bảng 3 : So sánh thực trạng tỉnh hình và kết quả xét xử của ngành Tịa án</small>
<small>Năm Thực trạng số Kết quả xét xử của ngành TAND</small>
<small>chủ chứa, môi giới _—— Sế vu Số bi báo</small>
<small>1992 308 4361993 3.000 525 7351994 2.800 771 1.0811995 3.126 936 1.3181996 1.899 978 1.358</small>
Mặt khác, tuy giữa thực trang về chu chứa, môi giới mãi đâm vatội phạm về mãi dâm có mối quan hệ mật thiết với nhau, là hai bộ
phận tôn tại trong chỉnh thé tệ nạn mãi dâm. Song giữa chúng khơng
phải là hai đại lượng có mối quan hệ tương quan tỉ lệ với nhau. Sự
<small>khác biệt này càng chứng to tính phức tạp, da dang của hiện tượng</small>
mãi dâm. Đường biểu diễn dưới đây sẽ chứng minh một các rõ nét kết
<small>luận trên.</small>số lượng,
</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">Qua hai đường biểu dién ở dé, thi trên, có thé rút ra một số nhận
<small>xét như sau :</small>
tăng liên tục và việc đấu tranh phòng chống loại tội phạm này của các
cơ quan bảo vệ pháp luật được thể hiện ngày càng quyết liệt hơn.
cách đột biến. Năm 1995 là một năm có tốc độ phát triển nhanh nhất
<small>trong khỏang thời gian được nghiên cứu từ năm 1992 - 1996.</small>
- Việc truy tố và xét xử không phải là nguyên nhân duy nhất déday lùi tệ nan mai dâm.
- Giữa hai đường biểu diễn đó khó có điểm gặp nhau. Về mặt lýthuyết, điểm gặp nhau đó xảy ra khi và chỉ khi trong thực tế đời sống
xã hội không cịn tổn tại người chủ chứa, mơi giới, dẫn đắt mại đâm...
Thật vậy, nếu so sánh giữa các năm 1993 đến 1996 cho thấy :
So sánh năm 1994 với năm 1993 thì số lượng tội phạm đưa ra xétxử tăng 68,5% .Trong khi đó, số lượng chủ chứa mơi giới chỉ giảm 7%.
Nghịch lý hơn năm 1995 số tội phạm bị xét xử tăng lên 47% , thì thựctế chủ chứa môi giới cũng tăng lên 14,8%. Hoặc trong năm 1996 số tội
phạm mãi dâm đưa ra xét xử chỉ tăng 3% thì ngược lại số chủ chứa
mơi giới giảm 41%. Điều đó cũng có nghĩa là khơng phải việc điều tra
truy tố xét xử là nguyên nhân duy nhất đây lùi tệ nạn mãi đâm, mà
cùng với nó cịn có nhiều cơ chế xử lý khác tác động đến.
Theo báo cáo của Chánh án TANDTC tại kỳ họp 11 Quốc hội khóa
IX thì tình hình tội phạm mãi dâm đã truy tố xét xử, bình quân mỗi
năm tăng 10%. Tuy nhiên nghiên cứu kết quả xét xử của một số địaphương cho thấy tỉ lệ gia tăng của loại tội phạm này rất đáng lo ngại.
Dé chúng minh su gia tăng một cách liên tục của tội phạm về mãi
đâm trong thời gian qua, chúng tôi nghiên cứu kết quả xét xử của
</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">-21-TAND quận Binh Thạnh thành phố Hé Chí Minh từ năm 1992 đếnnăm 1996, kết quả cho thấy : loại tội phạm về chứa mãi dâm, môi giới<small>mãi dâm không những tăng liên tục, mà còn tăng với tỷ lệ rất cao.</small>
Điều này được thé hiện ở biểu dé đưới đây :
Bảng 4: Diễn biến tội phạm mãi dâm đã xét xử của TAND<small>Quận Binh Thanh TP. Hồ Chí Minh từ năm 1992 - 1996</small>Năm Số vụ xét xử Số bị cáo Ti lệ tăng %
Đề thị biểu dian tốc độ gia tăng tội chứa mãi dâm
<small>ER Số vụ xét xửN Số bị cáo</small>
Nghiên cứu đối tượng chủ chứa, mơi giới đã được ngành Tịa án
xét xử trong những năm qua cho thấy :
</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">Đối tượng chủ chứa, môi giới chủ yếu là phụ nữ và hầu hết là ở độ
tuổi từ 18 đến 30, một số rất ít là người chưa thành niên. Đáng chú ý<small>là dân tộc ít người cũng phạm tội chứa, môi giới mãi dâm. Tuy chiếm</small>
tỷ lệ không nhiều, nhưng điều này cũng có nghĩa là tệ nạn mãi dâm
<small>khơng chỉ có ở thành thị, nơng thơn mà cả ở miễn núi.</small>
Đối tượng cán bộ công nhân viên, Đảng viên phạm tội nay cũngđang là vấn đề cẦn quan tâm. Tuy chưa phải là phé biến, nhưng đó làdấu hiệu báo động tình trạng sa sút về phẩm chất đạo đức trong đội
<small>ngũ cán bộ Đảng viên. Riêng ở thành phố Đà Nẵng năm 1996 đưa raxét xử 17 bị cáo thì đã có 5 bi cáo là cán bộ đảng viên, chiếm tỷ lệ</small>
