Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (88.92 MB, 115 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ TƯPHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘITÁC GIẢ : NGUYEN VAN TRƯỢNG
| THU VIE
<small>HÀ NỘI - NĂM 1996</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">1.1. Khái niệm giám đốc thẩm ...- 10
<small>1.1.1. Tính chất của giám đốc thẩm ... nf m đôn nn ae giả 111.1.2. Đối tượng của giám đốc thẩm ...- 15</small>
<small>CHUONG 2</small>KHANG NGHỊ GIAM ĐỐC THẤM<small>2.1. Căn cứ kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm ... 28</small>
<small>2.1.1. Việc điêu tra xết hỏi tại phiên tịa phiến điệnhoặc khơng đây đủ... Ma Sâu Xi và š tườ tatecv X0 i sài ee</small>
<small>2.1.3. Vi Pham nghiêm trọng thủ tục tố tụng...- 33</small>
<small>2.1.4. Sai lâm nghiêm trọng trong việc áp dụng BLHS ... 35</small>
<small>2.2.1. Phát hiện thông qua hoạt động giải quyết đơn thư, khiếu nai... 38</small>
<small>2.2.2. Phát hiện thông qua phương tiện thông tin đại chúng... - 39</small>
<small>2.2.2. Phát hiện thơng qua cơng tác giám đốc xét xử của tịa án ... 40</small>
<small>2.2.3. Phát hiện thông qua công tác kiểm sát xét xử... 41</small>
<small>2.3. Chủ thể của quyền kháng nghị giám đốc thẩm_... ¬—aR 422.3.1. Chủ thể có quyền kháng nghị giám đốc thẩm...- 42</small>
<small>2.3.2. Nghĩa vụ của các chu thé có quyển kháng nghị ... 46</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3"><small>2.3.3. Việc bổ sung hoặc rút kháng nghị giám đốc thấm ... 482.4. Thời hạn kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm ... 50</small>
<small>2.4.1. Hướng khang nghị theo thu tục giám đốc tham... B1</small>
<small>2.4.2. Thời hạn kháng nghị giám đốc thẩm ... 522.5. Hậu qua pháp li của việc khang nghị ... 54</small>
<small>2.5.1. Việc tạm đình chỉ thi hành bản án hoặc quyết</small>
<small>định đa có HLUPL... 53</small>
<small>2.5.2. Viéc hoan thi hanh an va viéc ap dung, thay</small>
<small>đối các biện pháp ngăn chặn ... 56</small>
<small>CHUONG 3</small>
XÉT XU THEO THU TỤC GIAM ĐỐC THẤM
<small>3.1. Thẩm quyền xét xử giám đốc thẩm của các cấp tòa 4n... 593.1.1. Thẩm quyền xét xử giám đốc thẩm theo luật định ... 59</small>
<small>3.1.9. Một số vấn dé cân sửa đổi bổ sung... và ng ed xi Ho</small>
3.2. Thứ tục xét xử giám đốc thm .:...-..:... OB
<small>3.2.1. Thành phần hội đồng xét xử... An TH. áo VN ee ae</small>
3.3. Thẩm quyên của hội đông xét xử giám đốc thẩm .,... SE ng een ae3.3.1. Thời hạn xét xử giám đốc thẩm ... Baa ea CC aa ee3.3.2. Pham vi xét xử giám đốc thm ...-.-- 813.3.3. Quyết định giám đốc thẩm...--- es eePHAN KẾT LUGR Lí cáo FG alan oa A Su 3% kiến a a es ues 109DANH MUC TÀI LIỆU THÂM KHAO’... 6.0.0 06028 a aig bate ko PO .. 133
</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">Giám đốc thẩm là một giai đoạn tố tung quan trọng trong
tố tụng hinh sự nước ta. Việc qui định và áp dung đúng đản
các chế định về giám đốc thẩm góp phan thực hiện có hiéu quả
<small>-nhiệm vu của pháp luật t6 tụng hình sy, Bảng thủ tục giám</small>
đốc thẩm, Tịa án tiến hành xét lại những vụ án mà bản án
<small>nghị vi phát hiện có vi phạm pháp luật nhằm kip thời khắc</small>
phục những sai lam của Tòa án cấp dưới, nhanh chóng giải
khơng tội hoặc tội nặng xử nhe,dam bảo sự công bằng của
pháp luật, bảo vệ lợi ích của nhà nước, tổ chức xã hội,quyền
<small>và lợi ích hợp pháp của người bị kết án và các công dân khác.</small>
Là những qui định quan trọng trong luật tổ tụng hình sựnên thủ tục giám đốc thẩm đã được qui định và áp dụng tronghoạt động tố tụng của các cơ quan tiến hành tổ tụng ở nước
ta ngay tu ngày đầu thành lập và ngày càng được hoàn thiện.
pháp luật tố tụng hinh sự, lần đầu tiên, các qui định về giámđốc thẩm duoc tập hợp có hệ thống khoa học và cấu thành
<small>chương XXIX của BLTTHS.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">Tuy các qui định giám đốc thẩm được thực hiện từ khi có
Tịa án, đã được pháp điển hóa và qui định thống nhất trongmột văn bản pháp luật hồn chính là BLTTHS, nhưng các qui.định của pháp luật về Thủ tục giám đốc thẩm chưa được day
đủ, chưa hoàn thiện. Có nội dung chưa phù hợp với thực tiễnxét xử. Mặc dù vệc hướng dẫn áp dụng các quy định giám đốcthẩm được dé cập trong các báo cáo sơ kết, tổng kết củaTANDTC, trong các thong tư lên ngành củaTANDTC-VKSNDTC - Bộ tư pháp - Bộ nội vụ nhưng vẫn bộclộ những hạn chế trong việc áp dụng như: chưa có khái niệmđầy đủ về giám đốc thẩm; các căn cứ kháng nghị giám đốcthẩm chưa cụ thể; thời hạn kháng nghị và việc bổ sung, rútkháng nghị chưa qui định chặt chẽ, thẩm quyền xét xử giámđốc thẩm qui định còn chưa hợp lý, thủ tục xét xử giám đốc
thẩm qui định giản đơn; quyền hạn của Hội đồng xét xử chưaro rang, cụ thé.
Chính do những han chế trong qui định của pháp luật về,
thích khơng thật đẩy đủ của các cơ quan có thẩm quyén vềviệc áp dung chúng nên da dẫn đến việc hiểu và vận dung
thiếu thống nhất trong thực tiễn xét xử của tòa án các cấp,làm hạn chế hiệu quả xét xử giám đốc thẩm. Cỏ những sai
lam của các tòa án cấp dưới do vướng mắc bởi các qui định
về giám đốc thẩm nên không được khắc phục kịp thời, khơngbảo vệ được qun và lợi ích hợp pháp của người bị kết án và
của các công dân khác, làm giảm uy tín của các Tịa án.
<small>Tinh hinh nghiên cứu</small>
da được dé cập đến trong các giáo trinh của trường Đại hocLuật, khoa luật của trường Đại học Tổng hợp và một số
trường đại học, cao đẳng chuyên ngành. Chúng là đối tượng
</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6"><small>nghiên cứu của bình luận khoa học BLTTHS, đồng thời cũng</small>
là đối tượng nghiên cứu được một số tác giả dé cập trong cácbài đăng trên các tạp chí chuyên ngành.
Tuy vậy, trong những năm qua việc nghiên cứu để hoàn
thiện các qui định về giám đốc thẩm chưa được các nhà khoahọc pháp lý quan tâm thỏa đáng. Số lượng bài viết về vấn đề
này còn quá it. Phan lớn trong số đó chủ yếu là giải thích nêulên những vướng mắc và dé xuất hướng giải quyết đối với mộthoặc một số khía cạnh của hoạt động giám đốc thẩm. Chưa có
cơng trinh nào di sâu nghiên cứu một cách tồn diện, bao trùmtồn bộ q trình giám đốc thẩm, đề xuất được những giảipháp hợp lý trên cả hai phương diện lý luận và thực tiễn.
Toàn bộ thực trạng pháp luật, thực tiễn áp dụng và tinh
đề tài luận án cao học “Giám đốc thẩm trong luật tố tụng hình
Việc nghiên cứu vấn đề trên có ý nghĩa quan trọng trong
-giai đoạn hiện nay khi Quốc hội đang chuẩn bị sửa đổiBLTTHS, đống thời cũng đáp ứng duoc yêu cầu của để án cảicách tư pháp đã được Bộ Chính trị cho ý kiến như sau: "...
Nghiên cứu để sửa đổi thủ tục giải quyết các vụ án, trước hết
<small>Mục dich nghiên cứu</small>
Trên cơ sở các quy định của pháp luật, thực tiễn áp dung
các chế định về giám đốc tham, tác giả đặt ra cho minh mục
đích nghiên cứu tồn diện về thủ tục giám đốc thấm, lien hệ
</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">với thực tiễn xét xử và đề xuất những kiến nghị cần thiết dé
bo sung, hoàn thiện pháp luật tố tụng về giám đốc thẩm.
