Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (43 MB, 84 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">
Mã số: 5-0501
<small>(Cao học Luật Việt-Pháp, khoá |)</small>
Hà Nội - 2001
</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">Trong qua trình làm Luận uăn, người uiết luôn
nhận được sự hướng dẫn, chỉ bảo tận tình của giáo
thầy cô giáo uà cán bộ Khoa sau dai học (Trường Đại
nghiệp tại Trung tâm Thông tin - Thư uiện uà Nghiên
1.1. QUYỀN GIÁM SÁT TỐI CAO CUA QUỐC HỘI
<small>TRONG CƠ CHE QUYEN LUC NHÀ NƯỚC</small>
1.2. QUYỀN GIAM SAT TOI CAO CUA QUOC HỘI ĐỐI VỚI CHÍNH PHỦ 19
<small>1.2.1 Quyền giám sát tối cao của Quốc hội: Quan niệm, đặc trưng,</small>
<small>đối tượng, nội dung và phương thức thực hiện theo Hiến pháp 1992 191.2.2.Quyén giám sát tối cao của Quốc hội đối với Chính phủ:</small>
<small>Nội dung, phạm vi, phương thức thực hiện theo pháp luật Việt Nam</small>
(có so sánh minh họa với một số nước) 26Chương II
2.1. NHỮNG ĐỔI MỚI TRONG HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT CỦA QUỐC HỘI ĐỐI VỚI CHÍNH PHỦ 402.1.1. Về nội dung giám sát 4I
3.1. PHƯƠNG HUONG NÂNG CAO HIỆU LỰC VÀ HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT TỐI CAO
<small>CỦA QUỐC HỘI ĐỐI VỚI CHÍNH PHỦ 58</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">DANH MỤC CÁC TÀI LIỆU ĐÃ CÔNG BỐ CỦA CÁ NHÂNDANH MỤC TÀI LIEU THAM KHAO
<small>8081</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">1. Tính cấp thiết của Đề tài
Đất nước ta đã và đang bước vào thời kỳ phát triển mới, đẩy mạnh cơng
<small>nghiệp hố và hiện đại hố đất nước. Dự thảo Báo cáo chính trị của Ban chấp</small>
hành Trung ương Dang khố VII trình Dai hội đại biểu toàn quốc lần thứ IXcủa Đảng đề ra nhiệm vụ: “Xây dựng Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩaViệt Nam thực sự là trụ cột của hệ thống chính trị và cơng cụ chủ yếu để thựchiện quyền làm chủ của nhân dân”. Việc nâng cao vai trò của Quốc hội như
<small>một cơ quan đại diện của nhân dân, thay mặt nhân dân quản lý các công việc</small>
của Nhà nước là một mục tiêu mà Đảng và Nhà nước ta hang theo đuổi nhằmxây dựng một Nhà nước thực sự là của dân, do dân và vì dân.
hội và các cơ quan của Quốc hội thường xuyên được đổi mới và hoàn thiện vềtổ chức và hoạt động, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp đổi mới của đấtnước. Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực
nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hộicó chức năng lập pháp, quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước, thực
hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước. Quyền
Hiến pháp của nước ta. Trong điều kiện hiện nay, việc nghiên cứu và hoàn
thiện chức năng giám sát tối cao của Quốc hội đối với toàn bộ hoạt động củabộ máy nhà nước có ý nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn, góp phần tích cực
quan trọng vào việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện bộ máy nhà nước Cộnghoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6"><small>hội, đặc biệt là chức năng giám sát. Trong đó, hoạt động giám sát của Quốchội đối với Chính phủ là nhu cầu tất yếu trong cơ chế vận hành và quản lý bộmáy Nhà nước.</small>
Do vậy, việc nghiên cứu hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội đốivới Chính phủ, tổng hợp và so sánh với kinh nghiệm trong lĩnh vực này củacác nước là một việc cần thiết và hữu ích.
2. Tình hình nghiên cứu
Chức năng giám sát của Quốc hội đã là đối tượng nghiên cứu từ nhiềunăm nay ở nhiều nước trên thế giới. Tuy nhiên, hầu hết các tài liệu nghiên cứuvề chức năng giám sát của Quốc hội mới chỉ đặt trong phạm vi nghiên cứu
tổng thể về Quốc hội chứ chưa có nhiều cơng trình nghiên cứu riêng biệt về
vấn đề này.
trình nghiên cứu về quyền giám sát của Quốc hội như: Luận án Tiến sĩ năm1995 và “Quyền giám sát tối cao của Quốc hội” của ông Phạm Trọng Kỳ -Văn phòng Chủ tịch nước, một số bài viết đăng trên các tạp chí chuyên ngành,
hội tổ chức năm 1999).
của Quốc hội.
3. Mục đích nghiên cứu của Luận văn
<small>Trong phạm vi hạn chế của Luận văn này, người viết muốn di sâu tim</small>
hiểu, phân tích thêm những vấn đề lý luận cũng như thực tiễn trong hoạt độnggiám sát của Quốc hội đối với Chính phủ (có tham khảo, so sánh với kinhnghiệm nước ngoài) để làm rõ thêm tầm quan trọng của quyền giám sát củaQuốc hội trong đời sống xã hội. Đồng thời đề xuất một số giải pháp góp phầnnâng cao hiệu lực và hiệu quả hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội nóichung và hoạt động giám sát của Quốc hội đối với Chính phủ nói riêng.
<small>4. Phạm vi nghiên cứu</small>
Gidm sát tối cao của Quốc hội nói chung có đối tượng rất rộng, trong
khn khổ. có hạn Luận van chi tập trung vào nghiên cứu quyền giám sát tối
cao của Quốc hội đối với Chính phủ.
Với phạm vi đó, Luận văn có nhiệm vu làm sáng to những vấn đề sau:- Nội dung quyền giám sát tối cao của Quốc hội đối với Chính phủ;
- Các quan niệm về quyền giám sát và các hình thức giám sát của Quốc
đối với Chính phủ ở Việt Nam và các nước;
- Thực trạng thực hiện quyền giám sát tối cao của Quốc hội đối với
này trong những năm gần đây.
giám sát của Quốc hội đối với Chính phủ.5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">phân tích, so sánh và điều tra xã hội học để thể hiện mục đích và những nộidung cần nghiên cứu nói trên.
6. Những đóng góp mới của luận văn
- Cơ sở lý luận của việc nâng cao hiệu lực và hiệu quả hoạt động giám sáttối cao của Quốc hội đối với Chính phủ có ý nghĩa nâng cao nhận thức, chỉ
<small>đạo các hoạt động giám sát của Quốc hội trong thời gian tới.</small>
- Thực trạng hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội đối với Chính phủtrong thời gian qua là những cơ sở thực tiễn dé dé xuất phương hướng và giảipháp nhằm nâng cao hiệu lực và hiệu quả hoạt động này.