Đặc biệt đối tượng tái phạm và tái phạm nguy hiểm ngày càng
<small>Bảng 4A : Phân tích đối tượng đã xét xử từ năm 1992 đến năm 1996.</small>
<small>Năm | Tổngsố bị | CBộ | Đảng | Tphạm, Tphạm | Dtộcít | Nữ | Tuổi | Người chưa</small>
<small>cáo đã bị xử | CNV | viên nguy hiểm người 18- 30 | thành niên</small>
<small>1992 436 20 2 19 2 101 | 103 3</small>
<small>1993 735 10 5 28 1 253 | 189 51994 1081 8 1 33 6 457 | 274 51995 1318 14 5 50 6 484 | 458. 22</small>
<small>1996 1358 10 1 113 49 | 403 | 462 20</small>
Nghiên cứu về phương diện hoạt động tội mãi đâm có tính cách
gia đình cũng là một vấn dé nỗi lên nghiêm trọng hiện nay. Vụ án 5chị em gái ở đường Phan Châu Trinh Đà Nẵng là một vi dụ điển hình
<small>cho hình thức hoạt động tội phạm này. Cả 5 chị em vừa là chủ chứa,</small>
vừa là người móc nối dẫn khách, chúng đã dẫn khách nước ngoài đi cácvũ trường ngoài Tỉnh, đồng thời chúng cũng thực hiện việc bán dam.
</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24"><small>- 23 </small>
"cò mỗi" dẫn khách mua dâm. Hoặc ngược lại có gia đình chồng là chủ
chứa, vợ "cị mỗi” "mơi giới " dẫn khách. Có trường hợp mẹ phạm tội
bị bắt con gái thay mẹ hành nghề nối nghiệp .
Qua những minh chứng trên cho thấy ,hoạt động tội phạm về mãi<small>dâm đang có khuynh hướng " gia đình hóa "và " chun nghiệp hóa ˆ</small>
Ngồi những vấn đề đã được nghiên cứu trên, qua công tác xét xửcủa Tịa án và cơng tác đấu tranh chống tệ nạn mãi dâm nói chung đãphát hiện nhiều đường dây chuyên lừa gạt, dẫn đắt gái mại dâm và
các em gái từ 10 - 15 tuổi dé tổ chức bán dam cho nước ngoài, ở các
Chí Minh. Một số kẻ phạm tội còn ngụy trang việc đưa gái mại dâm
<small>hoặc em gái chưa thành niên ra nước ngoài bằng con đường du lịch,</small>
buộc họ bán dâm, bán trinh ở nước ngồi. Điển hình nhất trong năm
1994 các cơ quan bảo vệ pháp luật Thành Phố Hồ Chí Minh phát hiện
6 đường dây sextour dẫn gái ra nước ngoài. Đường dây dẫn dắt gái mạidâm đi Campuchia, Macao (Trung Quốc), Singapore, bọn phạm tội đã
đưa trót lọt 5 chuyến, mỗi chuyến từ 5 đến 7 cô gái qua biên giới sang
<small>#, Xe ` fe ° A , H *</small>
<small>nước ngoài lam gái mai đâm trong các 6 chứa [ 18 ]</small>
Tại biên giới phía Bắc, có hơn 5.000 phụ nữ bị lừa bán sang Trung
Hồ Chí Minh đã bắt một đường dây buôn bán, môi giới gái mãi dâm
quốc tế từ Việt Nam sang các nước Singapore và Macao. Đường dây
này hoạt động từ đầu năm 1996, dưới sự điều khiển trực tiếp của TayWie Chung, quốc tịch Singapore. [19 ]
Những minh họa trên cho thấy : Tệ nạn mãi đâm có tác động trực
<small>if 4 , . x ae z ~ ` ? WA</small>
<small>tiếp dén sự phat triên tội phạm mua bán phụ nữ va tre em. Theo so</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">liệu thống kê của Tòa án nhân dân tối cao thi tử năm 1994 đến năm
1996, 17 Tòa án địa phương đã xét xử 421 vụ - 683 bị cáo phạm các
tội mua bán phụ nữ và trẻ em vào mục dich mại dâm. Riêng đối với tội
bắt trộm, mua bán đánh tráo trẻ em trong 3 năm các Tòa án đã xét xử<small>104 vụ với 164 bị cáo. Trong đó có vụ Lê Thị Kinh ở Quảng Bình đã</small>
<small>lừa, 7 em gái đưa sang Trung Quốc bán được 30.200 nhân dân tệ.</small>
Trước thực trạng nghiêm trọng về tình hình tệ nạn mãi dâm cũng
như tội phạm về mãi dâm và các hình thức bóc lột tình dục khác đangdiễn ra khắp mọi nơi trên thế giới, từ ngày 2 đến ngày 5 tháng 12 năm1992 tại Băng cốc - Thái Lan LHQ đã tô chức hội nghị về "kế hoạch
cho loài người ở thé ky 21" và đã thơng qua cơng ước về loại trừ các<small>hình thức bóc lột tình duc.</small>
Nội dung của cơng ước này là yêu cầu các tổ chức nhà nước cầnthống nhất quan điểm về chống bóc lột tình dục phụ nữ . Cơng ước nay
cũng đã khuyến nghị cần phải có hình phạt đối với người mua dâm ,coihọ như những tội phạm cần phải được xét xử, không chấp nhận tư
kinh tế mà dẫn dắt người phụ nữ tới chỗ bị bóc lột tình dục.