<small>Nhiệm vu nghiên cưu</small>
Để đạt được mục đích trên tác giả tập trung giải quyết
<small>nhung nhiệm vu sau đây:</small>
<small>— Nghiên cứu ban chat pháp ly của các chế định về giám</small>
đốc thẩm.
~ Xác định các đặc điểm của trình tự giám đốc thẩm
khác với trình tự sơ thẩm, phúc thẩm, tái thẩm. Trên cơ sở
đó đưa ra được khái niệm giám đốc thẩm.
— Phân tích các qui định của BLTTHS hiện hành về giámđốc thẩm như kháng nghị giám đốc thẩm, xét xử giám đốc
thẩm và quyết định giám đốc thẩm v.v;
— Liên hệ với thực tiễn áp dụng va dé xuất các giải pháp
khắc phục vướng mắc nhâm hoàn thiện pháp luật tố tụng về
giám đốc thẩm
<small>Phuong phap nghiên cưu</small>
<small>Việc nghiên cứu dé tai được tiến hành trên cơ sở phương</small>
pháp luận của Chủ nghĩa Mác - Lé-nin, tư tưởng Hồ ChiMinh và các đường lối, quan điểm của Đảng cộng sản Việt
<small>Nam. Ngoài phương pháp luận trên, tác giả còn sử dụng các</small>
phương pháp nghiên cứu như: phân tích, so sánh, tổng hợp,
diễn giải và qui nạp, lịch sử và thực tại, lý luận kết hợp vớithực tiễn.
Để hoàn thành luận án, tác giả đã nghiên cứu hàng trăm
vụ án được xét xử trong những năm gần đây. Tác giả cũng đã
<small>tham khảo ý kiến của nhiều cán bộ nghiên cứu lý luận và trực</small>
<small>tiếp xét xử.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">Kết quả của luận án thể hiện ở chỗ tác giả đã nghiên cứumột cách tổng hợp, tồn diện, có hệ thống các chế định giám
đốc thấm, đưa ra được khái niệm giám đốc thẩm trên cơ sở
phân tích các dấu hiệu đặc trưng của nó, phần tích nghiên cứu
các căn cứ kháng nghị, thẩm quyền kháng nghị, thẩm quyền
đốc thẩm. Trên cơ sở lý luận, Tác giả đã liên hệ với thực tiễnnêu lên nhưng vướng mắc trong hoạt động xét xử giám đốcthẩm và đề xuất những kiến nghị sửa doi, bd sung, nhảm
Tác giả của luận án hy vọng rằng những kết qua rấtkhiêm tốn mà tác giả đạt được trong luận án này se được
tham khảo trong quá xây dựng BLTTHS sửa doi, dùng làm tài
liệu tham khảo trong học tập và giảng dậy. Tác gia cũng hyvọng rang luận án sẽ góp phan nhỏ giúp cho cán bộ làm công
phần kết luận và mục lục tài liệu tham khảo.
</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9"><small>CHUONG 1</small>
Giám đốc thẩm là một giai đoạn tố tụng đặc biệt, được qui
định và thực hiện trên thực tế từ khi Nhà nước ta có tổ chứccơ quan tòa án. Trong luật tố tụng, khái niệm giám đốc thẩmbao gồm nhiều nội dung, nhiều vấn để phức tạp, nhưng cho
đến nay chưa được khoa học pháp h quan tâm nghiên cứu
cách hồn thiện, phản ánh đẩy du bản chất của giám
đốc thẩm.
Có tác giả cho rằng "Giám đốc thẩm là một giai đoạn củaquá trình tố bụng và là một trong những hinh thức giám đốc
xét xử của Tòa án cấp trên đối với Tịa án cấp dưới nhằm
kiểm tra tính hợp pháp và có căn cứ của các bản án (quyếtđịnh) đã có hiệu lực pháp luật, khác phục những vi phạm của
các Tòa án cấp dưới, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của
Theo chúng tôi các quan điểm trên đều đã nêu lên đượccác dấu hiệu chính của giám đốc thẩm nhưng chưa day đủ.
</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">Đối với quan điểm thứ nhất, tác giả mới chỉ nêu lên được tính
chất, đối tượng và mục đích của giám đốc thẩm, chưa nêu lênđược căn cứ để tiến hành giám đốc thẩm vì trình tự giám đốcthẩm chỉ phát sinh khi và chỉ khi có kháng nghị của nhữngngười có thẩm quyền theo qui định của pháp luật tố tụng. Đốivới quan điểm 2 đã nêu được tương đối đẩy đủ tính chất củatrinh tự giám đốc thẩm nhưng chưa thể hiện được mục dich
của việc xét xử giám đốc thẩm.
Qua thực tiễn xét xử cho thấy các cấp tịa án khi xét xử
giám đốc thẩm khơng chi xét lại bản án (quyết định) đã có
HLPL bị kháng nghị mà phải xét lại toàn bộ vụ án và trìnhtự xét xử giám đốc có nhiều đặc điểm khác với xét xử sơ thẩm
và xét xử phúc thẩm. Những đặc điểm trên phải được thể hiệntrong khái niệm giám đốc thẩm. Để đi đến khái niệm hoảnchính về giám đốc thẩm theo chúng tôi cẩn phải lam rõ các nội
<small>dung sau:</small>
- Tính chất của giám đốc thẩm;— Đối tượng của giám đốc thẩm;
- Căn cứ phát sinh trình tự giám đốc thẩm
— Mục dich của giám đốc thẩm
<small>1.1.1. Tính chất của giám đốc thẩm</small>
/Giám đốc thẩm là một giai đoạn tố tụng quan trọng trong
quá trinh tố tụng. Tính chất của giai đoạn nay được qui địnhtrong Điều 241 BLTTHS như sau: "Giám đốc thẩm là xét lạibản án hoặc quyết định đã có HLPL nhưng bị kháng nghị vi
<small>phát hiện có vi phạm pháp luật trong việc xử lý vụ an". Theo</small>
<small>nguyên tắc chung, bản án và quyết định của Tịa án ln lnphải đảm bảo tính hợp pháp và tính có căn cứ. Do vậy việc</small>
<small>hoặc quyết định của tịa án khơng những được thực hiện trước</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">sơ thẩm thi bản án hoặc quyết định chưa có hiệu lực ngay, bị
quyền kháng nghị theo qui định của pháp luật. Nếu có kháng
cáo hoặc kháng nghị thì Tịa án cấp phúc thẩm phải tổ chức
xét xử phúc thẩm, để xem xét nội dung kháng cáo, kháng nghịnhằm sửa chữa những sai lam mà Tòa án cấp sơ thẩm mắcphải, đảm bảo việc áp dụng pháp luật được thống nhất, bảo vệlợi ích của xa hội, quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo và cácđương sự. Những bản án và quyết định đã có HLPL phải đượcđưa ra thi hành. Tuy vậy những vi phạm pháp luật trong bảnán hoặc quyết định đã có HLPL vẫn phải được sửa chữa theotrình tự nhất định. Theo Pháp luật tố tụng của nước ta cùngnhư nhiều nước trên thế giới đã đề ra những qui định để xétlại tính có căn cứ và hợp pháp của các bản án (quyết định) đã
và trình tự xét lại này được gọi là trình tự giám đốc thẩm.⁄
Tu những phan tích trên cho thấy tinh chất của giám đốc
hoặc xét quyết định đã có nhưng phát hiện có sai lam.Xét lại tức là thẩm tra, xem xét lại tính hợp pháp và tính cócăn cứ của các bản án hoặc quyết định đã có HLPL. Tính hợppháp của bản án (quyết định) thể hiện ở chỗ bản án (quyết
định) đó phải phù hợp với những qui định của Bộ luật hình sựvề mặt nội dung như: định tội phải theo các tội danh được qui
<small>định trong BLHS , quyết định hình phạt phải căn cứ vào</small>
khung hình phat mà điều luật qui định và các tinh tiết giảmnhẹ, tăng nặng, tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội,
nhân thân bị cáo và các qui định tại Điều 38 và Điều 39 BLHSv.v... Đồng thời phải phù hợp với những qui định cua BLTTHSvề mặt hình thức như: Thành phần Hội đồng xét xử; xác định
hiện những kết luận trong :bản án (quyết định) phải phù hợp
<small>-với những tinh tiết khách quan của vụ án và được thẩm tra,</small>
xác minh tại phiên tịa. Như vậy để kiếm tra tính có căn cứ
<small>và hợp pháp cua bản án (quyết định) da có HLPL, Tịa án phải</small>
xem xét lại khơng chi nội dung bản án hoặc quyết định màphải xét lại toàn bộ vụ án. Nếu phát hiện các vi phạm pháp
<small>luật ngoài những vi phạm đã bị kháng nghị, tịa án vẫn có</small>
thời là một trong những hinh thức chủ yếu của hoạt độnggiám đốc xét xử của Tòa án cấp trên đối với Tòa án cấp dưới.