- Từ cơ sở lý luận và thực tiễn về thực hiện quyền giám sát tối cao củaQuốc hội đối với Chính phủ, Luận văn đã đề xuất một số phương hướng vàgiải pháp khả thi nhằm tăng cường chất lượng hoạt động giám sát của Quốchội hiện nay ở nước ta.
Với mục đích và nội dung như đã nêu trên, người viết hy vọng Luận văn
một tài liệu tham khảo hữu ích đối với những người hoạt động thực tiễn.
7. Bo cục
Luận văn bao gồm các phần như sau:
quyền giám tối cao của Quốc hội đối với Chính phủ trong pháp luật Việt Namtrên cơ sở Hiến pháp 1992 (có so sánh minh hoa với một số nước trên thế
CHÍNH PHU (từ khi có Hiến pháp 1992 đến nay)
Chương này tổng kết những đổi mới trong hoạt động giám sát của Quốc
hội đối với Chính phủ; nêu ra những tồn tại và nguyên nhân hạn chế hiệu lựcvà hiệu quả của hoạt động này; đánh giá tác động của hoạt động giám sát củaQuốc hội đối với Chính phủ trong đời sống chính trị-xã hội của đất nước.
Dựa trên việc tổng kết lý luận và thực tiễn, phần này nêu lên một sốphương hướng chung và đề ra một số giải pháp cụ thể để nâng cao hiệu lực và
hiệu quả hoạt động giám sát của Quốc hội đối với Chính phủ.
Quyền giám sát tối cao của Quốc hội nói chung và quyền giám sát tốicao của Quốc hội đối với Chính phủ nói riêng là một phạm trù thuộc quyềnlực Nhà nước. Do vậy khi nghiên cứu chế định pháp lý về quyền giám sát tốicao của Quốc hội chúng ta không thể tách rời việc nghiên cứu nguyên tắc tổchức quyền lực Nhà nước bởi vì phạm vi, đối tượng, hiệu lực, hình thức,phương thức và cơ chế thực hiện quyền giám sát phụ thuộc rất nhiều vào vấnđề này. Nói cách khác, trước khi đi sâu vào nghiên cứu khái niệm quyền giámsát tối cao của Quốc hội chúng ta cần xem xét mối tương quan giữa quyền lậppháp và quyền hành pháp.
Trong lịch sử các học thuyết về Nhà nước và pháp luật thế giới từ thờicố đại đến nay đã có nhiều quan niệm khác nhau về tổ chức quyền lực Nhànước. Tuy nhiên, có hai quan niệm được áp dụng phổ biến cho đến ngày naytrong việc tổ chức quyền lực Nhà nước, đó là thuyết phân chia quyền lực vàthuyết thống nhất quyền lực.
Nguyên tắc thống nhất quyền lực nhà nước trên phương diệnluật pháp và đặc biệt trên thực tế đã được biết đến từ lâu, thậm chí trướckhi học thuyết phân chia quyền lực xuất hiện. Trong các di tích từ thờicác triều đại cổ xưa, quyền lực chính trị cũng như quyền lực tinh thần
La Mã cổ dai, các vị vua chúa Dao Hồi, các hoàng đế - thiên tử ở TrungQuốc, Nhật Bản, những vị quân chủ chuyên chế ở Châu Âu, các Sa
<small>hồng... đã tập trung trong tay mình tồn bộ qun lực. Hiện nay,</small>
những phương thức áp dụng mới nhằm tập trung quyền lực được ápdụng ở một số nước hậu XHCN phương Đông và ở một số nước Châu
trị" và "Bàn về nguồn gốc và cơ sở của sự bất bình đẳng giữa con người với
nhau”. Trung tâm của học thuyết là các khái niệm khế ước xã hội và chủ
quyền nhân dân.
Khang định tính bất phân của chủ quyền nhân dân, Roussau
chống lại thuyết phân chia quyền lực. Chủ quyền nhân dân loại trừ sự
các cơ quan lập pháp và hành pháp; sự phục tùng của chính quyền hành
Rousseau nhận thấy trong việc triệu tập những cuộc đại hội nhân dân
thường kỳ để bàn về vấn đề tín nhiệm Chính phủ và các thành viên
</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">Chính phủ. Những cuộc dai hội như vậy có mục đích "bao vệ khế ước
<small>xã hội”. [8]</small>
Học thuyết về thống nhất quyền lực đã được các nhà mácxit nghiên cứuva áp dụng trong việc tìm kiếm một dang cơ quan để có thể trao toàn bộ quyểnluc nhà nước. Cơ quan như vậy K.Marx nhận thấy trong Công xã Pari 1871 vatrên nền tảng đó V.I.Lênin hình thành nên quan điểm về nền Cộng hồ Xơviết, tun bố "Tat ca chính quyền về tay các Xơ Viét!", trong đó Lénin nói vềchính quyền của giai cấp vô sản và nông dân (đặc biệt là bần cố nông) dưới sựlãnh đạo của giai cấp vô sản.
Tư tưởng tập trung quyền lực được thể hiện trên ba phương diện:
Một là, sự thống nhất quyền lực về mặt xã hội và chỉ một số cơ quanđược công nhận là cơ quan quyền lực nhà nước; Hai là, su /hống nhấtcác mục đích và phương hướng hoạt động của mọi cơ quan Nhà nước;
Ba là, rổ chức pháp lý của nguyên tac tập trung quyền lực nhà nước
với những nhà tư tưởng lớn của nhân loại là J.Locke (1632 - 1704) và
Montesquieu (1689 - 1755).
<small>hay nói cách khác “Nét đặc trưng trong học thuyết của Locke là việc khởi thảo</small>
học thuyết về “sự phân chia quyền lực”... Locke cho rằng quyền lập pháp làquyền lực cao nhất trong Nhà nước”. [8]
Học thuyết về phân chia quyền lực của Locke đã được S. Montesquieutiếp thu và hoàn thiện trong tác phẩm "Tinh thần pháp luật". Trong tác phẩmnày, phát triển học thuyết của Locke, Montesquieu xác định một cách cu thểcác dang quyền lực, tổ chức, mối tương quan của chúng...