nhằm chống lại hiện tượng bóc lột tình dục nói chung và tệ nạn mãi
dâm nói riêng. Đó cũng là một trong những vấn dé có tính cách toàncầu mà cộng đồng loài người dang quan tâm hiện nay.
1.2 NGUYÊN NHÂN, DIEU KIỆN PHÁT SINH TE NAN MÃI DAM :
Bất kỳ một hiện tượng xã hội nào cũng đều có nguồn gốc vànguyên nhân sinh ra nó. Vấn dé đặt ra cho những người làm công tác
<small>nghiên cứu lý luận và thực tiễn là phải xem xét những nguyên nhân,</small>
khắc phục hoặc lam thay đổi nguyên nhân, điều kiện sinh ra chúng.
</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26"><small>- 25 </small>
<small>-Chi khi xác định được nguyên nhân của tệ nạn mãi dâm, chúng ta</small>mới có thê tìm được biện pháp phù hợp, tác động trực tiếp làm thay đơi
ngun nhân và điều kiện đó, dé qua đó ngăn chặn được sự phát sinh
<small>và tôn tại của tệ nạn nay.</small>
Nghiên cứu tệ nạn mãi dâm cho thấy nguyên nhân và điều kiệndẫn đến tệ nạn này là rất đa dạng, phong phú. Nó có thé là những
nguyên nhân bên trong, cũng có thé là những nguyên nhân bên ngoài,
hoặc là sự kết hợp cả bên trong lẫn bên ngoài, hoặc từ những điều kiệnkinh tế xã hội mà nó đang tồn tại... Tất cả những điều đó, ở mỗi một
khía cạnh khác nhau đều có thể trở thành nguyên nhân và diéu kiện<small>của tình hình tệ nạn mãi dâm.</small>
1.2.1- Những nguyên nhân về kinh tê xã hội
Dé cập đến mãi dâm, tức là xét đến quan hệ mua dâm, bán dâm<small>và các " dịch vụ" hỗ trợ cho việc mua bán đó. Ứng với mỗi loại chủ thê</small>tham gia vào các quan hệ này là những nhu cầu và lợi ích khác nhau.
- Người mua dâm chỉ nhằm thỏa mãn sinh lý, tình dục hoặcnhững ham muốn khác bắt nguồn từ tình đục. Họ thuộc đủ mọi thànhphần trong xã hội, từ người lao động bình thường cho đến những kẻ
giàu sang trong đó có cả một số cán bộ thối hóa biến chất và người
<small>nước ngồi.</small>
- Người bán dâm, tuy xuất phát từ những hoàn cảnh khác nhau
nhưng đều có chung mục đích là kinh tế. Tất nhiên trong đó cũng có
người vì cuộc sống hàng ngày, nhưng cũng có người vì lười lao động,
<small>hồn tồn tự nguyện.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">- Chủ chứa, kẻ môi giới, dẫn dắt mãi dâm đều có chung mục đíchlà lợi nhuận. Xuất phát từ lợi ích cá nhân ích kỷ đó, họ bất chấp tất cả
Thực hiện chính sách déi mới về kinh tế - xã hội, cing với sự mở
<small>rộng giao lưu với các nước trên thế giới, Việt Nam trong nhứng năm</small>
<small>nên phức tạp và nghiêm trọng hơn bao giờ hết.</small>
rõ rệt và có tác động rất xấu đến đời sống xã hội. Điểm đặc trưng của
tiền và ma lực của đồng tiền trong nền kinh tế thị trường đã tác động
trong nhận thức của họ. Nghiên cứu nguyên nhân kinh tế của tệ nạn
<small>dưới đây :</small>
- Kinh tế thị trường đã mở ra khả năng tự do lựa chọn các hình
thức kinh doanh cho các chủ thể kinh đoanh. Vì thế nhiều người đã vìlợi ích kinh tế của mình đã khơn g cần quan tâm đến lợi ích chung của<small>tồn xã hội, khi lựa chọn những hình thức kinh doanh có lợi nhuậncao, cho dù hình thức đó là pháp luật nghiêm cấm. Chúng ta cũng dé</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">-27-dang nhận thấy kinh doanh mai đâm là loại hình kinh doanh có lợi
nhuận kinh tế cao. Bởi vì vốn đầu tư thấp nhưng lợi nhuận thu đượcrất lớn, khơng có khả năng rủi ro thua 16, khơng địi hỏi trình độ
nghiệp vụ, kỹ thuật. Tất cả những khả năng này đã làm cho số loại
<small>dịch vụ như nhà hàng, khách sạn, massage, bia ôm, vũ trường,</small>karaoke ... ngày càng phát triển. Cũng từ đây số chủ chứa, môi giới