Thơng qua việc xét xử giám đốc thẩm, Tịa án cấp trên xem
<small>xét lại toàn bộ nội dung vụ án mà bản án hoặc quyết định đã</small>
có HLPL bị kháng nghị vi phát hiện có vi phạm pháp luật và
ra các quyết định giám đốc thẩm nhầm khäc phục những sai
lầm của Tịa án cấp dưới.
Thơng qua hoạt động giám đốc thẩm, Viện kiểm sát đồng
xử của Tịa án. Các bản án hoặc quyết định đã có HLPL của
hiện có vi phạm pháp luật thì Viện kiếm sát kháng nghị ucầu Tịa án có thẩm quyền xét xử lại vụ án theo trinh tự giám
có HLPL, để đi đến kết luận Tòa án cấp dưới xét xử có đúng
</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13"><small>khơng? nếu có vi phạm pháp luật thì vi phạm ở phan nao! và</small>
phương thức khắc phục. Da đó việc triệu tập người bị kết ánvà các đương sự khác đến phiên tịa là khơng bắt buộc. Đâylà một trong những đặc điểm khác với xét xử sơ thẩm và phúctham./
<small>/Xuat phat từ tính chất và đặc thù của giám đốc thẩm nên</small>
trong thực tiễn, số vụ án phải giám đốc thẩm chiếm tỷ lệ rất
it so với số lượng bản án, quyết định đã có HLPL. Thơngthường các bản án hoặc quyết định có HLPL, chỉ bị khángnghị để xét xử giám đốc thẩm khi có vi phạm pháp luật
<small>nghiêm trọng. ,</small>
<small>Trong khoa học luật TTHS hiện nay cịn có nhiều quan</small>
điểm khác nhau về tính chất của giám đốc thẩm. Có quan điểm
cho rang. theo Điều 241 BLTTHS hiện hành thì giám đốc thẩmlà xét lại bản án hoặc quyết định đã có HLPL nhưng bị khángnghị vi phát hiện có vi phạm pháp luật trong việc xử lý vụ án,_ chứ không phải là xét lại toàn bộ vụ án. Quan điểm nay lậpluận rằng bản án (quyết định) là bản tổng hợp kết quả của cả
quá trình điều tra, truy tố và xét xử, là bức tranh thu nhỏ toàn
chất mức độ hành vi phạm tội và thể hiện tất cả các quyết
định) đã có HLPL là đủ.
xử giám đốc thẩm không chi nghiên cứu xét lại bản án hoặcquyết định mà phải xét lại toàn bộ vụ án từ việc thu thập,đánh giá chứng cứ để xác định sự thật khách quan của hành
</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14"><small>vi phạm tội, xác định nhan thân bị cáo, đến việc quyết định</small>
<small>hinh phạt và giải quyết những vấn đề khác của vụ án.</small>
Theo chúng tơi, quan điểm thứ hai có nhiều nhân tố hợp
ii hơn. Trong thực tien xét xử, để ra được quyết định đúng
dan, Hội đồng xét xử giám đốc thẩm phải nghiên cứu xét lai
<small>toàn bộ nội dung vụ án. Việc xét lại tồn bộ nội dung vụ án</small>
khơng nhứng là quyền mà còn là nghĩa vụ của Hội đồng giámđốc thẩm được qui định tại Điều 253. BLTTHS. Khi phát hiện
những vi phạm pháp luật ở những phan của bản án (quyếtđịnh) không bị kháng nghị, Hội đồng xét xử giám đốc thẩmvan có quyền ra các quyết định cải sửa và chi bị hạn chế bởi
nguyên tắc "Không được làm xấu hon tinh trạng của người bi
kết án" Tu những lập luận trên, chúng tôi dé nghị bổ sung
Điều 241 BLTTHS hiện hành như sau: ;
“Giảm đốc tham la xét lai vu án ma ban án hoặc quyết dinhda có HLPL bị kháng nghị vi phát hiện có vi phạm pháp luật
<small>trong uiệc xu ly vu an"</small>
<small>1.1.2. Đối tượng của giám đốc thẩm</small>
Như chúng tơi đã phân tích ở phần trên, tính chất của ˆ
giám đốc thẩm là xét lại vụ án mà bản án hoặc quyết định đã
có HLPL bị kháng nghị nên đối tượng của giám đốc thẩm làvụ án mà bản án hoặc quyết định đã có HLPL bị kháng nghị
bản án và quyết định đã có HLPL bao gồm: nhứng bản án vaquyết định sơ thẩm đồng thời là chung thẩm; những bản án
và quyết định của tịa án cấp sơ thẩm khơng bị kháng cáokháng nghị theo trinh tự phúc thẩm; Những bản án và quyếtđịnh của tòa án cấp phúc thẩm; Những quyết định của tòa áncấp giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Như vậy việc xác định hiệulực của bản án và quyết định của tịa án có ý nghĩa rất quantrọng không những đối với việc thi hành bản án, quyết định đó
</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">mà cịn đối với cả việc kháng nghị và xét xử theo trình tựgiám đốc thẩm.
Trong thực tiễn xét xử cịn có những ý kiến khác nhau vềviệc xác định chính xác thời điểm phát sinh hiệu lực của bảnán hoặc quyết định của tòa án và chủ yếu là hiệu lực pháp
luật của những bản án và quyết định của tòa án cấp sơ thẩm
không bị kháng cáo, kháng nghị hoặc bị kháng cáo, kháng nghị
một phần. Có làm ro được các vấn dé trên thi mới xác địnhđược bản án hoặc quyết định đã có HLPL hay chưa và cóthuộc đối tượng xét xử theo trình tự giám đốc thẩm khơng!
1.12.1 Thoi điểm phát sinh HLPL cua ban an hoặc quyếtđịnh sơ thấm khơng bi kháng cao, khang nghị
Trong BLTTHS khơng có điều luật nao qui định về thời
điểm bản án và quyết định sơ thẩm có HLPL nếu khơng cókháng cáo, kháng nghị mà chỉ qui định thời hạn kháng cáo
kháng nghị. Theo Điều 208 BLTTHS, thời han kháng cáo là 15
ngày ke tử ngày tuyên án. Đối với bị cáo, đương sự vắng mặt
tại phiên tòa thi thời hạn kháng cáo tính tử ngày bản sao bản
án được giao cho họ hoặc được niêm yết. Thời hạn kháng nghị.
của Viện kiểm sát cùng cấp là 15 ngày, của Viện kiểm sát cấptrên trực tiếp là 30 ngày, kế tu ngày tuyên án. Như vậy vấn
thời điểm nào? Sau 15 ngày hay sau 30 ngày kể từ ngày tuyên
Quan điểm thứ nhất cho là thời điểm phát sinh hiệu lực
của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo kháng nghị là sau 30ngày kế tur ngày tuyên án trong trường hợp những người tham
gia tố tụng có quyên kháng cáo, kháng nghị quyết định sơ
thẩm có mặt tại phiên tịa. Có như vậy mới khơng trái vớikhoản 3 Điều 226 BLTTHS. Bởi le khoản 3 Điều 226 qui định
</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">"Trong thời hạn 15 ngày kế tử khi bản án hoặc quyết định của
<small>Tịa án có HLPL, Chánh án Tịa án đã xử sơ thẩm phải ra</small>
quyết định thi hành án hoặc ủy thác cho Tòa án khác cùng cấpra quyết định thi hành án". Thời điểm sau 30 ngày ké tử ngày
tuyên án sơ thẩm (tức là từ ngày thứ 31) là thời điểm hợp lýđể xác định bản án sơ thẩm khơng bị kháng cáo, kháng nghị
có HLPL. Nếu trước 30 ngày thì có thể xảy ra trường hợp
Chánh án Tịa án đã xử sơ thẩm ra quyết định thi hành ánrồi Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp mới ra kháng nghị theotrinh tự phúc thẩm đối với bị cáo mà Chánh án đã ra quyết
định thi hành án (vì theo Điều 208 BLTTHS, Viện kiểm sátcấp trên trực tiếp có quyền kháng nghị theo trình tự phúcthẩm trong thời hạn 30 ngày kể ti ngày tuyên án). Điều nàyvô tỉnh dẫn đến việc quyết định kháng nghị của Viện kiểm sátđã mặc nhiên hủy bỏ quyết định thi hành án của Chánh
Quan điểm thứ hai cho rằng thời điểm phát sinh hiệu lực
tùy thuộc vào quyền và nghĩa vụ của những người tham gia
tố tụng cũng như các cơ quan tiến hành to tụng (vi dụ đối với
bi cáo và những người tham gia tố tung có mặt tại phiên tịasơ thẩm thi bản án có HLPL đối với họ là sau 15 ngày kế tửngày tuyên án; đối với những người vắng mặt tại phiên tịa sơ
thẩm thì bản án có HLPL đối với họ là sau 15 ngày tính từngày họ nhận được bản sao bản án hoặc được niêm yết ở địa
điểm theo luật định; đối với Viện kiểm sát cùng cấp là sau 15
ngày và với Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp là sau 30 ngàyké tử ngày tuyên án.