Theo quan niệm của Montesquieu quyền lực Nhà nước được chia thànhquyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp. Nguyên tắc phân chiaquyền lực theo ông trước hết thể hiện ở chỗ chúng thuộc về các cơ quan nhànước khác nhau. Sự tập trung toàn bộ quyền lực trong tay một cá nhân, tổ chức
hay đẳng cấp đều dẫn đến sự lạm dụng quyền lực và chuyên chế. Ngồi ra,
ngun tắc phân chia quyền lực theo Montesquieu cịn đòi hỏi phải trao chomỗi nhánh quyền lực những thẩm quyền riêng biệt để chúng có thể kiềm chế
lẫn nhau, đảm bảo sự cân bằng giữa các nhánh quyền lực. Cần phải có một
trình tự mà theo đó "quyền lực này có thể ngăn chặn quyền lực khác". [10]Do đó, để dam bảo sự cân bằng giữa các nhánh quyền lực cần phải có
chính là cơ chế kìm chế đối trọng - dùng quyền lực hạn chế quyền lực. [8]
Học thuyết phân chia quyền lực được áp dụng một cách "cứng rắn” trong
thể chế Nhà nước của Mỹ và một số nước khác. Hiện nay, ở một số nước hậu
XHCN, thuật ngữ “phân chia quyền lực” này được đưa vào Hiến pháp (Điều 3Hiến pháp Kazakhstan 1994). Dĩ nhiên, nó được áp dụng trong những điều
kiện phân quyền "mềm dẻo” hơn. [32]
Sau khi phân tích bộ máy nhà nước được xây dựng trên cơ sở của
<small>đó:</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">- Sự độc lập của các nhánh quyền lực nhà nước và các cơ quan nhà nướccó tính chất tương đối;
- Hệ thống kiềm chế và đối trọng giới hạn quyền lực của mỗi cơ quannhà nước và cản trở sự tập trung quyền lực trong tay một nhánh quyền lực nàođó gây tổn hai cho những nhánh khác. [34]
Trên nền tảng của hai học thuyết đã nêu, các quốc gia trên thế giới đãáp dụng những yếu tố phù hợp với điều kiện và hồn cảnh của mình để hìnhthành các mơ hình chính thể. Trong đó, đấu hiệu đặc trưng để phân biệt chúngvới nhau chính là mối tương quan giữa quyền lực của cơ quan lập pháp và cơquan hành pháp. Chúng ta sẽ xem xét mối tương quan này trong 3 mơ hìnhchính thể phổ biến trên thế giới.
Mơ hình thứ nhất gồm các nước thuộc chính thể đại nghị. Dấu hiệuchính của hình thức chính thể này là chế định trách nhiệm chính trị của Chính
đóng vai trị quan trọng trong việc hình thành Chính phủ. Chính phủ cần nhận
việc bất ổn định chính trị trong xã hội và nảy sinh mâu thuẫn chính trị giữa lậppháp và hành pháp, sẽ dẫn đến tình trạng khủng hoảng chính trị, có nguy cơ
đe doa an ninh quốc gia nên việc sử dụng chế định này cần phải thận trong...”
(Tổng thống) cũng do cử tri bầu ra nên khơng có trách nhiệm tập thể củaChính phủ trước Nghị viện, bỏ phiếu bất tín nhiệm Chính phủ và sự giải tán
kiểm chế và đối trong phản ánh khá chính xác tương quan giữa ba nhánhquyền lực lập pháp, hành pháp và tư pháp. Như trên đã nói, ở Mỹ khơng cóchế định giải thể Quốc hội, nhưng Tổng thống có quyền phủ quyết tương đốicác đạo luật của Quốc hội. Quốc hội không thể bắt buộc Tổng thống từ chức,nhưng lại có quyền đưa ra quyết định truất quyền Tổng thống qua hình thức
<small>đàn hạch (impeachment). [27], [34]</small>
Tóm lai, ở chính thé cộng hồ tổng thống “su kiểm tra, giám sát
khơng những chỉ được thể hiện giữa quốc hội lập pháp đối với chính
phủ hành pháp, mà cịn bằng sự giám sát ngược lại của hành pháp đốivới lập pháp. Sự kiểm tra, giám sát này được hiến pháp thể hiện bằng hệ
thống “kìm chế và đối trọng”, khơng có cành quyền lực nào cao hơn
cành quyền lực nào... Mỗi cành quyền lực đều có phương tiện riêng
biệt, một quyền hạn đặc biệt để tự vệ khi có xung đột với các cành
quyền lực khác...” [1]
là cố gắng hạn chế những điểm yếu của hai mơ hình trên và kết hợp những nét
Ngồi ra, thuộc nhóm này cịn có các nước trước đây là thuộc địa của Pháp ở
</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16"><small>Châu Phi. Nước Nga hiện nay, một số nước thuộc Liên Xô cũ, Bồ Đào Nha,</small>
Phần Lan... cũng có thể xếp vào nhóm này. [34]
Thời gian gần đây thuật ngữ “quyền lực giám sát” được nhắc đến nhiềutrong học thuyết. Hiến pháp một số nước nhắc đến hệ thống giám sát quốcgia; những hiến pháp khác qui định rằng trong quá trình thực hiện những chứcnăng của mình, các cơ quan giám sát khơng phục tùng một cơ quan nào khác,"một nhánh quyền lực nào khác". Có những Hiến pháp sử dụng thuật ngữ"quyền giám sat". Một số nhà nghiên cứu cho rang đang diễn ra quá trình táchrẽ của quyền lực giám sát; quyền lực này có được những đặc thù từ góc độ cơcấu các cơ quan cũng như phương thức hoạt động của chúng.
Qua nghiên cứu một số tài liệu chúng tôi thấy thuật ngữ “ giám sát” đượchiểu theo nhiều cách từ các góc độ khác nhau:
- Giám sát là "sự theo dõi, xem xét làm đúng hoặc sai những điều đã
buộc và hướng hoạt động của đối tượng chịu sự giám sát đi đúng quỹ đạo,
cho pháp luật được tuân thủ nghiêm chỉnh" [5].
<small>* *%</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">Từ việc xem xét nguyên tắc tổ chức quyền lực Nhà nước, mối tươngquan giữa hai nhánh quyền lực lập pháp và hành pháp, chúng ta có thể thấygiám sát là một phương thức hữu hiệu để cân bằng quyền lực và bảo đảm choquyền lực Nhà nước thực thi có hiệu quả. Tuy theo mơ hình tổ chức chính thémà mỗi nước có quan niệm và phương thức tổ chức hoạt động giám sát củaQuốc hội khác nhau.
Tuy nhiên như trên đã trình bày, khẳng định tính tất yếu của hoạt động
giám sát Nhà nước khơng có nghĩa là hoạt động giám sát của Nhà nước nàocũng được tổ chức và tiến hành thực hiện giống nhau. Không có quốc gia nàotrên thế giới lại khơng nỗ lực trong việc giữ gìn, duy trì và bảo vệ pháp chế
(được hiểu là sự đòi hỏi các cơ quan Nhà nước, nhân viên Nhà nước, các tổ
chức và mọi công dân phải thực hiện đúng, thực hiện nghiêm chính pháp luật
trong hoạt động của mình), bởi nếu pháp chế bị vi phạm thì tất yếu trật tự, an
ninh xã hội bị rối loạn và bi de doa. Do đó, bất kỳ Nhà nước nào cũng tìm
cách thiết lập một cơ chế giám sát hữu hiệu nhất để ngăn chặn sự vi phạm
Song, khơng có nghĩa là Nhà nước nào cũng áp dụng một cơ chế giám sát nhưnhau, mà chúng ta thấy, cơ chế giám sát của các Nhà nước rất đa dạng, rất
tiến hành hoặc hỗ trợ hoạt động giám sát của Quốc hội (các Toà án hiến pháp
các cơ quan nhà nước...). Các nhà nước tư sản, mặc dù có những nét riêng
</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18"><small>khác nhau, nhưng cơ chế giám sát được thực hiện về cơ bản là giống nhau.</small>
Trên cơ sở nguyên tắc phân quyền, các Nhà nước tư sản áp dụng cơ chế kìmchế đối trọng, dùng quyền lực hạn chế quyền lực. Với cơ chế như vậy, các cơ
<small>quan trong Nhà nước thực hiện sự giám sát lẫn nhau một cách mạnh mẽ quyết</small>
liệt và cũng rất hiệu quả. Mặt khác, do thực hiện chế độ đa nguyên chính trị vàđa dang, các dang phái chính trị ở các nước tư bản chủ nghĩa cũng giữ vai tròrất lớn trong việc giám sát hoạt động của các cơ quan Nhà nước và nhân viênNhà nước. Cũng bởi vậy, cách thức tổ chức hoạt động giám sát cũng như cơchế giám sát ở các Nhà nước tư sản khơng giống như mơ hình và cơ chế giámsát của ta.