vũ trường của Nhà nước) cũng chuyển sang hình thức kinh doanh
chứa mãi dâm. Nhiều người trong số đó khi bị đưa ra xét xử đều cho
rằng : kinh tế thị trường buộc họ phải tự vận động để tổn tại, vì nếu
khơng chấp nhận sự tổn tại của mãi dâm trong khách sạn, nhà trọ,<small>nhà hang của mình thì việc kinh doanh khơng có hiệu quả và thua lễ.</small>
- Nếu như trước đây phần đông gái mại dâm phải bán đi nhân
phẩm của mình để ni sống bản thân, thì ở thời điểm hiện nay khơng
phải hồn tồn như vậy. Ngược lại có rất nhiều người bán đâm để nisống gia đỉnh và làm giàu. Bằng con đường mại đâm họ tạo được mộtcuộc sống khá giả và đây đủ tiện nghỉ và ngay trong đối tượng gái bán
dâm cũng đã có sự tự phân hóa và cạnh tranh để giành giật " thị<small>trưởng” hoạt động.</small>
Vì thế trong thực tế đời thường người ta tự phân loại gái mãi dâm
<small>thành ba loại : Loại gái mãi dâm bình thường, hạng " sang" và loại cao</small>cấp. Ứng với mỗi loại, giá cả của việc bán dâm cũng khác nhau. Như
vậy chính qui luật của kinh tế thị trường đã tạo ra một " thị trường"ngầm về mại dâm trong lòng xã hội. Đã có khơng ít gia đình vì đồng
nơi, phát hiện có trường hợp trong cùng một gia đình có hai thế hệ<small>hoạt động mãi dâm. Mẹ thì làm chủ chứa, cịn con thì vừa môi giới vừa</small>
trực tiếp bán đâm.
</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">- Một yếu tế khác tham gia tạo điều kiện cho tệ nạn mãi dâm tổntại đó là hiện tượng " bảo kê". Trong trường hợp này đồng tiền đã thật
sự mua chuộc được một số cán bộ có chức trách. Đồng tiền đã biến họ<small>thành kẻ " nô lệ" cho các chủ chứa. Ho đã bán cả lương tâm và trách</small>nhiệm của mình, làm ngơ cho các ơ mãi dâm hoạt động. Thậm chí khi<small>các chủ chứa bị phát hiện, họ cịn tìm cách bảo vệ, bao che và can</small>
<small>nhà nước ta.</small>
Phân tích ba khía cạnh chủ yếu trên đây cho phép kết luận : Nềnkinh tế thị trường có tác động sâu sắc và chi phối đến tồn bộ sự hình<small>thành, tơn tại và hoạt động của nạn mãi dâm.</small>
Nền kinh tế phát triển, nạn thất nghiệp được khắc phục, đời sống
văn hóa tinh than ngày một nâng cao, nhưng tệ nạn mãi dâm và cáctội phạm về mãi dâm vẫn tiếp tục gia tăng. Điều này có nghĩa là mặttrái của cơ chế kinh tế thị trường đang là nguyên nhân phát sinh, phát
triển của hiện tượng mãi dâm.
Nhìn một cách khái qt thì chính chủ nghĩa vật chất và chủ
nghĩa tiêu dùng là con đẻ của nền kinh tế thị trường. Hai thứ đó tácđộng đến đời sống tư tưởng và nhân cách con người và nghiêm trọng
hơn chúng còn phá hoại những giá trị tinh than đạo đức của xã hội.
Đây cũng là một quan điểm chung của nhiều nhà nghiên cứu về tìnhtrang mại dâm. Tại Hội nghị quốc tế về "Trẻ em làm nghề mại dâm" tô
<small>chức tại Trường Đại hoc mở rộng Sukhothai Thammathirat - Bangkok</small>đã đưa ra một kết luận chung như sau : " Chính chủ nghĩa uật chất uàchủ nghĩa tiêu dùng trong nên bùnh tế thị trường ngày nay đã phá hoại
mọt giá trị cộng đông trên khắp thế gidi, dã tạo nên mơi trường lấythỏa mãn tình duc va lam giàu, làm muc đích của nhiều người va là
<small>- 29 </small>
<small>-Suy cho cùng dù dưới damg nào thi kinh tế vẫn là nguyên nhân co</small>bản, trực tiếp, có sức quyến rũi mọi hành vi có liên quan đến hoạt động
mãi dâm và phạm tội mãi darn. Vì vậy, nếu chỉ nhận thức rằng : Mai
dâm là điều cần thiết duy nhất để giải quyết kinh tế cho các gia đìnhnghèo thì khơng bao giờ có thé thanh toán được tệ nạn mãi dâm.