Quan điểm thứ ba cho rang thời han kháng cáo, khang
nghị giành cho những người tham gia tố tụng và cơ quan tiến
hành tố tụng là thời gian han chế quyển kháng cáo hoặc
kháng nghị thi phải coi thời điểm có HLPL là ngày tuyên án
<small>ay hay 30 ngày...</small>
sơ thẩm chứ không phải là sau 1
<small>+</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">Theo quan điểm của chúng tôi để xác định thời điểm phátsinh HLPL của bản án so’ thẩm không bị kháng cáo, khángnghị thi phải xem xét tổng thể các qui định về xét xử sơ thẩm,
phúc thẩm, thi hành án và xét xử giám đốc thẩm, đảm bảoquyền lợi cho người bị kết án và tạo điều kiện thuận lợi cho
các cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết nhanh chóng vụ án.
Nếu ấn định thời điểm chung cho tất cả mọi trường hợp là sau30 ngày kế tử ngày tuyên án sơ thẩm như quan điểm 1 tuy
<small>có khắc phục được tĩnh trạng sau khi có quyết định thi hành</small>
án mới có kháng nghị của Viện kiếm sát cấp trên trực tiếp
nhưng có nhiều điểm khơng hợp lý. Vì ở trình tự phúc thẩm
luật qui định quyền và nghĩa vụ của những người tham gia tố
<small>tụng và cơ quan tiến hành tố tụng khác nhau. Hơn nữa thời</small>
điểm xác định bản án (quyết định) phát sinh hiệu lực có ý
<small>nghĩa quan trọng trong việc đảm bảo nhanh chóng đưa bản án</small>
(quyết định) ra thi hành đồng thời cịn có ý nghĩa trong việc
xác định thời hạn kháng nghị giám đốc thẩm theo hướngkhơng có lợi cho người bị kết án. Việc kéo dài thời điểm bản
án có hiệu lực tới 30 ngày đối với cả những người có quyền
sẽ kéo dài thời gian kháng nghị giám đốc thẩm theo hướng
<small>khơng có lợi cho họ.</small>
Quan điểm thứ hai tuy có căn cứ vào quyền và nghĩa vụcủa những người tham gia tố tụng và cơ quan tiến hành to
tụng để xác định thời gian bản án (quyết định) phát sinh hiệu
lực nhưng không khắc phục được tinh trạng khi bản án da
kiếm sát cấp trên trực tiếp. Quan điểm này cũng chưa thực sựđảm bao được quyền lợi cho người bị kết án vi it nhất phải -sau 15 ngày kể tử ngày tuyên án sơ thẩm, bản án (quyết định)
Quan điểm thứ ba đảm bảo được quyền lợi cho người bị
</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18"><small>kết án, rút ngắn thời gian kháng nghị giám đốc thẩm theo</small>
điểm này cũng có những điểm khơng phù hợp với các qui định
<small>của khoản 3 Điều 226 BLTTHS vi nếu lấy thời điểm phát sinh</small>
HLPL của bản án (quyết định) sơ thẩm không bị kháng cáo
<small>kháng nghị là ngày tuyên án thi thời hạn Chánh án tòa án đã</small>
xử sơ thẩm phải ra quyết định thi hành án trùng với thời hạn
<small>kháng cáo kháng nghị của những người tham gia tố tụng có</small>
mặt tại phiên tịa và Viện kiểm sát cùng cấp. Nếu để hết thời
<small>hạn kháng cáo, kháng nghị mới ra quyết định thi hành án sẽ</small>
trái với khoản 3 Điều 226 BLTTHS
<small>Tu những phân tích trên, chúng tơi cho rằng để đảm bảo</small>
quyền lợi cho người bị kết án và tạo điều kiện cho các cơ quantiến hành tố tụng giải quyết nhanh chóng vụ án nên xác định
thời điểm có HLPL của ban án hoặc quyết định khơng bịkháng cáo kháng nghị theo trình tự phúc thẩm là thời điểmtuyên án sơ thẩm. Để khắc phục những điểm bất hợp lý nhưđã nêu trên cần thiết phải sửa đổi khoản 3 Điều 226 BLTTHS
theo hướng tăng thời hạn phải ra quyết dinh thi hành án từ15 ngày lên 30 ngày đối với những bản án (quyết định) đã có
HLPL là bản án (quyết định) sơ thẩm không bị kháng cáokháng nghị theo trình tự phúc thẩm. Đối với các bản án (quyết
định) da có HLPL khác, thời hạn phải ra quyết định thi hành
án vẫn giữ như cũ.
1.1.9.2 Về ban an sơ thẩm bị khang cao, khang nghị một
phẩn theo trình tự phúc thẩm cũng có hai quan điểm khác
kháng nghị một phần nhưng phải coi tồn bộ bản án chưa có
HLPL vi theo Điều 214 BLTTHS "nếu xét thấy can thiết thiTòa án cấp phúc thẩm có thé xem xét các phần khác không bị
</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19"><small>kháng cao, kháng nghị" và K2 Ð 221 BLTTHS cũng qui định</small>
"nếu có căn cứ, Tịa án cấp phúc thẩm có thể giảm hình phạthoặc áp dụng điều khoản BLTTHS về tội nhẹ hơn cho cảnhững bị cáo không kháng cáo hoặc không bị kháng cáo, khángnghị". Quan điểm này cho rằng nếu coi phần bản án khơng bị
<small>kháng cáo, kháng nghị có HLPL là vơ nghĩa vi nó vẫn được</small>
tịa án cấp phúc thẩm xem xét lại.
<small>bị kháng cáo, kháng nghị theo trình tự phúc thẩm mới chưa</small>
có HLPL, phần cịn lại se phát sinh sau khi hết thời hạn khángcáo, kháng nghị. Vấn để này phù hợp với Điều 211 và khoản1 Điều 226 BLTTHS. Còn việc tòa án cấp phúc thẩm quyếtđịnh về cả những phần của bản án sơ thẩm không bị kháng
<small>cáo, kháng nghị theo nguyên tắc "không làm xấu hơn tình trạng</small>
của bị cáo" là thé hiện tính nhân đạo trong pháp luật tố tụng
<small>nước ta.</small>
<small>Theo chúng tôi, qui định hiện hành tại khoản 2 Điều 221,</small>
điểm b khoản 1 Điều 296 và Điều BLTTHS chưa thốngnhất cẩn phải sửa lại cho hợp ly hon. Cụ thé là bố sung vào
quyết định, phan nào bi kháng cáo, kháng nghị thi phan đóchưa có HLPL; phần nào khơng bị kháng cáo, kháng nghị thìcó HLPL theo qui định của điểm b khoản 1 Điều 226 BLTTHS
Tóm lại đối tượng giám đốc thẩm trong pháp luật nước ta
khơng bị hạn chế về tính chất vụ án, tội danh hay hinh phạt
mà bao gồm tất cả các bản án, quyết định của Tịa án đã cóHLPL. Vấn đề cơ bản là phải xác định bản án hoặc quyết địnhdo đã có HLPL hay chưa và thời điểm phát sinh hiệu lực cuabản án, quyết định đó.
Khác với BLTTHS của nước ta, BLTTHS của Thái Lan, tại
</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">hoặc cả tù lẫn tiên thi không ai được quyền xin phúc thẩm
<small>Như vậy pháp luật tố tụng hinh sự của nước ta thé hiện tinh</small>
<small>nhân đạo cao hơn.</small>
<small>1.1.3. Căn cứ để tiến bành giám đốc thẩm</small>
Theo qui định tại Điều 241 BLTTHS thì một bản án hoặc
quyết định đã có HLPL chi bị xét lại theo trình tự giám đốcthẩm khi và chỉ khi có kháng nghị của những người có thẩm
quyển theo qui định của pháp luật. Nhu vậy kháng nghị là căncứ dé tiến hành giám đốc thẩm, hay nói cách khác kháng nghịgiám đốc thẩm là căn cứ làm phát sinh một trình tự tố tụng
mới — trinh tự giám đốc thẩm.
Trong thực tiễn có những bản án hoặc quyết định tuy có
vi phạm pháp luật nhưng do không phát hiện được nên nhữngngười có thẩm quyền kháng nghị khơng kháng nghị hoặc pháthiện quá muộn, khi xem xét để kháng nghị theo trình tự giámđốc thẩm thì thời hạn kháng nghị đã hết, vì vậy khơng có
đến hậu quả những vi phạm pháp luật trong các bản án, quyết
định ở các trường hợp trên phải bỏ qua. Đây là một trong
những vấn đề cần có giải pháp khắc phục, vấn để này chúng
tôi se dé cập đến ở phan sau.
<small>1.1.4. Mục đích của giám đốc thẩm</small>
Q trình tố tụng hình sự bao gồm nhiều giai đoạn tố
đều có mục dich riêng. Ví dụ: mục dich của việc xét xử phúcthẩm là sửa chữa những sai lầm và vi phạm pháp luật trong
<small>*</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">các bản án hoặc quyết định chưa có HLPL của tịa án cấp sơ
thẩm, đảm bảo việc áp dụng thống nhất pháp luật.