Mỗi Nhà nước tuỳ theo điều kiện truyền thống, lịch sử, văn hố, trình
độ phát triển kinh tế-xã hội, thể chế chính trị....của mình mà đặt vị trí của chức
năng giám sát cho phù hợp. Ví dụ như ở các nước xây dựng mơ hình Nhà nướctrên cơ sở nguyên tắc phân quyền - cơ chế kìm chế đối trọng, dùng quyền lựchạn chế quyền lực- thì 3 quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp tách biệt khá
rõ ràng nhằm ngăn chặn sự “lấn sân” lẫn nhau. Do đó các cơ quan cơng quyềnthực hiện sự giám sát lẫn nhau rất quyết liệt và hiệu quả mà không cần đến
một cơ quan hay tổ chức giám sát tối cao hay chuyên trách. Mặt khác, yếu tố
cũng như hiệu quả của hoạt động giám sát, đặc biệt là giám sát các cơ quan và
* Tóm lại, có thể nhìn nhận một cách khái quát về quyền giám sát
tốicao của Quốc hội trong cơ chê quyền lực Nhà nước như sau:
Hoạt động giám sát là hoạt động thực hiện quyền lực nhà nước.
Có thể khẳng định, hoạt động giám sát là hoạt động mang tính tất yếu
khách quan của tất cả các Nhà nước, ở mọi thời đại lịch sử. Bất kỳ mộtNhà nước nào, khi đã xuất hiện, đều phải ban hành pháp luật để quản lýNhà nước, quản lý xã hội và tiến hành hoạt hoạt động giám sát đối vớitoàn bộ xã hội trong việc tuân thủ pháp luật của mình. Giám sát việctuân theo pháp luật là hoạt động có tính đặc trưng của tất cả các nhànước trên thế giới. Khơng có bất luận một Nhà nước nào tồn tại và pháttriển mà không tiến hành hoạt động giám sát. Song, nói như vậy khơngcó nghĩa là hoạt động giám sát của mọi Nhà nước, mọi thời đại đều
giống nhau, mà nó khác nhau rất nhiều, phụ thuộc vào kiểu Nhà nước,
vào cách thức tổ chức và hoạt động của từng bộ máy Nhà nước. Người
ta không thé và không được phép đánh đồng hoạt động giám sát củanhà nước phi dân chủ (chiếm hữu nô lệ ) và các Nhà nước dân chủ (tư
giám sát của các Nhà nước dân chủ với nhau, bởi có những Nhà nước
được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc phân quyền, nhưng cũng có
quyền lực chính trị (thực hiện quyền lực Nhà nước). Thi hai, hoạt độnggiám sát của tất cả các Nhà nước đều nhằm mục đích đảm bảo cho pháp
1.2.1. Quyền giám sát tối cao của Quốc hội: Quan niệm, đặc
<small>trưng, đôi tượng, nội dung và phương thức thực hiện theo Hiến pháp1992</small>
của nguyên tắc phân quyền, mơ hình tổ chức Nhà nước được thiết kế vớinhững nét đặc thù riêng biệt. Trên cơ sở nền tảng của tư tưởng xây dựng mộtNhà nước “của dân, do dân và vì dan", Hiến pháp 1992 đã quy định: Quốc hộilà cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước caonhất , Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp. Quốc hộithực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động nhà nước (Điều83). Điều đó có nghĩa là Quốc hội giám sát tất cả các lĩnh vực hoạt động Nhànước (các cơ quan Nhà nước ở Trung ương, các cơ quan Nhà nước ở địaphương, các ngành, các cấp) và mọi công dân. Quốc hội thực hiện chức năng
tư pháp trong việc thực hiện chức năng, quyền hạn của bộ máy hành chính, bộmáy tư pháp, việc thực thi pháp luật và các quyết định của Quốc hội. ViệcQuốc hội thực hiện quyền giám sát đối với hoạt động của các cơ quan hànhpháp và tư pháp, đặc biệt là các cơ quan hành pháp, xuất phát từ một vấn đề có
tính ngun tắc: cơ quan quyền lực Nhà nước cần phải kiểm soát các hoạt
động của bộ máy Nhà nước nhằm duy trì sự vận hành của bộ máy Nhà nướctheo hướng đáp ứng tốt nhất ý chí và nguyện vọng của nhân dân. Với tư cáchlà cơ quan đại diện của dân, Quốc hội giám sát hoạt động của bộ máy Nhànước ta là nhằm bảo vệ quyền lợi của nhân dân, đặc biệt là thực hiện dân chủxã hội chủ nghĩa.
Các Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980, đặc biệt là Hiến pháp năm 1992
tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước. Như vậy, Quốc hội với tưcách là chủ thể giám sát có mối quan hệ tác động tích cực đến đối tượng chịusự giám sát bằng chính quyền năng của mình. Thực chất hoạt động giám sátcủa Quốc hội là hoạt động quyền lực. Về mặt pháp lý, thẩm quyền giám sátcủa Quốc hội không bị hạn chế đối với bất cứ đối tượng nào, nghĩa là khôngmột cơ quan, tổ chức, cá nhân nào trên lãnh thổ nước Cộng hồ xã hội chủ
<small>nghĩa Việt Nam là khơng chịu sự giám sát của Quốc hội.</small>
Với tư cách là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến, lập pháp, Quốc hộiphải có quyền theo dõi, xem xét (giám sát) việc thực hiện chúng trong đờisống thực tiễn. Chính vì vậy, hoạt động lập hiến, lập pháp và hoạt động giámsát của Quốc hội là hai hoạt động có nội dung khác với nhau. Quyền giám sátcủa Quốc hội là tối cao vì khơng thể có một cơ quan nào đứng trên Quốc hộitrong việc xem xét thi hành Hiến pháp, luật là những văn bản mà chỉ có Quốchội mới có quyền ban hành. Lập hiến, lập pháp và giám sát của Quốc hội là
những hình thức thực hiện quyền lực Nhà nước cao nhất. Bản chất của những
hoạt động này là thực hiện quyền lực Nhà nước.