chúng ta chưa lường hết những tiêu cực của xã hội có thể phát sinh. Vì
<small>ngăn chặn những hiện tượng tiêu cực đó. Thực tế điều này đã diễn ra ởnước ta trong những năm vừa qua là rất rõ. Khi đã nhận diện được, thì</small>
1.2.2- Ngun nhân về cơng tác quản lý nhà nước
Công tác quản lý nhà nước các hoạt động có liên quan đến mãidâm, được nghiên cứu trên ba mặt chủ yếu sau :
- Công tác quan lý các loại dich vụ có thé có liên quan đến hoạt
</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">quá tải đối với công tác quan lý nhà nước. Thực tiễn cho thấy đây là "
môi trường” thuận lợi cho tệ nạn xã hội phát triển. Từ các hình thức
trá hình bia ơm, vũ trường, karaoke... đi đến các hoạt động mãi dâm là
một con đường rất ngắn và có thê là điểm khởi đầu cho quá trình muabán đâm tiếp theo.
<small>Khảo sát tình hình " mơi trường" về mãi dâm tại địa bàn thành</small>
trong năm 1995, cho kết quả như sau :
Bảng 5 : Khao sát các loại địch vụ có hiện tượng chứa mãi dam:<small>Tên loại dịch vụ có hiện tượng Số Tỉ lệ</small>
<small>chứa mãi dâm lượng %Khách sạn 16 21,6Nhà khách . 06 8,1</small>
<small>Vũ trường 08 10,8Nhà hàng 03 7,05</small>
<small>Nhà trọ 07 9/4Karaoke 29 39,2</small>
Tổng cộng 74 100
lượng loại dịch vụ mơi trường sinh ra chúng. Hay nói cách khác, nếu
môi trường sinh ra hiện tượng mãi đâm càng tăng thì số gái mãi dâm,
chủ chứa và mơi giới cũng sẽ tăng theo. Điều này được thê hiện trong
bảng thống kê điễn biến tình hình mơi trường ở Thành phố Da Nẵng
<small>tử năm 1994 - 1996 dưới đây :</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32"><small>dễ dàng phát sinh mại dâm là các quán bia ôm, vũ trường, khách sạn,</small>
<small>nhà hang ... Môi trường càng phức tạp bao nhiêu thì tệ nạn mại dâm</small>càng phức tạp bấy nhiêu.
Theo nghiên cứu của Cục phòng chống tệ nạn xã hội Trung ươngvề phạm vi và môi trường hoạt động của gái mãi dâm, thì năm 1995<small>nước ta có 76.885 gái mại dâm, trong đó có 72% gái bán đâm tại các</small>nhà hàng, khách sạn, vũ trường tập trung ở các thành phố lớn. Còn
các nơi khác chiếm 28%.
</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">như phạm vi diễn ra quan hệ mua bán dâm. Nếu như trước đây gái
mại dâm chủ yếu là gái đứng đường, phạm vi hoạt động bán dâm ở cáccông viên, đường phố vắng và có tính riêng lẻ, độc lập thì ngày nay
tính cơng nghệ cao cấp, với một mối liên kết chặt chẽ giữa chủ chứa và
<small>người môi giới.</small>
Thế nhưng trong thời gian qua công tác, quản lý nhà nước củachúng ta đối với các loại dịch vụ có khả năng sinh ra mại dâm, cịn han
<small>chê trên cả hai mặt :</small>
Thú nhát, là hệ thống các văn bản về quản lý nhà nước trong lĩnhvực này, không những ban hành cịn chậm so với dién biến tình hìnhmà cịn thiếu đồng bộ, chưa chặt chẽ, thậm chí cịn nhiều quy địnhkhơng phù hợp với thực tế.
<small>Thú hai, 6 các co quan chức năng thực hiện công tác này, lực</small>
lượng cịn q mỏng, trong khi đó u cầu công tác quản lý là phải
theo doi, kiểm tra, giám sát thường xuyên để ngăn chặn kịp thời mọi<small>biêu hiện tiêu cực trong hoạt động của các loại dịch vụ trên.</small>
Nếu như chính sách quản lý nhà nước trong lĩnh vực kinh tế là
quản lý ở tầm vĩ mơ, thì đối với công tác quản lý xã hội phải đi từ vimô đến vĩ mô. Giai đoạn vừa qua chúng ta đã xem nhẹ quản lý hoặc
quản lý còn lỏng lẻo nên làm cho tình hình mãi dâm phát triển rất<small>nhanh.</small>
Quản lý đối tượng gái mãi đâm cũng là vấn đề hết sức quan trọng.Ngoài những biện pháp ngăn chặn về sự phát triển của gái mãi dâm,
các biện pháp làm giảm và đi đến xóa bỏ tệ nạn mãi dâm cũng phải
được tiến hành đồng thời. Trong đó việc quản lý đối tượng mãi dam
cần được thực hiện tốt.
</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34"><small>- </small>
33-Về công tác quản lý nhà nước đối với TNMD là một hình thức
quản lý có tính đặc biệt, nó phải được thực hiện trực tiếp từ cấp cơ sởthông qua hoạt động khaỏ sát điều tra nắm tình hình thường xun
của chính quyền địa phương cấp xã phường. Thế nhưng trong thời
<small>gian qua chúng ta chưa thực sự chú trọng tăng cường vai trò quản lý</small>nhà nước của cấp cơ sở, nên ở cấp này khơng phát huy được trách
nhiệm của mình. Đây cũng là ngun nhân chính dẫn đến sự bng
lõng quản lý các đối tượng mãi dâm ở địa phương .