Mục dich của giám đốc thẩm nhảm sửa chữa những sailầm trong những bản án, quyết định đã có HLPL của tịa áncác cấp sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị, các bản ánvà quyết định sơ thẩm đồng thời là chung thẩm, phúc thẩm,giám đốc thẩm và tái thẩm; đảm bảo cho việc áp dụng phápluật được đúng đản thống nhất, bảo vệ lợi ích của nhà nước,quyền và lợi ich hợp pháp của công dân.
Nhu vậy mục dich của giám đốc thẩm trước hết thể hiện
đã có HLPL. Khi một ban án hoặc quyết định đã có HLPL bịkháng nghị theo trình tự giám đốc thẩm thì Tịa án cấp giámđốc thẩm phải mở phiên tòa để xét xử và ra quyết định giámđốc thẩm. Trường hợp Tòa án xác nhận bản án hoặc quyết
định đã có HLPL có vi phạm pháp luật thi bảng quyết định
giám đốc thẩm, Tòa án phải sửa chữa những vi phạm phápluật đó theo các qui định tại các Điều 254, 255, 256, 257
Việc xét xử giám đốc thẩm nhâm mục dich đảm bảo áp
dụng đúng đản thống nhất pháp luật. Thông qua xét xử giám
đốc thẩm, Tòa án cấp trên chỉ ra những sai sót của Tịa án cấpdưới và hướng dẫn họ hiểu và vận dụng dung pháp luật. Thực
Bảng việc sửa chữa những sai lam trong các ban án hoặc
</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22"><small>quyết định của Tòa án cấp dưới, Tòa án cấp giám đốc thẩm</small>
còn thực hiện mục đích bảo.vệ lợi ích của xã hội, quyền và lợiich hợp pháp của người bị kết án và của các công dân khác.Nếu các cấp xét xử trước đó xử nhẹ, buộc bổi thường khơng
<small>đúng pháp luật v.v. Làm thiệt hại cho nhà nước và các tổ chức</small>
xa hội, khơng có hiệu quả trong việc đấu tranh phịng chống
tội phạm thi Tòa án cấp giám đốc thẩm phải xét lại vụ án, khicó kháng nghị của những người có thẩm quyền, để bảo vệ lợi
ich xã hội. Trường hợp xử không đúng người, đúng tội, quyết
định bồi thường sai hoặc xử oan người vơ tội thì Tịa cấp giám
-đốc thẩm phải cải sửa hoặc hủy án để đỉnh chỉ vụ án hoặc hủyđể điều tra lại hoặc xét xử lại, đảm bảo quyền và lợi ích hợp
<small>pháp của người bị kết án, của những người tham gia tố tụngcũng như của mọi công dân khác.</small>
Tu những vấn dé trinh bẩy trên, chúng tôi cho rằng kháiniệm giám đốc thẩm phải bao hàm đẩy đủ các nội dung sau:Giám đốc thẩm la một giai doạn tố tụng hinh sự trong đóToa an cấp trên trực tiếp xét lại vu dn ma bản dn hoặc quyếtđịnh da có hiệu lực pháp luật nhưng bị khang nghị vt phát hiệncó vi phạm pháp luật trong uiệc xu ly vu Gn nhằm khắc phục sai
lam cua Tòa adn cốp dưới, bao dam uiệc dp dụng thống nhất
pháp luật, bao uệ lợi ích cua xa hội, quyên va lợi ich hợp pháp
cua người bị hết dn, nhưng người tham gia tố tụng vd cua công
Cách mạng Tháng tám thành công, nước Việt Nam dân
chủ Cộng hòa ~ Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Dong
<small>2</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23"><small>nha nước non trẻ, kịp thời trừng trị những phan tử phản cách</small>
mạng, giữ gin an ninh chính trị, an tồn xã hội, Chính phủ
<small>Việt Nam dan chủ cộng hòa da ban hành nhiều sắc lệnh về tổchức và hoạt động của các cơ quan tư pháp, về pháp luật hìnhsự và tố tụng hình sự như: Sảc lệnh số 33/SL ngày 13-9-1945về thành lập Tòa án quân sự, sắc lệnh số 13/SL ngày</small>
24-1-1946 về tổ chức các tòa án và các ngạch thẩm phán; sắc
lệnh số 51/SL ngày 17-4-1946 ấn định thẩm quyền các tòa án
<small>v.v... Day là những văn bản pháp luật đặt nến móng đầu tiên</small>
để xây dựng pháp luật hình sự và tố tụng hình sự của Nhànước ta sau này. Trong các sắc lệnh trên cũng đã thể hiện
<small>nhứng qui định về việc xét lại những bản án khi có khiếu</small>
<small>Nhung qui phạm pháp luật về việc xét lại các ban án hoặc</small>
quyết định của Tòa án lan đầu tiên được thể biện rõ nét trong
thông tư số 141/HCTP ngày 5-12-1957 của Bộ Tư pháp quiđịnh cơng tố ủy viên "có quyền kháng nghị đối với bản án hoặc
Sau khi miền Bác được hồn tồn giải phóng, hoạt độngcủa bộ máy Nhà nước ta trong đó có Tịa án được củng cố và
<small>hồn thiện từng bước. Tòa án đã thụ lý và giải quyết nhiều</small>
vụ án về các loại tội, đồng thời cũng bộc lộ những thiếu sóttrong cơng tác xét xử. Một số vụ xử oan sai, không công bằng
dẫn đến việc các bị can, bị cáo đương sự khác không đồng tinh
<small>và gửi nhiều đơn thư khiéu nại tới các cơ quan Dang và Nhà</small>
nước. Để giải quyết kịp thời các đơn thư khiếu nại của côngdân, Bộ Tư Pháp đã ra Thơng tư số 321/VHH-CT ngày
12-2-1958, u cầu các Tịa án phải nghiên cứu giải quyết đơn
thư của các đương sự gửi đến "Đối với những việc đã xử rồi...
nếu thấy xử sai hoặc sai đúng không rõ ràng thi tùy từngtrường hợp có kế hoạch giải quyết thích đáng (Báo cáo cấptrên đề nghị kháng cáo hay: xin xử lại, hoặc đặt vấn dé dieu
<small>Tại hội nghị Tư pháp toàn quốc cuối tháng 11-1958, khi</small>
kiểm điểm về đường lối truy tố và xét xử, các đại biểu đã nêu
<small>ra nhiều vụ án hinh sự xử oan, hoặc tội nặng xử nhẹ, tội nhẹ</small>
xử nặng. Xuất phát tử thực tiễn xét xử và yêu cầu nâng cao
<small>chất lượng xét xử của Tòa án các cấp, Bộ Tư Pháp đã raThông tư số 02-TT ngày 18-1-1959 và Thông tư số 04/TT ngày</small>
3-2-1959 qui định về thủ tục xét lại những vụ án hình sự đãthành nhất định (da có hiệu lực pháp luật) nay phát hiện cósai lầm xử khơng đúng, can phạm còn đang bị tạm giam. Nội
<small>dung cơ bản của các Thông tự trên là: Đối với những vụ án</small>
xử oan thi TANDTC sẽ ra quyết định vừa tiêu án vừa tha
<small>ngay cho can phạm bị xử oan. Trường hợp tội nhẹ nhưng xử</small>
nặng, nếu có sự chênh lệch tử 2 năm trở lên giữa hinh phạt
da tuyên và hình phat đáng nhẽ phải tuyên thi TANDTC sẽ
tiêu án và giao cho TAND phúc thẩm xử lại chung thẩm. Nếu
theo để nghị của TANDTC cũng ra quyết định tiêu án và tùy
từng trường hợp sẽ giao vụ án cho TAND tỉnh xử lại theo
trình tự sơ thẩm nếu là định tội chưa đúng hoặc giao cho
TAND phúc thẩm xử lại chung thẩm nếu là định tội đúng
Như vậy các qui định của hai Thông tư trên là những chế
định cụ thể, đầu tiên phản ánh rõ nét nội dung cơ bản. Củakhái niệm giám đốc thẩm. Tuy còn ở mức độ giản đơn sơ lược,
về giám đốc thẩm trong pháp luật tố tụng của nước ta sau này.