Theo Điều 84 khoản 2 Hiến pháp 1992, Điều 2 khoản 2 Luật tổ chức
Quốc hội, thì thực hiện quyền giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp, luậtvà nghị quyết của Quốc hội là một trong những nhiệm vụ, quyền hạn củaQuốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
1.2.1.1. Các đặc trưng cơ bản của quyển giám sát tối cao của Quốc hội
® Giám sát tối cao của Quốc hội là giám sát mang tính quyền lực Nha
“là một khâu không thể thiếu được trong hoạt động quản lý Nhà nước” [6],
pháp 1992) và “Nhân dân sử dung quyền luc Nhà nước thông qua Quốc hội vaHội đồng nhân dân là những cơ quan đại điện cho ý chí và nguyện vọng củanhân dân, do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân”. (Điều 6 -Hiến pháp 1992). Vì thế, thực hiện quyền giám sát tối cao chính là Quốc hộithay mặt nhân dân sử dụng quyền lực Nhà nước do chính nhân dân giao cho.
® “Quyền giám sát của Quốc hội là guyén giám sát tối cao. Hay nóicách khác, Quốc hội là cơ quan Nhà nước duy nhất được nhân dân giao chothực hiện quyền giám sát tối cao. Tính chất tối cao quyền giám sát của Quốchội bắt nguồn từ vị trí pháp lý tối cao của Quốc hội trong bộ máy Nhà nước”
“Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan
quyền lực Nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam” (Điều 83 - Hiến pháp 1992). Nhà nước ta được tổ chức theo
nguyên tắc tập trung dân chủ nhưng có sự phân cơng, phân nhiệm rành
cao nhất của nhân dân và là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất. Thaymặt nhân dân cả nước thực thi quyền lực mà nhân dân giao cho... Với tưcách là cơ quan quyền lực Nhà nước tối cao, Quốc hội vừa quyết định
luật, vừa giám sát các cơ quan Nhà nước thi hành luật, nhưng khơng lẫn
lộn với quyền hành pháp của Chính phủ cũng như quyền độc lập xét xửcủa Toà án” [11].
1.2.1.2. Chủ thể
Chủ thể của hoạt động giám sát của Quốc hội theo quy định của Hiến pháp
và pháp luật gồm có:
ban Thường vụ Quốc hội giám sát việc thi hành Hiến pháp, Luật, Nghị quyết
của Quốc hội, Pháp lệnh, Nghị quyết của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội; giám
</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">sát hoạt động của Chính phủ, Tồ án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân (Điều91 Hiến pháp 1992),
* Đại biểu Quốc hội: Là người đại diện cho cử tri đã bầu ra mình nói riêng,
cử tri cả nước nói chung, đại biểu Quốc hội thực hiện quyền giám sát qua hoạt
<small>động chất vấn đối với Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính</small>
phủ, Bộ trưởng va các thành viên khác của Chính phủ, Tồ án nhân dan tối
cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao (Điều 89 Hiến pháp 1992).
* Hội đồng Dân tộc và các Uy ban của Quốc hội:
Điều 94 của Hiến pháp quy định : “Hội đồng Dân tộc thực hiện quyền
<small>giám sát việc thi hành chính sách dân tộc, các chương trình, kế hoạch phat</small>
triển kinh tế - xã hội miền núi và vùng có đồng bào dân tộc thiểu số”. Điều 95
của Hiến pháp quy định : “Các Uỷ ban của Quốc hội thực hiện quyền giám sát
vụ, quyền hạn, giám sát của Hội đồng dân tộc và từng Uy ban của Quốc hội(các Điều từ 20 đến 29 của Luật Tổ chức Quốc hội). Xét về giác độ pháp lý thì
thẩm quyền giám sát của Hội đồng Dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội đã được
Hiến pháp và các đạo luật quy định. Tuỳ thuộc vào chức năng đảm trách và
động giám sát và báo cáo kết quả giám sát với Uy ban thường vụ Quốc hội (có
thể báo cáo với Quốc hội). Cũng có những vấn đề, Hội đồng dân tộc và các
thường vụ Quốc hội.
đồng và các Uỷ ban quan tâm (Điều 94, Điều 95, Điều 96 Hiến pháp 1992;Điều 32 Luật Tổ chức Quốc hội).
1.2.1.3. Đối tượng
Để phân biệt hoạt động giám sát của Quốc hội với các cơ quan có chứcnăng giám sát hiến định khác như Mặt trận Tổ quốc, Cơng đồn..., đối tượnggiám sát là một yếu tố quan trọng. Cụ thể, hoạt động giám sát của Quốc hộitác động lên các đối tượng: Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Uy ban Thường
<small>vụ Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án Tồ án nhân dân tối cao, Viện</small>
trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Đây đều là các cơ quan và các chứcdanh cấp cao của bộ máy nhà nước; các chức danh (Chủ tịch nước, Chủ tịchQuốc hội) và người đứng đầu các cơ quan Nhà nước cấp cao (Uy ban Thườngvụ Quốc hội, Chính phủ, Tồ án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tốicao) đều do Quốc hội bầu ra trong số các đại biểu Quốc hội và Quốc hội cóquyền :bãi miễn; khi xét thấy cần thiết hoặc khi Quốc hội đề nghị, các chức
danh này phải chịu trách nhiệm và báo cáo công tác của cơ quan mình trước
cơ quan nhà nước nói trên ban hành đều phải hợp hiến, hợp pháp và Quốc hội
có quyền sửa đổi, huỷ bỏ hoặc đình chỉ việc thực hiện các văn bản đó khi xétthấy có sự vi phạm Hiến pháp, luật, Nghị quyết của Quốc hội, Pháp lệnh của
cao của hoạt động giám sát của Quốc hội ngồi những yếu tố quyết định khác,cịn bắt nguồn từ yếu tố đối tượng chịu giám sát.
1.2.1.4. Nội dung cua hoạt động giám sát
Quốc hội gồm 2 nội dung chính:
- Theo đõi, kiểm tra tính hợp hiến, hợp pháp đối với hoạt động của các đốitượng chịu giám sát và các văn bản do các đối tượng này ban hành.
</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">Thứ nhất, xét báo cáo của Chủ tịch nước, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội,
Chính phủ, Tồ án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao (Điều 67- Luật tổ chức Quốc hội).
Thứ hai, chất vấn của đại biểu Quốc hội trong hoặc ngoài kỳ họp (Điều 98
- Hiến pháp 1992)
Thứ ba, khi xét thấy cần thiết thì tiến hành kiểm tra thực tế việc tuân theo
Hiến pháp, luật của Quốc hội, Pháp lệnh, Nghị quyết của Uy ban Thường vụQuốc hội.
<small>Quốc hội)</small>
<small>quát như sau:</small>
Hiến pháp, luật và các nghị quyết của Quốc hội được nghiêm chỉnh chấp
<small>hàn”. [3], [6]</small>
Trên thế giới, chức năng giám sát và những quyền hạn về giám sát điểnhình cho mọi mơ hình Nghị viện, khơng phụ thuộc vào hình thức chính thể.