Quản lý tốt đối tượng mãi đâm sẽ giúp chúng ta phân loại dé cócác biện pháp giáo dục, xử lý phù hợp, tạo điều kiện cho họ có cơng ănviệc làm, cuối cùng là đưa họ ra khỏi môi trường mãi dâm.
Song một điều nhận thấy là từ năm 1993 về trước, công tác quản
lý đối tượng gái mãi dâm không được chú trọng, cịn bng lỏng, thả
<small>Bên cạnh đó chúng ta chưa hình thành được bộ máy chuyên trách</small>
thực hiện công tác quản lý nhà nước về các tệ nạn xã hội nói chung.
xã hội, từ đó cơng tác quản lý các đối tượng tệ nạn xã hội mới được chútrọng và bước đầu đem lại hiệu quả. Nếu năm 1992 ước tính cả nước có
khoảng 400.000 gái mại dâm thì đến cuối năm 1996 con số đó giảmxuống chỉ còn hơn 56.000 gái mãi dâm. Như vậy trong vòng 4 năm, số
gái mãi dâm ở nước ta đã giảm đi khoảng trên 85%.
Thực tế cho thấy, nơi nào thực hiện tốt cơng tác quản lý gái mãidâm thì ở nơi đó tình hình tệ nạn mãi dâm có nhiều chiều hướng giảm.
Khảo sát một số thành phố lớn cho thấy : Ở Hà Nội năm 1996 cókhoảng 1.200 gái mãi dâm hoạt động, nhưng Chi cục phòng chống tệ
</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35">tượng, chiếm tỷ lệ gần 16%. Tại Thành phế Hồ Chí Minh người ta ướctính số gái mãi dâm gấp từ 8 - 10 lần Hà Nội, nhưng công tác quản lýcịn nhiều nan giải va ở đây cũng hình thành một thị trường mai dâm
<small>"sơi động" nhất trong tồn qc.</small>
Riêng ở Thành phố Đà Nẵng năm 1995 Chỉ cục Phòng chống tệ
nạn xã hội khảo sát và thống kê có khoảng 340 gái mại đâm hoạt động
và đã lập hé sơ quản lý được 267 đối tượng đạt tỷ lệ 78,8%. Do thựchiện tốt công tác khảo sát điều tra, phân loại và lập hồ sơ quan lý nênsang năm 1996 số lượng gái mãi dâm ở thành phế Đà Nẵng khơngnhững khơng tăng mà cịn giảm đáng kể (từ 339 xuống cịn 290), giảm15%. Trong số đó có 208 đối tượng được Chi cục lập hé sơ quản lý và
<small>theo dõi.</small>
Một khía cạnh khác trong cơng tác quản lý đối tượng mại dâm
cần phải được giải quyết triệt dé đó là : Khả năng trở lại con đường
<small>mại dâm của người được áp dụng các biện pháp giáo dục.</small>
Nghiên cứu 267 đối tượng gái mãi dâm được lập hé sơ quản lýtrong năm 1995 (267/339) ở Thành phố Đà Nẵng cho thấy sau khi đã
<small>áp dụng các biện pháp giáo duc, dạy nghề, tạo việc lam... thì chỉ có 95</small>người trong số họ có việc làm én định và hồn lương, cờn lại 91 người
chưa có việc làm thường xuyên, và 81 người chưa có việc làm. Kết quả
trên cho thấy hiệu quả của công tác giáo duc, dạy nghề, tạo việc làmcho các đối tượng này của các cơ quan quản lý chưa cao và chưa triệt
Thực tế đã có rất nhiều người trong số 81 người chưa tạo được việc làm
trở lại hành nghề bán dâm.