Các chế định về thẩm quyền kháng nghị và xét xử giám
TAND (ngày 14-7-1960) và luật tổ chức. Viện kiểm sát nhân
dân (ngày 15-7-1960). Theo Điều 10 của Luật to chức TAND
năm 1960 thi "Đối với những bản án, (quyết định) da có hiệu
<small>,</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25"><small>lực pháp luật (HLPL) của TAND địa phương phát hiện có sai</small>
lam thi TANDTC có quyền xét lại hoặc giao cho TAND cấp
dưới xét lại. Đối với bản án (quyết định) của TANDTC đã cóHLPL nếu phát hiện có sai lam thi chánh án TANDTC đưa ra
UBTP TANDTC xét định". Theo Điều 18 của Luật tổ chức
<small>VKSND năm 1960 thi viện trưởng VKSNDTC có quyền khangnghị các ban án hoặc quyết định đã có HLPL của TAND các</small>
cấp nếu phát hiện có sai lam. Tại Điều 6 Pháp lệnh ngày23-3-1961 qui định về tổ chức của TANDTC và TAND địa
<small>phương củng giao quyền cho chánh án TANDTC kháng nghịnhững bản án hoặc quyết định đã có HLPL của TAND các cấp</small>
nhưng phát hiện có sai lầm. Các thủ tục giám đốc thẩm cũng
<small>được qui định trong các Thông tư số 2397-TC ngày 22-12-1961</small>
và Thong tư số 6-TC ngày 23-7-1964 của TANDTC. Các chế
định giám đốc thẩm được hoàn thiện thêm trong Luật tổ chứcTAND năm 1981. Tại các Điều 21, 23, 25, 31, qui định thẩmquyền xét xử giám đốc thẩm của TANDTC, UBTP TANDTC và
UBTP TAND cấp tinh. Tại điều 30 và 35 qui định quyền
kháng nghị giám đốc thẩm của Chánh án TANDTC và Chánhán TAND cấp tĩnh. Theo Điều 18 của Luật tổ chức VKSND
<small>năm 1981 thi Viện trưởng VKSNDTC có quyến kháng nghị</small>
giám đốc thẩm bản án (quyết định) đã có HLPL của TAND các
cấp và Viện trưởng VKSND cấp tinh có quyền kháng nghị bản
<small>án (quyết định) đã có HLPL của các TAND cấp dưới.</small>
Đến cuối thập kỷ 80, tinh hình kinh tế — xã hội của đấtnước ta có nhiều thay đối, ý thức pháp luật của nhân dân ta
<small>được nâng lên nhiều văn bản pháp luật mới được ban hành</small>
trong đó có Bộ luật hình sự, địi hỏi các thủ tục tố tụng hìnhsự cũng phải được pháp điển hóa mới đáp ứng được u cầu
<small>của cơng cuộc cải cách tư pháp. Do đó ngày 28-6-1988 tại kỳ</small>
họp thứ 3 khóa VIII của Quốc hội, Bộ luật Tố tụng hình sự
</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">(BLTTHS) đầu tiên của nước ta đã được thơng qua. Bộ luật
giành tồn bộ chương XXIX qui định các thủ tục giám đốcthẩm. Đây là những chế định hoàn tiện và đầy đủ nhất của
đổi bổ sung các chế định về giám đốc thẩm ngày càng đượchoàn thiện phù hợp với thực tiễn xét xử, góp phần tích cựcnâng cao chất lượng xét xử của tòa án các cấp, kịp thời khắc
xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của người bị kết án và các
<small>đương sự khác.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27"><small>CHƯƠNG 2</small>
<small>Theo qui định của Điều 241 BLTTHS thi bản án hoặc</small>
tự giám đốc thẩm khi và chỉ khi có kháng nghị của nhữngngười có thẩm quyền. Như vậy kháng nghị là căn cứ làm phátsinh trinh tự xét xử giám đốc thẩm. Để có được một quyết
định kháng nghị chính xác, đúng pháp luật, được Hội đồng xétxử giám đốc thẩm chấp nhận thi trong bản kháng nghị phảichỉ ra được những căn cứ và li do chính đáng. Các căn cứ dé
kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm được qui định trong
<small>Điều 242 BLTTHS như sau:</small>
1. Việc điều tra xét hỏi tại phiên tịa phiến diện hoặckhơng day đủ;
<small>với những tình tiết khách quan của vụ án;</small>
3. Có sự vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong khi
điều tra, truy tố hoặc xét xử;
4. Co những sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng Bộ
<small>luật hình sự.</small>
Như vậy để kháng nghị theo trình tự giám đốc thẩm một
</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28"><small>bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật phải pháthiện ra được ít nhất là một trong bốn căn cứ nêu trên. Tuy nộidung của các căn cứ được qui định trong luật tố tụng nhưng</small>
chưa được các cơ quan có thẩm quyền giải thích, hướng dẫn cụthể nên trong thực tiễn xét xử, việc hiểu và áp dụng các căncứ trên còn nhiễu vướng mắc, thiếu thống nhất. Bởi vậy việc
li luận và thực tiễn. :
<small>2.1.1. Việc điều tra xét hỏi tại phiên tòa phiến diện hoặc không đầy</small>
các trường hợp Hội đồng xét xử (sở thẩm hoặc phúc thểim)trong quá trình xét hỏi tai tịa da xét hỏi một cách so sai, đạikhái, khơng thẩm tra xác minh đẩy đủ các chứng cứ, tai Hệcó trong hồ sơ, chi nặng về chứng cứ buộc tội, tinh tiết tăng
<small>nặng mà coi nhẹ chứng cứ gỡ tội, tiết giảm nhẹ hoặc</small>
không xem xét đến chứng cứ có ý nghĩa quan trọng đối với vụ
<small>dụng BLHS (đã qui định ở căn cứ thứ 4)</small>
BLTTHS là chưa đẩy đủ, chưa chặt chẽ vi mới chi đề cập đến
</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">việc điều tra xét hỏi tại phiên tòa (sơ thẩm hoặc phúc thẩm)
mà chủ thể vi phạm pháp luật là Tòa án. Còn việc điều tra xét
<small>hỏi phiến diện hoặc không đẩy đủ trong giai đoạn điều tra mà</small>
chủ thể vi phạm là cơ quan điều tra, Viện kiểm sát thì chưađược dé cập đến. Theo quan điểm này, việc điều tra xét hỏi
<small>định trong trường hợp luật qui định phải giám định v.v... cũng</small>
phải coi là căn cứ để kháng nghị giám đốc thẩm theo hướng
hủy án để điều tra lại.
Theo chúng tơi cả hai quan điểm trên đều có những lậpluận hợp lí cẩn nghiên cứu. Nếu chỉ xem xét tính phiến diệnhoặc khơng dầy đủ của việc điều tra xét hỏi tại phiên tòa mà
chủ thể vi phạm là Tịa án thi chúng tơi đồng tình với quanđiểm thứ nhất. Tức là không cẩn qui định căn cứ nảy trong
điều luật nữa vì chủ thể vi phạm các nội dung được qui địnhtrong các căn cứ 1, 2 và 4 đều là Tòa án. Nhưng trong thực
tiến hoạt động giám đốc xét xử, khi nghiên cứu các hồ sơ ánhình sự đã có hiệu lực pháp luật để giải quyết đơn thư khiếunại, phát hiện nhiều trường hợp chủ thể vi phạm trong việc
điều tra xét hỏi có biểu hiện phiến diện khơng đẩy đủ khơngphải là Tịa án mắc phải khi điều tra xét hỏi tại phiên tòa mà
là cơ quan điều tra, viện kiểm sát phạm phải trong giai đoạndiéu tra biếu hiện như: Không thu thập những tài liệu vật
chứng có ý nghĩa quan trọng, hoặc những tài liệu cần thiết vềnhân thân người phạm tội; khơng lấy lời khai của người biết
được những tình tiết quan trọng của vụ án, không trưng cầu
giám định trong trường hợp bat buộc phải giám định; khongdiéu tra xác minh, thu thập thêm tài liệu để làm rõ nhữngtình tiết đã được Tịa án cấp trên chỉ ra khi hủy án để điều
</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30"><small>tra lại v.v... Khi xét xử, Tòa án xét thấy chứng cứ không day</small>
đủ yêu cau viện kiểm sát điều tra bổ sung nhưng việc điều trabo sung không thỏa mãn yêu cầu của Tịa án hoặc khơng bổ
sung được do nhiễu nguyên nhân khác nhau. Tòa án buộc phải
<small>đưa vụ án ra xét xử và tất nhiên tịa chi có thể căn cứ vàocác chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ để giải quyết vụ án.Trong trường hợp này, việc điều tra xét hỏi phiến diện hoặc</small>
không đầy đủ là do cơ quan điều tra, Viện kiếm sát mắc phảiở giai đoạn điều tra, truy tố chứ không phải là do Hội đồng
<small>xét xử.</small>
<small>Tử nhứng lập luận phân tích trên chúng tôi đề nghị phải</small>
coi việc điều tra xét hỏi phiến điện hoặc không đẩy đủ tronggiai đoạn điều tra cũng là căn cứ để kháng nghị giám đốcthẩm theo hướng hủy án để điều tra lại. Tuy nhiên cẩn phải -
chú ý rằng việc điều tra xét hỏi phiến diện không đầy đủ tronggiai đoạn điều tra, cũng là ngun nhân dẫn đến tịa án cónhững kết luận khơng phù hợp với những tỉnh tiết khách quan
của vụ án hoặc áp dụng điều, khoản BLTTHS khơng chính xác
nhưng khơng phải do lỗi của Tòa án mà do cơ quan điều tra,Viện kiểm sát không điều tra bổ sung đẩy đủ chứng cứ vàtrong "tỉnh thế" buộc tòa án phải xét hỏi thẩm vấn và kết luậntheo những tai liệu, chứng cứ có trong hồ sơ. Chính vi lẽ trênnên không thể bỏ căn cứ thứ nhất (như quan điểm 1) mà phải
<small>như sau:</small>
1. Việc diéu tra xét hỏi trong giai đoạn điều tra va tại phiêntoa phiến diện hoặc không đầy du".
2.1.2. Kết luận trong bản án hoặc quyết định khơng
phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án.