<small>Chức năng này được guy định trong hiển pháp, các đạo luật, quy chế. Vi dụ</small>
như điều 11 Hiến pháp Thuy Si 1874 trao cho Quốc hội chức năng giám sát tốicao đối với hành chính liên bang và tư pháp liên bang. Điều 62 Hiến phápBungary qui định Quốc hội thực hiện quyền lực lập pháp và giám sát. TrongĐạo luật chính của Đức khơng có những điều khoản tương tự, nhưng một sốquyền hạn hiến định (ví dụ: như quyền thành lập các uỷ ban điều tra theo điều44 Đạo luật chính) và đặc biệt là các quyền hạn do qui chế của Bundestag,cũng như của đại biểu cho phép kiểm sốt có hiệu quả hoạt động chính trị củaChính phủ liên bang và các thành viên Chính phủ.
Việc quy định Quốc hội có quyền giám sát tối cao cũng là điểm khác biệtgiữa giám sát của Quốc hội nước ta và Quốc hội các nước tư bản có mơ hình
do đó, Quốc hội dù có quyền giám sát hoạt động của Chính phủ nhưng lạikhơng phải là quyền giám sát tối cao và chức năng giám sát của Quốc hội
về công tác giám sát. Ví dụ: ở Mỹ, quyền điều tra của Quốc hội chủ yếu thực
của cơ chế kìm chế, đối trọng quyền lập pháp và quyền hành pháp, với mục
đích gây ảnh hưởng đến q trình hoạt động của Chính phủ; ở Anh, Nghị việnchủ yếu giám sát các hoạt động của bộ máy hành pháp.
</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">1.2.2. Quyền giám sát tối cao của Quốc hội đối với Chính
<small>so sánh minh họa với một số nước)</small>
<small>Khi di sâu nghiên cứu phạm vi, đối tượng của quyền giám sát tối cao</small>
của Quốc hội thì hiện nay trong giới khoa học pháp lý nước ta có nhiều quanniệm khác nhau. Có thể khái quát hai quan niệm cơ bản:
a- Quốc hội giám sát hoạt động của tất cả các cơ quan Nhà nước, các tổ
<small>chức xã hội , don vi vũ trang va mọi công dan.</small>
b. Quốc hội chỉ giám sát hoạt động của các cơ quan Nhà nước ở cấptrung ương ( hoặc cua các cơ quan Nhà nước do Quốc hội trực tiếp bầu ra).
Với tư cách là cơ quan có quyền giám sát tối cao, Quốc hội có quyền
giám sát hoạt động của bất kỳ cơ quan nhà nước, tổ chức, cơng dân nào có
liên quan đến thực thi Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội. Nhưng ở gócđộ thực tiễn, Quốc hội khơng thể và khơng cần thiết tự mình trực tiếp thực
một phần quyền hạn của mình cho một số cơ quan, cá nhân hoạt động giámsát hoặc Quốc hội trực tiếp thực hiện hoạt động đó ở những lĩnh vực, nhữngtrường hợp thấy cần thiết . Do đó, khi đã phân định cho nhiều cơ quan chức
Quốc hội chỉ giữ cho mình quyền giám sát đối với các cơ quan Nhà nước cấp
cao ở Trung ương, cụ thể là giám sát hoạt động của Chủ tịch nước, của Chính
các cơ quan do Quốc hội bầu ra hoặc phê chuẩn.
nhất. Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của
<small>vậy, ngoài việc thực hiện chức năng lập pháp và quyết định những vấn đề quan</small>
trọng của đất nước, Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền giám sát tối cao
<small>đối với tồn bộ hoạt động của Nhà nước, trong đó giám sát hoạt động của</small>
Chính phủ là một lĩnh vực quan trọng trong việc thực hiện chức năng giám sátcủa Quốc hội.
<small>Vì phạm vi luận văn này tập trung nghiên cứu hoạt động giám sát của</small>
Quốc hội đối với Chính phủ nên chúng tơi nhấn mạnh những quy định phápluật có liên quan đến vấn đề này.
Hiện nay, trong hệ thống pháp luật Việt Nam chưa có một đạo luậtriêng quy định về hoạt động giám sát của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hộihay một cơ quan nào khác trong bộ máy Nhà nước ở nước ta. Ngoài các quyđịnh về hoạt động giám sát của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội và đại
biểu Quốc hội trong Hiến pháp năm 1992 thì những quy định về các hình thức
vấn dé này còn được thể hiện trong một số văn bản khác như: Luật ban hành
văn bản quy phạm pháp luật, Pháp lệnh về giám và hướng dẫn của Uỷ ban
nhân dân, Quy chế hoạt động của Uy ban thường vụ Quốc hội, Quy chế hoạt
động của Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội, Quy chế hoạt động
Chính phủ - cơ quan thực hiện quyền hành pháp - là cơ quan Nhà nướcchịu sự giám sát tối cao của Quốc hội một cách trực tiếp và mạnh mẽ nhất.
hoạt động của các uy ban, của từng đại biểu Quốc hội hoặc của tổ chức được
<small>Quốc hội giao nhiệm vụ thực hiện hoạt động này.</small>
Theo các quy định của Hiến pháp 1992, Luật tổ chức Quốc hội, Luật tổchức Chính phủ có thể hệ thống một cách khái quát nội dung quyền giám sáttối cao của Quốc hội đối với Chính phủ như sau:
¢ Vệ đối tượng chịu sự giám sát: Đó là Chính phủ, bao gồm cả Thủ
<small>tướng Chính phủ, các thành viên Chính phủ, các cơ quan thuộc Chính phủ</small>
((Diéu 84 - Hiến pháp 1992).
lực hành pháp, nhưng giám sát trong những trường hợp riêng biệt có thể lan
rộng ra nguyên thủ quốc gia, nhánh quyền lực tư pháp, chính quyền tự quảnđịa phương, lực lượng vũ trang.... Sự giám sát đối với chính quyền hành phápthường mang tính chất chính tri, có nghĩa là tập trung vào hoạt động chính tri
của Chính phủ và các thành viên, mặc dù di nhiên là được thực hiện bằng các
hình thức pháp lý. Trong khi đó, đối với các đối tượng khác giám sát hồntồn mang tính chất pháp lý: nếu khơng tìm thấy sự vi phạm các qui phạm
sinh hậu quả pháp lý tiêu cực nào cả.
° Về phạm vỉ giám sát: Quốc hội có quyền giám sát tinh hợp hiến,hợp pháp của các văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ và Thủ tướngChính phủ. Nếu qua giám sát phát hiện thấy các văn bản này trái với Hiến
đình chỉ.
thấy có hành vi vi phạm pháp luật hoặc phê chuẩn dé nghị của người có thẩmquyền về việc miễn nhiệm, bãi nhiệm hoặc cách chức các chức vụ.