Đối với đối tượng là người mua đâm cũng đang là vấn dé rất phứctạp. Tính phức tạp của nó được thể hiện ngay trong các thành phần
</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36">Đối tượng mua dâm là người Việt Nam, bây giờ không chỉ đơn
thuần là những thanh niên ngồi xã hội, mà cịn một bộ phận cán bộ,Đảng viên có lối sống sa đọa, trác tán, biến chất. Họ bất chấp sự qui
định của pháp luật và đánh mất bản chất của mình để tham gia vào
<small>quan hệ mua bán dâm. Nghiêm trọng hơn có người tổ chức chứa vàmôi giới mãi dâm nhằm thu lợi bất chính. Thực tế này cho thấy cơng</small>tác quản lý và giáo dục cán bộ công chức nhà nước của chúng ta quả<small>thật còn nhiều yêu kém.</small>
<small>1.2.3- Những nguyên nhân về công tác tuyên truyền giáo</small>
<small>dục pháp luật :</small>
chỉ là sản phẩm của những tác động xã hội mà cịn là chủ thể của hồn
cảnh. Vì vậy muốn con người có đủ các phẩm chất đạo đức, lý tưởng và
những chuẩn mực về hành vi thì tất yếu phải thường xuyên chăm lo
<small>việc giáo dục đạo đức và pháp luật cho họ. Lênin đã định nghĩa :</small>
<small>“Giáo duc la sự tác động có hệ thống tối tâm lý người được giáo duc</small>nhằm trau dôi cho ho những phẩm chát, những thuộc tính tâm lý
nhân cach cụ thé, phân biệt dược cdi thiện va cdi đc va cuối cùng la
<small>hướng hanh vi của họ o những hoạt động có ích cho xã hột" [1]. Do</small>đó yêu cầu đặt ra là phải không ngừng giáo dục đạo đức xã hội, ý thức
pháp luật, nâng cao trình độ hiểu biết pháp luật cho mỗi người. Bởi vì :<small>“ Quá trình hình thanh nhén cách trong xa hội, một mặt la do anh</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37"><small>hưởng của hoàn cảnh thực tại xố hội uà môi trưởng xa hột (môi trường</small>
<small>chung quanh, môi trường địa Phuong va mơi trường gia đình) va mặtkhác la do tác động hướng dich của các thiết chế xã hội ddm nhận thực</small>
<small>hiện nhiệm vu tác động dy". [1]</small>
<small>Sự vận động va phát triém của nền kinh tế xã hội đã và đang chi</small>
phối rất lớn đến sự vận động của các hiện tượng xã hội khác. Con
<small>người ta khi thỏa mãn về nhu cầu kinh tế, lập tức họ tìm đến các nhu</small>
<small>cầu khác về văn hóa và đời sống tinh thần.</small>
<small>Cùng với sự hình thành các nhu cầu về tiến bộ xã hội, các nhu cầutrái với đạo đức xã hội đang có khuynh hướng ngày càng bộc lộ. Trongđó khơng ít người cho rằng tình dục là một thứ nhu câu tinh than cần</small>được thỏa mãn, và thực tế trong xã hội ta đã hình thành một bộ phận<small>người có nhu cầu về tình dục (người mua dâm) và một bộ phận đáp</small>
<small>ứng nhu cầu đó (bán dâm).</small>
<small>Trong diéu kiện giao lưu quốc tế đa phương như hiện nay, sẽ</small>
<small>nước ta. Một trong những tư tưởng làm nảy sinh tệ nạn mãi dâm đó là</small>chủ nghĩa về tình dục của các học giả tư sản. Học thuyết của Frét"mới" cho rằng : " Cái bản tính của con người" là những ham thích sinhvật, mà trước hết là những ham thích tình dục. Nhiều người đã dựavào học thuyết này để tìm cách thỏa mãn nhu cầu thấp hèn về tìnhdục bằng cách mua dâm. Từ đó đã sinh ra lắm người bán dâm, chủ<small>chứa và mơi giới, hình thành một tệ nạn gây lo lắng và bất bình trong</small>
<small>xã hội.</small>
<small>Trong khi đó Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương, chính</small>
sách nhằm định hướng cho con người ngày càng tiến gần đến giá trị
<small>hồn hảo của đời sống văn hóa và tỉnh thần. Để đạt được mục đích</small>
<small>này, yêu cầu việc giáo dục cho mỗi người nhận thức day đủ các giá trị</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38"><small>_T -„</small>
tinh thần, loại bỏ các nhu cầu trái với đạo đức xã hội và pháp luật làđiều rất quan trọng và cần thiết. Nếu khơng thực hiện được những ucầu trên thì khó có thé xây dựng được một xã hội có nếp sống văn hóa<small>lành mạnh và văn minh.</small>
<small>Do nhận thức luận của chúng ta về yêu cầu giáo dục còn hạn chế,nên công tác giáo dục đạo đức và pháp luật trong thời gian qua chưa có</small>
hiệu quả, thiếu tập trung, khơng thường xun, thậm chí cịn xem nhẹ.<small>Hay nói cách khác các thiết chế xã hội đảm nhận thực hiện nhiệm vụgiáo dục và tác động đến hành vi của con người còn nhiều yêu kém.</small>
Như vậy sự yếu kém trong cơng tác giáo dục đã dẫn đến tình
<small>trạng đạo đức xã hội trong thời gian qua bị xói mịn, " xuống cấp". Tình</small>
<small>trạng đó dẫn đến các hiện tượng tiêu cực trong đời sống xã hội phát</small>sinh và phát triển, trong đó có tệ nạn mãi dâm. Vì thế đây cũng là cội