Kết luận trong bản án hoặc quyết định khơng phù hợp với
</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31"><small>những tình tiết khách quan của vụ án tức là không phù hợp</small>
tinh tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị
Kết luận của Tịa án khơng phù hợp với sự việc phạm tội
thể hiện như: sự việc phạm tội xẩy ra ban đêm, tòa án kết
<small>luận ban ngày; nơi xảy ra tội phạm trên thuyền đậu ở bến</small>
sơng, tịa án kết luận xảy ra trên bờ sông v.v...
Kết luận không phù hợp với các tinh tiết giảm nhẹ, tăng
<small>nặng trách nhiệm hinh sự của bị cáo như: bị cáo phạm tội</small>
trong tình trạng bị kích động nhưng tòa án lại kết luận là bịcáo phạm tội trong tinh trạng bình thường; bị cáo phạm tội cótổ chức nhưng tịa án chi coi đó là trường hợp đồng phạm giản
<small>đơn v.v...</small>
Khi áp dụng căn cứ này cần phải chú ý đến nguyên nhân .dẫn đến việc kết luận trong bản án hoặc quyết định không phùhợp với các tỉnh tiết khách quan của vụ án. Về vấn để nàybiện có những ý kiến khác nhau.
Trường hợp thẩm phán hoặc Hội thẩm đưa ra kết luậnkhông phù hợp với các chứng cứ khách quan đã được thu thập
trong hồ sơ vụ án do thiếu tỉnh thần trách nhiệm, nghiên cứu
trình tự giám đốc thẩm.
ra kết luận không đúng, không phù hợp với các tinh tiết kháchquan của vụ án là do căn cứ vào những chứng cứ, tài liệu chưa
nghị theo thủ tục tái thẩm.
</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32"><small>2.1.3. Về căn cứ thứ 3 của Điều 242 BLTTHS "có sự vi phạm nghiệm</small>
<small>trọng thủ tục tố tụng trong khi điều tra, truy tố hoặc xét xử"</small>
Trong thực tiễn xét xử, vấn đề vướng mắc nhất hiện naylà việc xác định mức độ vi phạm và các căn cứ để kết luận vi
phạm này hoặc vi phạm khác là nghiệm trọng?. Về hình sự đểxác định mức độ nghiệm trọng của hành vi phạm tội ta có thể
căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành
thủ tục tố tụng tới mức nào thi được coi là nghiêm trọng dẫnđến bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng
Có quan điểm cho rang những vi phạm nghiêm trong thủ
làm hạn chế quyền do luật qui định cho những người tham giatố tụng khi điều tra, truy tố, xét xử boặc do việc vi phạm thủtục tổ tung da can trở Tòa án xem xét toàn diện, khách quan
vụ án, lâm ảnh hưởng đến việc Tòa án ra bản án hoặc quyết
<small>định đúng pháp luật.</small>
Quan điểm thứ 2 cho rằng BLTTHS qui định rất nhiều
tham gia tố tụng mà còn dẫn tới việc Tòa án ra bản án hoặc
hiện có sự vi phạm thủ tục tố tụng của Phạm Văn A. Lê ra
</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33"><small>A là bị đơn dan sự nhưng tòa lại xác định A là người có nghĩavụ liên quan. Việc xác định sai tư cách tố tụng không làm ảnh</small>
<small>hưởng đến khoản thiệt hại mà tòa buộc A phải bồi thường.Nhưng nếu đối chiếu với nội dung của Điều 41 và 42 BLTTHS</small>
thi tòa đã tước bỏ 1 số quyền của A như: A không được thôngbáo kết quả diéu tra, không được đề nghị thay đổi người tiếnhành tố tụng. Sau khi xét xử, A không kháng cáo, khiếu nại
<small>gi và tự nguyện thực hiện nghĩa vụ bối thường theo quyết</small>
định của bản án. Trong trường hợp này, để đảm bảo 6n địnhbản án không cần thiết phải kháng nghị giám đốc thẩm và
<small>việc vi phạm thủ tục tố tụng như trên cũng không nên coi là.</small>
nghiêm trọng vi tuy có hạn chế một phan quyền của A nhưng
<small>khơng làm ảnh hưởng đến các quyết định về hình sự cũng như</small>
về dân sự của bản án.
Theo quan điểm của chúng tôi để xác định thế nào là vi
<small>phạm thủ tục tố tụng nghiêm trọng cần phải căn cứ vào tính</small>
chat và mức độ vi phạm.
Về tính chất vi phạm ta cẩn xem xét thủ tục bị vi phạmđó có bắt buộc phải chấp hành đối với các cơ quan tiến hành
tố tụng không? Về mức độ vi phạm phải xem xét thủ tục tốtụng bị vi phạm có làm tước bỏ hoặc hạn chế nhiều hay ít đến
quyền được luật định của những người tham gia tổ tung, xemxét mức độ làm ảnh hưởng đến việc tiến hành các trình tự tốtụng tiếp theo trong việc giải quyết vụ án như thé nào? Một
thủ tục tố tụng được coi là vi phạm nghiêm trọng nếu như thủ
tục đó là bắt buộc đối với cơ quan tiến hành to tụng, nhưng
hoặc tước bỏ quyền được luật định của những người tham gia
tố tụng và làm ảnh hưởng đến việc thực hiện các trinh tự to
tụng tiếp theo trong việc giải quyết vụ án thi phải coi là viphạm nghiêm trọng (Ví dụ: thành phần hội đồng xét xử khơnghợp pháp, xét xử khơng có người bào chứa cho bị cáo bị bệnh
</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34">tam thần v.v...). Một số trường hợp sau đây xét về tính chất,
<small>mức độ khơng nên coi là nghiêm trọng như: vi phạm trình tự</small>
phát biếu tại phiên tòa (Ð 191 BLTTHS), vi phạm thời hạn
chuẩn bị xét xử (Điều 151 BLTTHS) v.v...
<small>2.1.4. Căn cứ thứ tư của Điều 242 BLTTHS "có nhứng sai lâm nghiêmtrọng trong việc áp dụng Bộ luật hình sự"</small>
<small>Khi áp dụng căn cứ này, vấn để phức tạp đặt ra đối với</small>
người áp dung là việc xác định sai lầm tới mức nào thi được
coi là nghiêm trọng cẩn kháng nghị theo thử tục giám đốc
thẩm. Thực tiễn xét xử cho thấy những sai lầm nghiêm trọng
<small>trong việc áp dụng BLHS là những trường hợp như: tịa án</small>
khơng áp dụng đúng điều khoản của BLHS cần phải áp dung.