¢ Về chủ thể: Chủ thể thực hiện quyền giám sát tối cao của Quốc hội
đối với Chính phủ bao gồm:
- Quốc hội: Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao việc tuân theoHiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội; xét báo cáo hoạt động của ...
Chính phủ... (Điều 84, Hiến pháp 1992; Điều 2, Luật tổ chức Quốc hội). Quốc
hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với văn bản quy phạm pháp luật củacác cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Theo đề nghị của Uỷ ban thường vụ
Quốc hội, Chính phủ, Tồ án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối
Quốc hội xem xét, quyết định bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ văn bản quyphạm pháp luật của ... Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ...trái với Hiến pháp,luật, nghị quyết của Quốc hội. (Điều 81 Luật ban hành van bản quy phạmpháp luật).
Uỷ ban thường vụ Quốc hội cơ quan Thường trực của Quốc hội giám sát việc thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh,
chức Quốc hội).
các thành viên của mình đến cơ quan tổ chức hữu quan để điều tra, xem xétcác vấn dé mà Hội đồng và các Uy ban quan tâm (Điều 32 - Luật tổ chứcQuốc hội)
+ Đại biểu Quốc hội: có quyên chất vấn Thủ tướng Chính phủ, Bộ
trưởng và các thành viên khác của Chính phủ... (Điều 98 - Hiến pháp 1992)¢ Về nội dung: Nội dung của quyền giám sát tối cao của Quốc hội đốivới Chính phủ bao gồm:
+ Một là, theo đõi và kiểm tra tính hợp hiến, hợp pháp đối với các văn
bản quy phạm pháp luật và các hoạt động của Chính phủ, Thủ tướng Chínhphủ, các thành viên của Chính phủ và các cơ quan của Chính phủ.
+ Hai là, xử lý các hành vi vi phạm Hiến pháp và luật bằng các chế tàinhư bãi nhiệm, miễn nhiệm các chức vụ cao nhất trong bộ máy Nhà nước;đình chỉ và bãi bỏ các văn bản trái với Hiến pháp, luật và ra các nghị quyết khixét thấy cần thiết (Điều 84 - Hiến pháp 1992).‹
Trên thế giới, nội dung của hoạt động giám sát ở mỗi nước có những
này có thể nói về những mơ hình giám sát sau đây:
viện. Việc bỏ phiếu bất tín nhiệm Chính phủ trong Nghị viện kéo theo hoặc có
Nghị viện và ấn định cuộc bầu cử mới).
phương thức mạnh nhất của quyền lực lập pháp để tác động lên quyền lựchành pháp ở các nước như Mỹ, Braxin, Venesuela là luận tội Tổng thống(impeachment), mặc dù ít được dùng đến.
Cịn ở các nước theo mơ hình chính thể hỗn hợp thì nội dung giám sátbao gồm cả chế định trách nhiệm của Chính phủ trước Nghị viện lẫn chế địnhgiải tán Chính phủ, cũng như việc tổ chức các cuộc điều tra của Nghị viện. Hệthống các mối tương quan đó dường như kết hợp các hình thức giám sát tiêubiểu cho mơ hình thứ nhất và thứ hai.
¢ Về hậu quả pháp lý của quyền giám sát tối cao của Quốc hội đốivới Chính phủ:
Theo quy định của pháp luật hiện hành, hoạt động giám sát tối cao của
Quốc hội có thể dẫn đến những hậu quả pháp lý sau:
- Đình chỉ, huỷ bỏ những văn bản do các cơ quan nói trên ban hành tráiHiến pháp, luật, pháp lệnh và nghị quyết của Quốc hội hay Uỷ ban thường vụQuốc hội.
đề nghị của Thủ tướng Chính phủ về việc miễn nhiệm, bãi nhiệm các thành
viên khác của Chính phủ.
Hậu quả pháp lý của hoạt động giám sát của Quốc hội tại kỳ họp là việc
đến việc Quốc hội biểu quyết thơng qua kiến nghị (motion) đưa ra thảo luận
tại Quốc hội về trách nhiệm của một quan chức nào đó. Và cao hơn nữa, mộtsố nước còn quy định khi kiến nghị thu được một số lượng chữ ký nhất địnhthì vị quan chức này phải diéu trần trước Quốc hội và có thể bị cách chức,
thậm chí Quốc hội có thể bỏ phiếu bất tín nhiệm đối với một chính sách của
Chính phủ. Trách nhiệm của Chính phủ trước Nghị viện được thực hiện chủyếu bang hai hình thức: bỏ phiếu bất tín nhiệm va bỏ phiếu tín nhiệm Chính
Trách nhiệm của Chính phủ trước Nghị viện tạo ra nền tảng cho hệ
trách nhiệm của Chính phủ trước Nghị viện Anh bao hàm việc Chính phủ được
Quốc hội đối với Chính phủ bao gồm:
với các cơ quan của Chính phủ, Quốc hội áp dụng các hình thức giám sát như
</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34">+ Tổ chức đoàn kiểm tra thực tế việc tuân theo Hiến pháp, luật, pháp
<small>lệnh, nghị quyết khi xét thấy cần thiết;</small>
Dưới đây chúng ta sẽ nghiên cứu cụ thể hơn từng phương pháp nói trên.
<small>* Xem xét báo cáo cơng tác của Chính phú và các cơ quan của Chính</small>
Điều 67 của Luật tổ chức Quốc hôi quy định: " Quốc hội xem xét, thảoluận báo cáo công tác của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ,
cuối năm. Tại kỳ họp giữa năm, các cơ quan này gửi báo cáo công tác đến các
Quốc hội có thể ra Nghị quyết về công tác của các cơ quan đã báo cáo”.
Đây là hình thức thực hiện quyền giám sát tối cao của Quốc hội với tính
chất là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất. Thông qua việc xem xét, thảo
chính xác và tồn diện về các mặt hoạt động của các cơ quan Nhà nước. Trên
cơ sở đó, đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan này
xem xét đánh giá của Quốc hội có chất lượng yêu cầu các báo cáo của các cơquan trình Quốc hội phải đầy đủ, khách quan, nêu đúng thực trạng của tình
</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35">hoặc người bị chất vấn và quyết định thời hạn trả lời chất vấn. Nếu đại biểu
không đồng ý với nội dung trả lời thì có quyền đề nghị Chủ tịch Quốc hội đưara thảo luận trước Quốc hội hoặc Uy ban thường vụ Quốc hội. Khi cần thiết,
và trách nhiệm của người bị chất vấn.
quyền chất vấn của mình tại kỳ họp Quốc hội và trong thời gian giữa hai kỳhọp Quốc hội thơng qua hình thức câu hỏi miệng và câu hỏi viết.
* Xem xét việc ban hành văn bản của các cơ quan thuộc Chính phú
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các thành viên của Chính phủ và các cơ
và bãi bỏ một phần hay toàn bộ các văn bản trái với Hiến pháp, luật và ra các
nghị quyết của Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội.