<small>nguồn dân dén sự phát triên của tệ nạn mãi dam.</small>
<small>Mục đích giáo dục đạo đức, phẩm chất con người trong xã hội là</small>nhằm biến những nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức, chuẩn mực pháp<small>luật thành chính kiến bên trong của mỗi cá nhân con người, thànhnhững tập tục, tình cảm và những phẩm chất tâm lý đạo đức tốt cho</small>họ. Những phẩm chất đó khơng phải là những thứ bẩm sinh, mà nó
<small>được hình thành trong mỗi con người thông qua một cơ chế tác động</small>
tổng hợp của thực tại xã hội. Do vậy, vấn đề cơ bản trong công tác
tuyên truyền giáo dục pháp luật và đạo đức là phải nhận thức đúng
thực tại xã hội, dé từ đó có nội dung và hình thức giáo duc phủ hợp,
nhằm tác động có hiệu quả đến yêu cầu đấu tranh phòng ngừa tệ nạn<small>mãi dâm.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 39</span><div class="page_container" data-page="39"><small>1.2.4- Những nguyên nhân về pháp luật :</small>
Nghiên cứu về pháp luật với tư cách là nguyên nhân tác động đến
<small>thực trạng tệ nạn mãi dâm, được tiến hành ở hai mặt chủ yếu sau đây:</small>
<small>- Mức độ hoàn thiện của pháp luật và chính sách xử lý tệ nạn mãi</small>
<small>- Tình trạng thực thi pháp luật và áp dụng pháp luật để xử lý các</small>
<small>hành vi vi phạm liên quan đến tệ nạn mãi dâm.</small>
<small>Xã hội luôn vận động không ngừng và sự biến đổi của xã hội có</small>
<small>đoạn. Hay nói cách khác pháp luật ln ln có khuynh hướng lạc hậu</small>
hon so với tồn tại xã hội. Vì vậy tình trạng pháp luật không đuổi kịp
tồn tại xã hội là một tất yếu, khách quan. Đây là cơ sở lý giải cho sự
chưa hoàn thiện của hệ thống pháp luật. Hiện nay pháp luật của Nhà<small>nước chưa điều chỉnh kịp thời các hành vi xâm phạm đến đạo đức và</small>
<small>đên các tệ nạn mãi dâm.</small>
Sự khiếm khuyết này cũng coi là một nguyên nhân để cho bọn tội
<small>phạm mãi dâm lợi dụng vào những kẽ hở đó của pháp luật dé hoạt</small>
<small>Mặt khác, bản thân hệ thống các biện pháp xử lý cũng như các</small>chế tài đối với các hành vi mãi đâm chưa đủ mạnh, thiếu tác dụng răn<small>đe, phòng ngừa và còn hạn chế về yêu cầu trừng trị. Do đó, các quyđịnh hiện hành của pháp luật không đáp ting được yêu cầu đấu tranh</small>phịng chống tệ nạn mãi dâm, Trong khi đó thực tiễn tệ nạn mãi đâm<small>đang đặt ra nhiệm vụ cấp bách và địi hỏi phải khẩn trương hồn thiện</small>hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật về mãi dâm nói riêng.
</div><span class="text_page_counter">Trang 40</span><div class="page_container" data-page="40"><small>- </small>
<small>89-Trong những năm qua Quốc hội và Chính phủ đã có nhiều cố</small>
<small>thiện. Tuy nhiên hệ thống pháp luật vẫn khơng đồng bộ, nhất là pháp</small>
định có tính chất bể sung như một giải pháp tình thế.
<small>Bên cạnh sự chưa hoàn chỉnh về pháp luật, việc áp dụng pháp</small>
luật để xử lý các hành vi mãi đâm của các cơ quan thực thi pháp luật
là chưa nhất quán và thiếu mghiêm minh. Việc xử lý không nghiêm<small>minh này có tác động xấu đến ý thức chấp hành pháp luật trong nhân</small>
<small>dân, đã tạo ra một tâm lý coi thường pháp luật. Những vấn dé này</small>
<small>dang là lực can của sự tiến bộ xã hội và làm cho quá trình đấu tranh</small>chống tệ nạn xã hội kém hiệu quả. Chính vì tính chất quan trọng của<small>việc thi hành pháp luật như vậy, nên có thể khẳng định sự thi hànhpháp luật còn quan trọng hơn là sự tạo ra nó.</small>
<small>Nói như vậy khơng có nghĩa là phủ nhận tất cả những gì màchúng ta đã đạt được trong mấy năm qua về đấu tranh chống tệ nạn</small>
<small>mãi dâm. Trong vòng bốn năm chúng ta đẩy lui số gái mại dâm từ</small>
400.000 xuống cịn hơn 56.000. Đó là một kết quả đáng kể. Riêng tội
phạm về chứa mãi dâm và mơi giới mãi dâm, tính từ năm 1992 đến
<small>năm 1996, ngành tòa án cả nước đưa ra xét xử 3.518 vụ với 4.928 bị</small>
cáo. Kết quả này cho thấy cuộc đấu tranh chống tệ nạn mãi dâm được<small>chú trọng hơn, có nhiều ngành tham gia và cơ bản đã tạo ra những</small>
chuyển biến tích cực cho cuộc đấu tranh lâu đài nay. [9]
<small>Tuy vậy đi sâu vào từng mặt thì việc xử lý vẫn chưa kiên quyết và</small>
triệt đẻ. Điều này thể hiện ở chỗ : Việc quản lý, phân loại, xử lý đối<small>tượng là gái mãi dâm chưa bảo đảm yêu câu phòng ngửa. Nghiên cứu</small>
<small>tệ nạn xã hội Thành phế Đà Nẵng đã tiến hành lập hồ sơ quản lý trên</small>
</div>