cáo, xử quá nặng hoặc quá nhẹ, áp dụng biện pháp chấp hànhhình phạt khơng phù hợp v.v... Trong các trường hợp trên, việctòa án xử quá nặng hoặc quá nhẹ thường chiếm tỷ lệ caotrong kháng nghị giám đốc thẩm của các cấp tòa án và cũng
tòa án cấp giám đốc thẩm va tòa án đã ra bản án hoặc quyếtđịnh bị kháng nghị. Do đó cẩn phải có sự nghiên cứu hướngdẫn mức độ khơng tương xứng giữa hình phạt đã tun vớitính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội
và nhân thân người bị án như thé nào thi được coi là qua
nặng hoặc quá nhẹ. Có quan điểm cho là nếu phát hiện thấyhình phat đã tuyên khơng tương xứng với hinh phạt lẽ ra phải
nếu mức độ chênh lệch giữa hình phat đã tuyên với hinh phạt
lại bản án. Nếu dưới 3 tháng, nên để ổn định ban án, khơng
<small>giảm án, tha tù cho họ.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35"><small>Vẽ vấn dé này theo quan điểm của chúng tôi phải xác</small>
<small>đã tới mức nghiêm trọng chưa! Nếu xét thấy nghiêm trong thi</small>
phải kháng nghị để xét lại bản án. Tính nghiêm trọng trong
trường hợp này thể hiện ở chỗ nếu khơng kháng nghị thì sẽảnh hưởng lớn đến đời sống tỉnh thần và vật chất của ngườibị án (trong trường hợp xử nặng) không đảm bảo tính cơngminh của pháp luật, làm hạn chế việc ran đe, phòng ngửa tộiphạm, gây dư luận xấu trong xã hội, làm giảm uy tín của Tịa
Qua thực tiễn kiểm tra các bản án, quyết định đã có
HLPL của các tịa án cấp dưới cho thấy có những vi phạmtrong việc giải quyết bối thường thiệt hại về tịch thu vật vảtiên bạc trực tiếp liên quan đến tội phạm cũng rất khó đánhgiá mức độ sai lam nghiêm trọng. Trong trường hợp ngườiđược boi thường là Nhà nước thi việc kháng nghị theo hướngcó lợi cho người bị án tương đối dễ ràng. Nếu các bên đương
sự đều là thể nhân thì người kháng nghị phải cân nhắc kỹ
lưỡng mức độ sai lầm để kháng nghị vì nếu kháng nghị theohướng nào đều dẫn đến hậu quả có lợi cho đương sự nảy
nhưng làm thiệt hại cho đương sự khác. Do đó cần có hướngdẫn thống nhất về mức độ vi phạm nghiêm trọng trong việc
<small>phải được coi là nghiêm trọng)</small>
Thực tiễn xét xử cịn cho thấy một số bản án đã có HLPLcó vi phạm trong việc tun án phí, tính tốn án phi sai nhưng
về án phi chỉ được qui định tại Điều 81 và 82 BLTTHS ma
</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36"><small>không được qui định trong Bộ luật hình sự nên có quan điểm</small>
phí nên khơng thể coi vi phạm về án phí là sai lầm trong việc
áp dụng Bộ luật hinh sự được. Vì vậy để có cơ sở kháng nghị
giám đốc thẩm cẩn phải nghiên cứu hoàn thiện các căn cứkháng nghị giám đốc thẩm sao cho bao gồm cả những sai lầm
<small>nghiêm trọng trong việc quyết định về án phí.</small>
Tử những phân tích trên, chúng tôi đề nghị sửa đổi, bổ
<small>sung căn cứ thứ tư như sau:</small>
Như chúng tôi da dé cập ở phần trên, kháng nghị là căncứ để phát sinh trình tự giám đốc thẩm. Để có kháng nghị
chính xác, có sức thuyết phục đối với tòa án cấp dưới, hoạt
động kiểm tra phát hiện bản án, quyết định da có HLPL có viphạm pháp luật đóng vai trị rất quan trọng. Nếu khơng pháthiện ra sai lam thi khơng có kháng nghị theo thủ tục giám đốcthẩm và đương nhiên bản án hoặc quyết định đã có HLPL cóvi phạm pháp luật khơng được xét xử lại, sai lam cua tịa áncấp dưới khơng được khác phục, lợi ich của xã hội, quyền va
lợi ích hợp pháp của công dân mà trước hết là của người bị
<small>kết án không được bảo vệ.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37">Luật tố tụng của nước ta cũng như của nhiều nước trên
rộng rãi những chủ thể có quyền phát hiện bản án hoặc quyết
định có HLPL can xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm. TheoĐiều 243 BLTTHS qui định "người bị kết án, các cơ quan Nhànước, các tổ chức xã hội và mọi cơng dân có quyền phát hiệnnhững vi phạm pháp luật trong các bản án và quyết định củaTịa án da có HLPL với những người qui định tại Điều 244 Bộ
<small>luat này.</small>
Trong trường hợp phát hiện thấy nhửng vi phạm phápluật trong bản án hoặc quyết định đã có HLPL, Viện kiểm sátvà Tịa án phải báo cho người có quyền kháng nghị qui địnhtại Điều 244 Bo luật nay".
Như vậy ngoài những cơ quan tư pháp như Tịa án, Viện
kiếm sát thì những người tham gia tố tụng và mọi cơ quan,
tổ chức xã hội, mọi cơng dân có quyền phát hiện những vi
của Tịa án. Đây là qui định thể hiện rõ nét bản chất phápluật nước ta, đảm bảo thực hiện nguyên tắc pháp chế XHCNvà nguyên tắc mọi người đều bình đẳng trước pháp luật.
- Qua giải quyết khiếu nại, t6 cáo;
- Qua phương tiện thông tin đại chúng;
<small>Tòa án cấp dưới;</small>
2.2.1. Hoạt động phát hiện thông qua việc tiếp nhận và giải quyết
<small>đơn thư khiếu nại, tố cáo.</small>
Sau khi vụ án được xử ly xong, nếu không thỏa man với
</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38">phán quyết của Tòa án thi người -bị kết án và các đương sự
xử thiếu công minh, không được dư luận đồng tinh thì các co
quan nhà nước, tổ chức xã hội và các cơng dân thơng báo viphạm tới Tịa án, Viện kiểm sát.Tòa án, Viện kiểm sát phải
nghiên cứu giải quyết và nếu xét thấy phát hiện của họ về
việc vi phạm của Tịa án là có cơ sở thi phải kịp thời thơng
báo cho người có thẩm quyền ra kháng nghị giám đốc thẩm.Về việc giải quyết đơn thư khiếu nại của các đương sự cóý kiến cho là tòa án phải tuân thủ theo các qui định của Pháplệnh khiếu nại tổ cáo của công dân tức là phải được giải quyết
quan đến bản án hinh sự da có hiệu lực khác với việc giải
quyết đơn thư bình thường. Vi trong trường hop này người
khiếu nai đã được quyên đưa ra yêu cầu khiếu nại nhiều lầntrong quá trinh xử ly vụ án tử khi điều tra, truy to tới khi xét
xử. Do đó khơng thể buộc Tòa án phải tuân theo các qui định
khiếu nai có liên quan đến bản án (quyết định) đa có HI
2.2.2. Hoạt động phát hiện thơng qua phương tiệnthơng tin đại chúng.
phương tiện truyền tải thông tin đến với công chúng nhanh
xử theo trinh tự giám đốc thẩm.
</div><span class="text_page_counter">Trang 39</span><div class="page_container" data-page="39"><small>2.2.3. Hoạt động phát hiện thông qua công tác giám đốc xét xử của</small>
<small>Tòa án cấp trên đối với Tòa án cấp dưới</small>
Giám đốc xét xử là một trong những chức năng luật định
án nay cũng thực hiện một phan các chức năng trên.
Trong thực tiễn để thực hiện chức năng giám đốc xét xử,
tòa án cấp trên yêu cầu tòa án cấp dưới sau khi xét xử phảigửi các hồ sơ vụ án hoặc bản án đã có HLPL lên kiểm tra.Chánh án Tịa án cấp trên giao việc kiểm tra án của các Tòa
án cấp dưới cho Thẩm phán hoặc thẩm tra viên. Qua trinhnghiên cứu kiểm tra nếu phát hiện có vi phạm pháp luật cầnphải xét lại theo trình tự giám đốc thẩm thì phải báo cáo với
<small>Chánh án ra quyết định kháng nghị.</small>
Việc giám đốc xét xử còn được thực biện qua q trình xét
xử phúc thẩm. Tịa án cấp phúc thẩm nghiên cứu bồ sơ chuẩn
<small>bị xét xử phát hiện những vi phạm pháp luật trong bản án</small>
quyền xét xử của tòa án cấp phúc thẩm (Vượt quá phạm vi
xét xử phúc thẩm) thì có qun để nghị Chánh án hoặc người
có thẩm quyền ra kháng nghị giám đốc thẩm. Ví dụ: Trong vụ
chi đề cập tăng hình phạt đối với một trong các bị cáo nói trên.Qua nghiên cứu hồ sơ, hội đồng xét xử thấy cẩn thiết phải
tăng hình phạt đối với tất cả các bị cáo mới đảm bảo tínhnghiêm minh của pháp luật. Xong thẩm quyền của hội đồng
xét xử phúc thẩm chi có thể tăng hình phạt đối với bi cáo bị
kháng nghị, cịn các bị các khác hội dong xét xử khơng đượctăng hình phat mặc dù thấy rảng hình phạt mà Tòa án sơ
thẩm tuyên là quá nhẹ. Nhưng phần cuối của bản án phúc
thẩm, HPXX có thể kiến nghị với người có thẩm quyền ra
</div><span class="text_page_counter">Trang 40</span><div class="page_container" data-page="40">quyết định kháng nghị giám đốc thẩm theo hướng tăng nặng
Hàng năm Tòa án cấp trên đều tổ chức các hội nghị sơ
kết, tổng kết, hội thảo chuyên đề, cử đoàn cán bộ xuống cơ sởtrực tiếp kiểm tra cơng tác xét xử của Tịa án cấp dưới. Thơng
qua những hoạt động trên, Tịa án cấp trên có thể phát hiệnnhững vi phạm pháp luật là cơ sở cho việc kháng nghị giámđốc thẩm.
<small>2.2.4. Hoạt động phát hiện thông qua công tác kiếm sát xét xử</small>
Viện kiếm sát là cơ quan được Nhà nước giao nhiệm vụkiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc xét xử của Tịa
động kiểm tra xem xét các bản án, quyết định đã có HLPL củaTịa án. Nếu phát hiện có vi phạm pháp luật thi Viện trưởngviện kiểm sát có thẩm quyền ra quyết định kháng nghị giám
<small>_vi phạm nêu trên.</small>
u cầu Tịa án gửi bản sao bản án, quyết định đã có HLP.
để kiếm tra, hoặc thông qua hoạt động kiểm sát xét xử trong
tự giám đốc thẩm
phong phú. Song trong thực tiễn do khả năng phát hiện cònhạn chế nên vẫn còn khơng it những bản án, quyết định đã có
</div>