</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36"><small>* Thanh lập các đoàn di giám sát</small>
Quốc hội, Uy ban thường vụ Quốc hội có thể cử đồn đi kiểm tra về cácvấn đề thuộc phạm vi giám sát của mình. Khi phát hiện có hành vi vi phạmpháp luật, gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền lợi hợp pháp của tổchức xã hội, tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang hoặc của công dân, Đồn kiểmtra có quyền u cầu các cơ quan, tổ chức, đơn vị hữu quan và những người cótrách nhiệm thi hành những biện pháp để kịp thời chấm đứt hành vi trái phápluật đó. Cơ quan Nhà nước, tổ chức và cá nhân có liên quan có trách nhiệmthực hiện yêu cầu và trả lời kiến nghị của Uỷ ban thường vụ Quốc hội (Điều
19 - Quy chế hoạt động của Uỷ ban thường vụ Quốc hội).
Theo Quy chế hoạt động của Hội đồng Dân tộc và các Uy ban thì Hộiđồng Dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội có quyền tiến hành giám sát thực tếtheo nhiệm vụ, quyền hạn của mình và theo sự phân công của Uỷ ban thường
<small>vụ Quốc hội. Nội dung và kế hoạch giám sát phải được thông báo cho các cơ</small>
quan hữu quan. Các cơ quan, tổ chức và cá nhân được giám sát có trách nhiệm
cung cấp tài liệu, báo cáo về nội dung giám sát.. Trong quá trình thực hiện
giám sát nếu phát hiện thấy có hành vi vi phạm pháp luật, Hội đồng Dân tộcvà các Uỷ ban có quyền yêu cầu các cơ quan, tổ chức và cá nhân vi phạmchấm đứt hành vi vi phạm đó, đồng thời kiến nghị cơ quan có trách nhiệm giải
quyết và báo cáo Uỷ ban thường vụ Quốc hội.
Hình thức tổ chức thực hiện hoạt động giám sát ở các nước trên thế giớicũng khá đa dạng phụ thuộc vào quan niệm về vai trò của hoạt động giám sátcủa từng nước. Tuy nhiên có thể khái quát các hình thức chính như sau:
- Chất vấn Chính phủ và các thành viên của Chính phủ:
<small>` "KR ` ^ Z 4 “A Z x ⁄ Hộ Z + `</small>
Thông qua việc trả lời của các quan chức Chính phủ, Quốc hội có thể giám sát
<small>được kết quả thực hiện chính sách cũng như năng lực quản lý, điều hành của</small>
các Bộ trưởng để từ đó có thể xác định trách nhiệm của từng Bộ trong từng vụviệc cụ thể. [25]
- Hoạt động điêu tra của Nghị viện:
O một số nước, các uỷ ban điều tra có vai trò rất lớn trong việc thựchiện chức năng giám sát của Nghị viện. Đặc điểm của hoạt động này là điềutra sự lạm dụng cơng quyền, trong đó khơng chỉ trong các cơ quan hành pháp.
Hoạt động điều tra của các uy ban và tiểu uy ban trong Quốc hội Mỹ
được biết đến rộng rãi trên thế giới. Hoạt động này thậm chí có thể dẫn đến sự
từ chức bất đắc đĩ của Nguyên thủ quốc gia như đã từng xảy ra vào năm 1974,khi hoạt động điều tra của Uỷ ban pháp luật Hạ viện Mỹ dẫn đến sự từ chức
của Tổng thống Nixon. [26]
<small>- Hình thức luận tội (impeachment)</small>
Trong trường hợp này nói đến trách nhiệm pháp lý trước Nghị viện củacác nhà chức trách thuộc nhánh hành pháp cũng như tư pháp. Cơ sở quy trách
truất quyền nhân vật bị luận tội, kéo theo việc mất quyền bất khả xâm phạmvà tạo điều kiện cho việc truy tố hình sự theo thủ tục bình thường nếu nhân vật
đó bị buộc tội vi phạm các qui phạm pháp luật kéo theo trách nhiệm hình sự.
- Xét báo cáo của Chính phủ:
<small>quan hệ giữa Nghị viện và Chính phủ liên quan đến việc báo cáo của Chính</small>
phủ. [24]
- Các đồn giám sát:
Quốc hội các nước cũng có thể tổ chức các đồn giám sát. Trong nhữngtrường hợp cụ thể, một số đoàn đại biểu Quốc hội, thành viên uỷ ban hoặc
đoàn kiểm tra phối hợp được thành lập để đi thị sát tình hình, điều tra những
vấn đề được nêu trong chương trình nghị sự. Bản thân thanh tra Quốc hội, đểthực hiện nhiệm vụ của mình cũng có quyền thành lập các đoàn điều tra đểlàm cơ sở cho các kiến nghị của mình.
Quốc hội Pháp thường áp dụng các hình thức giám sát chủ yếu là chatvấn Chính phủ và các thành viên Chính phủ và thành lập Uỷ ban điều tra.
nước như ngân sách, thuế, chiến tranh và hồ bình, chính sách đối ngoại, lựa
<small>định và thực hiện chính sách.</small>
Qua nghiên cứu ở nhiều nước cho thấy: giám sát cũng không được coi
Nhìn chung, kết quả cuối cùng của hoạt động giám sát thể hiện quyềnlực tập trung của Quốc hội thông qua các quyết định tập thể nhằm thay đổi,huỷ bỏ hoặc kiến nghị sửa đổi, huỷ bỏ các quyết định trái pháp luật của cơquan hành pháp hay của nhân viên cơ quan hành pháp. Cao hơn nữa, thôngqua kết quả giám sát Quốc hội có thể ra quyết định bãi miễn, bãi nhiệm cácchức vụ trong Chính phủ; thậm chí đưa ra quyết định bất tín nhiệm đối vớiChính phủ.
Nói cách khác, trong khái niệm giám sát hoạt động Chính phủ ởcác nước, nhìn chung cũng giống như ở Việt Nam, hai yếu tố chính là
nhiệm vụ và quyền hạn ln đi song song với nhau. Đó là: quyền kiểm
huỷ bỏ các văn bản trái pháp luật, quyền miễn nhiệm hoặc bãi nhiệm,quyền kiến nghị hoặc chất vấn.... [7]
<small>* Tom lai:</small>
Quyền giám sát tối cao của Quốc hội là một bộ phan cấu thành củaquyền lực Nhà nước và là một chức năng quan trọng của Quốc hội.
Những cơ sở lý luận về quyền giám sát của Quốc hội đối với Chính phủ
Quốc hội đối với Chính phủ.
đặc thù giữa hai cơ quan này - hai nhánh của quyền lực Nhà nước.
</div><span class="text_page_counter">Trang 40</span><div class="page_container" data-page="40">Quốc hội Việt Nam trong những năm qua đã không ngừng đổi mới hoạiđộng giám sát và đã đạt được những bước tiến đáng kể. Thực trang hoạt độnggiám sát của Quốc hội đối với Chính phủ kể từ sau Hiến pháp 1992 đến nay sẽ
<small>được xem xét ở phần sau.</small>
</div>